Tác giả tác phẩm Buổi học cuối cùng (Chân trời sáng tạo 2024) Ngữ văn 10 chi tiết nhất
Tác giả tác phẩm Buổi học cuối cùng Ngữ văn lớp 10 sách Chân trời sáng tạo đầy đủ bố cục, tóm tắt, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật, nội dung chính, ... giúp học sinh học tốt môn Ngữ văn 10. Mời các bạn đón xem:
Tác giả tác phẩm: Buổi học cuối cùng - Ngữ văn 10
I. Tác giả
- An-phông-xơ Đô-đê (1840-1897) - Quê quán: Nimes, miền Nam nước Pháp
- Cuộc đời:
+ Tuổi thơ lận đận khi xí nghiệp của cha bị phá sản và bố mẹ ly hôn
+ Ông thôi học khi đang học trung học và bắt đầu lập nghiệp tại Paris khi mới 12 tuổi
- Sự nghiệp sáng tác:
+ Ông bắt đầu sáng tác khi mới 14 tuổi và tiếp tục sáng tác bền bỉ trong suốt cuộc đời
+ Các tác phẩm của ông được dân chúng đón nhận nhiệt tình và thành công vang dội
+ Ông sáng tác ở nhiều thể loại và đều có thành tựu đáng kể, đặc biệt là thơ và tiểu thuyết
+ Tác phẩm tiêu biểu: Thằng nhóc con, Những lá thư từ cối xay của tôi, Fromont cháu trẻ và cụ Riler, Tartarin vùng Tarascon...
II. Đọc tác phẩm Buổi học cuối cùng
(1) Buổi sáng hôm ấy, đã quá trễ giờ đến lớp, tôi rất sợ bị quở mắng, càng sợ vì thầy Ha-man (Hamel) đã dặn trước rằng thầy sẽ hỏi bài chúng tôi về các phân từ mà tôi chẳng thuộc lấy một chữ. Tôi thoáng nghĩ hay là trốn học và rong chơi ngoài đồng nội.
Trời sao mà ấm đến thế, trong trẻo đến thế! Nghe thấy sáo hót ven rừng và trên cánh đồng cỏ Ríp-pe (Rippert), sau xưởng cưa, lính Phổ đang tập. Tất cả những cái đó cám dỗ tôi hơn là quy tắc về phân từ; nhưng tôi cưỡng lại được, và ba chân bốn cẳng chạy đến trường.
Khi qua trước trụ sở xã, tôi thấy có nhiều người đứng trước bảng dán cáo thị có lưới che. Từ hai năm nay, chính từ chỗ ấy, lan đến chúng tôi mọi tin chẳng lành, những cuộc thất trận, những vụ trưng thu, những mệnh lệnh của ban chỉ huy Đức; và tôi nghĩ mà không dừng chân: “Lại có chuyện gì nữa đây?”.
Bác phó rèn Oát-stơ (Wachter) đang đọc cáo thị cùng cậu học việc, thấy tôi chạy qua liền lớn tiếng bảo:
- Đừng vội vã thế cháu ơi, đến trường lúc nào cũng vẫn còn là sớm!
Tôi tưởng bác nhạo tôi và tôi hổn hển thở dốc, bước vào khoảnh sân nhỏ nhà thầy Ha-men.
Thông thường, bắt đầu buổi học, tiếng ồn ào như vỡ chợ vang ta tận ngoài phố, nào tiếng ngăn bàn đóng mở, tiếng mọi người vừa đồng thanh nhắc lại rất to các bài học, vừa bịt tai lại cho dễ thuộc và tiếng chiếc thước kẻ to tướng của thầy xuống bàn:
- Yên một chút nào!
Tôi định nhân lúc ồn ào, hỗn độn ấy lẻn vào chỗ ngồi để không ai trông thấy; nhưng đúng ngày hôm đó, mọi sự đều bình lặng y như một buổi sáng Chủ nhật. Qua cửa sổ mở, tôi thấy các bạn đã ngồi vào chỗ, và thầy Ha-men đi đi lại lại với cây thước sắt khủng khiếp kẹp dưới nách. Phải mở cửa đi vào giữa sự lặng ngắt đó, các bạn tưởng tượng xem tôi đỏ mặt tía tai và sợ đến chừng nào!
(2) Thế mà không. Thầy Ha-men nhìn tôi chẳng giận dữ và bảo tôi thật dịu dàng:
– Phrăng, vào chỗ nhanh lên con; lớp sắp bắt đầu học mà vắng mặt con.
