Tác giả tác phẩm Con khướu sổ lồng (Kết nối tri thức 2024) Ngữ văn 10 chi tiết nhất

Tác giả tác phẩm Con khướu sổ lồng Ngữ văn lớp 10 sách Kết nối tri thức đầy đủ bố cục, tóm tắt, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật, nội dung chính, ... giúp học sinh học tốt môn Ngữ văn 10. Mời các bạn đón xem:

1 137 lượt xem


Tác giả tác phẩm Con khướu sổ lồng - Ngữ văn 10

I. Tác giả Nguyễn Quang Sáng

1. Tiểu sử

- Nguyễn Quang Sáng sinh năm 1932, quê ở huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang.

- Từ tháng 4 năm 1946, ông xung phong vào bộ đội, làm liên lạc viên cho đơn vị Liên Chi 2.

- Đến năm 1948, được bộ đội cho đi học thêm văn hóa ở Trường Trung học kháng chiến Nguyễn Văn Tố.

- Năm 1950, ông về công tác tại Phòng Chính trị Bộ Tư lệnh phân khu miền Tây Nam Bộ, làm cán bộ nghiên cứu tôn giáo.

- Năm 1955, ông theo đơn vị tập kết ra Bắc, chuyển ngành với quân hàm Chuẩn úy, về làm cán bộ Phòng Văn nghệ Đài Phát thanh tiếng nói Việt Nam.

- Từ năm 1958, công tác ở Hội Nhà văn Việt Nam, làm biên tập viên tuần báo Văn nghệ biên tập nhà xuất bản Văn học, cán bộ sáng tác.

- Năm 1966, ông vào chiến trường miền Nam, làm cán bộ sáng tác của Hội Văn nghệ Giải phóng.

- Năm 1972, trở ra Hà Nội, tiếp tục làm việc ở Hội Nhà văn.

- Sau ngày đất nước thống nhất 30/4/1975, ông về Thành phố Hồ Chí Minh, giữ chức Tổng Thư ký (về sau đổi tên gọi thành Chủ tịch) Hội Nhà văn Thành phố Hồ Chí Minh các khóa l, 2, 3.

- Nhà văn Nguyễn Quang Sáng là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam từ năm 1957; Ủy viên Ban Chấp hành Hội khóa 2, 3 và là Phó tổng thư ký Hội khóa 4.

- Ông mất tại nhà riêng ở Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh vào lúc 17 giờ ngày 13 tháng 2 năm 2014.

2. Sự nghiệp văn học

- Những năm chống Mĩ, Nguyễn Quang Sáng trở về Nam Bộ tham gia kháng chiến và tiếp tục sáng tác văn học.

- Tác phẩm của Nguyễn Quang Sáng có nhiều thể loại: truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch bản phim và hầu như chỉ viết về cuộc sống và con người Nam Bộ trong hai cuộc kháng chiến cũng như sau hòa bình.

- Năm 2000, ông được Nhà nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.

- Tác phẩm chính:

+ Con chim vàng (tập truyện ngắn, 1956)

+ Người quê hương (tập truyện ngắn, 1968)

+ Nhật ký người ở lại (tiểu thuyết, 1961)

+ Đất lửa (tiểu thuyết, 1963)

+ Câu chuyện bên trận địa pháo (truyện vừa, 1966)

+ Chiếc lược ngà (tập truyện ngắn, 1966)

Con khướu sổ lồng– Tác giả tác phẩm Ngữ văn 10 - Kết nối tri thức (ảnh 1)

II. Đọc tác phẩm Con khướu sổ lồng

Tạo hoá cho loài chim đôi cánh là để bay, nhưng trong trời đất này có biết bao nhiêu con chim không được bay.

Nhà tôi cũng có một con, con khướu, được nuôi trong lồng. Nó được nuôi trong một cái lồng tuyệt đẹp, cái lồng tre nổi tiếng của Lạng Sơn. Mãi lồng như mái đình, quanh lồng được chạm trổ hình hoa văn, trong lồng có ba cái lọ sứ Tàu để đụng thức ăn thức uống. Cái lồng được treo dưới mái bên mảnh vườn treo trên nhà. Nếu những con chim khác biết được không thể không ganh tị với nó. Quanh nó là cây cảnh với phong lan, không mua không nắng nhưng vẫn nhìn thấy khoảng trời mênh mông qua mảnh vườn.

