Tác giả tác phẩm Huyện Trìa, Đề Hầu, Thầy Nghêu mắc lỡm Thị Hến (Chân trời sáng tạo 2024) Ngữ văn 10 chi tiết nhất

Tác giả tác phẩm Huyện Trìa, Đề Hầu, Thầy Nghêu mắc lỡm Thị Hến Ngữ văn lớp 10 sách Chân trời sáng tạo đầy đủ bố cục, tóm tắt, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật, nội dung chính, ... giúp học sinh học tốt môn Ngữ văn 10. Mời các bạn đón xem:

1 70 lượt xem


Tác giả tác phẩm: Huyện Trìa, Đề Hầu, Thầy Nghêu mắc lỡm Thị Hến - Ngữ văn 10

I. Tác giả

- Khuyết danh

II. Đọc tác phẩm Huyện Trìa, Đề Hầu, Thầy Nghêu mắc lỡm Thị Hến

Soạn bài Huyện Trìa, Đề Hầu, Thầy Nghêu mắc lỡm Thị Hến SGK Ngữ Văn 10 tập  1 Chân trời sáng tạo - chi tiết | Soạn văn 10 - Chân trời sáng tạo - chi  tiết

(Lược dẫn: Sau khi được Huyện Trìa tha bổng ở huyện đường. Thị Hến bị Thầy Nghêu, một gã thầy tu phá giới trong vùng đến gạ gẫm chuyện ái ân. Thị bày ra một kế nhằm chấm dứt mọi sự quấy nhiễu của Thầy Nghêu cùng bọn chức sắc, nhằm “Giữ tiết hạnh một đường cho toại”. Thị cho mời cả ba gã đàn ông mê gái – Thầy Nghêu, Đề Hầu, Huyện Trìa – cùng đến nhà mình và cả ba cùng sập bẫy. Dưới đây là lớp XIX, cũng là lớp kết thúc vở Nghêu, Sò, Ốc, Hến. Nhan đề do người biên soạn đặt).

THỊ HẾN:

– Từ sai người tới đó

tới độ sáng tạo

Sao chưa thấy tới đây?

Ông Huyện Trìa bị mụ Huyện trói tay,

Thầy Để Lại mắc cô Đề buộc cổ.

Còn lão sãi trọc vắng tới nhà mà múa mỏ,

Hay là ta may hết thói lăng nhăng?

Dốc thờ chồng suối bạc cho toàn,

Lại bị quỷ nhà chạy tới phá.

THẦY NGHÊU:

– Trời tăm tối đi hầu bố ngửa,

Cây bụi bờ rờ chẳng ra đường.

(Này! Này, Thím ơi! Mỗ đã sang. Mở cửa mình vào với!)

THỊ HẾN:

- Chào thầy mới tới

Trà nước vội vàng.

Đành lòng đây đó giao duyên

(Nhưng) Sợ nỗi thế gian đàm tiếu (thôi.)

THẦY NGHÊU:

– Vốn đà trước liệu

Lọ phải sau lo

Kệ kinh chuông mõ trả cho chùa

Cày, cấy, đâm, xay đành phận mỗ.

(Này này!) Khuyên cùng với đó,

Chớ khá phụ đây,

Tuy làm vầy cũng tiếng ông thầy,

Ở như vậy uổng tài bà goá.

(Tiếng Đề Hầu kêu cửa)

THỊ HẾN:

(-Ủa!)

Tiếng ai kêu chỉ lạ

Hay là thầy Lại đến đây?

(Này! Này! Mô Phật!)

Đi ra kẻo tội với thầy,

Ở đó ắt tại trước mắt! (Chớ chẳng chơi đâu!).

THẦY NGHÊU:

Lão Đề Lại làm chi quá ngặt,

Khiến thầy tu chạy đã hầu điên.

(Thím oi! Thím!)

Trốn chỗ nào khác chỉ cho min!

(Chớ) Ra cửa có thầy Đề đứng đó!

THỊ HẾN:

- Dưới phản ngựa thầy mau xuống đó. 

(Để tôi) Ra ngõ mời người đặng vào đây,

Dầu chuyện chỉ chịu khó một giây,

(Để) Người về đã, sẽ vầy hai mặt.

(Thầy Nghêu chui xuống gầm phản, Đề Hầu vào)

Lại nói — Thưa thầy!

Nghe kêu lật đật,

Mở cửa vội vàng

Thỉnh lại gia trang,

Sẽ bày tình tự.