Tôi bước qua ghế dài và ngồi ngay xuống trước bàn mình. Chỉ đến lúc ấy, đã hơi hoàn hồn, tôi mới nhận ra thầy giáo chúng tôi mặc chiếc áo rơ-đanh-gốt màu xanh lục, diềm lá sen gấp nếp mịn và đội cái mũ tròn bằng lụa đen thêu mà thầy chỉ dùng vào những hôm có thanh tra hoặc phát phần thưởng. Ngoài ra, lớp học có cái gì đó khác thường và trang trọng. Nhưng điều làm tôi ngạc nhiên hơn cả, là trông thấy ở phía cuối lớp, trên những hàng ghế thường bỏ trống, dân làng ngồi lặng lẽ giống như chúng tôi, cụ già Hô-de (Hauser), trước đây là xã trưởng với cái mũ ba sừng, bác phát thư trước đây, và nhiều người khác nữa. Ai nấy đều có vẻ buồn rầu; và cụ Hô-de mang theo quyển tập đánh vần sờn mép, để mở rộng trên lòng, cặp kính lớn đặt ngang trang sách.
Tôi còn đang ngạc nhiên về tất cả những điều đó thì thầy Ha-men đã bước lên bục, rồi vẫn với giọng dịu dàng và trang trọng như lúc tôi mới vào, thầy nói với chúng tôi:
– Các con ơi, đây là lần cuối cùng thầy dạy các con. Lệnh từ Béc-lin (Berlin) là từ nay chỉ dạy tiếng Đức ở các trường vùng An-dát và Lo-ren... Thầy giáo mới ngày mai sẽ đến. Hôm nay là bài học Pháp văn cuối cùng của các con. Thầy mong các con hết sức chú ý.
Mấy lời đó làm tôi choáng váng. A! Quân khốn nạn, thì ra đó là điều chúng vừa niêm yết ở trụ sở xã.
(3) Bài học Pháp văn cuối cùng của tôi!...
Mà tôi thì mới biết viết tập toạng! Vậy là sẽ chẳng bao giờ được học nữa ư, phải dừng ở đó ư?... Giờ đây, tôi tự giận mình biết mấy về thời gian bỏ phí, về những buổi trốn học đi bắt tổ chim hoặc trượt trên hồ2. Những cuốn sách vừa nãy tôi còn thấy chán ngán đến thế, mang nặng đến thế, quyển ngữ pháp, quyển thánh sử của tôi giờ đây dường như những người bạn cố tri mà tôi sẽ rất đau lòng phải giã từ. Cũng giống như thầy Ha-men. Cứ nghĩ thầy sắp ra đi và tôi không còn được gặp thầy nữa, là tôi quên cả những lúc thầy phạt, thầy vụt thước kẻ.
Tội nghiệp thầy!
Chính để tôn vinh buổi học cuối cùng này mà thầy đã vận y phục đẹp ngày Chủ nhật và bây giờ tôi hiểu vì sao các cụ già trong làng lại đến ngồi ở cuối lớp học. Điều đó như nói rằng các cụ tiếc đã không lui tới ngôi trường này thường xuyên hơn. Dường như đó cũng là một cách để tạ ơn thầy giáo chúng tôi về bốn mươi năm phụng sự hết lòng, và để trọn đạo với Tổ quốc đang ra đi...
Tôi đang suy nghĩ mung lung thì bỗng nghe gọi tên mình. Đến lượt tôi đọc bài. Giá mà tôi đọc được trót lọt cái quy tắc về phân từ hay ho ấy, đọc thật to, thật dõng dạc, không phạm một lỗi nào thì dù có phải đánh đổi gì cũng cam; nhưng tôi lúng túng ngay từ đầu và tôi cứ đứng đung đưa người trước chiếc ghế dài, lòng rầu rĩ, không dám ngẩng đầu lên. Tôi nghe thấy thầy Ha-men bảo tôi:
– Phrăng ạ, thầy sẽ không mắng con đâu, con bị trừng phạt thế là đủ rồi... con thấy đó. Ngày nào người ta cũng tự nhủ: “Chà! Còn khối thì giờ. Ngày mai ta sẽ học.”. Và rồi con thấy điều gì xảy đến... Ôi! Tại hoạ lớn của xứ An-dát chúng ta là bao giờ cũng hoãn việc học đến ngày mai. Giờ đây, những kẻ kia có quyền bảo chúng ta rằng: “Thế nào? Các người tự nhận là dân Pháp, vậy mà các người chẳng biết đọc, biết viết tiếng của các người!...”. Dù thế nào, thì Phrăng tội nghiệp của thầy ạ, con vẫn chưa phải là người đáng tội nhất! Mà tất cả chúng ta ai cũng có phần đáng tự chê trách. Cha mẹ các con không thiết tha lắm với việc thấy các con có học thức. Cha mẹ thích cho các con làm việc đồng áng hoặc vào làm nhà máy sợi để kiếm thêm dăm xu. Cả thầy cũng không có gì để trách mình ư? Thầy đã chẳng sai các con tưới vườn thay vì học hành đó. Và khi thầy muốn đi câu cá hương, thầy có ngại ngùng cho các con nghỉ học đâu?...
