Tác giả tác phẩm Xúy Vân giả dại (Kết nối tri thức 2024) Ngữ văn 10 chi tiết nhất
Tác giả tác phẩm Xúy Vân giả dại Ngữ văn lớp 10 sách Kết nối tri thức đầy đủ bố cục, tóm tắt, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật, nội dung chính, ... giúp học sinh học tốt môn Ngữ văn 10. Mời các bạn đón xem:
Tác phẩm Xúy Vân giả dại - Ngữ văn lớp 10
I. Đọc vở chèo Xúy Vân giả dại
TIỂU DẪN
Chèo cổ còn được gọi là chèo truyền thống hay chéo sân đình, là một thể loại sân khấu kịch hát dân gian đặc sắc, sản phẩm nghệ thuật của nông thôn các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ. Nghệ thuật chèo là nghệ thuật tổng hợp, phối hợp nhuần nhuyễn giữa kịch bản, lời hát, động tác múa và âm nhạc.
Phần quan trọng nhất trong một vở chèo là kịch bản (tích chèo), 'có tích mới dịch nên trở', song sự hấp dẫn của chèo là ở nghệ thuật biểu diễn chứ không chỉ ở kịch bản. Mỗi vở chèo thường có một hoặc vài cảnh đặc sắc, thể hiện tập trung giá trị của tác phẩm. Ví dụ : ở vô Quan Âm Thị Kính là cảnh Thị Mẫu lên chùa và Việc làng ; ở vô Chu Mãi Thần là cảnh Tuần Ti – đào Huế, ở vô Km Nham là cảnh Xuý Vân giả dại.... Đoạn trích Xúy Vân giả dại là một trong những đoạn hay nhất của chèo cổ Việt Nam.
Tóm tắt vở chèo Kim Nham :
Kim Nham là một học trò nghèo tỉnh Nam Định, ngụ học ở Tràng An (Hà Nội), được viên huyện Tể đem con gái là Xuý Vân gả cho. Xuý Vân là một cô gái đảm đang, khéo léo, ước mong của cô chỉ là một gia đình chồng cày vợ cấy, 'Chờ cho lúa chín bông vàng - Để anh đi gặt để nàng mang cơm'. Sau khi cưới vợ, Kim Nham lại lên Tràng An 'dùi mài kinh sử, còn Xuý Vân rất buồn trong cảnh chờ đợi.
Kim Nham vắng nhà thì Trần Phương, một gã nhà giàu nổi tiếng phong tình ở Đông Ngàn (Bắc Ninh) tìm cách tán ảnh Xuý Vân, xui năng giả đền đại để thoát khỏi Kim Nham rồi hắn sẽ cưới. Xuý Vân nghe theo, giả điên. Kim Nham mới hết thầy thuốc, cô đồng, thầy cúng đến chạy chữa cho vợ nhưng không kết quả. Chàng đành phải làm giấy cho Xuý Vân được tự do. Xuý Văn bộ Kim Nham chạy theo Trần Phương, nhưng gã 'Sở Khanh' này đã quay lưng lại với nàng. Xuý Vân lỡ làng, đau khổ, không dám về nhà. Từ chỗ giả đền, nàng trở nên điền thật.
Kim Nham do quyết chí học hành, đã đỗ cao, được bổ làm quan. Trong khi đó Xuý Vân đến dại, phải đi ăn xin. Nhận ra vợ cũ, Kim Nham bỏ một nền bạc' vào nằm cơm sai người đem cho. Xuý Vân bề nắm cơm, thấy có bạc, hỏi ra mới biết. Xấu hổ, đau đớn quá, nàng nhảy xuống sông tự vẫn.
Đoạn trích sau đây kể về việc Xuý Vân giả dại buộc Kim Nham phải trả nàng về nhà, để đi theo Trần Phương.
XUÝ VÂN (nói lệch).
Đau thiết thiệt van,
Than cùng bà Nguyệt.
Đánh cho lê liệt,
Chết mệt con đồng.
Bắt đò sang sông.
Bớ đò, bớ đờ
(Via):
Tôi kêu đò, đò nọ không thưa,
Tôi càng chờ càng đợi, càng trưa chuyển độ.
(Hát quá giang)(*) :
Nên tôi phải lụy đò,
Cách con sông nên tôi phải lụy đò,
Bởi ông trời tối, phải lụy có bán hàng.
Chả nên gia thất thì về,
Ở làm chi mãi cho chúng chứ, bạn cười.
