Tác giả tác phẩm Đất rừng phương Nam (Chân trời sáng tạo 2024) Ngữ văn 10 chi tiết nhất

Tác giả tác phẩm Đất rừng phương Nam Ngữ văn lớp 10 sách Chân trời sáng tạo đầy đủ bố cục, tóm tắt, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật, nội dung chính, ... giúp học sinh học tốt môn Ngữ văn 10. Mời các bạn đón xem:

1 78 lượt xem


Tác giả tác phẩm: Đất rừng phương Nam - Ngữ văn 10

I. Tác giả

- Đoàn Giỏi (17 tháng 5 năm 1925 – 2 tháng 4 năm 1989), là một nhà văn Việt Nam, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam từ năm 1957.

- Ông có những bút danh khác như: Nguyễn Hoài, Nguyễn Phú Lễ, Huyền Tư.

- Các tác phẩm của Đoàn Giỏi thường viết về cuộc sống, thiên nhiên và con người ở Nam Bộ.

 

Đất rừng phương Nam - Tác giả tác phẩm Ngữ văn lớp 10 - Chân trời sáng tạo (ảnh 1)

II. Đọc tác phẩm Đất rừng phương Nam

Buổi sáng, đất rừng thật là yên tĩnh. Trời không gió, nhưng không khí vẫn mát lạnh. Cái lành lạnh của hơi nước sông ngòi, mương rạch, của đất ấm và dưỡng khí thảo mộc thở ra từ bình minh. Ánh sáng trong vắt, hoi gọn một chút óng ánh trên những đầu hoa tràm rung rung, khiến ta nhìn cái gì cũng có cảm giác như là nó bao qua một lớp thuỷ tinh.

Tía nuôi tôi đi trước, bên hông lủng lẳng chiếc túi da beo, lưng mang cái gùi tre đan đã trát chai, lay cầm chà gạc. Lâu lâu, ông vung lay lên một cái, đưa con dao rừng rất sắc phạt ngang một nhánh gai và dùng cái mẩu cong ở đầu lưỡi dao dài có đến sáu bảy tấc ấy lôi phăng nhánh gai chắn đường vứt ra một bên để lấy lối đi.

Thằng Cò đội cái thúng to lướng, trong thủng đụng một vò nước, mấy gói cơm nắm và cái áo ướt mồ hôi nó vừa cỏi ra cuộn lại, trên thủng úp chiếc nón lá rách. Tôi đã chen vào giữa, quảy tòn ten một cái gùi bé mà má nuôi tôi đã bơi xuống đi mượn của nhà ai ngoài xóm bìa rừng từ chiều hôm qua. Con Luốc chạy tung tăng sục sạo trong các bụi cây.

Lần đầu tiên tôi theo tỉa nuôi và thằng Cò đi “ăn ong” đây. Mấy hôm trước, má nuôi tôi đã kể tỉ mỉ cho tôi nghe cách gác kèo ong thế nào, nhưng tôi vẫn chưa hình dung được “ăn ong” ra sao. Những điều má nuôi lôi kể trong các sách giáo khoa không thấy nói. Khoa học tự nhiên ở trường chỉ mới cho tôi một khái niệm chung chung về xã hội loài ong, về những lợi ích của con ong, đại khái vậy thôi. Hiển nhiên từ những thời xa xôi, thuở con người ăn lông ở lỗ cho đến ngày nay, người la vẫn đi tìm lấy mật rừng bằng cách theo dấu đường bay của những con ong về tổ. Người ta phải khó nhọc lắm mới đưa được con ong rừng về nuôi thành con ong nhà, vì như thế, việc lấy mật sẽ dễ dàng và bảo đảm hơn.

Trong kho tàng kinh nghiệm của những nhà nuôi ong trên thế giới ghi chép trong các sách vở mà tôi được nghe thầy giáo tôi kể, không thấy có nơi nào nói đến việc lấy mặt bằng cách gác kèo như má nuôi tôi đã bảo cho tôi nghe vừa rồi.

– Thôi, dừng lại nghỉ một lát. Bao giờ thằng An đỡ mệt, ăn cơm xong hãng đi!

Tía nuôi tôi ra lệnh cho chúng tôi như vậy.