(4) Thế rồi, từ điều này sang điều khác, thầy Ha-men nói với chúng tôi về tiếng Pháp, bảo rằng đó là ngôn ngữ hay nhất thế giới, trong sáng nhất, vững vàng nhất: giữ lấy nó trong chúng ta và đừng bao giờ quên lãng nó, bởi vì khi một dân tộc rơi vào vòng nô lệ, chừng nào họ vẫn giữ vững tiếng nói của mình thì chẳng khác gì nắm được chìa khoá chốn lao tù...
Rồi thầy cầm một quyển ngữ pháp và đọc bài học cho chúng tôi. Tôi kinh ngạc thấy sao mình hiểu đến thế. Tất cả những điều thầy nói, tôi thấy thật dễ dàng, dễ dàng. Tôi cũng cho là chưa bao giờ mình chăm chú nghe đến thế, và cả thầy giáo nữa, chưa bao giờ thầy kiên nhẫn giảng giải đến thế. Cứ như thể trước khi ra đi, con người tội nghiệp muốn truyền thụ toàn bộ tri thức của mình, muốn đưa ngay một lúc tri thức ấy vào đầu óc chúng tôi.
Xong bài giảng, chuyển sang viết tập. Thầy Ha-men đã chuẩn bị cho ngày hôm đó những tờ mẫu mới tinh, trên có viết bằng chữ rông thật đẹp: Pháp, An-dát, Pháp, An-dát. Những tờ mẫu treo trước bàn học trông như những lá cờ nhỏ bay phấp phới khắp xung quanh lớp. Ai nấy đều chăm chú hết sức và cứ im phăng phắc! Chỉ nghe thấy tiếng ngòi bút sột soạt trên giấy. Có lúc, những con bọ dừa bay vào nhưng chẳng ai để ý, ngay cả những trò nhỏ nhất cũng vậy, chúng đang cặm cụi vạch những nét sổ với một tấm lòng, một ý thức, như thể cái đó cũng là tiếng Pháp... Trên mái nhà trường, chim bồ câu gù thật khẽ, và tôi vừa nghe vừa tự nhủ:
- Liệu người ta có bắt cả chúng nó cũng phải hót bằng tiếng Đức không nhỉ?
Chốc chốc, ngước mắt khỏi trang giấy, tôi thấy thầy Ha-men đứng lặng im trên bục và đăm đăm nhìn những đồ vật quanh mình như muốn mang theo trong ánh mắt toàn bộ ngôi trường nhỏ bé của thầy... Bạn nghĩ mà xem! Từ bốn mươi năm nay, thầy vẫn ngồi ở chỗ ấy, với khoảnh sân trước mặt và lớp học y nguyên không thay đổi. Có chăng những chiếc ghế dài, những bàn học dùng nhiều đã nhẵn bóng, những cây hồ đào ngoài sân đã lớn, và cây hu-blông tự tay thầy trồng giờ đây quấn quýt quanh các khung cửa sổ lên tận mái nhà. Con người tội nghiệp hẳn phải nát lòng biết mấy khi giã từ tất cả những vật ấy, khi nghe thấy tiếng người em gái đi đi lại lại, đóng hòm xiếng, ở gian phòng bên trên, vì ngày mai họ phải ra đi, rời khỏi xứ sở này mãi mãi.
Tuy nhiên, thầy vẫn đủ can đảm dạy chúng tôi cho đến hết buổi. Sau tiết viết tập đến bài Lịch sử, rồi những trò nhỏ cất tiếng đọc đồng thanh như hát Ba Be Bi Bo Bu. Đằng kia, cuối phòng học, cụ Hô-de đã đeo kính lên, và nâng cuốn sách vỡ lòng bằng hai tay, cụ đánh vần từng chữ theo bọn trẻ. Cả cụ cũng chăm chú, giọng cụ run run vì xúc động; nghe cụ đọc thật kì cục, đến nỗi tất cả chúng tôi muốn cười và cũng muốn khóc... Ôi! Tôi sẽ nhớ mãi buổi học cuối cùng này!
(5) Bỗng đồng hồ nhà thờ điểm mười hai giờ, rồi đến chuông cầu nguyện buổi trưa. Cùng lúc đó, tiếng kèn của bọn lính Phổ đi tập về vang lên ngoài cửa sổ... Thầy Ha-men đứng dậy trên bục, người tái nhợt. Chưa bao giờ tôi cảm thấy thầy lớn lao đến thế.