ĐỀ HẦU:

- Ơn mỗ cứu cho bữa trước

Nay nường còn nhớ chưa quên?

Sao đã cùng ông Huyện kết duyên,

Mà vội phụ thầy Đề tình ngãi, (hử?)

THỊ HẾN:

– Xin thầy hãy nghĩ lại

Quan huyện dạy (tôi) phải vâng,

Đành đôi ta là cái duyên hằng

(Thế mà) Không nghe đó, sao cho nên việc, (thưa thầy?)

ĐỀ HẦU:

– Phải lắm! Thế mới biết

Đèn không khêu không tỏ,

Chuông không đánh không kêu.

(Ta nói thiệt) Đó không thương đây cũng quyết liều,

(Chừ) Duyên đã khẳn nàng tua giữ dạ.

THỊ HẾN:

– Ái ân việc còn thong thả,

Rượu trà xin hãy vui chơi

Chẳng mấy khi dặng hiệp một nơi

Bây giờ đã gặp nhau hai mặt

(Chừ có việc này)

Tôi xin hỏi thiệt, thầy khá tỏ bày!

Thầy hằng xem luật lệ xưa nay,

Tu (mà) phá giới tội chi khinh trọng, (thưa thầy?)

ĐỀ HẦU:

– Lỗ tai nghe quá chướng

Trong luật lệ rất to,

Hễ phá giới tức hành trảm quyết!

(Huyện Trìa tới)

HUYỆN TRÌA:

(nói ngoài cửa)

– Viên ngoại diễu văn tế thuyết

Môn tiền hữu ngã quan nhon

Mỏ của ra! Mau tiếp đại tân!

Ở mụ! Kíp kíp ra mời quan Huyện, (nào!)

ĐỀ HẦU:

(- Chui chao!)

Văn ngôn sắc biến! Sắc biến!

Thính thuyết hồn kinh! Hồn kinh!

Nếu mà ông Huyện tri tình,

Chắc hẳn thầy Đề mang khổ

(Thầy Đề trốn, ông Huyện vào)

HUYỆN TRÌA:

– Việc thuế má, án từ quá gấp

Đêm tối tăm đường xá (lại) khó đi!

Tưởng mụ đà tới lúc ngủ khi

Làm mỗ chạy ướt hầu bổ sắp.

Khi sớm, tối đợi mình khổ lắm

Từ rày xin tới mụ cho liên

Gẫm đà phải nợ phải duyên,

Thôi chó làm hòn, làm giận, (nữa mà!)

THỊ HẾN:

- Nghĩ mà tủi phận

Đâu dám trách ai

 (Nhưng tôi nghĩ lại, như ông)

Vợ còn, còn sẵn, thiếu chi

(Mà buộc tôi không đặng?)

Trai quá gái không thường lệ

(Tôi cũng) Cam phận thiếp muối trường cơm tẻ.

(Nhưng mà tôi)

E chánh thể cả tiếng nhiều lời (đó thôi!)

(Cho nên tôi)

Lánh một xó, lọ một nơi

Khó trối thây, giàu ai chẳng lụy!

HUYỆN TRÌA:

(-Ui chao! Chừ)

Ta nghỉ ngơi kẻo mệt,

Nói dài lắm cũng buồn

Khuyên khuyên đừng chớ làm tuồng

Bớt bớt xin đừng nói bợm!

THỊ HẾN:

– Sợ gan ruột đàn ông nhiều lớp

Việc nợ duyên dễ thiếp mấy nơi?

Rượu trà hãy xin mời,

Ái ân rồi có đó.

(Bây giờ tôi xin nhờ quan)

Vốn tôi chưa rõ,

Xin hói một lời:

Người từng xem luật lệ nơi nơi

(Là) Có một việc ở đòi lạ

Rầy có chú thầy tu rất chạ

Hay đến nhà mà ve bà goá;

Đã xuất gia phá giới làm vơ,

Thời luật pháp xử chỉ cho rõ?

HUYỆN TRÌA:

(-Uẩy!)

Nói làm chi việc rối

Ai có tiếc làm chi.

Phàm tu hành mà đã xuất gia,

Có phá giới đánh đòn phát lạc!

THẦY NGHÊU:

 (Từ gầm giường bò ra)

ĐỀ HẦU:

– Tâm khoái lạc! Tâm khoái lạc!

Thiện xử phân! Thiện xử phân!

