Tác giả tác phẩm Hồn thiêng đưa đường (Kết nối tri thức 2024) Ngữ văn 10 chi tiết nhất
Tác giả tác phẩm Hồn thiêng đưa đường Ngữ văn lớp 10 sách Kết nối tri thức đầy đủ bố cục, tóm tắt, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật, nội dung chính, ... giúp học sinh học tốt môn Ngữ văn 10. Mời các bạn đón xem:
Tác giả tác phẩm Hồn thiêng đưa đường - Ngữ văn 10
I. Đọc tác phẩm Hồn thiêng đưa đường
KIM LÂN:
(Này)
Phá muôn vòng quân sĩ
Thẳng trăm trận pháo tên,
Kiếm Thứ phi kiếm chẳng thấy tin,
Tìm mẫu hậu tìm không ra tích
Thương tử hoàng còn nhỏ
Khát sữa lại đói cơm.
Cắn máu tay thấm giọt nhi long
Nhất thời trợ miễn ư cơ khát
(Này)
Sau lưng không tiếng nhạc
Trước mắt thấy đầu non
Lạc vào chốn sơn trung
Đã không dời bước (rồi đây!)
Xưa Hán Minh giúp nước
Mặt trời xuất tan canh.
(Huống chi)
Nay ta giúp vận Tề quân
Sao lại tuyệt kì đăng hoả?
(Hồn Linh Tá báo đèn hiệu)
HỒN LINH TÁ:
Đổng Kim Lân hiền hữu
Đệ biểu tự Khương Linh.
Phút sa cơ bị Tạ Ôn Đình
Hồn em đã xa chơi dị lộ.
KIM LÂN:
Xa nghe tiếng họ Khương đã phải
Những mơ màng lòng gẫm khó tin
Có đâu sự nhỡn tiền,
Thác mà còn hiện tại?
HỒN LINH TÁ:
Xưa có lời đoan thệ
Nay phải đến báo tin.
Cậy anh phù
Hoàng tử Thứ phi
Khá gắng sức nghiệp Tề đem lại
KIM LÂN:
Ta Linh Tá! Ta Linh Tá!
Mệnh dĩ vong! Mệnh dĩ vong!
Thủ cấp lưu tại thử
Công hà nhật tấn công.
(Ban):
Kì ba linh lạc trường lưu thuỷ
Kinh phá như hà đắc đoàn viên
Thống thiết các can tràng đoạn đoạn
Sầu đê mê ngọc lệ sải uông uông.
Đãn ước bách niên toàn huynh đệ
Thuỳ tri nhất đán biệt Sâm Thương!
Thuỳ tri nhất đán biệt Sâm Thương!
Tiếc bấy anh hùng,
Lầm tay phản tặc
Lấy ai phù bật,
Vây cánh cho nhau?
Vị quốc gia chi đại nghĩa
Hoài cơ nghiệp tận kì trung,
(Yêng ôi, như bây giờ)
Phò Hoàng tử đã đành có mỗ
Ngăn tặc binh sở cậy nhà ngươi.
Hồn yêng đà chín suối xa chơi
Biết thuở nào cùng nhau thấy mặt.
HỒN LINH TÁ:
Đổng Kim Lân yêng ơi! Như em đây
Giữa đêm khuya hoa ngọn đèn hồng
(Đến đây)
Đưa chân bạn thoát vòng nguy biến
Gắng mà lần theo em yêng ơi!
KIM LÂN:
Hiển hiện chân hiển hiện
Anh linh thị anh linh!
(Nếu vậy)
Gẫm âu thiên đạo
Trợ ngã Tề triều.
Đoán bên non thấy ngọn hoả hào
Giục tuấn mã vội vàng theo dõi.
(Hát nam):
Tuấn mã vội vàng theo dõi,
Mặt đoái nhìn chói lọi dường sao.
Sau dù đem lại Tề trào
Dốc đền ơn đó mới dành dạ đây.