Quả là tôi đã mệt thật. Tía nuôi tôi chỉ nghe tôi thỏ đằng sau lưng ông thôi mà biết chứ ông có quay lại nhìn tôi đâu! Chúng lôi đã bơi xuống đi từ lúc gà vừa gáy rộ canh tư. Thắng Cò thì coi bộ chưa thấm tháp gì. Cặp chân của nó như bộ giò nai, lội suốt ngày trong rừng còn chả mùi gì nữa là Tía nuôi tôi ngồi tựa lưng vào một gốc cây ngải, nhồi thuốc lá vào tẩu. Con chó sẵn trung thành bao giờ cũng ngồi bảo vệ bên chân chủ. Thằng Cò bung vò nước ra, ngửa cổ kể miệng vào vò uống nước ùng ục. Bỗng nó đặt và nước xuống, thúc vào lưng tôi:

- Đố mày biết con ong mật là con nào?

Hỏi xong, nó đưa tay trỏ lên phía trước mặt. Tôi đảo mắt nhìn khắp nơi vẫn không thấy gì. Rừng cây im lặng quá. Một tiếng lá rơi lúc nào cũng có thể khiến người ta giật mình. Lạ quá, chim chóc chẳng nghe con nào kêu. Hay vẫn có tiếng chim ở một nơi xa lắm, vì không chú ý mà tôi không nghe chăng?

Cao quá đầu lôi một với lay, có những chấm đen không nhúc nhích. Đó là ruồi xanh dang bay đứng. Ông ánh lướt những lá bông súng dưới vũng kia là con chuồn chuồn bay ngang với những cánh mỏng và dài. Bé như hạt khế, cứ lắc lư lắc lư từ đất nhoi lên và đáp vào một cành ngải khô trên đầu tía nuôi tôi là điệu bay của con mối cánh.

- Chịu thua mày đó! Tao không thấy con ong mật đầu cả.

Thằng Cò nghe tôi chịu thua, nó bèn vênh mặt lên cười, quay sang tôi:

– Bây giờ mày cứ nhìn kĩ vào khoảng cách giữa hai nhánh chàm cao kia! Ờ! Đúng rồi. Nhìn một chỗ trống ấy thôi nhá. Nó tới liền bây giờ.

Đã lâu lắm mà sao tôi chưa thấy gì cả. Tôi vừa toan đứng dậy thì tía nuôi tôi đã đến cầm tay tôi trỏ lên:

– Đó con thấy nó chưa?

— Thấy rồi!

Tôi kêu khe khẽ. Ở, phải rồi! Phải hết sức tinh mắt, thính tai mới tìm được những tay sứ giả của bình minh này. Một con... hai con... ba con...Rồi một đàn mười mấy con bay nối nhau như một xâu chuỗi hạt cườm, trong những lầng xanh cây lá, có một cái chấm nâu đen cỡ đầu đũa vụt qua rất nhanh. Trên những ngọn tràm cao, đang lướt qua một đàn li ti như nắm trấu bay, phát ra những tiếng kêu eo... eo... eo...

Tiếng kêu thật nhỏ, không chú ý theo dõi thì không thể nào nghe được. Chúng tôi giỏ những nắm cơm vắt ra. Ăn xong, bấy giờ bóng nắng mới bắt đầu lên. Gió cũng bắt đầu thổi rao rao theo với khối mặt trời tròn đang tuôn ánh sáng vàng rực xuống mặt đất. Một làn hơi nhè nhẹ toả lên phủ mà những bụi cây cúc áo, rồi nhè nhẹ tan dần theo hơi ấm mặt trời. Phút yên tĩnh của rừng ban mai dần dần biến đi.

Chim hót líu lo. Nắng bốc hương hoa tràm thơm ngây ngắt. Gió đưa mùi hương ngọt lan ra, phảng phất khắp rừng. Mấy con kì nhông nằm vươn mình phoi lưng trên gốc cây mục, sắc da lung luôn luôn biến đổi từ xanh hoá vàng, từ vàng hoá đỏ, từ đỏ hoá tím xanh... Con Luốc động đậy cánh mũi, rón rén mò lới. Nghe động liếng chân con chó săn nguy hiểm, những con vật thuộc loại bò sát bốn chân, to hon ngón chân cái kia, liền quật chiếc đuôi dài chạy tứ tán. Con núp chỗ gốc cây thì biến thành màu xám vỏ cây. Con đeo trên tấm lá ngái thì biến ra màu xanh lá ngái.