Nó như sống trong cảnh thần tiên, thức ăn thúc uống đủ đầy, chỉ có hót thôi. Con khướu nhà tôi không đẹp như hoạ mi hay sơn ca, so với con cuỡng nó cũng không bằng. Lông một màu đen, trên đầu có một cái chóp trắng trông nó như một lão già lụ khụ lúc nào cũng đội kết.

“Đừng thấy vậy mà chế. Nghe nó hót rồi biết!'. Ông bác tôi vốn là người chơi chim, mang nó từ quê lên cho, bảo vậy. “Tao chọn rồi, chim trong nhà, nó là con hót hay nhút.”

Đúng như lời ông bác, tiếng hót của nó vừa vui vừa xao xuyến. Những buổi chiều mệt nhọc từ ngoài đồi trở về, ngồi trên mảnh vườn nghe nó hót, lòng bỗng thấy thanh thản, thấy gần với trời đất.

[...] Con khướu là niềm vui của cả nhà. Có lúc không còn nhớ nó xuất xứ từ đâu. Nó như có mặt cùng một lúc với mọi người, như một thành viên chính thức trong gia đình, không thể thiếu.

Một buổi chiều tôi đi làm về, thằng út tôi tám tuổi đón tôi từ ngoài cổng, vừa thấy tôi, nó dạng hai tay vừa chạy xô tới vừa la:

– Ba ơi! Chim bay rồi.

- Cái gì?

- Chim bay rồi.

- Chim nào bay?

- Con khướu nhà mình đó, nó sổ lồng nó bay mất rồi!

– Thiệt sao?

– Thiệt!

Tôi chạy vào nhà, bước một bước hai ba bậc thang, lên mảnh vườn treo. Thật vậy, chỉ còn có cái lồng không. Ngày ngày, mỗi lần tôi bước vào mảnh vườn, lần nào con khướu cũng cất tiếng hót chào tôi. Tôi ngồi phịch xuống ghế, nhìn cái lồng không. Cái lồng trống, lòng tôi cũng trống.

Sáng nay, thằng lớn của tôi – mười lăm tuổi, lúc cho nó ăn đã sơ ý mở hết cửa, thế là nó vù đi. Thằng lớn tôi vừa nghe “vừ” qua tại là nó giơ tay ra chụp nhưng chỉ giữ lại trong tay một chiếc lông, còn con khướu thì dạng cánh bay thẳng lên bầu trời như một mũi tên.

Suốt đêm hôm đó, cả nhà ai cũng thấy thiếu vắng. Không ai buồn lên mảnh vườn treo nữa. Nửa đêm thằng út tôi giật mình khi trời đổ mưa. Nó cứ trăn trở thao thúc, rồi thì thầm:

– Ba ơi! Trời mưa lại có gió nữa, con khướu bay đi, nó có sao không ba?

- Chim thì phải bay. Chim bay thì có gì phải lo. Con ngủ đi.

Buổi chiều hôm sau, trời vừa chạng vạng bỗng có tiếng hót của con khướu vang lên từ trên vòm lá cây sao trước nhà.

Con khướu về! Cả nhà reo lên, ngước cổ nhìn lên, không ai thấy, chỉ nghe tiếng hót.

Nghe tiếng hót buồn thảm của nó tôi bỗng nghĩ đến những đứa con bỏ đi hoang hối hận trở về nhưng không dám vào nhà, cứ thập thò trước cổng.

[..] Trên vòm lá, con khướu vẫn hót, hót rồi ngung, ngưng lại hót. Khi tiếng hót vừa dứt, từ trên vòm lá con khướu buông cánh sà thẳng vào lồng. Cửa lồng sập xuống, từ các chỗ núp, cả nhà vừa lao ra vừa reo lên và giành nhau bung cái lồng.

Cái lồng và con khuớu lại được treo lên chỗ cũ. Cả nhà lại ngồi quanh nó, nghe nó hót, quên cả buổi cơm chiều. Một con chim sổ lồng bay đi rồi lại quay về là điều ít có, nên không thể không bàn cãi. Nhà tôi mỗi người có mỗi ý khác nhau.

[...] Có ý tán thêm:

- Nó ghiền nước đường như người ta ghiền rượu, ghiền bia vậy. Phải không mày, khướu?