(Bẩm quan lớn, lời quan dạy rất minh, chứ thầy Đề ngồi trong

thúng mơ kia nói mới ức chó! Bẩm quan lớn!)

Chơn vi phụ mẫu chỉ dân.

(Chứ thầy Đề)

Chỉ thị dâm ô chi loại!

Như thầy tu phá giới,

Thời bất quá đánh đòn,

Còn thầy Lại phạm giam

Thật ắt là tội chết!

ĐỀ HẦU:

(Lồm cồm bò ra)

– Đầu đuôi tại mụ Hến,

Mưu mẹo bởi lão thầy tu.

Rày quan Huyện trớ trêu,

Mắc đàn bà quá tội.

Tôi cam chịu lỗi

Ai biết mà chê

Trong nha môn từ Huyện đến Đề

Còn tạo lệ không mời luôn thể!

HUYỆN TRÌA:

- Thầy Lại làm nên quá tệ,

Như nhà sư bắt chước cố trêu.

Mắc cỡ lêu lêu!

Lêu lêu mắc cố!

not on they tạo

Rất nên quái gở,

Làm việc lăng nhăng

Hễ miếng to bây quyết kiếm ăn,

Còn đồ vặt bay làm sạch trụi.

Thầy Tu khá lui về cho khỏi

Để Lại mau cõng mỗ về nhà.

Dằn lòng thôi chó ngứa nghề,

Giữ dạ đừng tham của lạ.

(Hạ)

THỊ HẾN:

– Tâm khoái dã! Tâm khoái dã!

Kế hoan nhiên! Kế hoạn nhiên!

Thế thầy tu hết tới ngõ nói điên,

Rày quan huyện hết đến nhà làm bậy.

Giữ tiết hạnh một đường cho loại

Nỗi nhơn duyên đôi chữ không màng

(Hạ)

III. Tác phẩm Huyện Trìa, Đề Hầu, Thầy Nghêu mắc lỡm Thị Hến

1. Thể loại

Tuồng đồ

2. Xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác

Đoạn trích “Huyện Trìa, Đế Hầu, Thầy Nghêu mắc lỡm Thị Hến” được trích trong vở tuồng nổ tiếng “Ngao, Sò, Ốc, Hến” 

Huyện Trìa, Đề Hầu, Thầy Nghêu mắc lỡm Thị Hến - Tác giả tác phẩm Ngữ văn lớp 10 - Chân trời sáng tạo (ảnh 1)

3. Phương thức biểu đạt

Tự sự  

4. Ý nghĩa nhan đề

Ý nghĩa nhan đề tác phẩm Huyện Trìa, Đê Hầu, Thầy Nghêu mắc lỡm Thị Hến đã nói rõ nội dung của đoạn trích, nhằm phê phán, châm biếm thói hư tật xấu, những dục vọng tầm thường của ba người đàn ông là Huyện Trìa, Đê Hầu, Thầy Nghêu.

5. Tóm tắt tác phẩm Huyện Trìa, Đề Hầu, Thầy Nghêu mắc lỡm Thị Hến

Ba người Nghêu, Đề Hầu, huyện Trìa đều muốn có được Thị Hến. Trời tối Thị Hến hẹn Nghều đến đến nhà, nhưng Nghêu không biết được Thị Hến mời luôn cả hai người kia đến. Nghêu đến đầu tiên, khi đang ngồi ngồi tán tán tỉnh Thị Hến thì Đề Hầu gõ cửa vào khiến Nghêu phải chui vào gầm phản trốn. Khi Hầu Đề vào nhà chưa được ấm chỗ thì Huyện Trìa đến, Đề Hầu vội tìm chỗ trốn. Khi đủ cả ba người trong nhà, Thị Hến liền bày mưu để cho Nghêu từ gầm giường bò ra, Đề Hầu ngồi trong thúng chui ra. Tất cả cùng xuất đầu lộ diện và bị một phen bẽ mặt. 

6. Giá trị nội dung tác phẩm Huyện Trìa, Đề Hầu, Thầy Nghêu mắc lỡm Thị Hến

- Thị Hến là đại diện cho hình ảnh người phụ nữ mưu trí, hiện đại, ma mãnh, biết giữ gìn phẩm hạnh,

- Thầy Để, Nghêu, Quan Huyện: tác giả phơi bày cho ta thấy những thói hư tật xấu, bộ mặt tham lam giả dối, hèn nhát với những dục vọng tầm thường của tầng lớp cường hào ác bá phong kiến.