Chúng tôi tiếp tục đi lới một cái trảng rộng . Giữa vùng cỏ tranh khô vàng gió thổi lao xao, một bầy chim hàng nghìn con vọt cất cánh bay lên. Chim áo già màu nâu, chim manh mạnh mỏ đó bóng như màu thuốc đánh móng tay, lại có bộ lông xám tro điểm những chấm trắng chấm đỏ li ti rất đẹp mắt... Những con chim nhỏ bay vù vù kêu líu ríu lượn vòng trên cao một chốc, lại đáp xuống phía sau lưng chúng tôi.

– Chim đẹp quá, Cò oi! – Tôi tặc lưỡi, kêu lên.

– Thứ chim cỏ này mà đẹp gì!

– Ở đây, chim nhiều quá. Bữa nào tụi mình đi bắn một bữa đi.

– Thứ đồ bó, không ăn thua gì đâu. Mày mà gặp “sân chim” thì mày sẽ biết...

Nó nói cách lo là như vậy rồi cứ cắm cúi đội cái thúng đi. Tôi muốn hỏi về cái “sản chim”, nhưng vì tự ái và nghĩ nếu mình gặp cái gì cũng hỏi thì nó sẽ khinh mình dốt, bèn im im đi lới.

Lội qua mấy vũng lầy sâu quá gối, chúng tôi đã đến chỗ lấy mật.

Tía nuôi tôi ngồi xuống, dáng rất ung dung. Ông tháo miệng túi da beo ra, bỏ cái tẩu vào. Rồi ông xé mảnh giấy nhật trình cũ, cuộn một điếu thuốc lá to bằng ngón chân cái, bật lửa lên đốt hút.

– Sắp lấy mật đa, này An! – Thằng Cò trỏ điếu thuốc lá to tổ bố đang cháy như cây đuốc kia, bảo tôi.

Tôi chẳng hỏi gì thêm, cứ lặng thinh. Nó cũng không thèm chú ý đến vẻ mặt khó đăm đăm của tôi, cứ nắm tay tôi lôi đi, lại còn khoát tay ra hiệu bảo tôi đi thật khẽ.

Tôi nhìn theo ngón tay nó trỏ lên một kèo ong gác trên cây tràm thấp. Tổ ong kia rồi!

Sự mừng rõ làm tôi quên phắt cái bực mình vừa qua. Tôi lại hỏi:

- Sao biết nó về cây này mà gác kèo?

– Thằng mau quên hé! Vậy chó mấy bữa nay, má nói gì cho mày nghe đó? –

Nó chành môi ra cười hì hì, trống cái miệng thấy ghét quá. Tôi ngước nhìn tổ ong như cái thúng, lúc nhúc không biết bao nhiêu ong dần dần nhớ lại lời má nuôi tôi kể:

- ... Rừng thì mênh mông, biết bao nhiêu cây! Một cây còn biết bao nhiêu nhánh!

Biết con ong sẽ đóng tổ ở cây nào, nhánh nào? Có phải bạ chỗ nào nó cũng gỏi mật đâu?

Nhưng làm nghề nào rồi khắc phải thạo nghề ấy con ạ! – Má nuôi lôi đưa mắt trông ra những cánh rừng tràm lờ mờ khuất sau những bụi cây bình bát dại mọc quanh hè, ngẫm nghĩ một lúc rồi nói tiếp - Gió thổi có hướng, cây tốt cũng có vùng.

Chọn được vùng rừng tốt, biết rằng đến mùa xuân tràm sẽ kết nhiều hoa, mình mới định chỗ gác kèo. Phải xem hướng gió, tính trước đường bay của ong mật. Đó là những chỗ “ấm”, cây dày, không bị ngọn gió thốc thẳng vào và ít khi có những dấu chân người đi bắt rắn, người đi đốn củi lội đến.

– Kèo là gì, hở má?

– Ở, kèo cũng là nhánh tràm thôi. Nó to cỡ cổ tay, mang nhiều nhánh con tua tủa vào quãng giữa. Mình chặt lấy một khúc dài non thước tây, một đầu có cái nhánh con dùng làm cái mấu. Chọn được vùng rồi, còn phải chọn cây nào vừa kín, vừa im, có ít nhiều bóng nắng kia! Con ong không thích đóng chỗ rợp. Ở những nơi đó, bao giờ mật cũng chua, dễ bị ẩm. Các chiếc kèo chênh chếch lên cây tràm xong, phải “rửa” bớt những nhánh chung quanh để khi lấy mật khỏi vướng. Kèo chặt vào khoảng giữa tháng mười một. Những con mưa muộn sẽ rửa hết mùi sắt ở hai đầu kèo bị dao rựa chặt, và nhánh kèo cũng đủ thời gian khô đi, cũ đi, giống với những nhánh khô khác trên cây. Kèo nào còn mùi sắt của con dao mỗi chặt thì con ong mật chúa kị, nó không bao giờ đóng tổ.