Riêng tôi, tôi nghĩ khác nhưng không nói. Nói đến tự do, người ta thường nghĩ đến đôi cánh. Khi nói đến đôi cánh, người ta nghĩ đến tự do. Đôi cánh với tự do như đồng nghĩa.

Con khướu này, đôi cánh của nó đã dạng ra mênh mông trên bầu trời tự do rồi sao nó lại khép cánh trở lại cái lồng nhỏ hẹp này. Có lẽ cái lồng này đã giam hãm đôi cánh nó quá lâu khiến cho đôi cánh nó chơi với và cái lồng ngực của nó bị ngộp thở trước cảnh mênh mông của trời đất. Có lẽ nó bỗng thấy cô đơn, bỗng thấy mình quá nhỏ bé trước bầu trời?

Và nó trở về lồng lại hót.

Một lần thằng con tôi lại sơ ý. Con khướu lại và bay. Nó bay đi lần này, cả nhà không lo buồn như lần trước bởi đoán thế nào nó cũng quay về. Và đúng như vậy, chiều hôm sau nó lại hót trên vòm lá cây sao, chỗ cũ.

Thằng lớn của tôi lại treo cái lồng ra ngoài trời, người trong nhà không còn ai phập phồng nữa, biết chắc là chốc nữa nó sẽ lại sà xuống chui vào lồng. Chỉ có thằng út là vẫn háo húc đi tìm chỗ núp rình xem, với nó như một trò chơi hồi hộp lí thú.

Trên vòm lá, con khướu lại hót. Nó hót một chuỗi dài như báo tin nó đã về và từ trên vòm lá nó lao xuống.

Khi nó lao xuống đến lung chừng thì trên trời bỗng vang lên tiếng hót của một con chim trời. Tiếng hót của con chim lạ ấy tôi nghe thảnh thơi hơn và cũng dịu dàng hơn, chắc là con chim mái. Tiếng con chim trời ấy đã cứu con khướu nhà.

Đang lao thẳng xuống vực thẳm của chiếc lồng thì, nó bỗng ưỡn người, dụng ngược đổi cảnh xiên thẳng lên cái nền xanh thẳm của bầu trời.

Thế là con trước con sau, như hai mũi tên đen đuổi nhau luợn vòng trên tán cây, vừa lượn đuổi vừa hót.

Rồi từ xa, hai con chim vụt bay đến nhau. Khi vừa đến bên nhau thì chúng dụng cảnh, cùng vút thẳng lên trời cao. Rồi xoè cánh, cánh kề cánh nương nhau bay lượn, vừa bay vừa hót. Tiếng hót của đôi chim rộn rã quấn quýt như tiếng cười tiếng khóc trong giọng rối rít của đôi tình nhân hàng thế kỉ mới tìm gặp nhau, vừa xôn xao vừa vang động cả trời chiều. Cái vòng lượn của đối chim mỗi lúc rộng ra, và tiếng tiếng hót mỗi lúc, mỗi lúc từ xa cho đến xa,…

Chiều hôm sau, thằng con lớn của tôi lại treo cái lồng ra ngoài trời, đợi con khướu nhưng con khuớu không về trên vòm lá. Thằng con tôi kiên nhẫn, chiều hôm sau lại mang cái lồng ra.

Tôi bảo:

– Thôi dẹp đi. Nó không về nữa đâu.

- Sao vậy ba? – Thằng út tôi hỏi.

– Thôi dẹp đi, ba biết nó không về. – Tôi nghĩ mà không nói. Lần này, nó có đôi cánh của tình yêu, đôi cánh tình yêu đã đưa nó về với cảnh thênh thang của đất trời. Và nó là chim – chim thì phải bay. Chim bay...

III. Tác phẩm văn bản Con khướu sổ lồng

1. Thể loại

Truyện ngắn

2. Xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác

 Văn bản Con khướu sổ lồng được trích từ tập truyện Con mèo của Foujita – NXB Kim Đồng – Hà Nội.

3. Tóm tắt văn bản Con khướu sổ lồng

 Với ngôn từ giản dị, gần gũi, Nguyễn Quang Sáng đã đem đến cho người đọc một câu chuyện tưởng chừng như đơn thuần là câu chuyện của loài chim khướu nhưng tác giả đã gửi gắm trong đó câu chuyện của con người rất đáng suy ngẫm.