– Các bạn, – Thầy nói – hỡi các bạn, tôi... tôi...
Nhưng cái gì đó khiến thầy nghẹn ngào, không nói được hết câu.
Thầy bèn quay về phía bảng, cầm một hòn phấn và dằn mạnh hết sức, thầy cố viết thật to:
“NƯỚC PHÁP MUỐN NĂM!”.
Rồi thầy đứng đó, đầu dựa vào tường, và chẳng nói, giơ tay ra hiệu cho chúng tôi: “Kết thúc rồi... đi đi thôi!”.
III. Tác phẩm Buổi học cuối cùng
1. Thể loại
Truyện ngắn
2. Xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác
Tác phẩm Buổi học cuối cùng (Chuyện của một em bé người An-dát) là 1 truyện ngắn nằm trong tuyển tập truyện Truyện kể ngày thứ hai của nhà văn An-phông-xơ Đô-đê.
3. Phương thức biểu đạt
Tự sự
4. Người kể chuyện
Ngôi thứ nhất
5. Ý nghĩa nhan đề
- Kết thúc những ngày sống trong độc lập tự do
- Báo hiệu những ngày đen tối dưới ách phát xít Đức
- Sự tiếc nuối đối với việc không được học tiếng mẹ đẻ
6. Tóm tắt tác phẩm Buổi học cuối cùng
Chuyện kể về buổi học tiếng Pháp cuối cùng ở vùng An-dát qua lời kể của cậu học trò Phrăng. Sáng hôm ấy, cậu bé Phrăng đến lớp hơi muộn và ngạc nhiên khi thấy lớp học có vẻ khác thường. Cậu thực sự choáng váng khi nghe thầy Ha-men nói đây là buổi học tiếng Pháp cuối cùng. Cậu thấy tiếc nuối và ân hận vì bấy lâu nay đã bỏ phí thời gian, đã trốn học đi chơi và ngay sáng nay cậu cũng phải đấu tranh mãi mới quyết định đến trường. Trong buổi học cuối cùng đó không khí thật trang nghiêm. Thầy Ha-men đã nói những điều sâu sắc về tiếng Pháp, đã giảng bài say sưa cho đến khi đồng hồ điểm 12 giờ. Kết thúc buổi học, thầy nghẹn ngào không nói nên lời, thầy cố viết thật to lên bảng: 'NƯỚC PHÁP MUÔN NĂM'.
7. Bố cục tác phẩm Buổi học cuối cùng
- Phần 1 (từ đầu đến “vắng mặt con”): Quang cảnh trên đường đến trường và cảnh ở trường trước buổi học qua sự quan sát của Phrăng.
- Phần 2 (tiếp đó đến “nhớ mãi buổi học cuối cùng này”): Diễn biến buổi học cuối cùng và tâm trạng của mọi người.
- Phần 3 (còn lại): Cảnh kết thúc buổi học cuối cùng
8. Giá trị nội dung tác phẩm Buổi học cuối cùng
Qua câu chuyện buổi học cuối cùng bằng tiếng Pháp ở vùng An-dát bị quân Phổ chiếm đóng và hình ảnh cảm động của thầy Ha-men, truyện đã thể hiện lòng yêu nước trong một biểu hiện cụ thể là tình yêu tiếng nói của dân tộc và nêu chân lí: “Khi một dân tộc rơi vào vòng nô lệ, chừng nào họ vẫn giữ vững tiếng nói của mình thì chẳng khác gì nắm được chìa khóa chốn lao tù…”
9. Giá trị nghệ thuật tác phẩm Buổi học cuối cùng
- Khắc họa nhân vật qua việc miêu tả ngoại hình, cử chỉ, lời nói và tâm trạng
- Ngôi kể thứ nhất, làm cho câu chuyện trở nên sinh động, chân thực, hấp dẫn
- Ngôn ngữ tự nhiên với giọng kể chân thành, xúc động, truyền cảm
IV. Tìm hiểu chi tiết tác phẩm Buổi học cuối cùng
1. Quang cảnh trên đường đến trường và ở trường trước buổi học qua sự quan sát của Phrăng
- Tâm trạng của Phrăng trước buổi học: thoáng ý nghĩ trốn học và rong chơi ngoài đồng nội nhưng cưỡng lại được và sau đó chú bé ba chân bốn cẳng chạy đến trường
- Quang cảnh đường phố: Có nhiều người đứng trước bảng dán cáo thị - nơi luôn lan ra những tin chẳng lành:
+ Những cuộc thất trận
+ Những vụ trưng thu
+ Những mệnh lệnh của ban chỉ huy Đức...