[...]

Mắt tôi vẫn không rời tổ ong lúc nhúc trên cây tràm thấp kia.

Tía nuôi tôi đã đi lần tới, đứng phía trên hướng gió. Ông hít một hơi cho điều thuốc đó lên, và từ từ dưa đầu khói cháy lại gần tổ ong. Quả thật! Thảo nào người ta hay nói “như ong võ tổ”! Ong võ tổ là lúc này đây. Không biết cơ man nào là ong. Chúng bay vù vù, đen ngòm, loạn xạ, thành một vắng đen như cái chiếu.

Bỗng thằng Cò kêu “oái” một tiếng hai tay vò trán lia lịa.

– Có ong sắt, tía ơi! Nó đánh con một vết đây nè!

Tôi nhanh tri ngược hướng gió chạy ra xa để tránh bầy ong và nhân thể bút vội vàng một nắm cỏ tranh và sậy khô đưa lại cho tỉa nuôi tôi:

— Tía oi, đốt nó đi, tía!

Tía nuôi tôi mỉm cười, khoát khoát tay:

– Đừng! Không nên giết ong, con à! Để tía đuổi nó cách khác...

Tía nuôi lôi mở túi da beo, lấy với bôi chỗ vết ong đốt trên trán cho thằng Cò. Đoạn ông mở gói giấy, lấy ra cục a nguỳt – cái thứ thuốc dẻo quánh, màu vàng xỉn mà tôi đã thấy dạo trước – véo một miếng gắn vào đầu một cọng sậy. Ông bảo tôi bật lửa lên, rồi đốt cháy miếng thuốc. Khói vị thuốc bắc hôi quá! Tôi chóng mặt oẹ oẹ luôn mấy cái tưởng đã nên rồi. Tia nuôi tôi cầm cọng sậy có gắn miếng thuốc bốc khói đưa lên kê vào gần tổ ong

Bầy ong hoảng hốt nối nhau bay mất không còn một con.

Trên nhánh kèo khô còn trơ lại cái làn ong sáp trắng to bằng chiếc nón, nặng trĩu những mặt vàng Tía nuôi tôi rướn chân lên, gượng nhẹ đỡ nhánh kèo xuống

Ông vắt mật vào cái gùi của tôi, còn sáp thì ném vào cái thúng của thằng Cò, thấy tôi vét một tí mật dinh chỗ miệng gùi đưa lên mũi, thằng Cò cười hì hì:

- Cho mày ăn thả cửa! Cứ uống no đi. Chỉ sợ mày say không đi được thôi!

Mặt nó nhãn nhó, mấy vệt vôi trăng trắng bôi vào giữa trán rúm ró lại coi như mặt hề.

– Mày có thấy khỉ ăn ớt chưa hỏ Cờ? – Tôi hỏi nó.

— Ờ? Cho mày cười tạo... Chốc nữa, trời xui đất mày một vệt, rồi mày sẽ biết.

khiến gặp con ong lỗ nó táng cho.

Từ sáng sớm đến lúc gần về chiều, tía nuôi tôi đã gỡ hơn năm mươi kèo ong. Mật đầy cả hai gùi. Tôi mang gùi mật óc ách đằng sau lưng mà vẫn cảm thấy

nhẹ tênh, và tiếc cái gùi i bé quá.

– Một tổ nữa kìa, tía ơi!

Thôi để mai. Chà, năm nay mật trúng lắm! Sáng mai phải mang vài thùng thiếc nữa mới lấy hết mật. Mình mới lấy chưa được nửa số kèo đã gác mà! – Tía nuôi tôi vừa nói vừa đưa bàn tay dính đầy mật ra cho con chó săn liếm.

Chúng tôi tháo gùi, đặt đồ lề xuống bên một gốc cây. Cần phải nghỉ, ăn cơm cho lại sức trước khi trở về...

[...]