Hồn thương hồn tiếc hây hây
Âm dương một phút từ nay xa vời
(Hồn Linh Tá biến thành ngọn đèn đưa
Kim Lân qua đèo đến thành Sơn Hậu)
Ngọn đèn vừa phụt tắt
Chân trời đã hây hây
Anh ơi!
Chốn sơn đấu anh ở lại đây
(Để cho em)
Nơi Sơn Hậu em tìm qua đó.
II. Tác phẩm văn bản Hồn thiêng đưa đường
1. Thể loại
Tuồng
2. Xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác
Đoạn trích “Hồn thiêng đưa đường” được trích từ vở kịch Sơn Hậu.
- Sơn Hậu là vở tuồng cổ mẫu mực, ra đời từ khoảng giữa TK XVIII, chưa rõ tác giả, được nhiều nhà soạn tuồng nổi tiếng như Đào Tấn, Nguyễn Hiền Dĩnh tham gia chỉnh lí.
- Tóm tắt tích truyện: Vua Tề băng hà, lũ gian thần đứng đầu là Thái sư Tạ Thiên Lăng âm mưu cướp ngôi, tống giam Phán thứ phi ngay lúc nàng đang mang thai. Những người trung thành với vua như Nguyệt Hạo, Từ Trinh, Đồng Kim Lân, Khương Linh Tá,… quyết cứu Phán thứ phi cùng hoàng tử mới sinh và đưa họ đi trốn. Linh Tá tự nguyện đi sau để cản đường quân phản nghịch do Tạ Ôn Đình chỉ huy. Trong cuộc giao tranh, Linh Tá bị chém rơi đầu, nhưng hồn Linh Tá đã hóa thành ngọn đuốc để đưa đường cho Kim Lân hộ tống hoàng tử và thứ phi về tới thành Hậu Sơn an toàn, chuẩn bị cho cuộc phục thù đánh đuổi gian thần, đưa hoàng tử nhỏ lên ngôi.
3. Tóm tắt Hồn thiêng đưa đường
Đổng Kim Lân củng cố lực lượng và tiếp tục chiến đấu chống Tạ Thiên Lăng. Cánh thái sư cố thủ trong thành, Tạ Thiên Lăng bắt mẹ của Đổng Kim Lân làm con tin, nếu Kim Lân phá thành chúng sẽ giết mẹ ông.
4. Giá trị nội dung văn bản Hồn thiêng đưa đường
- Là một trong những vở tuồng mẫu mực nhất trong nghệ thuật Tuồng.
- Nội dung của vở “Sơn Hậu” phản ánh tinh thần của giới sĩ phu hồi hậu bán thế kỷ XIX, khi triều đình nhà Nguyễn bắt đầu suy vong, thực dân Pháp xâm chiếm nước ta.
5. Giá trị nghệ thuật văn bản Hồn thiêng đưa đường
- Ngôn ngữ nôm na, mộc mạc, gần với khẩu ngữ hơn là gần với ngôn ngữ bác học
III. Tìm hiểu chi tiết văn bản Hồn thiêng đưa đường
1. Sự khác biệt giữa đoạn trích tuồng Sơn Hậu (tuồng cung đình) với đoạn trích tuồng Nghêu, Sò, Ốc, Hến (tuồng dân gian)
- Trong đoạn trích cũng như trong toàn vở kịch, tác giả sử dụng rất nhiều lối nói đối với tần số xuất hiện khá dày của từ ngữ Hán Việt. Điều đó tạo nên không khí trang trọng của vở kịch. Mượn chuyện nước người để nói nước mình là thủ pháp quen thuộc của văn học trung đại. Bởi các tác phẩm tuồng cung đình thường được biểu diễn tại những nơi trang trọng để giáo dục lòng trung nghĩa. Nhưng ngôn ngữ Việt vẫn là chủ yếu chứ không phải từ Hán Việt. Nói chung tiếng Việt trong Sơn Hậu nôm na, mộc mạc, gần với khẩu ngữ hơn là gần với ngôn ngữ bác học như trong các truyện Nôm hay thể ngâm khúc của thời này.