Con khướu sổ lồng– Tác giả tác phẩm Ngữ văn 10 - Kết nối tri thức (ảnh 1)

4. Phương thức biểu đạt

Tự sự

5. Bố cục văn bản Con khướu sổ lồng

- Đoạn 1: Từ đầu đến “không thể thiếu”: Giới thiệu về con khướu

- Đoạn 2: Tiếp theo đến “và nó trở về lồng, lại hót”: Con khướu bay đi sau đó trở về nhà .

- Đoạn 3: Còn lại: Con khướu trở về với trời xanh.

6. Giá trị nội dung văn bản Con khướu sổ lồng

- Thể hiện tình yêu thiên nhiên, các loài vật mà cụ thể là loài chim khướu

- Tài năng nghệ thuật của tác giả có cái nhìn sâu sắc, chân thực tinh tế

7. Giá trị nghệ thuật văn bản Con khướu sổ lồng

- Ngôn ngữ trong sáng giản dị, gần gũi thu hút người đọc.

IV. Tìm hiểu chi tiết văn bản Con khướu sổ lồng

1. Cảm xúc, suy nghĩ của các nhân vật về sự việc diễn ra trong câu chuyện.   

- Lần đầu tiên chim khướu sổ lồng: nhân vật con trai hoảng hốt, nhân vật người ba hụt hẫng (“cái lồng trống, lòng tôi cũng trống”)

- Khi chim khướu quay trở về: các nhân vật đều vui vẻ, sung sướng: “Cả nhà reo lên.” Sung sướng khi chim quay lại, và sung sướng khi đã đưa chim quay lại cái lòng: “Cả nhà vừa lao ra vừa reo lên”. Nhưng riêng người ba trở nên trầm ngâm, suy tư về việc cái lồng giam hãm chim khướu quá lâu khiến nó chới với khi bay ra ngoài.

- Khi chim khướu sổ lồng lần thứ hai: các nhân vật không lo buồn như lần trước, vì đoán thế nào chim cũng quay trở về.

- Khi biết chim khướu không quay trở về nữa: người con trai vẫn kiên nhẫn đợi chờ, trông mong chim khướu bay trở lại, còn người ba đã thấu hiểu và chấp nhận sự thật.

2. Tác dụng của ngôi kể thứ nhất 

- Truyện được kể theo ngôi thứ nhất. Người kể là nhân vật người ba trong gia đình.

- Người kể chuyện tham gia vào các sự việc, nên có thể bao quát hành vi, cảm xúc của các nhân vật khác cũng như tái hiện khách quan các sự việc xảy ra. Trong truyện, người kể chuyện đã lớn, đã trưởng thành, nên có đủ khả năng để lý giải các sự việc bên cạnh việc tái hiện.

V. Các đề văn mẫu

Phân tích Con khướu sổ lồng hay nhất (2 Mẫu)

Đề bài: Phân tích bài Con khướu sổ lồng

Bài tham khảo 1

'Con khướu sổ lồng' trích từ tập truyện 'Con mèo của Phu-gi-ta', là sáng tác tiêu biểu của nhà văn, nhà biên kịch nổi tiếng Nguyễn Quang Sáng. Với ngòi bút tinh tế, tâm hồn nhạy cảm, tác giả đã viết nên một tác phẩm đặc sắc về nội dung và độc đáo trong hình thức nghệ thuật.

Truyện ngắn kể về một con khướu được gia đình nọ nuôi dưỡng. Nó mang đến tiếng hót rất hay. Trong một lần sơ ý, con trai lớn của nhân vật 'tôi' đã làm chim bay đi. May mắn thay, nó bay đi rồi lại quay về. Tuy nhiên, lần thứ hai thoát ra khỏi chiếc lồng, chim khướu không quay lại nữa. Từ đây, nhân vật 'tôi' bừng tỉnh và thấu hiểu mọi việc 'và nó là chim - chim thì phải bay'. 'Tôi' đã biết yêu thương, trân trọng thiên nhiên bằng một tấm lòng cao đẹp. Đây cũng chính là chủ đề bao trùm toàn bộ tác phẩm.

