TOP 20 bài Trình bày suy nghĩ về tình đồng chí được thể hiện trong bài thơ (HAY NHẤT 2024)

Trình bày suy nghĩ về tình đồng chí được thể hiện trong bài thơ Ngữ văn 8 Kết nối tri thức gồm 20 bài văn mẫu hay nhất năm 2024 giúp học sinh viết bài tập làm văn 8 hiệu quả hơn.

1 74 lượt xem


Trình bày suy nghĩ về tình đồng chí được thể hiện trong bài thơ

Đề bài: Viết đoạn văn (khoảng 7 – 9 câu) trình bày suy nghĩ của em về tình đồng chí được thể hiện trong bài thơ.

Dàn ý suy nghĩ về tình đồng chí được thể hiện trong bài thơ

1. Mở bài

- Giới thiệu khái quát về tác giả Chính Hữu và bài thơ Đồng chí.

- Dẫn dắt vấn đề nghị luận: vẻ đẹp tình đồng chí thắm thiết sâu nặng của những người lính thời kháng chiến chống Pháp.

2. Thân bài

2.1 Khái quát chung về bài thơ

- Hoàn cảnh ra đời của bài thơ: Bài thơ được sáng tác vào mùa xuân năm 1948, thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Thực dân Pháp, sau khi tác giả cùng đồng đội tham gia chiến đấu trong chiến dịch Việt Bắc (Thu - Đông năm 1947) đánh bại cuộc tiến công quy mô lớn của Pháp lên chiến khu Việt Bắc.

2.2 Phân tích vẻ đẹp tình đồng chí

a) Vẻ đẹp của sự cảm thông, chia sẻ sâu sắc những tâm tư thầm kín

- Thấu hiểu hoàn cảnh gia đình của nhau, thấu hiểu nỗi lòng riêng tư của người bạn lính, chia sẻ niềm thương nhớ, nặng lòng với quê hương bạn:

Ruộng nương anh gửi bạn thân cày

Gian nhà không mặc kệ gió lung lay

- Hiểu được sự hy sinh thầm lặng, sự nhớ thương mong ngóng của những người ở hậu phương

+ Hình ảnh hoán dụ giếng nước, gốc đa gợi lên hình ảnh về quê hương, người thân nơi hậu phương của người lính

+ Họ cùng sống với nhau trong kỉ niệm, nỗi nhớ nhà, cùng nhau vượt lên nỗi nhớ đó để chiến đấu

b) Vẻ đẹp của việc đồng cam cộng khổ với hoàn cảnh chiến đấu ác liệt, đau thương

- Họ chia sẻ những gian lao, khổ cực, thiếu thốn trong cuộc đời người lính “Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi”, “áo rách vai”, “chân không giày”

- Họ cùng nhau trải qua khó khăn, khắc nghiệt trong chiến đấu

+ Tác giả xây dựng những câu thơ sóng đôi, đối ứng nhau, bao giờ người lính cũng nhìn bạn nói về bạn trước khi nói tới mình

+ Cách nói thể hiện nét đẹp thương người như thể thương thân, trọng người hơn mình

+ Tình đồng chí, tri kỉ đã giúp họ vượt lên trên buốt giá

- Họ quên mình để động viên nhau, cùng nhau vượt lên trên buốt giá và những bàn tay động viên, truyền cho nhau hơi ấm

“Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”

- Yêu thương nhau bằng cả tấm lòng chân thành sâu nặng với những cử chỉ nghĩa tình

- Họ cùng nhau vượt qua mọi gian khổ với tinh thần lạc quan, sức mạnh của tình đồng đội “miệng cười buốt giá”

→ Sức mạnh của tình đồng chí được thể hiện trong khó khăn gian khổ

c) Biểu tượng cao đẹp về tình đồng chí

- Tình đồng chí được tôi luyện khi họ cùng nhau sát cánh thực hiện nhiệm vụ đánh giặc

- Chính ở nơi thử thách, ranh giới mong manh giữa sự sống và cái chết gần kề, tình đồng chí thực sự thiêng liêng cao đẹp.

Đêm nay rừng hoang sương muối

Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới

Đầu súng trăng treo

- Trên nền khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ nhưng cũng khắc nghiệt, những người lính với tư thế chủ động “chờ” giặc thật hào hùng.

- Hai câu thơ cuối đối nhau thật chỉnh khi ca ngợi tình đồng chí giúp người lính vượt lên tất cả khó khăn, khắc nghiệt của thời tiết.

- Hình ảnh 'đầu súng trăng treo' bất ngờ là điểm nhấn làm sáng bừng bài thơ: đây là sự kết hợp giữa chất hiện thực và lãng mạn.

+ Nghĩa tả thực: người lính cầm súng hướng lên trời, người lính như thấy trăng treo lơ lửng nơi họng súng

+ Ý nghĩa biểu tượng: 'súng' biểu tượng cho đấu tranh khó khăn nguy hiểm, là hiện thực khốc liệt của chiến tranh; 'trăng' là biểu tượng thanh mát, yên bình.

=> Hình ảnh này kết hợp, cô đọng vẻ đẹp tâm hồn người lính với sự tỏa sáng vẻ đẹp của tình đồng chí, khiến người lính ngay cả trong hiểm nguy vẫn bình thản, lãng mạn.

2.3 Giá trị nghệ thuật

- Ngôn ngữ thơ cô đọng hình ảnh chân thực gợi tả có sức khái quát cao, nhằm diễn tả cụ thể tình cảm thiêng liêng cao đẹp - tình đồng chí.

- Giọng thơ sâu lắng, xúc động như lời tâm tình tha thiết.

3. Kết bài

- Nêu cảm nhận, đánh giá chung của em về tình đồng chí thể hiện trong bài thơ.

Trình bày suy nghĩ về tình đồng chí được thể hiện trong bài thơ (mẫu 1)

Trong bài thơ 'Đồng chí' của Chính Hữu, hai tiếng 'đồng chí' vang lên thật thiết tha, cảm động. Đồng chí là cùng chung ý chí, lí tưởng. Đồng thời nó cũng là cách xưng hô của những người trong cùng một đoàn thể cách mạng. Với nhan đề Đồng chí, bài thơ đã nói lên được bản chất cách mạng của tình đồng đội, đồng thời cũng nói lên ý nghĩa sâu sắc của tình đồng đội. Câu thơ thứ bảy trong bài thơ cũng chỉ gồm hai tiếng: 'Đồng chí'. Nếu không kể nhan đề thì đây là lần duy nhất hai tiếng 'đồng chí' xuất hiện trong bài thơ, làm thành riêng một câu thơ. Câu này có ý nghĩa quan trọng trong bố cục của toàn bài. Nó đánh dấu một mốc mới trong mạch cảm xúc và bao hàm những ý nghĩa sâu xa. Sáu câu thơ đầu là tình đồng đội tri kỉ, đến đây được nâng lên thành tình đồng chí thiêng liêng. Đồng chí nghĩa là không chỉ có sự gắn bó thân tình mà còn là cùng chung chí hướng cao cả. Những người đồng chí- chiến sĩ hoà mình trong mối giao cảm lớn lao của cả dân tộc. Gọi nhau là đồng chí thì nghĩa là đồng thời với tư cách họ là những con người cụ thể, là những cá thể, họ còn có tư cách quân nhân, tư cách của 'một cây' trong sự giao kết của 'rừng cây”, nghĩa là từng người không chỉ là riêng mình. Hai tiếng đồng chí vừa giản dị, thân mật lại vừa cao quý, lớn lao là vì thế.