- Ngôn ngữ trong Ngao sò ốc hến là ngôn ngữ dân gian, từ địa phương, từ khẩu ngữ thông tục sử dụng hàng ngày.
2. Chất bi hùng trong vở kịch
Chất bi hùng của sự kiện và nghĩa vua tôi, tình huynh đệ được thể hiện trong đoạn trích – một trong những điều tạo nên sức hấp dẫn mê hoặc của tuồng đối với khán giả thời trước.
IV. Các đề văn mẫu
Đề bài: Phân tích bài Hồn thiêng đưa đường
Bài tham khảo 1
Trần Nhân Tông nổi tiếng là một vị vua anh minh hiền đức khoan dung. Bên cạnh đó ông còn là một nhà thơ, một nhà văn hóa tiêu biểu của nhà Trần. Ông đã để lại một số lượng tác phẩm có tầm ảnh hưởng lớn. Trong số đó ta không thể không kể đến tác phẩm 'Thiên Trường vãn vọng'. Tác phẩm được sáng tác trong thời điểm ông về thăm quê nhà. Bài thơ tả cảnh buổi chiều ở Thiên Trường tuy vắng lặng nhưng lại có rất nhiều cảnh vật khiến lòng người xốn xang.
Bài thơ được viết trong dịp Trần Nhân Tông về thăm quê cũ ở phủ Thiên Trường. Bởi vậy cả bài thơ đầy ắp nỗi nhớ, tình yêu quê hương. Lời thơ mở đầu tả cảnh chiều hôm:
Thôn hậu thôn tiền đạm tự yên
Bán vô bán hữu tịch dương biên
Cảnh vật hiện ra không rõ nét, nửa hư nửa thực, mờ ảo. Đó là cảnh chiều muộn cảnh vật nhạt nhòa trong sương, thể hiện vẻ đẹp mơ màng, yên tĩnh nơi thôn dã. Cảnh đó một phần là thực một phần do cảm nhận riêng của tác giả. Khung cảnh vừa như thực lại vừa như cõi mộng “bán vô bán hữu” – nửa như có nửa như không. Thời gian buổi chiều gợi nên nỗi buồn man mác, không gian làng quê im ắng, tĩnh mịch. Điều đó cho thấy một tâm hồn tinh tế nhạy cảm trước vẻ đẹp giản dị của cuộc sống.
Mục đồng địch lí ngưu quy tận,
Bạch lộ song song phi hạ điền
Nhà thơ lựa chọn hai hình ảnh thơ đó là cánh cò và hình ảnh lũ trẻ đang chăn trâu. Tác giả chọn hai hình ảnh ấy làm hai hình ảnh kết bài thơ chính bởi đây là những hình ảnh đặc trưng nhất tiêu biểu nhất của quê hương mỗi người. Đó là hình ảnh tiếng sáo đang văng vẳng bên tai của những cậu bé chăn trâu khiến nhà thơ cảm thấy xốn xang lạ thường. Dường như ta đang được về quê cùng tác giả để ngửi hơi khói bếp để nghe tiếng sáo du dương để ngắm đàn trâu đang nhai những ngọn cỏ cuối cùng để về nhà. Đó còn là hình ảnh những cánh cò trắng đang chao liệng.
Nói đến quê hương sao có thể không nhắc đến những đàn cò trắng đã đi vào trong tâm hồn người dân thôn quê và cánh cò ấy cũng chao nghiêng trên bao bài thơ, câu thơ thân thương của người dân. Đã là một người con của quê hương ta không thể quên được những hình ảnh thân thương ấy. Có lẽ tác giả không thực nhìn thấy những hình ảnh đó nhưng đối với một người con của quê hương mà nói những hình ảnh đó vốn là những hình ảnh quen thuộc đến nỗi mỗi khi nhắc đến là họ không thể quên được. Qua đó ta thấy tác giả cũng là một người sinh ra trên một mảnh đất quê hương và chịu cảnh chân lấm tay bùn, có thế tác giả mới có thể hiểu cảm nhận và viết lên những ấu thơ về quê hương da diết đến như thế.