7. Giá trị nghệ thuật tác phẩm Huyện Trìa, Đề Hầu, Thầy Nghêu mắc lỡm Thị Hến

- Nghệ thuật xây dựng tuyến nhân vật với những tính cách đa dạng thể hiện được mọi góc nhìn về xã hội đương thời 

- Tình huống tuồng đắt giá giúp các nhân vật bộc lộ hết bản chất

IV. Tìm hiểu chi tiết tác phẩm Huyện Trìa, Đề Hầu, Thầy Nghêu mắc lỡm Thị Hến

1. Nhân vật Thị Hến

- Một người phụ nữ góa chồng thông minh, ma mãnh: ''Kế hoan nhiên! Kế hoan nhiên'', lừa được cả 3 tên đàn ông vào bẫy và khiến chúng tự cúi mình nhận tội. Một người phụ nữ có bản lĩnh

- Thị Hến còn là một người biết gìn giữ phẩm hạnh :''Giữ tiết hạnh một đường cho toại/ Nỗi nhân duyên đôi chữ không màng''

2. Đặc điểm của tuồng đồ được thể hiện trong văn bản

Đề tài: Lấy đề tài trong cuộc sống đời thường. Ở đây chính là việc 3 nhân vật Huyện Trìa, Đề Hầu, Thầy Nghêu ham mê nữ sắc để rồi phải tự gánh hậu quả

- Nhân vật: Các nhân vật chính thường có danh xưng nghề nghiệp Huyện Trìa, Đề Hầu, Thầy Nghêu. Tính cách nhân vật không thay đổi. xuyên suốt cả đoạn tuồng

- Lời thoại: có cả đối thoại, độc thoại, bàng thoại

3. Nhân vật Thầy Nghêu, Đề Hầu, Huyện Trìa

- Chỉ vì thói đam mê nữ sắc mà ự mình nhận lấy một kết quả đáng xấu hổ.

- 3 người lần lượt tự nhìn thấy tội lỗi của mình trong khi cả 3 mang danh Thầy, Đề, Huyện Trìa. những người có danh, có quyền nhưng hành xử không hề phù hợp với thuần phong mỹ tục

V. Các bài văn mẫu

Soạn bài Huyện Trìa, Đề Hầu, Thầy Nghêu mắc lỡm Thị Hến | Hay nhất Soạn văn  10 Chân trời sáng tạo

Đề bài: Phân tích bài Huyện Trìa, Đề Hầu, Thầy Nghêu mắc lỡm Thị Hến

Bài tham khảo 1

Khi nhắc tới các vở tuồng hài nổi tiếng, chúng ta không thể bỏ qua “Nghêu, Sò, Ốc, Hến”. Trong đó, trích đoạn “Huyện Trìa, Đề Hầu, Sư Nghêu mắc lỡm Thị Hến” thuộc lớp XIX của vở tuồng đã mang đến những tiếng cười sâu cay, trào phúng về hiện thực xã hội xưa. Thông qua nhân vật Thị Hến, tác giả dân gian cũng khéo léo bày tỏ thái độ đề cao, trân trọng người phụ nữ sắc sảo, thông minh.

Ngay ở phần mở đầu đoạn trích, người đọc đã có hình dung rõ nét về hoàn cảnh nhân vật Thị Hến:

“Dốc thờ chồng suối bạc cho toàn,

Lại bị quỷ nhà chay tới phá.”

Có thể thấy, Thị Hến sống trong cảnh “chăn đơn gối chiếc”. Thị ở vậy một mình và dốc lòng thờ cúng chồng nơi suối bạc. Thế nhưng, cuộc sống lại chẳng hề bình yên vì có những kẻ bỉ ổi, suy đồi nhân cách tìm đến quấy rầy. Sau khi được tha bổng ở huyện đường, Thị Hến lại bị Sư Nghêu mò tới tán tỉnh. Nhân dịp này, Thị mời cả hai tên chức dịch mê gái là Đề Hầu và Huyện Trìa đến nhà. Bằng sự mưu trí của mình, Thị đã khiến ba kẻ ham sắc bẽ mặt.

Trước hết, Thị Hến vô cùng thông minh, nhanh trí khi tạo ra “cuộc hội ngộ” giữa Sư Nghêu, Đề Hầu và Huyện Trìa. Cuộc hội ngộ này chính là âm mưu của Thị – khiến ba nhân vật sập bẫy, chịu một phen nhục nhã ê chề.