Tôi chắp tay lạy bạn đừng cười,
Tôi không trăng gió lại gặp người gió trăng.
Gió trăng thời mặc gió trăng,
Ai ơi giữ lấy đạo hằng chớ quên.
Chị em ơi !
Ra đây có phải xưng danh không nhỉ ?
(Ɖế) Không xưng danh, ai biết là ai ?
XUÝ VÂN:
Bước chân vào tôi thưa rằng vậy,
Chẳng giấu gì Xuý Vân là tôi.
Tuy dại dột, tài cao và giá,
Thiên hạ đồn rằng tôi hát hay đã lạ,
Ai cũng gọi là cô ả Xuý Vân.
Phụ Kim Nham, say đắm Trần Phương,
Nên đến nỗi điên cuồng rồ dại.
(Hát điệu con gà rừng):
Con gà rừng ăn lẫn với công,
Đắng cay chẳng có chịu được, ức !
Mà để láng giềng ai hay ?
Bông bông dắt, bông bóng dầu,
Xa xa lắc, xa xa lâu,
Láng giềng ai hay, ức bởi xuân huyện (2)
Chờ cho bóng lúa chín vàng,
Để anh đi gặt, để nàng mang cơm.
Bông bông đắt, bóng bóng dầu,
Xa xa lắc, xa xa lâu
Láng giềng ai hay, ức bởi xuân huyện.
(Tiếng trống nhịp nổi lên. Xuý Vân múa điệu bắt nhện xe tơ dệt cửi. Múa xong, Xuý Vân hát lên rồi cười và hát điệu sa lệch...)
Rủ nhau lên núi Thiên Thai
Thấy hai con qua đang ăn xoài trên cây.
Ba cô bán mắm trong làng.
Mắm không bán hết, còn quang với thùng...
Chị em ơi, tôi than thân tôi vài câu nhé.
(Đế): ờ.
XUÝ VÂN (nói điệu sử rầu) :
Than ôi!
Tôi thương nhân ngãi, tôi nhớ nhân tình,
Đêm năm canh tôi thức cả vừa năm.
(Hát sắp) :
Than rằng nhân ngãi, cựu tình? tới đâu,
Con cá rô nằm vũng chân trâu,
Để cho năm bảy cần câu châu vào
(Nói):
Chị em ơi, tôi hát xuôi cũng được,
Mà tôi hát ngược cũng hay,
Tôi hát câu này cho chị em nghe nhé !
(Hát ngược) :
Chiếc trống cơm, ai khéo vỗ nên bông,
Một đàn các cô con gái lội sông tế bèo.
Chuột đậu cành vào, muỗi ấp cánh dơi,
Ông Bụt kia bẻ cổ con nai,
Cái trứng gà mà tha con quạ lên ngồi trên cây.
Ở trong đình có cái khua, cái nhỏ
Ở trong cái nón có cái kèo, cái cột,
Ở dưới sống có cái phố bán bát,
Lên trên biển ta đốn gỗ làm nhà,
Con vâm kia ấp trứng ba ba,
Cưỡi con gà mà đi đánh giặc !
(Xuý Vân vào, vừa đi vừa cười điên dại).
II. Tìm hiểu tác phẩm
1. Thể loại
chèo
2. Xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác
- Tác phẩm trích chèo Kim Nhan
3. Phương thức biểu đạt
Tự sự, biểu cảm
4. Tóm tắt văn bản Xúy Vân giả dại
Tác phẩm kể về sự việc giả điên của Xúy Vân để mong được thoát khỏi Kim Nham. Trong suốt đoạn trích Xúy Vân không ngừng than thở, kể lể và thể hiện sự điên loạn, dở hơi của mình bằng những giọng điệu của chèo như nói lệch, vỉa, hát quá giang, đế, điệu con gà rừng, hát sắp, hát ngược,… để mọi người tin là mình đã điên thật nhằm mong muốn được Kim Nham giải thoát để đi theo người tình của mình.