Tôi ngồi nhìn lên kèo ong, thấy nó cũng giống như những tổ ong rừng vẽ trong sách vậy thôi. Nhưng có một điều khác là không phải ngẫu nhiên mà nó đóng trên một cành cây nào đó. Chính tỉa nuôi tôi đã định sẵn cho chúng nó một nơi về đóng tổ... Theo như lời thầy giáo của tôi bảo, người La Mã xưa kia nuôi ong trong những cái tổ bằng đồng hình chiếc vại, có đục thủng nhiều hàng lỗ con vòng quanh miệng quanh đáy. Người Mễ Tây Cơ làm tổ nuôi ong bằng đất nung, như một cái ống có hai cái loa hai đầu, giữa lưng ống đắp một hình đầu người nho nhỏ làm vật trang trí, dùng hai sợi thừng treo lên cành cây. Người Ai Cập nuôi ong trong những tổ bằng sành, hình ống dài, xếp chồng lên nhau, đặt trên bãi cỏ. Ở Phi Châu, người la đục ruỗng ruột một khúc thân cây, vít kín hai đầu, chỉ chừa một lỗ khoét nho nhỏ cho ong ra vào, treo lên bằng một đoạn dây nhỏ có mấu. Ở xứ Tây Âu, tổ ong lại lợp bện bằng rơm đủ kiểu, hình thù khác nhau... Không có nơi nào, xứ nào có kiểu tổ ong hình nhánh kèo như vùng U Minh này cả.

Những con ong vẫn nối cánh nhau bay đi bay về trên tổ, trước mặt chúng tôi kia. Con nào cũng lượn một vòng tròn trước khi đáp xuống. Người ta bảo rằng đó là vũ điệu báo hiệu của loài ong.

III. Tác phẩm Đất rừng phương Nam

1. Thể loại

Truyện

2. Xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác

Truyện được sáng tác năm 1957, đoạn trích được trích từ chương 9 trong tác phẩm.

Đất rừng phương Nam - Tác giả tác phẩm Ngữ văn lớp 10 - Chân trời sáng tạo (ảnh 1)

3. Phương thức biểu đạt

Tự sự

4. Ý nghĩa nhan đề

Nhan đề Đất rừng phương Nam nói lên sự mộc mạc và giản dị của một vùng đất phía Nam, từ đó gợi lên sự tò mò cho người đọc về việc tìm hiểu về con người, cảnh vật, thiên nhiên nơi đây.

5. Tóm tắt tác phẩm Đất rừng phương Nam

Đoạn trích kể lại quá trình An cùng tía và thằng Cò đi lấy mật ong. Tại đây An đã được trải qua rất nhiều những trải nghiệm và để lại cho cậu bé những ấn tượng sâu sắc.

6. Bố cục tác phẩm Đất rừng phương Nam

- Từ đầu ... bụi cây: chuẩn bị đi lấy ăn ong

- Tiếp theo ... im im đi tới: con đường đến chỗ lấy mật

- Trên đường lấy mật ... trở về: quá trình lấy mật ong

- Còn lại: trên đường trở về nhà  

7. Giá trị nội dung tác phẩm Đất rừng phương Nam

- Miêu tả lại quá trình lấy mật ong của người dân rừng U Minh

- Ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên đất trời rừng U Minh

8. Giá trị nghệ thuật tác phẩm Đất rừng phương Nam

- Nghệ thuật miêu tả đặc sặc

- Nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật

IV. Tìm hiểu chi tiết tác phẩm Đất rừng phương Nam

1. Nhân vật An và Cò

- Khác biệt:

+ Cò: thẳng thắn, bộc trực, tốt tính và không để bụng.

+ An: tinh tế, nhạy cảm, có chiều sâu.

- Giống nhau:

Theo tôi, việc làm nổi bật những nét tương đồng và khác biệt ấy có tác dụng khắc họa tính cách của con người trong tác phẩm. Con người phương Nam chính là một phần không thể thiếu mà tác phẩm muốn nhắc đến. Họ là những người tốt tính, thẳng thắn, bộc trực nhưng cũng rất tinh tế, nhạy cảm, có chiều sâu.