- Quang cảnh trường học khác hẳn với thường ngày: Trường học yên tĩnh, bình lặng y như 1 buổi sáng chủ nhật (khác hẳn thường ngày luôn ồn ào như vỡ chợ vang ra tận ngoài phố với:
+ Tiếng ngăn bàn đóng mở
+ Tiếng mọi người đồng thanh nhắc lại rất to các bài học
+ Tiếng thước kẻ to tướng của thầy gõ xuống bàn
- Thầy giáo Ha-men với thái độ, hành động khác hẳn với thường ngày:
+ Nói thật nhẹ nhàng khi Phrăng đến muộn (trước đây khi học sinh đến muộn thầy sẽ rất giận dữ nên khi bước vào Phrăng đã đỏ mặt tía tai vì sợ hãi)
+ Thầy mặc chiếc ao đơ-ranh-gốt màu xanh lục, diềm lá sen gấp nếp mịn và đội cái mũ tròn bằng lụa đen thêu - trang phục trang trọng chỉ được mặc vào dịp đặc biệt - nhưng lại mặc vào một buổi học bình thường như thế này
- Những khách đến tham gia buổi học bất ngờ, kì lạ không báo trước trên những hàng ghế trống cuối lớp:
+ Cụ già Hô-de trước đây là xã trưởng với chiếc mũ ba sừng, mang theo quyển tập đánh vần cũ đã sờn mép
+ Bác phát thu trước đây
+ Cùng nhiều người dân làng khác
→ Tất cả đều có vẻ buồn rầu
⇒ Tất cả những hình ảnh khác thường ấy khiến cho Phrăng vô cùng ngạc nhiên, khó hiểu
⇒ Đồng thời không khí tĩnh lặng, trang nghiêm khác thường của buổi học hôm ấy chính là dấu hiệu, điềm báo cho một cuộc khủng hoảng - sự tĩnh lặng trước cơn bão.
2. Diễn biến buổi học cuối cùng và tâm trạng của mọi người
a. Cậu bé Phrăng
- Khi biết được đây là buổi học tiếng Pháp cuối cùng:
+ Choáng váng đến sững sờ khi nghe thầy thông báo
+ Tự giận mình vì những lần trốn học đi chơi
+ Nhìn những cuốn sách tiếng Pháp như những người bạn cố trí nay phải đau lòng giã từ (dù trước đây thấy thật nặng nề, chán ngán)
+ Nuối tiếc, nhớ thương người thầy sẽ không còn được gặp nữa
+ Cảm thấy tội nghiệp người thầy đã từng chán ghét, sợ hãi
- Khi học buổi học cuối cùng:
+ Chăm chú lắng nghe những điều thầy nói và thấy chúng thật dễ dàng → Cảm thấy chưa bao giờ mình chăm chú lắng nghe đến như thế
+ Cảm thấy kính yêu thầy, yêu thương thầy hơn
+ Tự nhủ sẽ luôn nhớ mãi buổi học tiếng Pháp cuối cùng này
→ Trong buổi học cuối cùng này Phrăng đã cảm nhận được cái hay, ý nghĩa của tiếng Pháp - tiếng mẹ đẻ của mình và tình cảm thầy trò thiêng liêng.
→ Chính vì thế mà Phrăng luôn cảm thấy nuối tiếc, cụm từ 'giá như' được lặp lại nhiều lần, thể hiện sự tiếc nuối vô cùng tận của cậu đối với những ngày tháng đã qua, và với cả tiếng Pháp
b. Thầy Ha-men
- Thái độ với học sinh khác hẳn với thường ngày:
+ Không giận dữ hay trách phạt khi Phrăng không đọc được bài mà chỉ dịu dàng nhắc nhở em
+ Nói rất nhiều những lời hay dành cho tiếng Pháp - đây là thứ ngôn ngữ hay nhất thế giới, trong sáng nhất, vững vàng nhất
+ Chưa bao giờ thầy kiên nhẫn giảng giải từng chữ đến như hôm nay, như muốn truyền hết toàn bộ tri thức của mình ngay lập tức cho học sinh
+ Đứng lặng im trên bục giảng, đăm đăm nhìn những đồ vật quanh mình
- Những quan niệm, tư tưởng của thầy:
+ Cảm thấy ai cũng đáng tự chê trách khi nghĩ rằng còn khối thì giờ để học, và giờ đây không còn cơ hội nữa
+ Sẽ thật xấu hổ khi một người dân xứ An-dát lại không biết viết, biết đọc tiếng Pháp
+ Phải luôn giữ lấy tiếng Pháp và không được lãng quên nó, bởi khi một dân tộc rơi vào vòng nô lệ, chỉ cần vẫn còn giữ vững tiếng nói của dân tộc thì giống như được nắm chìa khóa chốn lao tù
→ Người thầy khẳng định sức mạnh và ý nghĩa to lớn của tiếng nói dân tộc - tiếng Pháp
→ Cùng niềm mong mỏi ở các em học sinh hãy giữu gìn, trân trọng và truyền lưu tiếng Pháp.