Trước hết, con khướu - nhân vật trung tâm của truyện được miêu tả rất cụ thể. Nó sống trong một chiếc lồng tuyệt đẹp 'cái lồng tre nổi tiếng của Lạng Sơn'. Nhìn bên ngoài, cái lồng giống như ngôi nhà tí hon, được thiết kế tỉ mỉ, cẩn thận 'Mái lồng như mái đình, quanh lồng được chạm trổ hình hoa văn'. Từ trong lồng nhìn ra, con khướu có thể thấy cả khoảng trời bát ngát qua mảnh vườn. Hàng ngày, cuộc sống của con vật diễn ra thật nhẹ nhàng, thức ăn thức uống đầy đủ, chỉ việc ca hót. Ngoài việc đề cập đến hoàn cảnh sống, tác giả cũng khắc họa vẻ bề ngoài của nó qua một số chi tiết 'lông một màu đen, trên đầu có một cái chóp trắng'. Trái ngược với ngoại hình trông như 'một lão già lụ khụ lúc nào cũng đội kết', con khướu có tiếng hót vô cùng trong trẻo, vừa vui vừa xao xuyến. Âm thanh ấy khiến lòng người trở nên thảnh thơi, thanh thỏa sau những giờ làm việc mệt nhọc. Giờ đây, con khướu giống như một thành viên chính thức trong gia đình, là 'người' mang niềm vui đến cho cả nhà. Có thể thấy, sự gắn bó khăng khít giữa gia đình 'tôi' và chim khướu đã phá vỡ tầng quan hệ chủ nhà - vật nuôi.

Sau khi giới thiệu con khướu qua lời 'tôi' kể, tác giả hướng ngòi bút tới những câu chuyện gắn liền với nhân vật đặc biệt này. Ở phần này, Nguyễn Quang Sáng tập trung thể hiện suy tư, cảm nhận của các thành viên trong nhà.

Lần đầu tiên con khướu bay đi, cậu con trai út vô cùng bồn chồn. Thằng bé đứng ngồi không yên, từng giây từng phút trông ngóng ba 'đón tôi từ ngoài cổng, vừa thấy tôi, nó dang hai tay vừa chạy xô tới vừa la: Ba ơi! Chim bay rồi.'. Thậm chí, vào buổi đêm, cu cậu còn thao thức, trăn trở và tỏ ra lo lắng, sốt ruột 'Trời mưa lại có gió nữa, con khướu bay đi, nó có sao không ba?'. Không chỉ mỗi mình thằng út, cả nhà ai cũng buồn bã, cảm thấy thiếu vắng điều gì đó. Nhân vật 'tôi' sau khi nghe tin chim bay đi thì thảng thốt 'ngồi phịch xuống ghế', trong lòng trống vắng như cái lồng vậy.

Giây phút 'thành viên chính thức trong gia đình, không thể thiếu' quay trở về, hót vang trên vòm cây trước nhà, tất cả mọi người đều vui vẻ, phấn khởi. Cả nhà cùng reo lên, cùng ngước cổ nhìn lên. Họ hạnh phúc, vui sướng đón chào một thành viên đi xa, nay đã trở lại. Dường như, lúc này đây, gia đình 'tôi' đang vỡ òa trong niềm xúc động. Chỉ riêng có 'tôi' là trầm ngâm suy nghĩ về tiếng hót buồn rượi của con vật. 'Tôi' liên tưởng đến hình ảnh đứa con bỏ nhà ra đi rồi ân hận trở về nhưng lại không đủ dũng cảm bước vào ngôi nhà thân thương. Một ý nghĩ thật sâu sắc làm sao!

Khi con vật từ vòm lá buông cánh sà vào lồng, cả nhà 'tôi' vội vàng lao ra khỏi chỗ nấp. Họ giành nhau bưng cái lồng như thể muốn ôm trọn nó vào lòng. Hành động 'vừa lao ra vừa reo lên' không hề thể hiện sự vui vẻ vì nhốt được con khướu mà là niềm hân hoan khi có thể giữ nó ở riêng bên mình. Việc chim sổ lồng bay đi rồi bay về là chuyện hiếm thấy. Phải chăng, con khướu thực sự coi gia đình 'tôi' là ngôi nhà, người thân của mình? Hay giống như những gì 'tôi' đã nghĩ: chiếc lồng giam hãm con khướu quá lâu, khiến nó cảm thấy chới với khi bay ra bên ngoài rộng lớn.