Trình bày suy nghĩ về tình đồng chí được thể hiện trong bài thơ (mẫu 2)

Đồng chí là tiếng gọi thân thương tha thiết, biểu hiện thật đầy đủ tình đồng đội của anh bộ đội Cụ Hồ. Cảm nhận được tình cảm vừa thân quen, vừa mới lạ trong cuộc sống chiến đấu ấy, Chính Hữu, một nhà thơ - chiến sĩ đa xúc động viết bài thơ đồng chí với những lời thơ thật chân chất và tràn đầy tình cảm. Cả bài thơ thể hiện rõ tình đồng đội keo sơn gắn bó giữa những người chiến sĩ quân đội nhân dân trong cuộc chiến đấu gian khổ. Họ xuất thân từ nhân dân lao động chỉ quen cày cuốc, vì có chung tấm lòng yêu nước, họ đã gặp nhau, từ xa lã bỗng hoá thân quen. Chính Hữu đã kể về họ bằng lời thơ thật xúc động. Họ đều xuất thân từ những vùng đất khô cằn, sỏi đá, từ xa lạ mà hoá thân quen nơi chiến trường. Trong đơn vị quân đội ấy, hình ảnh những con người chẳng hẹn quen nhau nói lên một sự xa lạ, nhưng vì kháng chiến, những con người ấy cùng nhau chiến đấu, cùng nhau chịu đựng gian khổ. Vì thế họ trở nên thân nhau, hiểu nhau và gọi nhau là 'đồng chí'. Tình cảm của những người đồng chí được thể hiện rõ trong cuộc sống chiến đấu. Các anh kể cho nhau nghe về quê hương, về 'giếng nước gốc đa', cùng nhau chia ngọt sẻ bùi, cùng nhau trải qua những gian khổ, bệnh tật. Dẫu áo anh rách vai, quần tôi có vài mảnh vá, dẫu trời buốt giá miệng vẫn cười tươi. Tình cảm chân thành tha thiết ấy không thể diễn tả bằng lời mà chỉ có thể thể hiện bằng cái nắm tay đầy ấm áp.

Trình bày suy nghĩ về tình đồng chí được thể hiện trong bài thơ (mẫu 3)

Hình tượng người lính trong thời kì chiến tranh chính là nguồn cảm hứng bất tận của nhiều tác giả. Đối với Chính Hữu, ông có sự cảm nhận riêng về hình tượng người lính. Chính Hữu thể hiện qua những câu thơ về cuộc kháng chiến chống Pháp những người lính đã phải đối mặt với nhìn khó khăn thử thách, thiếu thồn vật chất ' áo anh rách vai/ Quần tôi có nhiều mảnh vá'. Nhưng vượt lên tất cả có là vẻ đẹp của tình đồng đội, đồng chí. Giữa khung cảnh lạnh lẽo, hoang vu của núi rừng Tây Bắc, những người lính đứng kề sát bên nhau xua tan đi cái lạnh, san sẻ nhau hơi ấm, cùng trải qua biết bao gian khổ. Chính nơi đó, ranh giới giữa sự sống và cái chết trở nên mong manh, thì những người lính càng trở nên mạnh mẽ, đoàn kết. Họ sát cánh bên nhau sẵn sàng đối mặt trước quân thù. Hình ảnh cuối bài tỏa sáng với sự hòa kết hình ảnh súng - hình ảnh của khói lửa chiến tranh kết hợp với hình ảnh ánh trăng trong mát, thanh bình nói lên ý nghĩa cao cả của cuộc chiến tranh vệ quốc. Chỉ với ba câu thơ xúc động, chân thực nhưng cũng giàu sự lãng mạn, bức tranh về tình đồng chí của người lính là biểu tượng giàu chất thơ nhất hiện lên thật cao đẹp, ngời sáng.

Trình bày suy nghĩ về tình đồng chí được thể hiện trong bài thơ (mẫu 4)

Bài thơ Đồng chí khép lại bằng những vần thơ nhẹ nhàng mà sâu lắng: 'Đêm nay rừng hoang sương muối/Đứng cạnh bên nhau cho gia tới/ Đầu súng, trăng treo'. Trên con đường chiến đấu, người lính không chỉ phải đối mặt với súng đạn quân thù, với những thiếu thốn về vật chất vật chất và tinh thần mà họ còn phải chịu đựng sự khắc nghiệt của thiên nhiên, thời tiết. Họ phải vượt những cái lạnh thấu xương của 'rừng hoang sương muối'. Tình cảm ấm áp, tình đồng chí, đồng đội tha thiết, nhiệt thành, gắn bó là sức mạnh để những người lính vững vàng trong cuộc chiến với quân thù. Tinh thần chiến đấu: 'Chờ giặc tới' càng chứng tỏ bản lĩnh oai hùng, mạnh mẽ, can trường của bao người lính thời kì này. Hình ảnh 'Đầu súng, trăng treo' cho thấy được sự gắn bó của thiên nhiên vô con người. Trăng và người là tri kỉ, trăng cũng người chiến đấu với quân thù. Ánh trăng con là biểu tượng của hòa bình, gửi gắm khát vọng và niềm tin của con người về một ngày đất nước yên bình, bóng quân thù không còn trên đất Việt. Với ba câu thơ thơ mà khiến em không khỏi tự hào về chiến công và những hy sinh của cha anh đi trước, để thấy mình phải sống có trách nhiệm với hòa bình của đất nước hôm nay.

Trình bày suy nghĩ về tình đồng chí được thể hiện trong bài thơ (mẫu 5)

“Đồng chí” của Chính Hữu là một trong những bài thơ nổi tiếng viết về tình cảm đồng đội, đồng chí của người lính trong những năm kháng chiến chống Pháp. Tình cảm ấy được hình thành dựa trên cơ sở vững chắc là cùng chung hoàn cảnh sống, xuất thân cũng như lí tưởng, mục tiêu. Không chỉ vậy, người lính còn cùng nhau trải qua biết bao khó khăn, nguy hiểm. Để rồi, họ trở thành tri kỉ, gắn bó keo sơn như người thân trong một gia đình. Hai tiếng “Đồng chí!” vang lên nghe đầy trân trọng và yêu mến, đó chính là lời khẳng định cho tình cảm của những người lính trong những năm tháng chiến đấu gian khổ mà tự hào. Và những câu thơ của Chính Hữu viết về tình cảm của người lính thật xúc động, đáng trân trọng nhường nào. Đặc biệt ấn tượng nhất là câu thơ cuối bài “Đầu súng trăng treo”. Đó là một hình ảnh thật mà bản thân Chính Hữu đã nhận ra trong những đêm phục kích giữa rừng khuya. Nhưng nó còn là một hình ảnh thơ độc đáo, có sức gợi nhiều liên tưởng phong phú sâu xa. “Súng” biểu tượng cho chiến tranh, cho hiện thực khốc liệt. “Trăng” biểu tượng cho vẻ đẹp yên bình, mơ mộng và lãng mạn. Hai hình ảnh “súng” và “trăng” kết hợp với nhau tạo nên một biểu tượng đẹp về cuộc đời người lính - chiến sĩ mà thi sĩ, thực tại mà mơ mộng. Mối tình đồng chí, đồng đội tồn tại bất diệt trong những năm kháng chiến gian khổ thật đáng trân trọng, ngưỡng mộ.