c. Các nhân vật khác
- Cụ Hô-de:
+ Mang theo quyển tập đánh vần cũ đã sờn mép và cặp kính lớn đặt trên trang sách
+ Khi đọc sách, cụ nâng cuốn sách bằng hai tay
+ Cụ đọc rất chăm chú, đánh vần từng chữ như bọn trẻ, giọng đọc run run vì xúc động, rất kì cục
→ Những chi tiết đó thể hiện sự nâng niu, quý trọng của cụ Hô-de đối với tiếng Pháp cùng với đó là sự đau khổ khôn kể khi từ đây tiếng Pháp không còn được học, được viết ở xứ An-dát nữa.
- Các em học sinh:
+ Hết sức chăm chú và im phăng phắc trong giờ học
+ Không để ý đến cảnh vật xung quanh, kể cả những trò nhỏ nhất, tất cả đều cặm cụi viết
+ Tất cả vừa muốn cười nhưng cũng muốn khóc
→ Cũng như Phrăng, các em học sinh ai cũng trân quý những giây phút học tiếng Pháp cuối cùng này. Các em tập trung hết sức, như muốn níu kéo từng giây phút cuối cùng của buổi học.
3. Cảnh kết thúc buổi học
- Âm thanh:
+ Tiếng chuông nhà thờ điểm mười hai giờ
+ Tiếng kèn của bọn lính Phổ đi tập về
→ Những âm thanh tuyên bố chấm dứt buổi học tiếng Pháp cuối cùng - từ bây giờ tiếng Đức sẽ thay thế cho tiếng Pháp được học ở An-dát.
- Hình ảnh trong lớp học:
+ Thầy Ha-men đứng dậy trên bục giảng, mặt tái nhợt, nghẹn ngào, không nói được hết câu
+ Thầy khuyên mọi người hãy yêu nước và giữ gìn tiếng nói của dân tộc
+ Cầm một viên phấn, dằn mạnh hết sức, viết thật to dòng chữ “Nước Pháp muôn năm”
→ Thầy ha-men là người có tấm lòng yêu nước và ý thức giữ gìn tiếng nói của dân tộc.
- Hình ảnh kết thúc văn bản: thầy Ha-men đứng tựa vào tường, không nói gì mà chỉ ra hiệu cho học sinh rời khỏi lớp
→ Thể hiện sự đau xót đến không thể đứng vững, không thể nói được thành lời của người thầy giáo trước giây phút chia xa này
→ Đồng thời thể hiện nỗi đau của một người dân xứ An-dát khi từ đây không còn được dạy và học tiếng Pháp nữa.
→ Thể hiện tình yêu quê hương, đất nước sâu sắc của thầy Ha-men nói riêng và người dân nước Pháp nói chung.
V. Các bài văn mẫu
Đề bài: Phân tích bài Buổi học cuối cùng
Bài tham khảo 1
An-phông-xơ Đô-đê là một cây bút truyện ngắn nổi tiếng của văn học Pháp. Truyện của ông thường giản dị nhưng rất đằm thắm, thể hiện một tấm lòng gắn bó tha thiết sâu nặng với quê hương đất nước. “Buổi học cuối cùng” là một tác phẩm như thế.
Truyện đưa chúng ta đến một ngôi trường làng vùng An-dát để chứng kiến một câu chuyện đầy xúc động đó là buổi học Pháp văn cuối cùng. Nó được diễn ra trong con mắt quan sát và cảm xúc, suy ngẫm của cậu học trò nhỏ Phrăng và được kề lại bằng chính lời kể của cậu bé.
Phrăng là một cậu học trò nghịch ngợm lại lười học. Cậu thường trốn học đi chơi ngoài đồng nội. Đối với cậu, bầu trời trong trẻo, chim sáo hót ven rừng trên đồng cỏ thường có sức cám dỗ hơn là những phân từ tiếng Pháp. Ngày hôm ấy, Phrăng đã đi học muộn. Khi đến lớp, cậu bé càng thấy ngạc nhiên hơn vì thấy thầy giáo không những chẳng giận dữ mà còn dịu dàng bảo cậu: “Phrăng, vào chỗ nhanh lên con; lớp sắp bắt đầu học mà lại vắng mặt con”. Còn ở phía cuối lớp, trên những dãy ghế bỏ trống, dân làng ngồi lặng lẽ; thầy Ha-men thì mặc một bộ lễ phục thật trang trọng.