2. Thiên nhiên cuộc sống của con người Nam Bộ

'Chim hót líu lo. Nắng bốc hương hoa tràm thơm ngây ngất. Gió đưa mùi hương ngọt lan ra, phảng phất khắp rừng. Mấy con kì nhông nằm vươn mình phơi lưng trên gốc cây mục, sắc da lưng luôn luôn biến đổi từ xanh hóa vàng, từ vàng hóa đỏ, từ đỏ hóa tím xanh... Con Luốc động đậy cánh mũi, rón rén mò tới. Nghe động tiếng chân con chó săn nguy hiểm, những con vật thuộc loại bò sát bốn chân, to hơn ngón chân cái kia, liền quật chiếc đuôi dài chạy tứ tán. Con núp chỗ gốc cây thì biến thành màu xám vỏ cây. Con đeo trên tấm lá ngái thì biến ra màu xanh lá ngái.'

- Kể về hoạt động của các loài vật và hương thơm của hoa tràm lan ra, phảng phất khắp rừng.

- Miêu tả tính chất của tiếng chim của màu sắc da con kì nhông, tính chất trong hành động của con Luốc,....

- Phong vị riêng trong cuộc sống của thiên nhiên và con người phương Nam:

+ Thiên nhiên: trù phú, sinh động, hoang sơ

+ Cuộc sống: giản dị, gắn liền với thiên nhiên.

+ Con người: phóng khoáng, thẳng thắn, bộc trực nhưng cũng rất tình cảm, tinh tế, sâu sắc.

V. Các bài văn mẫu

Hình minh hoạ

Đề bài: Phân tích bài Đất rừng phương Nam

Bài tham khảo 1

Đất rừng phương Nam là một tiểu thuyết của nhà văn Đoàn Giỏi viết về cuộc đời phiêu bạt của cậu bé tên An. Bối cảnh của tiểu thuyết là vùng đất miền Tây Nam Bộ, nơi có những con người hiếu khách, yêu nước, kiên cường, bất khuất vào những năm 1945, sau khi thực dân Pháp quay lại xâm chiếm Nam Bộ. Quyển sách đã để lại cho em biết bao những suy nghĩ về vùng đất phương Nam thân yêu. Chỉ khi đọc hết quyển sách, chúng ta mới cảm nhận được cái đẹp và tinh thần bất khuất chống giặc ngoại xâm của nhân dân ta.

Với nhân vật chính là một cậu bé tên An. Trong quyển sách này, Đoàn Giỏi đã kể theo ngôi thứ nhất, hóa thân chân thật về cả tính cách lẫn cảm xúc của An. Cậu bé Nguyễn An sống cùng với cha mẹ tại thành phố những ngày sau ngày độc lập 2-9-1945. Thực dân Pháp trở lại xâm lược Việt Nam, đổ quân vào Nam Bộ. Pháp mở những trận đánh khiến cho những người dân sống tại các thành thị phải di tản. An và ba mẹ cũng phải bỏ nhà bỏ cửa để chạy giặc. Tại những chi tiết này, tác giả đã miêu tả một cách chân thực hoàn cảnh và cuộc sống khốn khổ của nhân dân ta lúc chạy trốn giặc Pháp, khiến cho một đứa bé lớn lên trong hòa bình, độc lập như em cũng phải xót xa cho những thiếu thốn, thiệt thòi của nhân dân ta khi chiến tranh.

Tác giả đã gợi cho em hình ảnh của những con người kiên cường, họ đã phải rời bỏ quê hương để chạy thoát khỏi tay bọn giặc Pháp. Theo cha mẹ chạy hết từ vùng này tới vùng khác của miền Tây Nam Bộ. An kết bạn cùng với những đứa trẻ cùng trang lứa và có một cuộc sống tuổi thơ vùng nông thôn đầy êm đềm. Nhưng cứ vừa ổn định được mấy bữa thì giặc đánh tới nơi và lại phải chạy. Trong một lần mải chơi, giặc đánh đến và An đã lạc mất gia đình. Cậu trở thành đứa trẻ lang thang. Trong những tháng ngày lưu lạc nơi đất khách quê người, tác giả đã dùng tài năng của mình để gợi tả một cách chân thật quang cảnh và những sản vật trù phú của rừng U Minh và vùng đất Cà Mau. Từng nghề nghiệp, ánh mắt, cách ăn nói, chào mời; những chi tiết thể hiện sự trù phú về động và thực vật nơi đây của người dân nơi đây được tác giả vẽ lại thật chân thật và đầy cảm xúc; khiến cho chúng ta dù chỉ cần đọc quyển sách này cũng có thể hình dung ra quang cảnh tươi đẹp và trú phú ấy. Sau khi được bà Tư Béo, chủ một quán rượu nơi đây nhận nuôi, An đã vô tình biết được vợ chồng Tư Mắm là Việt gian, chúng biết được và đốt quán bà Tư Béo, còn An đã may mắn chạy thoát và được một gia đình người đàn ông bán rắn tốt bụng nhận nuôi.