Trong lúc trò chuyện cùng Sư Nghêu, nghe thấy tiếng gọi ngoài cửa, dẫu đã biết là Đề Hầu nhưng Thị Hến vẫn tỏ ra ngạc nhiên “(Ủa) Tiếng ai kêu chi lạ? Hay thầy Lại tới đây”. Thậm chí, Thị còn khéo léo rủ Sư Nghêu ra chào hỏi để kẻo mắc tội với thầy Đề. Việc này càng làm Sư Nghêu thêm lo lắng mà hỏi chỗ trốn. Đây cũng chính là điều mà Thị Hến dự tính.

Vì thế, dựa theo âm mưu ban đầu, Thị đã mách nước cho hắn chui xuống gầm phản “Dưới phản ngựa thầy mau xuống đó”. Thực chất, Thị Hến muốn dùng cách bao che này để tiến hành những hành động tiếp theo.

Đón Đề Hầu vào nhà, Thị dùng lời nói hết sức ngon ngọt “Đành đôi ta là cái duyên hằng/ (Thế mà) Không nghe đó, sao cho nên việc, (thưa thầy)”. Thị đon đả chào hỏi thầy Đề như một vị khách quý. Trong khi Đề Hầu vội vã đề cập tới chuyện ái ân, giao duyên thì Thị lại tỏ ra hết sức bình tĩnh “Ái ân việc còn thong thả,/ Rượu trà xin hãy vui chơi”. Tiếp đến, Thị còn ẩn ý hỏi thăm về tội phá giới của thầy tu “Tu (mà) phá giới tội chi trọng khinh (thưa thầy?)”.

Thấy người đẹp thắc mắc , Đề Hầu không ngại trình bày “Trong luật lệ rất to,/ Hễ phá giới tức hành trảm quyết!”. Tưởng như đây chỉ là cuộc hội thoại đơn thuần kẻ hỏi người đáp nhưng chính nó đã mở ra hiềm khích, mâu thuẫn giữa hai nhân vật Sư Nghêu và thầy Đề. Như vậy, một phần kế hoạch, mưu mô của Thị đã diễn ra chính xác, thuận lợi.

Sự thông minh, khôn khéo ở Thị Hến tiếp tục được khắc họa trong phân cảnh Huyện Trìa đến nhà. Cũng giống như Đề Hầu, Thị dùng lời lẽ nhẹ nhàng để mời chào tên quan tham lam, dối trá “Rượu trà hãy xin mời,/ Ái ân rồi có đó.”. Thị vờ như chưa biết mà hỏi về tội của thầy tu phá giới. Để rồi, câu trả lời đến từ Huyện Trìa đã thành công khiến thầy Nghêu sợ hãi chui ra khỏi gầm giường.

Với bản chất hèn nhát, ham sống sợ chết ăn sâu trong máu, gã thầy tu sa đọa sẵn sàng tố cáo tội trạng của Đề Hầu “…chớ thầy Đề ngồi trong thúng mơ nói mới ức chớ!”, “(Chứ thầy Đề)/ Chỉ thị dâm ô chi loại!”. Giờ đây, âm mưu mà Thị Hến bày ra đã thành công. Thầy Đề phải lồm cồm bò ra, ba tên hám sắc cùng xuất đầu lộ diện.

Sau khi khiến thầy tu phá giới và hai tên chức dịch đồi bại nhân cách – Huyện Trìa, Đề Hầu mắc mưu và bẽ mặt ê chề, Thị Hến vô cùng vui mừng. Thị cảm thấy hạnh phúc, sung sướng vì mưu kế đã thành “Kế hoan nhiên! Kế hoan nhiên!”. Từ đây, không còn ai đến nhà Thị quấy rối, làm bậy nữa “Thế thầy tu hết tới ngõ nói điên/ Rày quan huyện hết đến nhà làm bậy”. Sau tất cả, Thị vẫn giữ vững tiết hạnh, phẩm chất đáng quý của người phụ nữ.

Bằng việc xây dựng nhân vật thông qua lời nói và hành động, tác giả dân gian đã khắc họa rõ nét nhân vật Thị Hến – một người thông minh, sắc sảo. Từ đó, bày tỏ thái độ đề cao, trân trọng những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ. Ngoài ra, tác giả dân gian cũng phê phán, mỉa mai hiện thực xã hội đương thời với sự suy đồi, biến chất về nhân cách, đạo đức.