Lời bộc bạch của thầy Ha-men vang lên: “Các con ơi, đây là lần cuối cùng thầy dạy các con. Lệnh từ Béc -lin là từ nay chỉ dạy tiếng Đức ở các trường vùng An-dát và Lo-ren… Thầy giáo mới ngày mai sẽ đến. Hôm nay là bài học Pháp văn cuối cùng của các con”. Từ lời nói của thầy khiến cho Phrăng cảm thấy choáng váng. Cậu cảm thấy hối hận, đau đớn và tự giận mình về thời gian đã bỏ phí, về những buổi trốn học đi bắt tổ chim hoặc trượt băng trên hồ. Cậu đau lòng khi nghĩ tới chuyện phải giã từ những quyển ngữ pháp, những quyển thánh sử. Cậu quên cả nỗi giận thầy Ha-men vì những lần bị phạt.
Trong buổi học cuối cùng, Phrăng không đọc thuộc những quy tắc về phân từ, nhưng thầy giáo không trách mắng. Thầy giảng giải cho Phrăng và các cậu học trò hiểu hoãn việc học là một tai hoạ lớn. Song điều làm Phrăng cảm thấy xúc động là khi thầy Ha men giang giải về tiếng Pháp. Thầy nói rằng đó là thứ ngôn ngữ hay nhất thế giới, trong sáng nhất thế giới và vững vàng nhất: “Khi một dân tộc rơi vào vòng nô lệ, chừng nào họ vẫn giữ vững ti ống nói nia mình thì chẳng khác gì nắm được chia khoả chốn lao tù…”
Buổi học cuối cùng diễn ra trong không khí trang nghiêm và xúc động: thầy say sưa giảng bài, trò chăm chú lắng nghe và cặm cụi học tập. Đến khi tiếng chuông đồng hồ điểm mười hai giờ vang lên, thầy Ha-men trở nên xúc động không nói nên lời: “Các bạn, hỡi các bạn, tôi... tôi…”. Và thầy đã quay về phía bảng, cầm lấy viên phấn và viết một dòng chữ: “Nước Pháp muôn năm”. Có thể nói, đây là câu chuyện xúc động về tình yêu Tô quốc. Tình yêu ấy được biểu hiện cụ thể bằng tình yêu tiếng nói của dân tộc của thầy Ha-men, của những cậu học trò, của dân làng vùng An-dát. Đế diễn tả tình yêu ấy, An-Phông -xơ Đô-đê đã chú ý tập trung vào miêu tả cảm xúc, suy nghĩ, tâm trạng và hành động của các nhân vật, đặc biệt là thầy Ha-men và cậu học trò Phrăng.
Ngòi bút An-Phông-xơ Đô-đê đặc biệt tinh tế khi thế hiện tâm trạng và tình cảm của nhân vật. Cũng qua truyện ngắn này, mượn lời thầy Ha-men, nhà văn muôn nêu lên một chân lý: “Khi một dân tộc rơi vào vòng nô lệ, chừng nào họ vẫn giữ vững tiếng nói của mình thì chẳng khác gì nắm được chìa khoá chốn lao tù”.
Với tất cả ý nghĩa như trên, “Buổi học cuối cùng” của An-phông-xơ Đô-đê đã trở thành một truyện ngắn hay, được nhiều người yêu mến.
Bài tham khảo 2
Truyện “Buổi học cuối cùng” được An-phông-xơ Đô-đê, một nhà văn Pháp nổi tiếng (1840 - 1897) sáng tác. Nội dung kể về buổi học cuối cùng bằng tiếng Pháp của lớp tiểu học ở một làng quê thuộc vùng An-dát, sau khi vùng này đã bị cắt về cho nước Phổ.
Việc dạy và học bằng tiếng Pháp trong nhà trường của nước Pháp vốn là việc hết sức bình thường, như việc dạy và học bằng tiếng mẹ đẻ ở bất cứ nước nào. Nhưng điều không bình thường lại nằm ở chỗ: đây là buổi học cuối cùng mà thầy trò còn được dạy và học bằng tiếng Pháp.
Từ thầy giáo đến học trò và cả những cụ già đến dự buổi học này đều cảm thấy ý nghĩa đặc biệt của nó. Họ thấm thía một điều hết sức quan trọng và thiêng liêng là phải biết yêu quý, trau dồi và giữ gìn tiếng Pháp, nhất là trong hoàn cảnh quê hương đang bị kẻ thù xâm lược cố tình đồng hóa, trước hết là bằng ngôn ngữ. Lòng yêu nước của mọi người đã được thể hiện qua thái độ quý trọng tiếng nói của dân tộc mình. Truyện nêu lên một chân lý qua lời thầy Ha-men: “Khi một dân tộc rơi vào vòng nô lệ, chừng nào họ vẫn giữ vững tiếng nói của mình thì chẳng khác gì nắm được chìa khoá chốn lao tù”.