5. Bố cục văn bản Xúy Vân giả dại
- Phần 1 Từ đầu… xưng danh không nhỉ: Tâm trạng buồn đau của nhân vật
- Phần 2 Tiếp theo …than thân tôi vài câu nhé: Xúy Vân giới thiệu bản thân
- Phần 3 Còn lại: Xúy Vân than thân
6. Giá trị nội dung văn bản Xúy Vân giả dại
- Kể về Xúy Vân than trách số phận mình
7. Giá trị nghệ thuật văn bản Xúy Vân giả dại
- Sử dụng ngôn ngữ linh hoạt
- Thành công trong xây dựng tâm lý nhân vật
III. Tìm hiểu chi tiết văn bản Xúy Vân giả dại
1. Tâm trạng của Xúy Vân
- Mở đầu là việc kết hôn giữa Xúy Vân với Kim Nham
- Xúy Vân giả điên để thoát khỏi Kim Nham để theo Trần Phương
- Nàng bị điên khi bị Trần Phương phản bội
- Nàng bị cô đơn , lạc lõng vì không ai chia sẻ
- Gà rừng ăn lẫn với công
– Đắng cay chẳng có chịu được ức…”
- Cô ví mình như con gà rừng ngu ngơ, lạc lõng, đành chịu cay đắng giữa bầy công cao sang, xa lạ
- Cô thể hiện niềm khao khát mãnh liệt của một tâm hồn trẻ trung, muốn giao cảm với đời
- Xuý Vân vừa rối rít gọi đò “bớ đò, bớ đò”
- “Tôi kêu đò, đò nọ không thưa – Tôi càng chờ càng đợi, càng trưa chuyến đò
- Tâm trạng buồn thương của cô gái ấy khi tình duyên lỡ làng
2. Sự phê phán và cái nhìn nhân đạo của tác giả về nhân vật
- Xúy Vân có chồng là một thư sinh chăm chỉ học hành, theo đuối công danh
+ Nàng đã phụ chồng theo đuổi Trần Phương
- Điên dại khi tự ý kết liễu cuộc đời mình
- Tác giả phê phán cô là người lẳng lơ, không chung thủy
- Đây là hành động đáng phê phán của xã hội phong kiến
- Bài học cho những cô gái đã theo chồng nhưng không chung thủy
- Tác giả cũng cho thấy Xúy Vân là người thật đáng thương
- Cô cũng có khao khát được một cuộc sống hạnh phúc
- Cô muốn thoát khỏi sự cô đơn
- Cô chết không phải bởi cô mà do xã hội
IV. Các đề văn mẫu
Đề bài: Phân tích bài Xuý Vân giả dại
Bài tham khảo 1
Chèo là một loại hình sân khấu dân gian kết hợp nghệ thuật hát, múa, diễn rất hài hoà. Các làn điệu chèo rất phong phú, đa dạng; lời chèo thấm quyện ca dao, dân ca một cách tài tình.
Những trích đoạn như “Thị Mầu lên chùa ”, “Xuý Vân giả dại”, “Thị Phương dắt mẹ chồng chạy giặc”, “Tuần Ty gặp đào Huế”… được nhiều người yêu thích, xem mãi vẫn muốn xem, không chán.
Trích đoạn “Xuý Vân giả dại” nằm trong phần hai vở chèo “Kim Nhan”. Xa chồng lâu ngày, Xuý Vân dan díu với Trần Phương, bị dụ dỗ, nàng giả điên giả dại, lập mưu để Kim Nhan li dị. Với ánh mắt bốc lửa, tiếng hát đắm say, với bước đi, điệu lượn, cánh tay múa… như điên cuồng, nhân vật Xuý Vân từng để lại nhiều ấn tượng về lửa tình, về bi kịch tình yêu trong lòng khán giả. Nhiều nghệ sĩ chèo đã thành danh qua vai chèo “Xúy Vân giả dại”.
Mấy câu mở đầu, Xuý Vân xuất hiện (chưa xưng danh) từ nói lệch, đến hát xuôi, cô nàng quay cuồng với tâm trạng dở tỉnh dở điên, dở ngây dở dại. Cất tiếng than bà Nguyệt (trách duyên số) rồi réo cô đồng, rồi cất tiếng hát nói về con đò, con đò tình duyên của một cô gái chờ chồng, đợi chồng đi xa:
“Tôi là dò, đò nỏ có thưa
Tôi càng chờ, càng đợi, càng trưa chuyển dò”.