Lần thứ hai con chim bay đi, cả gia đình không còn lo lắng, trằn trọc như lần đầu nữa. Họ tin rằng nó sẽ quay trở lại, sẽ sà vào chiếc lồng và hót vang. Có thể thấy, niềm tin ấy được dựng xây, phát triển nhờ lòng gắn kết, thấu hiểu. Cậu con trai lớn của nhân vật 'tôi' lại hành động giống lần trước, mang chiếc lồng ra treo ngoài trời để đón thành viên gia đình trở về. Không ai phập phồng, trông mong từng giây từng phút khoảnh khắc con chim bay vào lồng nữa, ngoại trừ con trai út. Chuyện con khướu bay đi mất rồi quay trở về đã chẳng còn là câu chuyện li kì, hấp dẫn sự bàn tán của mọi người. Cậu chuyện ấy bình thường đến mức người ta có thể bình thản đối diện, không chút vội vã hay cuống quýt.

Khi con khướu cánh kề cánh cùng chim mái, bay vút lên trời cao rồi từ đó, không bay về nữa, nhân vật người con lớn vẫn kiên nhẫn chờ. Một sự đợi chờ trong vô vọng, trong tối tăm. Ai cũng tưởng rằng con chim sẽ thuộc lối về, bay đi rồi bay về. Nhưng không, ở thế giới bao la ngoài kia, nó đã tìm được nơi đáng sống. Cuối cùng, giống như bao lần trước, chỉ có người ba - nhân vật 'tôi' mới thực sự bừng tỉnh và thấu hiểu. 'Tôi' cảm thấy bản thân có thể cho nó chiếc lồng đầy đủ, tiện nghi nhưng không thể cho nó tự do và đôi cánh tình yêu. Sau cùng, chim thì phải bay, phải cất cao đôi cánh tự do trên bầu trời xa xăm kia. Những ý nghĩ của 'tôi' ở kết thúc truyện đã cho thấy nhận thức đúng đắn của nhân vật.

Bằng việc sử dụng thành công ngôi kể thứ nhất, ngôn ngữ trong sáng, giản dị, dễ hiểu và hình ảnh gần gũi, thân thuộc, Nguyễn Quang Sáng đã sáng tạo nên một câu chuyện hết sức hấp dẫn. Hình ảnh con khướu bay đi rồi lại trở về chính là biểu tượng của thiên nhiên tươi đẹp. Thông qua hình tượng này, nhà văn khéo léo bày tỏ thông điệp ý nghĩa về việc yêu, trân trọng tự nhiên cùng cuộc sống.

'Con khướu sổ lồng' không có quá nhiều tình tiết cao trào, kịch tính nhưng nó vẫn có sức cuốn hút, hấp dẫn nhất định. Từ đây, Nguyễn Quang Sáng muốn nhắn nhủ mỗi người hãy biết lắng nghe, cảm nhận thiên nhiên từ tấm lòng, tâm hồn cao đẹp.

Bài tham khảo 2

Nguyễn Quang Sáng là nhà văn nổi tiếng của nền văn học Việt Nam. Các tác phẩm của ông luôn mang đến nhiều cảm xúc và giá trị cho bạn đọc. Ông để lại một sự nghiệp sáng tác vô cùng lớn với nhiều thể loại như: truyện ngắn, tiểu thuyết. Trong đó 'Con khướu sổ lồng' là truyện ngắn đặc sắc của nhà văn. Qua câu chuyện, ta cảm nhận được bài học cuộc sống sâu sắc.

Câu chuyện kể về gia đình nhân vật 'tôi' có nuôi một con khướu hót rất hay. Trong một lần sơ ý, con chim đã sổ lồng khiến cả nhà ai cũng lo lắng. Buổi chiều hôm sau, con chim quay lại với chiếc lồng. Thế nhưng, lần thứ hai, nó không trở về nữa. Qua câu chuyện con chim khướu, tác giả muốn ngầm nhấn mạnh một quy luật của tự nhiên: tạo hóa cho loài chim với đôi cánh là để bay. Vậy nên, nơi ở thuộc của nó phải là bầu trời chứ không phải cái lồng. Từ đó, nhắc nhở mọi người bài học về tình yêu thiên nhiên, sống hòa hợp với tự nhiên.