Trình bày suy nghĩ về tình đồng chí được thể hiện trong bài thơ (mẫu 6)

“Đồng chí” của Chính Hữu đã để lại cho tôi nhiều cảm nhận về tình đồng chí. Trước hết, đồng chí là cách gọi để chỉ những người có cùng chung lý tưởng, mục tiêu hay cùng chung một đơn vị chiến đấu. Cảm xúc chủ đạo của bài thơ là tình đồng chí, đồng đội. Đó là thứ tình cảm cốt lõi, là bản chất sâu xa của sự gắn bó giữa những người lính cách mạng. Nhà thơ Chính Hữu đã từng tâm sự rằng “Những năm đầu cách mạng từ “đồng chí” mang ý nghĩa thiêng liêng và máu thịt vô cùng. Nơi khó khăn, cuộc sống của người này trở nên cần thiết với người kia. Một người có thể thay thế cho gia đình, cho cha mẹ, vợ con đối với một người khác. Hơn nữa, họ còn bảo vệ nhau trước mũi súng của kẻ thù, cùng nhau đi qua cái chết, chống lại cái chết, cùng nhau thực hiện một lý tưởng cách mạng”. Tình cảm này được xây dựng dựa trên những cơ sở bền chặt cũng như sự thấu hiểu, gắn bó từ trong chiến tranh gian khổ. Họ thấu hiểu, giúp đỡ và kề vai sát cánh trong mọi hoàn cảnh, đó là thứ tình cảm keo sơn như người thân trong gia đình. Có thể khẳng định rằng, tình cảm đồng chí thật đáng ngưỡng mộ và trân trọng.

Trình bày suy nghĩ về tình đồng chí được thể hiện trong bài thơ (mẫu 7)

Người lính nông dân, như một lẽ tự nhiên đã đi vào biết bao bài thơ trong văn học Việt Nam. Hình ảnh của họ hiện lên thật giản dị, gần gũi như Nhớ của Hồng Nguyên, Cá nước của Tố Hữu,… và cũng nằm trong mạch chung ấy, ta không thể không nhắc đến Đồng chí của Chính Hữu. Bài thơ là bài ca ca ngợi tình cảm đồng chí, đồng đội tha thiết, sâu nặng trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt.

Cũng như biết bao bài thơ viết về người lính nông dân khác, đọc câu thơ ta cảm nhận được sự lo toan vất vả, cuộc sống còn nghèo khó, nhọc nhằn của họ:

'Quê hương anh nước mặn đồng chua

Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá'

Họ thuộc mọi miền tổ quốc quy tụ về đây, người là vùng đồng bằng nước mặn đồng chua, người vùng trung du đất cày lên sỏi đá, dù ở miền quê nào cũng đều hiện lên sự khó khăn, cực nhọc. Nhưng ở họ đều có một điểm chung ấy là lên đường chiến đấu để bảo vệ quê hương đất nước. Từ anh với tôi đến câu thơ thứ ba đã có bước chuyển hóa mạnh mẽ thành đôi người. Không phải là hai mà là đôi, cho thấy giữa họ đã bắt đầu có sự gắn bó với nhau. Họ cùng nhau về đây, tự nguyện bên với nhau: 'Súng bên súng đầu sát bên đầu/ Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ'. Họ không chỉ kề vai sát cánh bên nhau trong chiến đấu, trong lí tưởng mà họ còn bên nhau trong những khó khăn, gian khổ của cuộc đời chiến đấu. Cái giá lạnh của núi rừng Việt Bắc có thể làm lạnh cơ thể họ, nhưng nó lại khiến cho tình cảm của những người lính trở nên ấm áp, nồng đậm hơn. Câu thơ nói về cái rét, cái lạnh mà tuyệt nhiên người đọc không thấy hơi lạnh thấu xương, chỉ thấy một cảm giác ấm áp của tình người, của tình đồng đội, san sẻ với nhau những khó khăn. Hai chữ tri kỉ thật thiêng liêng, thật đáng trân trọng, họ không còn dừng lại ở đôi bạn như thuở ban đầu mới gặp, mà trải qua những gian lao, chia sẻ với nhau mọi điều họ đã là đôi tri kỉ, thấu hiểu nhau như hiểu chính mình. Câu thơ thứ bảy: Đồng chí, vang lên là kết tinh đẹp đẽ nhất của thứ tình cảm thiêng liêng đó. Nếu không kể nhan đề thì đây là lần duy nhất từ này xuất hiện trong bài thơ, câu thơ có vị trí quan trọng, bản lề khép mở hai mạch thơ chính của cả bài. Sáu câu thơ đầu là nền tảng, là cơ sở để đến đây được nâng lên thành một tình cảm mới mẻ, sâu sắc: tình đồng chí. Đồng chí ở đây không chỉ là những người gắn bó, yêu thương, quan tâm nhau mà họ còn có chung một mục đích, lý tưởng, ý chí phấn đấu. Bởi vậy hai tiếng đồng chí càng trở nên cao quý, đáng trân trọng hơn.

Ở những câu thơ tiếp theo, tình cảm đồng chí, đồng đội được khắc họa cụ thể, rõ nét hơn. Họ - những người con của quê hương, dù mang trong mình ý chí quyết tâm, thái độ dứt khoát mặc kệ tất cả, gửi lại gia đình, ruộng nương để lên đường chiến đấu nhưng trong lòng họ vẫn không thôi khắc khoải, nhớ nhung về gia đình. Những hình ảnh giếng nước, gốc đa là những hình ảnh gần gũi, thân thương nhất với họ, bởi vậy họ luôn nhớ về chúng. Nỗi nhớ ấy cũng chính là nỗi nhớ về gia đình, về người cha, người mẹ đang ở nhà ngày ngày mong ngóng con. Trong cùng một hoàn cảnh, nên những người lính có sự đồng cảm sâu sắc với nhau. Họ cảm thông, thấu hiểu bằng tình cảm chân thành.

Hình ảnh quê nhà, cùng với sự thấu hiểu, cảm thông giữa những người đồng đội là nguồn năng lượng cổ vũ động viên họ vượt qua mọi khó khăn, thử thách:

'Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh

Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi

Áo anh rách vai

Quần tôi có vài mảnh vá

Miệng cười buốt giá

Chân không giày

Thương nhau tay nắm lấy bàn tay'

Câu thơ đã một lần nữa khắc họa hiện thực chiến tranh gian khổ, khốc liệt mà không ít chiến sĩ đã phải bỏ mạng nơi đất khách quê người. Họ thiếu thốn đủ thứ về vật chất: không giày, áo rách, quần vá. Nhưng họ có thể vượt lên tất cả hiện thực tàn khốc ấy bằng cái nắm tay nồng ấm, nó giống như cái bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi của những người lính lái xe trong thơ Phạm Tiến Duật. Chỉ cái bắt tay thôi mà mang lại sức mạnh to lớn cho những người chiến sĩ, để họ vững lòng tin, chắc tay súng bảo vệ tổ quốc:

'Đêm nay rừng hoang sương muối

Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới

Đầu súng trăng treo.'

Ba câu thơ cuối có thể coi là bức tranh đồng chí, đồng đội đẹp đẽ nhất về người lính. Trên nền hiện thực khốc liệt, hoang vu lạnh lẽo, những người lính bình tĩnh, chủ động, hiên ngang, nắm chắc cây súng sẵn sàng chiến đấu bảo vệ quê hương. Câu thơ cuối cùng là một hình ảnh thơ thật đẹp đẽ, lãng mạn, nó là biểu tượng cho người lính vừa anh dũng, kiên cường nhưng vẫn có nét thi sĩ, trữ tình, một tâm hồn đầy mơ mộng giữa hiện thực chiến tranh tàn khốc. Đây cũng là vẻ đẹp trữ tình mới mẻ, đặc sắc của thơ ca thời kì kháng chiến đã được Chính Hữu vận dụng tài tình qua hình ảnh trăng và súng mà không hề bó hẹp, khiên cưỡng.