Buồn và lo vì tuổi xuân sẽ trôi qua, như kẻ đứng trên bến vắng chờ đò “càng trưa chuyến đò”
Những câu hát tiếp theo là những câu thơ lục bát phá thể, biến thể, thể hiện tâm trạng đầy bi kịch của người con gái đã có chồng (như gông đeo cổ) nên phải “lụy dò” lúc muốn “qua sông”, muốn dứt bỏ mối duyên tình cũ:
“Chẳng nên gia thất thì về
Ở làm chi nữa chúng chê bạn cười”
Chẳng cần chi úp mở, cô gái thổ lộ mối tình “gió giăng ” của mình, với niềm tin sẽ cùng với tình nhân “gió giăng” sống đến đầu bạc răng long, trọn vẹn “đạo hằng” thuỷ chung:
“Gió giăng thì mặc gió giăng
Đôi ta chỉ quyết đạo hằng với nhau”
Tâm trạng “nổi loạn” ấy của Xuý Vân cho đến nay vẫn còn làm cho nhiều khán giả ngỡ ngàng, ngạc nhiên. Phải chăng đó là sự “bứt phá” đạo tam tòng tứ đức lễ giáo phong kiến của một người con gái đang “nổi loạn ”?
Sau tiếng hỏi của vai diễn và tiếng đế hô ứng của khán giả, Xuy Vân mới xưng danh:
“Chẳng giấu gì: tôi tên gọi Xuý Vân
Lấy Kim Nhan nhà khó gian truân
Chồng học vắng chầy ngày mong mỏi
Tôi ngồi từ tối
Đợi khách tha nhang
Gái phải nằm hàng
Nghề dại dột… nhưng tài cao vô giá
Thiên hạ đồn tôi hát hay đã lạ
Ai cũng gọi là cô ả Xuý Vân
Phụ Kim Nhan say đắm Trần Phương
Nên đến nỗi điên cuồng rồ dại… ”
Rồi Xuý Vân cất điệu “hát con gà rừng” thể hiện một duyên phận trớ trêu, khác nào “Con gà rừng ăn lẫn với công”, vô duyên lấy phải anh chồng vai u thịt bắp, sống cuộc đời lam lũ: “Để anh đi gặt lúa, để cô nàng mang cơm”. Xuý Vân tự cho mình là con quan, cao môn lệnh tộc, còn Kim Nhan là con nhà nghèo hèn, cục mịch tầm thường.
Rồi nàng lại chuyển sang “hát xe chỉ” diễn tả tâm trạng mong nhớ “đợi chờ tình nhân”, ước ao khát khao muốn được cùng Trần Phương sống trong tình yêu hạnh phúc “Áo giải làm chiếu, chăn quây làm mùng”. Hát rồi nói, bộc lộ một tâm trạng cô đơn của cô gái đa tình:
“Tôi thương nhân ngãi
Tôi nhớ nhân tình
Đêm năm canh trằn trọc hoà năm
Than rằng nhân ngãi cựu tình đi đâu”?
Đoạn “hát ngược ” đã thể hiện tâm trạng trăm mối tơ vò của một cô gái giả dại mà ngọn lửa tình ngùn ngụt, mà nỗi khao khát dục tình cháy bỏng khôn nguôi. Giả dại, giả điên hay hóa cuồng? Ngược đời trong tự nhiên cũng là nghịch lí trong tâm trạng người con gái đa tình mà thất tình: “Muỗi ấp cánh dơi… Cái trứng gà mày tha con quạ lên ngồi trên cây…”
Rồi Xuý Vân như chợt bừng tỉnh, giải thích rõ cái dại, cái rồ, cái điên của mình:
“Rồ này ai bán thì mua
Dại này ai thấy không mơ mẩn tình
Lúc thì giả cách làm thinh
Lúc thì giả dại ra hình làm điên
Lúc thì tưởng đến nhân duyên
Cho nên đến nỗi phát điên, phát rồ”.
Trần Phương đã qua mụ quán xúi Xuý Vân giả dại để thoả tình giăng gió, gió giăng. Phải xem chèo và nghe chèo mới cảm thấy cái hay màn chèo “Xuý Vân giả dại”. Trích đoạn này đã làm nổi bật tâm trạng đau khổ của một cô gái đa tình mà thất tình, muốn dứt bỏ, đập phá mối quan hệ vợ chồng với Kim Nhan để chạy theo mối tình mới với Trần Phương – một Sở khanh mà nàng đâu biết.
Nỗi khát khao về tình yêu hạnh phúc lứa đôi, nỗi buồn cô đơn của ngư i vợ trẻ trong cảnh ngộ “thiếp trong cánh cửa, chàng ngoài chân mây” của Xuý Vân là điều có thể cảm thông và thương cảm.