Có thể nói, Thị Hến trong đoạn trích “Huyện Trìa, Đề Hầu, Sư Nghêu mắc lỡm Thị Hến” quả là người khôn khéo, sáng suốt. Đứng trước cái dung tục, tầm thường, Thị đã dũng cảm vạch trần, khiến bọn hám sắc thêm nhục nhã, bẽ mặt.

Bài tham khảo 2

Đoạn trích Huyện Trìa, Đề Hầu, Thầy Nghêu mắc lỡm Thị Hến đã khắc hoạ thành công nhân vật Thị Hến – một người phụ nữ góa chồng, thông minh và nhiều mưu mẹo, bản lĩnh. Khi biết cả ba người đàn ông Huyện Trìa, Đề Hầu, Thầy Nghêu đều mê mẩn minh, cô đã tìm cách lừa cả ba ông và khiến cho ba ông tự xử lỗi lầm của mình. (Kế hoan nhiên! Kế hoan nhiên).

Các tác giả dân gian đã thể hiện thái độ phê phán, châm biếm với các nhân vật qua các hành động, ngôn ngữ. Tác giả phơi bày cho ta thấy những thói hư tật xấu, bộ mặt tham lam giả dối, hèn nhát với những dục vọng tầm thường của tầng lớp cường hào ác bá phong kiến

Còn đối với Hến – người đàn bà góa ta lại thấy trong cô có sự khao khát được hạnh phúc, được bảo vệ, Hến trẻ trung, thông minh có, xinh đẹp nhưng trong mắt mọi người nàng lại lẳng lơ, điêu ngoa. Tất cả đã được tác giả dân gian khắc họa đầy đủ diện mạo bức tranh làng quê phong kiến buổi suy tàn.

Yếu tố gây cười của tác phẩm được thể hiện ở cách xây dựng tình huống truyện độc đáo và phản ứng của mỗi nhân vật. Từ Nghêu – một thầy tu mù, đến nhà Thị Hến nhằm tán tỉnh thị, không ngờ gặp phải Đề Hầu cũng đến nhà Thị Hến. Nghêu đành chui xuống gậm phản để trốn. Rồi Huyện Trìa cùng đến khiến Đề Hầu phải trốn.

Khi nghe Huyện Trìa nói sẽ trừng phạt những kẻ tu mà phá giới, Nghêu chui ra và dùng lời nói tốt đẹp để lấy lòng quan lớn, tránh khỏi bị phạt. Rồi Đề Hầu cũng xuất hiện, ba người nhìn nhau mà vừa thấy tức giận, vừa thấy xấu hổ.

Em ấn tượng nhất với chi tiết cuối cùng của Thị Hến sau khi Nghêu, Đề Hầu, Huyện Trìa tức giận rời khỏi nhà Thị Hến. Bởi vì hình ảnh này cho ta thấy được trí tuệ của người phụ nữ Việt Nam, cả ba người đều là người có chức, có quyền mà lại bị mắc mưu của một người đàn bà góa, người phụ nữ chân yếu tay mềm. Mưu kế đã thành công vang dội, còn dạy dỗ cho đám người đấy hết thói làm càn như “tới ngõ nói điêu”, “đến nhà làm bậy”,..

Tiếng cười toát ra từ tình huống mắc lỡm của ba nhân vật Huyện Trìa, Đề Hầu, Thầy Nghêu là ba tiếng cười châm biếm, mỉa mai khi vì quá ham mê sắc đẹp mà tự mình làm hại mình. Tiếng cười ấy còn là sự chế giễu khi ba người chức cao vọng trọng, đứng đầu một huyện lại có những hành vi vi phạm thuần phong mĩ tục.

Bời vì đây là vở tuồng hài dân gian, tiếng cười trong vở tuồng này có ý nghĩa vô cùng to lớn, không chỉ giúp ta sảng khoái tinh thần sau cả ngày làm việc mệt nhọc mà nó còn là những bài học thâm thúy để ta đáng suy ngẫm rất nhiều.

Tiếng cười ở đoạn trích Mắc mưu Thị Hến vẫn mang đậm ý nghĩa trong cuộc sống ngày nay. Đó là tiếng cười trước một nét đẹp truyền thống văn hóa dân gian của dân tộc. Một vở tuồng mang hơi thở của sự cổ kính, xa xưa, khiến người nghe không chỉ cười sảng khoái mà còn mang trong mình những suy nghĩ về một thời kì trong xã hội phong kiến thối nát khi con người trở nên ngày càng sa đọa, đồi bại.

1 70 lượt xem