Trong khoảng thời gian sống cùng gia đình của ông bán rắn, An đã học tập được rất nhiều kinh nghiệm và kiến thức chỉ có người dân ở đây lưu truyền với nhau, trong sách vở ở thành phố mà An theo học không hề nhắc đến. Trong những cuộc đi bắt rắn giữa An và gia đình, tác giả đã cho em nhìn thấy được sự dũng cảm, sự kiên nhẫn của những người làm nghề này. Từng cách bắt mồi nhử, cách móc mồi, cách... đuổi muỗi, sự chờ đợi, kiên nhẫn và quang cảnh của rừng U Minh vào ban đêm đã được hiện lên thật sắc nét dưới từng con chữ của tác giả. Còn trong những lần đi lấy mật ong, quyển sách đã mang lại cho em những hình ảnh chân thật nhất về cách dựa vào hướng gió, địa điểm, thời tiết mà đoán chỗ ong mật làm tổ để gác kèo lấy mật. Còn trong lần An chạm trán với hổ, em đã có thể phần nào hình dung ra sự hoang sơ, sự hoang dã của thiên nhiên rừng U Minh. Sau khi chú Võ Tòng hi sinh vì phục kích giặc, gia đình bố nuôi An phải di cư đến nơi khác cùng người dân trong làng. Đến chợ Năm Căn. Tiếp tục sử dụng ngôi kể của mình, tác giả lại khiến cho đọc giả cảm giác thích thú say mê trước quang cảnh vui nhộn nhưng cũng không kém phần êm đềm. Cái quang cảnh tấp nập, người mua kẻ lại lại viển vông trong đầu em, nghĩ lung tung như muốn nhảy vào quyển sách để thăm thú cái nơi ấy. Rừng đước trù phú kia đang ôm lấy những con người chân chất của đất Cà Mau...

Kết thúc truyện, là cái lúc mà tất cả người dân đứng lên, đã sẵn sàng cho cái tư tưởng chiến đấu của họ, lý bất khuất cùng lòng dũng cảm, đứng hẳn lên, trên tay phất cao lá cờ đỏ sao vàng của Tổ quốc, bắt đầu cuộc chiến với quân địch, quân Pháp xâm lăng. Chỉ biết một điều, cái kết thúc dang dở thế này, kháng chiến của nhân dân ta nhất định thắng lợi. Bởi con người Việt Nam không bao giờ khiếp sợ trước quân thù, họ luôn đấu tranh để giành lại độc lập tự do vì trong họ luôn luôn tồn tại một tinh thần kiên cường, bất khuất. Em cũng muốn cảm ơn tác giả Đoàn Giỏi đã gửi đến trái tim em những trái tim đẹp đẽ và quả cảm của con người trên vùng đất tận cùng của hình chữ S. Qua cách dùng từ điêu luyện; sự miêu tả chân thật trong từng chi tiết, cảm xúc; sự tâm huyết của tác giả Đoàn Giỏi, quyển sách đã mang lại cho người đọc không chỉ là sự trù phú của thiên nhiên Cà Mau, mà còn là cảm xúc tự hào về tinh thần cao đẹp chống giặc ngoại xâm của nhân dân ta. Đó là một cảm xúc mà em sẽ luôn nhớ đến và tự hào.

Bài tham khảo 2

Nhận xét về nhà văn phương Nam Đoàn Giỏi, Chế Lan Viên từng nói: 'Là một nhà văn chịu khó tìm tòi nghiên cứu mọi chuyện một cách ngọn ngành, nên trang viết của ông thường rất góc cạnh, gồ ghề nhưng cũng đậm đặc chân tình như quê hương ông, miền đất hoang sơ và hào phóng miền Tây Nam bộ.'. Quả thực như vậy, đọc 'Đất rừng phương Nam', ta như được hòa mình vào không gian rộng lớn nơi rừng tràm U Minh. Bằng ngòi bút tài hoa, tâm hồn thi vị, Đoàn Giỏi đã vô cùng thành công trong việc miêu tả cuộc sống, công việc của con người Nam Bộ.