Diễn biến của buổi học cuối cùng và hình ảnh thầy Ha-men đã tác động sâu sắc đến nhận thức, tình cảm của Phrăng - nhân vật chính trong tác phẩm cũng là người kể chuyện. Khi nghe thầy Ha-men nói rằng đây là buổi học cuối cùng bằng tiếng Pháp, Phrăng thấy choáng váng, sững sờ và đã hiểu ra nguyên nhân của mọi sự khác lạ trong buổi sáng hôm nay. Từ cảnh nhốn nháo trước trụ sở xã đến không khí yên ắng nặng nề ở lớp học và ở cả bộ y phục trang trọng của thầy Ha-men.
Phrăng tiếc nuối và ân hận về sự lười nhác, ham chơi của mình bấy lâu nay. Cậu bé đau xót thú nhận: “Bài học Pháp văn cuối cùng của tôi! Mà tôi thì mới biết viết tập toạng! Vậy là sẽ chẳng bao giờ được học nữa ư, phải dừng ở đó ư!... Giờ đây tôi tự giận mình biết mấy về thời gian bỏ phí, về những buổi trốn học đi bắt tổ chim hoặc trượt trên hồ. Những cuốn sách vừa nãy tôi còn thấy chán ngán đến thế, mang nặng đến thế, quyển ngữ pháp, quyển thánh sử của tôi giờ đây dường như những người bạn cố tri mà tôi sẽ rất đau lòng phải giã từ”. Lời độc thoại nội tâm đã bộc lộ được tâm trạng của Phrăng khi ngh thầy Ha-men thông báo về buổi học tiếng Pháp cuối cùng.
Khi thầy Ha-men gọi cậu lên đọc bài, Phrăng không thuộc chút nào về quy tắc phân từ trong tiếng Pháp. Sự ân hận đã biến thành nỗi xấu hổ và tự giận mình. Điều kì lạ là trong tâm trạng day dứt ấy, khi nghe thầy Ha-men giảng ngữ pháp, Phrăng lại thấy thật rõ ràng và dễ hiểu: Tôi kinh ngạc thấy sao mình hiểu đến thế.
Chứng kiến cảnh các cụ già trong làng đến dự buổi học cuối cùng và được nghe những lời nhắc nhở tha thiết của thầy Ha-men, nhận thức và tâm trạng của Phrăng đã có những biến đổi lớn lao.Cậu đã nhận ra ý nghĩa thiêng liêng của việc học tiếng Pháp nhưng tiếc thay, chú không còn cơ hội để được tiếp tục học tiếng Pháp ở trường nữa. Còn các cụ già trong làng đến lớp và tập đánh vần theo học sinh không phải là do chưa biết chữ mà là để chứng kiến buổi học cuối cùng. Dường như đó cũng là một cách để tạ ơn thầy giáo chúng tôi về bốn mươi năm phụng sự hết lòng và để trọn đạo với Tổ quốc đang ra đi... Cụ Hô-de (vốn là xã trưởng) và bác phát thư chắc chắn là đều biết đọc biết viết, nhưng cụ Hô-de vẫn đánh vần một cách chăm chú cùng với các học trò nhỏ. Cụ nâng cuốn sách vỡ lòng bằng hai tay và giọng cụ run run vì xúc động. Đây là hình ảnh hết sức cảm động, thể hiện tình cảm thiêng liêng và trân trọng của người dân đối với tiếng mẹ đẻ. Còn các học trò nhỏ cũng cặm cụi vạch những nét sổ với một tấm lòng, một ý thức, như thể cái đó cũng là tiếng Pháp.
Câu nói của thầy Ha-men: “Khi một dân tộc rơi vào vòng nô lệ, chừng nào họ vẫn giữ vững tiếng nói của mình thì chẳng khác gì nắm được chìa khóa chốn lao tù đã nêu bật giá trị thiêng liêng và sức mạnh to lớn của tiếng nói dân tộc. trong cuộc đấu tranh giành chủ quyền độc lập, tự do”. Câu nói đã chứa đựng những giá trị nhân văn cao đẹp.
Ý nghĩa sâu xa của truyện “Buổi học cuối cùng” là chúng ta phải biết yêu quý, giữ gìn và học tập để nắm vững tiếng nói của dân tộc mình, bởi nó không chỉ là tài sản tinh thần quý báu của ông cha mà còn là phương tiện quan trọng để đấu tranh giành lại chủ quyền độc lập, tự do cho đất nước.
Như vậy, “Buổi học cuối cùng” là một trong những tác phẩm vô cùng nổi tiếng của An-phông-xơ Đô-đê. Tác phẩm đã thể hiện giá trị nhân văn sâu sắc của tác giả.