Cả bài thơ toát lên hình ảnh của anh bộ đội cụ Hồ thật giản dị, chân thật. Người đọc còn có thể cảm nhận thấy tình cảm đồng đội gắn bó sâu nặng giữa những người đồng chí, đồng đội ấy. Chính tình đồng chí, sự cảm thông, thấu hiểu với nhau là động lực giúp họ vượt lên hoàn cảnh hiện thực khắc nghiệt. Kết hợp với ngôn ngữ giản dị, giàu sức gợi, hàm súc, tất cả các yếu tố đó đã gây nên sức ám sánh sâu đậm trong lòng người đọc.

Trình bày suy nghĩ về tình đồng chí được thể hiện trong bài thơ (mẫu 8)

Chính Hữu là nhà thơ trưởng thành trong quân đội. Thơ ông tuy không nhiều nhưng thường viết về người lính và chiến tranh với nhiều cảm xúc dồn nén, vừa bình dị, vừa thiết tha. Một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của ông là bài thơ “Đồng chí”. Bài thơ mang vẻ đẹp của tình đồng chí, đồng đội giản dị, mộc mạc mà sâu sắc của những người lính cách mạng trong những tháng ngày kháng chiến gian lao. Đứng trong hàng ngũ cách mạng, chiến đấu cho độc lập, tự do của Tổ quốc, người lính vượt lên trên mọi gian khổ bằng sự sẻ chia, tinh thần đoàn kết. Họ sống trong tình đồng chí, đồng đội cao đẹp, nhờ đồng đội, vì đồng đội…

Mở đầu bài thơ, ta bắt gặp lời giới thiệu mộc mạc như những lời chào hỏi, hỏi thăm, làm quen nhau trong buổi đầu gặp gỡ:

“Quê hương anh nước mặn, đồng chua

Làng tôi nghèo, đất cày lên sỏi đá

Anh với tôi đôi người xa lạ

Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau.”

Những người đồng đội ấy thường là những người nông dân mặc áo lính, điểm giống nhau về cảnh ngộ xuất thân giúp họ có thể dễ dàng gần gũi, đồng cảm với nhau. “Anh và tôi” từ những vùng quê khác nhau, chỉ giống nhau bởi cái nghèo khó của đất đai, đồng ruộng. Anh từ miền quê ven biển “nước mặn đồng chua”, tôi ở vùng đất cao “đất cày lên sỏi đá”. Hình ảnh “quê hương anh” và “làng tôi” hiện lên với biết bao nỗi gian nan, vất vả. Mặc dù nhà thơ không chú ý miêu tả nhưng chính điều đó lại làm cho hình ảnh vốn chỉ là danh từ chung kia trở nên cụ thể đến mức có thể nhìn thấy được, nhất là dưới con mắt của những người con làng quê Việt Nam. Thành ngữ dân gian được tác giả vận dụng rất tự nhiên, nhuần nhụy khiến người đọc có thể dễ dàng hình dung ra những làng quê nghèo khó, nơi sinh ra những người lính dũng cảm. Khi nghe tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc, họ sẵn sàng ra đi và nhanh chóng có mặt trong đoàn quân chiến đấu bảo vệ Tổ quốc.

Trước ngày nhập ngũ, những con người này vốn rất xa lạ. Họ hiểu nhau, thương nhau, tri kỉ với nhau bằng tình tương thân, tương ái vốn có từ lâu giữa những người lao động. Nhưng họ quen nhau không phải do cái nghèo đói xô đẩy, mà họ quen nhau để đứng trong cùng đội ngũ do họ có một lý tưởng chung, cùng một mục đích cao cả là chiến đấu và bảo vệ Tổ quốc. Hình ảnh anh – tôi riêng biệt đã mờ nhòa, hình ảnh sóng đôi đã thể hiện sự gắn bó tương đồng của họ trong nhiệm vụ và lí tưởng chiến đấu:

“Súng bên súng, đầu sát bên đầu

Đêm rét chung chăn thành đôi tri kì

Đồng chí”

Điệp từ “súng” và “đầu” được nhắc lại hai lần như nhấn mạnh tình cảm gắn bó trong chiến đấu của người đồng chí. Tình cảm ấy đã nảy nở bền chặt trong sự chan hòa, chia sẻ mọi gian lao cũng như niềm vui, niềm hạnh phúc. Đó là mối tình tri kỉ của những người bạn chí cốt mà tác giả biểu hiện bằng một hình ảnh thật cụ thể, giản dị mà hết sức gợi cảm: “Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”. Chính trong những ngày khó khăn, thiếu thốn ấy, từ “xa lạ” mà họ đã trở thành “tri kỉ” của nhau. Sự vất vả, nguy nan đã gắn kết những người đồng chí, khiến họ trở thành những người bạn tâm giao, gắn bó. Những câu thơ giản dị mà hết sức sâu sắc, như được chắt lọc từ cuộc sống, từ cuộc đời người lính đầy gian khổ, để rồi bao nhiêu yêu thương đã được thể hiện hết qua những hình ảnh vừa gần gũi, vừa tình cảm hàm súc ấy. Chính Hữu đã từng là một người lính, đã trải qua cuộc đời người lính nên câu thơ bình dị mà có sức nặng của tình cảm trìu mến, yêu thương với đồng đội.

Từ trong thâm tâm họ, bỗng bật thốt lên hai từ “đồng chí” thật ngắn gọn mà thiêng liêng. Từ “đồng chí” như một nốt nhấn đặc biệt mang những sắc thái biểu cảm khác nhau, nhấn mạnh sự thiêng liêng cao cả trong tình đồng chí, đồng đội. Tình cảm ấy phải trải qua bao khó khăn, thử thách, được tôi luyện trong gian khổ thì mới thực sự vững bền. “Anh” và “tôi” đã trở thành một khối đoàn kết, thống nhất gắn bó. Như vậy, trong tình đồng chí có tình cảm giai cấp, có tình bạn bè tri kỉ và có sự gắn bó giữa con người cùng chung lí tưởng, chung mục đích chiến đấu. Và khi họ gọi nhau bằng tiếng “đồng chí”, họ không chỉ còn là những người nông dân nghèo đói, lam lũ mà họ đã trở thành anh em trong cả một cộng đồng với một lí tưởng cao cả vì đất nước quên thân để tạo nên chiến thắng cho dân tộc. Câu thơ vẻn vẹn có hai chữ như chất chứa, dồn nén bao cảm xúc sâu xa từ sáu câu thơ trước và khởi đầu cho những suy nghĩ tiếp theo.

Bằng việc sử dụng cấu trúc sóng đôi, đối xứng “quê anh” – “làng tôi”, thành ngữ “nước mặn đồng chua”, “đất cày nên sỏi đá”, hình ảnh thực mang nhiều ý nghĩa biểu tượng, bảy câu thơ đầu đã diễn tả sự tương đồng về cảnh ngộ xuất thân, về lí tưởng cao đẹp, về nhiệm vụ chiến đấu. Chính những sự tương đồng ấy đã trở thành niềm đồng cảm, là cơ sở cho tình đồng chí, đồng đội của người lính.