Xuý Vân giả dại là khởi đầu của một sự trượt dốc để không bao lâu thân tàn ma dại trở thành hành khất, rồi bị điên, rồi tự tử. Cái kết cục bi thảm đó đã làm cho cảm hứng nhân đạo thấm sâu vai chèo, màn chèo.
Cái bánh vẽ tình yêu mà Trần Phương trao cho Xuý Vân, nàng tưởng là ngọt ngào nhưng vô cùng cay đắng.
Màn chèo Xuý Vân giả dại đã thể hiện sâu sắc quan niệm của nhân dân về tình yêu lứa đôi, về sự đau khô dại khờ trong tình yêu lứa đôi. Câu hỏi được đặt ra: “Thế nào là tình yêu hạnh phúc gia đình chân chính?” cứ xoáy sâu mãi vào những người yêu thích chèo Kim Nham.
Vở chèo Kim Nham được bắt đầu bằng cuộc hôn nhân giữa Xuý Vân với cha nẹ Kim Nham. Cuộc gả bán vội vàng, không có tình yêu đó đã đưa đẩy Xuý Vân làm nên bi kịch của chính mình và trở thành một trong những nhân vật đào lệch đặc sắc của chèo cổ. Lấy chồng chẳng được gần chồng, thân thế nông dân lại bị gả vào gia đình chữ nghĩa, cô tự thấy mình lạc lõng, vô nghĩa trong gia đình Kim Nham, chẳng có ai bầu bạn, cũng không người chia sẻ. Tâm trạng đó được thể hiện qua câu hát của Xuý Vân “gà rừng ăn lẫn với công – Đắng cay chẳng có chịu được ức…”. Cô ví mình như con gà rừng ngu ngơ, lạc lõng, đành chịu cay đắng giữa bầy công cao sang, xa lạ.
Đang trong cảnh tù túng bế tắc đó, gặp Trần Phương là tay chơi nổi tiếng đất Đông Ngàn mà cô không biết, cô yêu hắn tưởng như túm được chiếc phao cứu đỡ cho cuộc đời. Nghe lời ngon ngọt của Trần Phương, Xuý Vân giả dại để được trả về nhà với hi vọng được sống với người mình yêu, được thoát khỏi cảnh tù túng để bay ra cuộc sống tự do. Những câu hát điên dại của Xuý Vân không phải tất cả đều là điên dại, ngược lại phần lớn nhũng câu nói và hát đó đều là những lời cay đắng tự trong tâm can cô, phản chiếu niềm khao khát mãnh liệt của một tâm hồn trẻ trung, muốn giao cảm với đời. Cô đã mượn lời nói khi điên dại, khi bóng gió để thể hiện nỗi lòng và bộc lộ tâm trạng của mình, điều mà khi tỉnh không một người phụ nữ nào trong xã hội phong kiến xưa đủ can đảm bộc lộ.
Xuý Vân vừa rối rít gọi đò “bớ đò, bớ đò”, lại vừa chán chường trong lời hát:
“Tôi kêu đò, đò nọ không thưa
Tôi càng chờ càng đợi, càng trưa chuyến đò”.
Lời hát ấy bộc lộ tâm trạng tự thấy mình đã dở dang, lỡ làng. Dường như chẳng có ai đợi cô ở bên này, cũng chẳng ai đón cô ở đầu kia của bến đò. Cô bẽ bàng trong cảnh đi cũng dở, ở cũng không xong.
Con sông trong văn học dân gian và trong thơ cổ thường là biểu tượng của sự chia li, khoảng cách của đôi bờ, của mặt nước mênh mang luôn gợi buồn. Ca dao có câu :
Sông Thương nước chảy đôi dòng,
Bên trong, bên đục đau lòng biệt li.
Lí Bạch, nhà thơ nổi tiếng ở Trung Quốc thòi Đường khi tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng cũng có câu thơ nổi tiếng về dòng sông li biệt:
Bóng buồm đã khuất bầu không,
Trông theo chỉ thấy dòng sông bên trời.