Đầu tiên, tác giả giới thiệu hình ảnh chú khướu của gia đình 'tôi' với không gian sống 'nuôi trong cái lồng tuyệt đẹp, mái lồng như mái đình, quanh lồng được chạm trổ hình hoa văn'. Nơi ở của khướu sung sướng tới nỗi có thể khiến cho những con chim khác phải ghen tị. Chiếc lồng là nơi khướu không phải lo nắng, mưa và còn có cả thức ăn, nước uống đủ đầy. Đọc đến đây, chúng ta đều nghĩ rằng đó là môi trường sống thật hoàn mĩ, đầy đủ. Con khướu thật may mắn khi được bao bọc trong sự an toàn, hưởng thụ cuộc sống yên bình. Vậy chắc hẳn, nó phải thấy mãn nguyện và hạnh phúc? Không chỉ miêu tả nơi ở, tác giả còn miêu tả ngoại hình của con khướu. Hình ảnh con khướu được giới thiệu trong câu chuyện không phải là quá đẹp đẽ 'lông một màu đen, trên đầu có một cái chóp trắng'. Nhưng điểm đặc biệt mà thu hút người khác đó chính là tiếng hót vừa vui, vừa xao xuyến lòng người của nó. Những buổi chiều mệt mỏi, nhân vật 'tôi' chỉ cần lắng tai nghe âm thanh đó là bỗng thấy lòng thanh thản hơn.

Khướu sinh ra từ tự nhiên, là loài chim với đôi cánh để bay. Cho nên trong nó luôn khát khao tự do. Vậy nên, khi thằng con lớn của nhân vật 'tôi' sơ ý mở hết cửa ra, khướu đã bay vù đi 'dang cánh bay thẳng lên bầu trời như một mũi tên'. Cái cách nó bay lên thể hiện sự dứt khoát, khao khát tự do được trở lại thế giới của mình. Trước sự việc con khướu sổ lồng, cả gia đình nhân vật 'tôi' ai cũng thấy thiếu vắng, trăn trở. Đặc biệt là thằng con út cứ trăn trở thao thức rồi hỏi ba 'Ba ơi! Trời mưa lại có gió nữa, con khướu bay đi, nó có sao không ba?'. Có lẽ, cả nhà nhân vật 'tôi' có tâm trạng như vậy bởi với họ con khướu là một thành viên không thể thiếu. Và giây phút con khướu quay trở về cả nhà ai cũng vui mừng, reo lên. Lí do mà nó trở về với cái lồng có thể như cách nghĩ của nhân vật 'tôi'. Cái lồng đã giam hãm đôi cánh quá lâu khiến cho nó cảm thấy nhỏ bé, cô đơn trước cái bao la, rộng lớn của trời đất.

Qua lần sổ lồng đầu tiên, chúng ta tưởng chừng chú khướu sẽ không bao giờ bay đi nữa. Thế nhưng, chú khướu vẫn có lần sổ lồng thứ hai. Khác với lần thứ nhất, lần này mọi người không còn lo buồn như trước nữa và đoán rằng lần này nó sẽ lại bay về. Thằng con trai lớn của nhân vật 'tôi' lại treo cái lồng ra ngoài trời đợi. Chỉ có riêng thằng út là háo hức tìm chỗ rình xem. Lần thứ hai, chú khướu trở về vẫn vang lên tiếng hót quen thuộc. Nhưng cái khoảnh khắc chú đang lao xuống thì nghe thấy tiếng hót của con chim lạ và quyết định của chú khướu đã thay đổi 'ưỡn ngực, dựng ngược đôi cánh xiên thẳng lên cái nền xanh của bầu trời' vừa bay vừa hót. Có lẽ, tiếng hót của đồng loại đã tiếp thêm cho khướu dũng khí để trở lại với thế giới tự do, bản lĩnh để sải cánh bay khỏi chiếc lồng chật hẹp.

Những ngày sau đó, thằng con của nhân vật 'tôi' vẫn treo cái lồng ra ngoài đợi con khướu trở về. Nhân vật 'tôi' hiểu rõ rất rằng con khướu sẽ không quay trở về nữa. Anh biết rằng loài chim có đôi cánh là để bay trên bầu trời chứ không phải sống trong chiếc lồng tù túng. Khép lại câu chuyện với ý nghĩ sâu sắc của 'tôi' đã cho người đọc cảm nhận được bài học cuộc sống sâu sắc.

Tác giả xây dựng cốt truyện nhẹ nhàng nhưng vẫn thành công mang đến giá trị tốt đẹp cho độc giả. Qua câu chuyện về chú khướu, tác giả kín đáo nhắc nhở nhắc nhở mỗi người cần có tình yêu thiên nhiên, biết lắng nghe và thấu hiểu tự nhiên.

1 137 lượt xem