Không chỉ dừng lại ở tình đồng chí, đồng đội với những cơ sở tạo nên nó mà tác giả còn nói về sự thấu hiểu, chia sẻ những tâm tư, nỗi lòng của cuộc đời người lính.

“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày

Gian nhà không mặc kệ gió lung lay

Giếng nước, gốc đa nhớ người ra lính”

Họ là những người lính gác tình riêng ra đi vì nghĩa lớn, để lại sau lưng mảnh trời quê hương với những băn khoăn, trăn trở. Từ những câu thơ nói về gia cảnh, về cảnh ngộ, ta bắt gặp một sự thay đổi lớn lao trong quan niệm của người chiến sĩ. “Ruộng nương” gửi tạm cho “bạn thân cày”, “gian nhà không” để “mặc kệ gió lung lay”. Lên đường đi chiến đấu, người lính chấp nhận sự hi sinh, tạm gạt sang một bên những toan tính riêng tư. Hai chữ “mặc kệ” đã nói lên được sự kiên quyết, dứt khoát, mạnh mẽ của người lính. Song dù dứt khoát, kiên quyết đến vậy nhưng người lính vẫn luôn nặng lòng với quê hương bởi đó là nơi sinh ra, nuôi dưỡng tâm hồn họ - những người lính nông dân thật thà, chất phác. Hình ảnh hoán dụ mang tính nhân hóa: “Giếng nước, gốc đa nhớ người ra lính” càng tô đậm sự gắn bó, yêu thương của người lính đối với quê nhà, nó giúp người lính diễn tả một cách hồn nhiên và tinh tế tâm hồn mình.

Ba câu thơ với hình ảnh: ruộng nương, gian nhà, giếng nước, gốc đa, hình ảnh nào cũng thật thân thương, chan chứa tình quê hương với bao nỗi nhớ thương vơi đầy. Hình ảnh hoán dụ mang tính nhân hóa làm nổi bật thêm tâm tư, nỗi nhớ nhung của những người đồng chí. Nhắc tới nỗi nhớ da diết ấy, Chính Hữu đã nói đến sự hy sinh không mấy dễ dàng của người lính. Dù vậy nhưng họ vẫn luôn thấu hiểu và chia sẻ cho nhau. Tình đồng chí đã được tiếp thêm sức mạnh bởi tình yêu quê hương, bởi sự đồng cam cộng khổ, sự sẻ chia những gian lao thiếu thốn của cuộc đời người lính.

“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh

Sốt run người, vầng trán ướt mồ hôi

Áo anh rách vai

Quần tôi có vài mảnh vá

Miệng cười buốt giá

Chân không giày

Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”

Là người lính, các anh đã từng trải qua những cơn sốt rét nơi rừng sâu trong hoàn cảnh thiếu thuốc men, lại thêm trang phục phong phanh giữa mùa đông lạnh giá. Tất cả những khó khăn, gian khổ được tái hiện bằng những chi tiết hết sức chân thực, không một chút tô vẽ bởi trong những ngày đầu của cuộc kháng chiến, quân đội cụ Hồ mới được thành lập thiếu thốn đủ bề, khó khăn trăm đường. Nhưng dù có khó khăn như vậy mà họ vẫn giữ vững ý chí, quyết tâm cùng với bản lĩnh vững vàng để canh gác, chiến đấu vì Tổ quốc thân yêu của mình.

Chi tiết “miệng cười buốt giá” đã làm ấm lên, sáng lên tình đồng đội và tinh thần lạc quan của người chiến sĩ. Cử chỉ “thương nhau tay nắm lấy bàn tay” đã thể hiện được tình thương yêu đồng đội sâu sắc. Cách biểu lộ tình thương yêu ấy không ồn ào nhưng lại thấm thía. Cái nắm tay ấy cũng giống như những cái bắt tay qua cửa kính vỡ của những chàng trai thuộc tiểu đội xe không kính trong thời kì chống Mĩ. Tuy chỉ là một cái nắm tay, bắt tay bé nhỏ thôi nhưng nó lại ẩn chứa một biểu tượng thiêng liêng. Cái nắm tay ấy đã truyền cho những người lính niềm tin, sức mạnh để vượt qua tất cả. Nhà thơ đã phát hiện rất tinh tường cái sức mạnh tinh thần ẩn sâu trong trái tim người lính. Sức mạnh tinh thần ấy, trên cơ sở cảm thông và thấu hiểu sâu sắc lẫn nhau, đã tạo nên chiều sâu và sự bền vững của thứ tình cảm thầm lặng nhưng rất đối thiêng liêng này.

Đến với ba câu thơ cuối, ta bắt gặp được một bức tranh đẹp đẽ về tình đồng chí:

“Đêm nay rừng hoang sương muối

Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới

Đầu súng trăng treo”

Ba câu thơ tả một đêm phục kích giặc trong một không gian âm u, hoang vắng và lạnh lẽo: “rừng hoang sương muối”. Không chỉ cái gió, cái rét cứ đeo đuổi họ mà còn bao nguy hiểm đang rình rập người chiến sĩ. Nổi bật trên nền hiện thực khắc nghiệt ấy là những người lính “đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới”, cái nơi mà sự sống với cái chết chỉ đến trong gang tấc. Từ “chờ” ở đây cũng đã nói rõ lên cái tư thế hiên ngang, tự tin, sẵn sàng, chủ động đánh giặc của họ. Và khi đó, tầm vóc của những người chiến sĩ ấy càng trở nên lớn lao hơn.

Câu thơ cuối là một hình ảnh đẹp được nhận ra từ những đêm hành quân phục kích giặc của chính người lính. Đêm khuya, trăng trên vòm trời cao đã sà xuống thấp dần, ở một vị trí nào đấy, vầng trăng như được treo trên đầu mũi súng của người chiến sĩ đang phục kích chờ giặc. Tình cảm đồng chí ấm áp, thiêng liêng đã mang đến cho người lính nét lãng mạn, cảm hứng thi sĩ trong hiện thực đầy khắc nghiệt qua hình ảnh “đầu súng trăng treo”. Trong hoàn cảnh hết ức gian khổ, khốc liệt: đêm đông giá lạnh, rừng hoang sương muối, cái chết cận kề, tâm hồn của người chiến sĩ vẫn tìm thấy chất thơ bay bổng trong vẻ đẹp bất ngờ của vầng trăng. Từ “treo” đã tạo nên một mối quan hệ bất ngờ độc đáo, nối hai sự vật ở cách xa nhau – mặt đất và bầu trời, gợi những liên tưởng thú vị, bất ngờ. “Súng” là biểu tượng của chiến đấu, “trăng” là biểu tượng của hòa bình. Súng và trăng là hư và thực, là chiến sĩ và thi sĩ, là một cặp tô đậm vẻ đẹp của những đồng chí đang đứng cạnh bên nhau. Chính tình đồng chí đã làm cho người chiến sĩ cảm thấy cuộc đời vẫn đẹp, vẫn thơ mộng, tạo cho họ sức mạnh chiến đấu và niềm tin chiến thắng. Đây là một sáng tạo đầy bất ngờ, góp phần nâng cao giá trị bài thơ, tạo được những dư vang sâu lắng trong lòng người đọc. Đây cũng là minh chứng cho bút pháp tả thực và bút pháp lãng mạn của Chính Hữu.