Con đò (thuyền) là phương tiện nối liền sự xa cách, nhưng con thuyền mất hút chỉ thấy dòng sông bát ngát trong thơ Lí Bạch, con đò “càng chờ càng đợi” càng không thấy đâu trong câu hát của Xuý Vân đều gợi hình ảnh thật buồn bã, bất lực. Cô vẫn biết “Chả nên gia thất thì về – ở làm chi mãi cho chúng chê, bạn cười”, nhưng nói về mà về đâu có dễ, nhất là với các cô gái đã lấy chổng, đã “sang ngang”. Cô càng chờ đợi càng muộn màng, lỡ dở. Hình ảnh cô gái càng chờ đợi, con đò càng không tới đã cụ thể hoá sự bẽ bàng, lỡ dở của cô, cho ta thấm thìa nỗi trống trải, thất vọng của nhân vật.
Với cô thôn nữ Xuý Vân, một gia đình hạnh phúc “anh đi gặt, nàng mang cơm” là ước mơ giản dị và đầm ấm. Mơ ước tưởng như bình thường đó với cô lại không thể có được, bởi Kim Nham mải mê đèn sách, thi cử, bỏ mặc cô một minh với gánh nặng gia đình. Cho nên, lời hát : “Bông bông dắt, bông bông díu – Xa xa lắc, xa xa líu – Láng giềng ai hay…” được lặp đi lặp lại mấy lần, đã phản ánh bằng hình ảnh cụ thể nỗi thất vọng của cô. Nhân duyên khiến hai người gắn bó, dắt díu, ràng buộc với nhau, nhưng những ao ước của họ khác xa nhau, đến mức không thể sẻ chia. Một bên chỉ mong ước cùng sống với nhau dưới một mái nhà, “chồng cày, vợ cấy”, được mùa lúa chín “anh đi gặt, nàng mang cơm”, còn bên kia lại mơ ước học hành, thi cử, đỗ đạt, làm quan để “võng anh đi trước, võng nàng theo sau”. Mơ ước của cả hai đều đẹp và đáng được trân trọng, song nó không có chỗ gặp nhau khiến hôn nhân trở thành sự trói buộc nghiệt ngã. Có nỗi ấm ức, bế tắc, cô đơn nào khòng khiến người ta thất vọng! Xuý Vân tự hoạ nỗi thất vọng ấy của mình bằng hình ảnh “Con cá rô nằm vũng chân trâu – Để cho năm bảy cần câu châu vào…”. Hình ảnh được gợi lên qua câu hát đã bóng gió về không gian cạn hẹp và đầy bất trắc. Trong câu hát đó không có lời nào nói đến “mắc câu”, nhưng hình ảnh con cá rô nhỏ bé, trong cái vũng chân trâu cạn hẹp, không có lối ra, lại có đến năm bảy cái cần câu chực sẵn thì làm sao thoát được. Đó cũng là tình cảnh bị mất tự do, bế tắc của Xuý Vân trong gia đình Kim Nham. Sau mỗi lời bộc bạch là điệp ngữ : “Láng giềng ai hay, ức bởi xuân huyên” càng làm cho nỗi cô đom và niềm khát khao hạnh phúc của cô hiển hiện. Xuân huyên vốn là hai loại cây sống rất lâu năm, tượng trưng cho cha mẹ già. Xuân là cây cổ thụ, gốc to, vững chãi, được ví với người cha; huyền là loại cây lá nhỏ và thanh mảnh, thường được ví với người mẹ. Những người xung quanh không hiểu cô, đến cả cha mẹ là những người thân yêu, tin cậv nhất cô cũng không thể chia sẻ, bởi đằng sau họ là xã hội phong kiến với quan niệm khe khắt “cha mẹ đặt đâu, con ngồi đấy” làm gì có chỗ để cảm thông với một Xuý Vân đã có chồng rồi còn không yên bề gia thất, làm gì có ai đồng tình với một Xuý Vân muốn bỏ chồng để chạy theo người khác… Xuý Vân cuống cuồng vùng vẫy trong không gian cạn hẹp, tù túng đó. Thật đúng như lời một câu ca dao :
Em như con hục đần đình,
Muốn bay không cất nổi mình mà bay.
Thân phận của Xuý Vân làm cho ta cứ bị ám ảnh, vương vấn, day dứt khôn nguôi.