Sử dụng lớp ngôn ngữ giàu chất biểu cảm và hội họa tác giả đã vẻ lên bức tranh làng quê trầm lặng mà không quạnh vắng. Bức tranh thiên nhiên, cuộc sống thật đẹp đẽ, hài hòa, nên thơ. Qua bài thơ còn cho thấy tình yêu quê hương sâu nặng của tác giả.
Bài tham khảo 2
Trong văn học trung đại bên cạnh đề tài thể hiện tình yêu đất nước, tự hào về truyền thống anh hùng của dân tộc thì còn có những bài thơ thể hiện tình yêu thiên nhiên, yêu cảnh vật. Tình cảm đó được thể hiện rõ nét trong bài thơ 'Thiên Trường vãn vọng' của Trần Nhân Tông.
Hai câu thơ đầu tiên tả thời điểm và vị trí khi mà tác giả có mặt:
Thôn hậu thôn tiền đạm tự yên
Bán vô bán hữu tịch dương biên
Đọc câu thơ ta thấy xuất hiện thời gian đó là thời điểm cảnh hoàng hôn. Chọn thời điểm như vậy dường như cũng là một dụng ý của tác giả bởi cảnh vật khi đã hoàng hôn trên thôn quê thì vô cùng vắng lặng hiếm có hình ảnh con người nhưng khi ấy cảnh vật lại đang chuyển giao màu sắc nên cảnh vật sẽ vô cùng phong phú khiến cho thi nhân ngỡ ngàng. Địa điểm mà tác giả nói đến ở đây chính là trước xóm nhưng lại sau thôn và cảnh tượng ấy như đang chìm dần vào làn khói mờ giăng mắc khiến cho tầm mắt thi nhân khó quan sát hơn. Đó là làn khói từ trong bếp của các ngôi nhà đang chuẩn bị cơm tối. Hình ảnh này gợi cho chúng ta cảm giác về tình cảm ấm cúng của gia đình, đó là một hình ảnh quen thuộc mà quê hương ai cũng có để rồi đi xa ai cũng nhớ cái hương vị của bếp củi đó. Cụm từ “bán vô bán hữu” nửa như có lại nửa như không có khiến cho chúng ta thấy được khung cảnh ấy vừa thực lại vừa ảo không rõ thực hư.
Mục đồng địch lí ngưu quy tận
Bạch lộ song song phi hạ điền
Âm thanh tiếng sáo làm cho bức tranh trở nên đầy sức sống. Chiều về , ngoài đồng, những con trâu theo tiếng sáo của trẻ con mà về, khung cảnh thật yên bình, đẹp đẽ. Màu trắng của từng đôi cò liệng xuống đồng cũng làm không gian bớt phần quạnh hiu. Bức tranh được tác giả cảm nhận bằng nhiều giác quan: thị giác – sắc trắng tinh khôi của những cánh cò; thính giác – âm thanh tiếng sao du dương, trầm bổng của những đứa trẻ đi chăn trâu. Nếu như ở hai dòng thơ đầu, cảnh vật tịch mịch, tĩnh lặng không xuất hiện bất cứ chuyển động nào thì đến hai câu thơ cuối khung cảnh trở nên sinh động nhờ xuất hiện âm thanh và hoạt động của sự vật. Hình ảnh “cò trắng từng đôi liệng xuống đồng” làm cho không gian được mở ra, trở nên thoáng đãng, cao rộng, trong sạch, yên ả. Qua đó còn cho thấy sự hài hòa giữa con người với thiên nhiên, đem lại cảm giác thân quen, gần gũi.
Cho đến nay bài thơ đã vượt qua rất nhiều những bài thơ viết về quê hương và trở thành bài thơ gây được nhiều ấn tượng lớn trong lòng người đọc. Tác phẩm đã gợi được cái hồn cái cốt cũng như con người của làng quê Việt Nam. Bài thơ sâu sắc nhưng lại vô cùng giản dị thể hiện khí chất của bậc hiền tài.