Như vậy, tình đồng chí trong bài thơ là tình cảm cao đẹp và thiêng liêng của những con người gắn bó keo sơn trong cuộc chiến đấu vĩ đại của dân tộc. Tình cảm ấy được hình thành trên cơ sở là tình yêu quê hương, đất nước, cùng chung lí tưởng và mục đích chiến đấu. Hoàn cảnh chiến đấu gian khổ và ác liệt đã tôi luyện, thử thách làm cho tình đồng chí, đồng đội của người lính ngày càng bền chặt. Tình cảm thiêng liêng ấy đã giúp cho những người chiến sĩ vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, thiếu thốn của cuộc đời người lính, làm điểm tựa để tạo nên chiến thắng hào hùng cho dân tộc.

Bằng việc sử dụng thành ngữ, cấu trúc, hình ảnh sóng đôi giàu tính biểu tượng, hình ảnh hoán dụ mang tính nhân hóa, bút pháp hiện thực và bút pháp lãng mạn, “Đồng chí” đã làm hiện và nổi bật lên tình đồng chí cao đẹp vừa giản dị lại vừa thiêng liêng, thơ mộng của những người lính cụ Hồ. Qua đây cũng thể hiện sự xuất sắc của Chính Hữu khi viết về đề tài người lính và chiến tranh.

Trình bày suy nghĩ về tình đồng chí được thể hiện trong bài thơ (mẫu 9)

Chính Hữu là người lính và cũng là nhà thơ của lính. Thơ ông không nhiều song ấn tượng bởi lời thơ hàm súc, ngôn ngữ, hình ảnh chân thực mà giàu ý nghĩa biểu tượng. 'Đồng chí' là tác phẩm tiêu biểu của nhà thơ. Bài thơ đã làm nổi bật vẻ đẹp của tình đồng chí của những người lính cách mạng trong những năm đầu kháng chiến chống Pháp.

Bài thơ 'Đồng chí' được Chính Hữu viết năm 1948 trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp gian khổ, khó khăn. Sau chiến dịch Việt Bắc năm 1947, Chính Hữu bị ốm nặng phải nằm lại tại một trạm quân y, đơn vị đã cử người ở lại chăm sóc. Cảm động trước tấm lòng tình cảm của người đồng đội, Chính Hữu đã viết lên bài thơ. Bài thơ đã khắc họa hình tượng người lính cách mạng từ đó làm nổi bật vẻ đẹp của tình đồng chí đồng đội keo sơn, gắn bó của họ.

Trước hết vẻ đẹp của tình đồng chí được thể hiện ở cơ sở hình thành lên tình đồng chí. Cơ sở đầu tiên hình thành nên tình đồng chí là cùng chung cảnh ngộ xuất thân - đều là những người nông dân mặc áo lính:

'Quê hương anh nước mặn đồng chua

Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá' 

Lời thơ tự nhiên như lời kể của người lính về quê hương: anh đi lên từ vùng đồng bằng chiêm trũng 'nước mặn đồng chua', tôi đi ra từ vùng 'đất cày lên sỏi đá' - vùng trung du miền núi. Quê anh, làng tôi - hai vùng quê cách xa nhau nhưng đều chung nhau cái nghèo khó, lam lũ. Việc sử dụng sáng tạo những thành ngữ tục ngữ đã tạo cho lời thơ mộc mạc tự nhiên như tâm hồn người trai cày nói về quê hương mình. Như vậy, những người lính đều ra đi từ những làng quê nghèo khó, họ đều là những người nông dân mặc áo lính. Chính sự đồng cảnh, đồng giai cấp đã tạo cơ sở ban đầu vững chắc để hình thành lên tình đồng chí.

Cơ sở thứ hai hình thành lên tình đồng chí là cùng chung nhiệm vụ, cùng chung lý tưởng. Anh với tôi từ bốn phương trời xa lạ chẳng hẹn mà cùng tụ hội về đây trong quân ngũ của lá cờ cách mạng bởi: 'Súng bên súng đầu sát bên đầu'. Câu thơ có hình ảnh chân thực mà giàu ý nghĩa biểu tượng: 'súng bên súng' là cùng chung nhiệm vụ cầm súng chiến đấu. 'Đầu sát bên đầu' là cùng chung chí hướng, lý tưởng ra đi theo tiếng gọi của Tổ quốc quyết tâm chiến đấu bảo vệ độc lập dân tộc. Cùng chung nhiệm vụ, cùng chung lý tưởng đã gắn kết anh tôi với nhau.

Tình đồng chí còn được hình thành từ sự chia sẻ gắn bó trong gian khổ khó khăn:

'Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ'

Câu thơ đầy ắp kỷ niệm của một thời gian khổ khó khăn: những đêm đông lạnh giá chăn không đủ đắp, họ phải chung nhau mảnh chăn mỏng. Tấm chăn sui khép lại đêm đông lạnh giá nhưng mở ra sự gắn bó hiểu nhau như tri kỷ. Cấu trúc anh - tôi sóng đôi khi ở hai câu thơ khi gộp làm một đã diễn tả quá trình từ xa lạ, quen nhau rồi thành tri kỉ và kết thành: 'Đồng chí'. Câu thơ thứ bảy chỉ với hai tiếng và dấu chấm than vang lên như một nốt nhấn thể hiện sự phát hiện về một thứ tình cảm bình dị mà thiêng liêng, mới mẻ của những người lính cách mạng: đồng chí. Câu thơ như bản lề của bài thơ vừa khái quát cảm xúc ở sáu câu thơ đầu, vừa mở ra những biểu hiện ở những dòng thơ tiếp theo. Đồng thời làm nổi bật một quy luật tất yếu: cùng chung cảnh ngộ xuất thân, cùng nhiệm vụ lý tưởng, cùng chia sẻ gắn bó thì sẽ trở thành đồng chí của nhau.

Vẻ đẹp của tình đồng chí còn được thể hiện ở những biểu hiện cụ thể của tình đồng chí. Biểu hiện đầu tiên của tình đồng chí là họ thấu hiểu tâm tư, nỗi lòng của nhau:

'Ruộng nương anh gửi bạn thân cày

Gian nhà không mặc kệ gió lung lay

Giếng nước gốc đã nhờ người ra lính.' 

Những người lính ra đi để lại sau lưng tất cả những gì thân thuộc nhất: ruộng nương, gian nhà, giếng nước, gốc đa. Từ 'mặc kệ' đã thể hiện thái độ dứt khoát quyết chí ra đi vì nghĩa lớn. Mặc kệ mà không hề dửng dưng vô tình: họ ra đi nhưng từ trong sâu thẳm người lính vẫn nhớ về quê hương, họ vẫn biết nơi quê nhà ruộng nương vẫn chờ tay người cày xới, gian nhà lung lay trong gió chờ người sửa sang, nơi giếng nước gốc đa có ánh mắt người thân trông ngóng. Đặc biệt hình ảnh nhân hóa ẩn dụ 'Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính' đã thể hiện quê hương vẫn nhớ người trai cày ra trận hay người ra trận vẫn nhớ về quê hương. Nỗi nhớ hai chiều càng trở nên da diết. Trong đoạn thơ cấu trúc 'anh - tôi' sóng đôi giờ chỉ còn lại anh: nỗi nhớ quê hương trong lòng anh được tôi nói hộ. Tôi nói cho anh hay đó cũng chính là nỗi nhớ quê hương của tôi. Những người lính họ thấu hiểu tâm tư nỗi lòng của nhau.

Tình đồng chí còn được thể hiện ở sự chia sẻ gắn bó trong gian khổ khó khăn của cuộc đời người lính. Anh với tôi cũng chịu những cơn sốt rét từng hành hạ:

'Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh  

Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi.'