Văn bản 'Đất rừng phương Nam' là một trích đoạn thuộc chương 9 'Đi lấy mật'. Văn bản đơn thuần kể về việc cậu bé An theo chân tía nuôi, Cò vào rừng để lấy mật. Trong chuyến đi, An đã phát hiện ra rất nhiều điều thú vị liên quan đến công việc dựng kèo nuôi ong mà má nuôi hay nói tới. Đồng thời, được tận mắt chứng kiến cảnh sắc đất rừng. Như vậy, chủ đề mà đoạn trích này hướng đến là tái hiện cuộc sống, công việc thường ngày của người dân phương Nam. Từ đó, ngợi ca thiên nhiên, con người nơi đây.

Đầu tiên, tác giả hướng ngòi bút vào việc khắc họa công việc dựng kèo nuôi ong. Công việc này được miêu tả gián tiếp qua lời kể tỉ mỉ của má nuôi An. Để có thể định chỗ gác kèo, con người phải thực sự hiểu biết và giàu kinh nghiệm. Giữa núi rừng mênh mông, người nuôi ong lấy mật cần 'chọn được vùng rừng tốt, biết rằng đến mùa xuân tràm sẽ kết nhiều hoa'. Chưa dừng lại ở đó, người dân phải tiếp tục quan sát hướng gió, lường tính trước các đường bay của ong mật. Như vậy, đây là công việc đòi hỏi sự chăm chút, tỉ mỉ, cẩn thận ở con người.

Tiếp đến, nhà văn tập trung làm nổi bật công việc đi lấy mật. Ngay từ sáng sớm, tía nuôi, An và Cò đã mang theo biết bao dụng cụ rồi đi vào rừng. Quãng đường tới địa điểm gác kèo khá xa xôi, trắc trở. Thế nhưng, chẳng ai lấy làm mệt nhọc hay vất vả. Dường như, con người đã quá quen với công việc thường ngày, với tình cảnh đàn ong vỡ tổ, bay vù vù trong rừng sâu. Công việc đi lấy mật không được miêu tả cụ thể như dựng kèo mà chỉ hiện lên qua một vài chi tiết, hình ảnh. Đó là cảnh tượng tía nuôi 'rướn chân lên, gượng nhẹ đỡ nhánh kèo xuống' rồi vắt mật vào gùi, đựng sáp ở một thúng riêng. Như vậy, công việc này không quá cầu kì như việc làm kèo ong song cũng đòi hỏi con người cần tận tâm.

Có thể thấy, thông qua việc dựng lên hai công việc, nhà văn ca ngợi thiên nhiên đất rừng, con người phương Nam chân chất, thật thà. Các công việc đều gắn liền với tự nhiên, với rừng tràm 'Gác chiếc kèo chênh chếch lên cây tràm', 'Trên nhánh kèo khô còn trơ lại cái tàn ong sáp trắng to bằng chiếc nón, nặng trĩu những mật vàng'. Từ đây, Đoàn Giỏi mở ra khung cảnh nên thơ, hùng vĩ và hình ảnh người lao động chăm chỉ, cẩn thận. Con người đã biết tận dụng tài nguyên quanh mình để lao động sản xuất, phục vụ đời sống. Với đôi bàn tay khéo léo cùng sự am hiểu sâu sắc, người dân có thể tự cung, tự cấp một nguyên liệu cần thiết mang tên 'mật ong'.

Bằng ngôn ngữ trong sáng, dễ hiểu, đậm chất Nam Bộ, hình ảnh giàu sức gợi, nhà văn Đoàn Giỏi đã mang đến cho người đọc những hình dung cụ thể về công việc quen thuộc của người dân phương Nam thời bấy giờ. Các công việc ấy được thực hiện trong một không gian rộng lớn nơi rừng tràm bạt ngàn, được hoàn thành nhờ đôi tay khéo léo, cần mẫn của người dân. Ngoài ra, việc sử dụng ngôi kể thứ nhất, nhiều điểm nhìn kể chuyện cũng giúp văn bản trở nên hấp dẫn và sinh động hơn.

Qua 'Đất rừng phương Nam', ta lại càng hiểu thêm về cuộc sống của con người Nam Bộ, về thế giới bên ngoài, về những con người phóng khoáng, giàu tình cảm. Đồng thời, cảm nhận được vẻ đẹp trù phú, thơ mộng nhưng không kém phần kì vĩ ở vùng U Minh.

1 78 lượt xem