Cùng với những câu hát bóng gió và nhũng lời bộc bạch, những câu hát ngược cuối đoạn trích lại là một lối bộc lộ rất khéo tâm trạng nhân vật :
… Cái trứng gà mà tha con quạ lên ngồi trên cây
Ở trong đình có cái khua, cúi nhôi,
Ở trong cái nón có cái kèo, cúi cột,
Ở dưới sông có cái phố bán bát,
Lẻn trên biển ta đốn gỗ làm nhà…
Chỉ có những người điên dại mới lẫn lộn, không rõ ngược xuôi. Những câu hát ngược, hát xuôi lẫn lộn của Xuý Vân vừa thể hiện tư duy điên dại, thiếu tỉnh táo, vừa gợi hình ánh ngược đời, trớ trêu, điên đảo, đúng sai, thực giả lẫn lộn mà cô chứng kiến. Những hình ảnh ẩn dụ khi kín đáo, khi bóng bảy, khi thì được giấu giữa những tiếng cười, câu hát đicn dại tưởng như vô nghĩa, khi lại là những câu nói ngược,… tất cả làm thành một nội tâm phong phú, rối bời, đầy tính bi kịch, diễn tả tâm trạng bế tắc, mất phương hướng của cô.
Bài tham khảo 2
Trong đoạn trích 'Xúy Vân giả dại' của vở chèo 'Kim Nham', chúng ta thấy tâm trạng bi kịch của nhân vật Xúy Vân được thể hiện một cách sâu sắc. Xúy Vân là một người phụ nữ đáng thương, đối mặt với sự giằng xé giữa khát vọng tình yêu và hạnh phúc, và hoàn cảnh khắc nghiệt của một người phụ nữ trong xã hội cổ truyền.
Xúy Vân được miêu tả là một người phụ nữ nết na, thuỳ mị, đáng yêu. Cô là con gái huyện Tề, được cha gả cho cậu học trò nghèo từ Nam Định - Kim Nham. Tuy nhiên, trong quá trình chờ đợi chồng 'dùi mài kinh sử' nơi xa trở về, Xúy Vân bị Trần Phương, một người đàn ông giàu có, tán tỉnh và lừa dối cô để thoát khỏi hôn nhân với Kim Nham. Xúy Vân giả dại trong hy vọng được chồng chữa lành, nhưng cuối cùng cô phải trả tự do và đau khổ cho quyết định đó. Trần Phương hứa hẹn, Xúy Vân cảm thấy đau khổ và điên thật. Trong khi đó, Kim Nham trở thành một người thành đạt, được bổ nhiệm làm quan. Khi nhận ra vợ cũ đang đi ăn xin, Kim Nham đặt một ít bạc vào nắm cơm để trao cho Xúy Vân, nhưng cô cảm thấy xấu hổ và tự vẫn bằng cách nhảy xuống sông.
Đoạn trích 'Xúy Vân giả dại' là một cảnh đặc sắc trong vở chèo 'Kim Nham'. Trong nghệ thuật chèo, mỗi vở chèo thường có một hoặc hai cảnh nổi bật, và cảnh này trở thành linh hồn và sức sống của tác phẩm. Cảnh 'Xúy Vân giả dại' là một phần như vậy. Đoạn trích này thể hiện tâm trạng bi kịch của Xúy Vân.
Xúy Vân thuộc loại đào pha trong nghệ thuật chèo. Cô là hiện thân của số phận bi kịch, bị giằng xé giữa khát vọng tình yêu và hạnh phúc, và cuộc sống khắc nghiệt trong xã hội cổ truyền. Tuy cô là một người phụ nữ nết na, thuỳ mị, nhưng Xúy Vân phải đối mặt với nhiều đau khổ và sự phản bội từ những người xung quanh.
Trong đoạn trích, tình huống Xúy Vân giả dại được sử dụng để tạo ra sự căng thẳng và nuối tiếc trong tâm trí người xem. Người xem sẽ cảm nhận được tâm trạng phức tạp và đau đớn của Xúy Vân thông qua cử chỉ, diễn xuất và âm nhạc. Đây là một trong những cảnh đặc biệt trong vở chèo 'Kim Nham', đóng vai trò quan trọng trong việc truyền đạt thông điệp và cảm xúc sâu sắc của tác phẩm.
Tuy vở chèo 'Kim Nham' và đoạn trích 'Xúy Vân giả dại' đã được sáng tác từ lâu và thuộc văn hóa dân gian Việt Nam, nhưng tác phẩm này vẫn giữ được giá trị và sức hấp dẫn cho khán giả hiện đại. Nó không chỉ thể hiện vẻ đẹp nghệ thuật của chèo mà còn đề cập đến các vấn đề xã hội, con người và tình yêu đầy phức tạp. Từ đó, người xem có thể suy ngẫm về ý nghĩa và thông điệp sâu xa mà tác phẩm mang lại.