Cơn sốt rét từng đã trở thành căn bệnh phổ biến với những người lính trong những năm đầu kháng chiến chống Pháp ăn uống kham khổ, thiếu thốn thuốc men. Chính Hữu đã gợi tả một cách chân thực: 'biết ớn lạnh', 'sốt run người vừng trán ướt mồ hôi'. Anh với tôi cùng chịu cảnh thiếu thốn:

'Áo anh rách vai 

Quần tôi có vài mảnh vá

Chân không giày'

Chính Hữu đã đưa vào trong lời thơ những hình ảnh chân thực về cuộc sống chiến đấu của người lính cách mạng trong những năm đầu kháng chiến chống Pháp thiếu thốn đủ bề từ lương thực đến tư trang. Để từ đó người đọc có cái nhìn sâu sắc hơn về anh bộ đội. Cấu trúc 'anh - tôi' lại sóng đôi như khẳng định trong gian khổ khó khăn đều có anh có tôi cùng chia sẻ gắn bó.

Trong gian khổ khó khăn người lính cách mạng hiện lên vẫn hiên ngang, lạc quan. Trong gian khổ khó khăn họ vẫn nở nụ cười - nụ cười lạc quan ấm áp xua tan cái giá buốt. Đặc biệt là hình ảnh 'Thương nhau tay nắm lấy bàn tay' rất tự nhiên, chân thực nhưng đã thể hiện sâu sắc cảm động tình đồng chí của người lính cách mạng. Họ nắm lấy tay nhau như để động viên nhau, như để truyền cho nhau hơi ấm sức mạnh của tình đồng chí để cùng nhau chắc tay súng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Phải chăng tình đồng chí vừa là vẻ đẹp vừa là cội nguồn sức mạnh của người lính cách mạng?

Không những thế vẻ đẹp của tình đồng chí trong bài thơ còn được thể hiện ở biểu tượng cao đẹp của tình đồng chí. Với bút pháp hiện thực kết hợp với cảm hứng lãng mạn, ba câu thơ cuối đã gợi lên bức tranh cảnh đường đêm khuya thật đẹp:

'Đêm nay rừng hoang sương muối

Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới'

Trên nền hiện thực khắc nghiệt: đêm khuya, nơi 'rừng hoang sương muối' giá buốt, người lính hiện lên với tư thế chủ động hiên ngang 'đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới'. Chính tư thế thành đồng vách sắt ấy đã làm lu mờ đi mọi gian khổ khó khăn. Phải chăng chính tình đồng chí đã làm lên vẻ đẹp ấy của người lính? Hình ảnh người lính được kết đọng lại qua chi tiết bất ngờ, độc đáo:

'Đầu súng trăng treo'

'Đầu súng trăng treo' được Chính Hữu nhận ra từ chính những đêm hành quân phục kích chờ giặc của mình và đồng đội. Giữa mênh mông bát ngát của rừng khuya, người lính chắc tay súng canh gác, mũi súng hướng lên trời. Trăng lơ lửng giữa không trung, càng về khuya trăng xuống thấp dần, đến một mức độ nào đó nhìn lên trăng như treo trên đầu ngọn súng. Hình ảnh 'đầu súng trăng treo' còn gợi bao liên tưởng thú vị cho người đọc: 'súng' là biểu tượng của chiến tranh, của hiện thực, của chất chiến sĩ; 'trăng' là biểu tượng của hòa bình, của lãng mạn, của chất thi sĩ. Sự kết hợp của hai hình ảnh tưởng chừng như đối lập nhau mà lại hài hòa bổ sung cho nhau để cùng nói về các mặt của người lính và tình đồng chí: vừa chiến sĩ mà lại rất thi sĩ, vừa hiện thực mà lại lãng mạn. Hình ảnh 'đầu súng trăng treo' còn nói lên ý nghĩa cao cả của cuộc kháng chiến: người lính cầm súng chiến đấu bảo vệ hòa bình cho quê hương, đất nước. Nhịp thơ 2/2 như gợi nhịp lắc của cái gì lơ lửng chung chiêng giữa bát ngát mênh mông chứ không thể buộc chặt. Giữa hiện thực khắc nghiệt nhưng tâm hồn người lính vẫn lãng mạn, bay bổng bởi trong lòng họ có tình đồng chí ấm áp. Chính vì vậy 'Đầu súng trăng treo' đã trở thành biểu tượng của người lính cách mạng trong văn học kháng chiến và được Chính Hữu chọn làm nhan đề cho tập thơ nổi tiếng của ông.

Bài thơ đã làm nổi bật vẻ đẹp tình đồng chí qua những nét nghệ thuật đặc sắc. Đó là thể thơ tự do phù hợp với cảm xúc tự nhiên dồn nén của bài thơ. Ngôn ngữ hình ảnh chân thực mà giàu ý nghĩa biểu tượng. Cấu trúc 'anh - tôi' sóng đôi đã góp phần thể hiện tư tưởng chủ đề tác phẩm. Bài thơ còn sử dụng kết hợp các biện pháp tu từ: nhân hóa, ẩn dụ,... Với những nét đặc sắc nghệ thuật ấy, bài thơ đã ca ngợi tình đồng chí đồng đội keo sơn gắn bó của người lính cách mạng trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Bài thơ đã thể hiện sự gắn bó, am hiểu sâu sắc và tấm lòng trân trọng yêu thương đồng đội của nhà thơ. Cùng với các tác phẩm khác như 'Tây Tiến' của Quang Dũng, 'Nhớ' của Hồng Nguyên,... 'Đồng chí' của Chính Hữu đã góp phần làm phong phú hình ảnh anh bộ đội Cụ Hồ trong thơ ca hiện đại. Bài thơ đã mở ra một hướng đi mới cho văn học kháng chiến viết về người lính cách mạng: cảm hứng thơ đi lên từ hiện thực đời thường mà vẫn dạt dào lãng mạn.

Với bút pháp hiện thực kết hợp với cảm hứng lãng mạn, ngôn ngữ, hình ảnh chân thực giàu sức gợi, bài thơ đã làm nổi bật vẻ đẹp của tình đồng chí của những người lính cách mạng trong những năm đầu kháng chiến chống Pháp. Bài thơ đã đem đến cho người đọc cảm nhận chân thực về người lính cách mạng trong những năm kháng chiến chống Pháp. Chính vì vậy bài thơ có sức sống mãi trong lòng người đọc.

Trình bày suy nghĩ về tình đồng chí được thể hiện trong bài thơ (mẫu 10)

Chính Hữu, một người lính và đồng thời là nhà thơ của lính, để lại dấu ấn mạnh mẽ trong văn hóa Việt Nam thông qua những tác phẩm văn học, trong đó 'Đồng chí' là một bức tranh đặc sắc về tình đồng chí của những người lính cách mạng trong giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp.

Tác phẩm này được Chính Hữu sáng tác vào năm 1948, thời điểm khó khăn và đau đớn của cuộc chiến tranh. Sau chiến dịch Việt Bắc năm 1947, khi Chính Hữu bị ốm và nằm lại tại trạm quân y, đồng đội đã tỏ ra đặc biệt quan tâm và chăm sóc anh. Sự ấm áp và đồng lòng trong nhóm quân đã truyền cảm hứng cho Chính Hữu viết nên tác phẩm 'Đồng chí'.

Người lính cách mạng trong bài thơ không chỉ chia sẻ cùng nhau quê hương và nguồn gốc nông dân, mà còn chung một nhiệm vụ và lý tưởng. Hình ảnh đồng chí trong bài thơ không chỉ giới hạn ở mức độ quốc gia mà còn mở rộng ra thành một biểu tượng của tình đồng đội và sự đoàn kết. Cùng chung cảnh ngộ, cùng gian khổ của cuộc sống lính, họ tạo nên một cội nguồn vững chắc cho tình đồng chí.

Ngoài ra, sự thấu hiểu và chia sẻ trong gian khổ cũng là yếu tố quan trọng của tình đồng chí. Hình ảnh 'đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ' tạo nên bức tranh ấm áp trong những đêm lạnh giá. Việc chia sẻ cảm xúc và gắn bó trong những khó khăn làm nổi bật sự hiện diện đáng quý của tình đồng chí.

Bài thơ không chỉ tập trung vào khía cạnh gian khổ và khó khăn mà người lính phải đối mặt, mà còn chú trọng đến vẻ đẹp và lòng dũng cảm của họ trong cuộc chiến tranh. Hình ảnh 'Đầu súng trăng treo' là một biểu tượng tinh tế về sự hiện diện của người lính trong đêm, giữa rừng hoang vắng. Sự kết hợp giữa hiện thực và lãng mạn, giữa chiến tranh và hòa bình, tạo nên một hình ảnh mạnh mẽ về người lính và tình đồng chí.

Bằng cách này, Chính Hữu đã làm nổi bật vẻ đẹp của tình đồng chí, không chỉ thông qua những khía cạnh khó khăn và gian khổ, mà còn qua sự đoàn kết, chia sẻ, và lòng dũng cảm của những người lính cách mạng. Bài thơ đã trở thành một biểu tượng về tình đồng chí và tình đồng đội trong văn hóa Việt Nam, mở ra một hướng đi mới cho văn học kháng chiến.

Trình bày suy nghĩ về tình đồng chí được thể hiện trong bài thơ (mẫu 11)

Chính Hữu, một nhà thơ chiến sĩ, nổi tiếng với tác phẩm Đồng chí, đã khắc họa một bức tranh tình cảm đồng đội độc đáo và sâu sắc trong bối cảnh chiến tranh chống Pháp. Bằng cách sử dụng hình ảnh thực tế kết hợp với yếu tố lãng mạn, ông tạo nên một tác phẩm không chỉ là ca ngợi vẻ đẹp của tình đồng chí mà còn là sự hiểu biết và chia sẻ với những khó khăn, gian truân của người lính.

Đồng chí - đứa con tinh thần ra đời vào đầu năm 1948, sau chiến dịch Việt Bắc Thu Đông 1947, nơi Chính Hữu và đồng đội đánh bại cuộc tiến công của quân Pháp. Bài thơ không chỉ đơn thuần là một sáng tác về chiến tranh, mà còn là một góc nhìn chân thật về cuộc sống của người lính, về đoàn kết, tình đồng chí và tình quê hương.

Với sự giản dị trong xưng hô 'anh - tôi', nhà thơ đã mô tả một cách chân thành về quê hương nghèo khó, đất đai cằn cỗi, nơi mà tình đồng chí nảy sinh từ sự chia sẻ cùng khó khăn. Việc đồng lòng hành quân, chia sẻ gian lao trong chiến đấu đã tạo nên một sự gắn bó mạnh mẽ giữa những người lính.

Các chi tiết hình ảnh về ruộng nương, những chiếc áo rách, quần vá, và miếng cười buốt giá không chỉ làm sống động bức tranh chiến trường mà còn làm nổi bật vẻ đẹp tinh thần, lòng lạc quan và bất khuất của người lính. Chính Hữu không chỉ miêu tả khả năng chiến đấu mà còn vẻ đẹp tâm hồn trong những khoảnh khắc khó khăn.

Bức tranh về đêm chiến trường với rừng hoang sương muối, người lính đứng cạnh nhau chờ giặc tới và đầu súng trăng treo đã tạo nên một không gian kỳ bí, lãng mạn và đồng thời làm nổi bật tình đồng chí trong hoàn cảnh khốc liệt của chiến tranh.

Từ những chi tiết chân thực, những hình ảnh sinh động, Chính Hữu đã chứng minh rằng tình đồng chí không chỉ là yếu tố quan trọng giữa những người lính mà còn là nguồn động viên, sức mạnh tinh thần quan trọng giúp họ vượt qua mọi khó khăn. Bài thơ Đồng chí không chỉ là một tác phẩm văn chương nổi tiếng mà còn là biểu tượng của lòng yêu nước, đoàn kết và truyền thống chiến đấu của nhân dân Việt Nam.

Trình bày suy nghĩ về tình đồng chí được thể hiện trong bài thơ (mẫu 12)

'Đồng chí' của Chính Hữu là một kiệt tác trong thơ chiến sĩ Việt Nam, đặc biệt là trong bối cảnh kháng chiến chống Pháp. Tác phẩm này không chỉ thể hiện sự uyên bác về mặt nghệ thuật mà còn tập trung vào vẻ đẹp tâm hồn của tình đồng chí, đồng đội, và sự gắn bó kiên cường của anh bộ đội cụ Hồ.

Bắt đầu bằng hình ảnh đất đai cằn cỗi, nước mặn đồng chua của quê hương, và ngôi làng nghèo bạc màu, nhà thơ đã làm nổi bật sự tương đồng về cảnh ngộ nơi xuất thân của những người chiến sĩ. Họ chẳng hẹn mà đã quen nhau, đoàn kết vì mục tiêu chung là bảo vệ quê hương khỏi giặc Pháp. Hình ảnh súng và đầu sát, đêm rét chung chăn đã thể hiện tình đồng chí, tình đồng đội một cách chân thành và thấu hiểu nhau.

Những chi tiết như áo rách vai, quần vá, chân không giày đưa người đọc đến cái khó khăn, thiếu thốn của cuộc sống người lính. Tuy nhiên, người lính không chịu thua cuộc, họ cười buốt giá, và tay nắm chặt bàn tay thương nhau trong những khoảnh khắc khó khăn. Nhà thơ không chỉ tập trung vào khía cạnh vật chất mà còn chú trọng vào tinh thần lạc quan và lòng đoàn kết trong tình đồng chí.

Tình đồng chí càng phát triển khi họ tâm sự về quê hương, về những nơi gắn bó với ký ức tuổi thơ. Đồng chí trở thành tri kỉ, chia sẻ không chỉ về chiến trường mà còn về những nỗi nhớ sâu sắc. Ruộng nương, giếng nước gốc đa là những hình ảnh quen thuộc đan xen trong tâm trí người lính, làm tăng thêm sự hiểu biết và đồng cảm giữa họ.

Cuối cùng, hình ảnh đầu súng trăng treo là một biểu tượng cho tình đồng chí trong hoàn cảnh chiến đấu khốc liệt. Trong đêm tối, sương muối mỏng mảnh, họ đứng cạnh nhau chờ giặc tới. Đầu súng trăng treo không chỉ là nguồn sáng cho chiến trường mà còn là biểu tượng của lòng đoàn kết, đồng lòng của những người chiến sĩ.

Những tầm tư, tình cảm và sự hy sinh trong 'Đồng chí' của Chính Hữu không chỉ thể hiện tài năng văn chương mà còn là nguồn động viên, tinh thần bất khuất trong cuộc kháng chiến. Tác phẩm này trường tồn và góp phần làm phong phú thêm văn chương kháng chiến Việt Nam.

Trình bày suy nghĩ về tình đồng chí được thể hiện trong bài thơ (mẫu 13)

đang cập nhật

1 74 lượt xem