Tác giả tác phẩm Hai cây phong (Chân trời sáng tạo 2024) Ngữ văn 6 chi tiết nhất

Tác giả tác phẩm Hai cây phong Ngữ văn lớp 6 sách Chân trời sáng tạo đầy đủ bố cục, tóm tắt, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật, nội dung chính, ... giúp học sinh học tốt môn Ngữ văn 6. Mời các bạn đón xem:

1 68 lượt xem


Tác giả tác phẩm: Hai cây phong- Ngữ văn 6

I. Tác giả

- Ai-ma-tốp (1928- 2008) tên đầy đủ là Chyngyz Torekulovich Aytmatov

- Quê quán: Là nhà văn Cư-rơ-gư-stan- một nước cộng hòa ở vùng Trung Á, thuộc Liên Xô trước đây

- Sự nghiệp sáng tác

+ Ông rất nổi tiếng với nhiều tác phẩm về quê hương ông

+ Ông bắt đầu hoạt động văn học vào năm 1952

+ Tác phẩm nổi tiếng đầu tiên là tập truyện Núi đồi và thảo nguyên đã được tặng giải thưởng Lê-nin về văn học vào năm 1963

- Nhiều tác phẩm của ông trở nên rất quen thuộc với bạn đọc Việt Nam như: Con tàu trắng, Cây phong non trùm khăn đỏ…

- Phong cách sáng tác:

+ Các truyện ngắn của Ai-ma-tốp chủ yếu viết về cuộc sống khắc nghiệt nhưng cũng đầy chất lãng mạn của người dân vùng đồi núi Cư-rơ-gư-xtan, tình yêu, tình bạn, tinh thần dũng cảm vượt qua những thử thách hi sinh thời chiến tranh.

Hai cây phong - Ngữ văn lớp 6 - Chân trời sáng tạo (ảnh 1)

II. Đọc tác phẩm Hai cây phong

Đã bao lần tôi từ những chốn xa xôi trở về Ku-ku-rêu, và lần nào tôi cũng nghĩ thầm với một nỗi buồn da diết: “Ta sắp được thấy chúng chưa, hai cây phong sinh đôi ấy? Mong sao chóng về tới làng, chóng lên đồi mà đến với hai cây phong! Rồi sau đó cứ đứng dưới gốc cây để nghe mãi tiếng lá reo cho đến khi say sưa ngây ngất”. Trong làng tôi không thiếu gì các loại cây, nhưng hai cây phong này khác hẳn – chúng có tiếng nói riêng và hẳn phải có một tâm hồn riêng, chan chứa nhưng lời ca êm dịu. Dù ta tới đây vào lúc nào, ban ngày hay ban đêm, chúng cũng vẫn nghiêng ngả thân cây, lay động lá cành, không ngớt tiếng rì rào theo nhiều cung bậc khác nhau. Có khi tưởng chừng như một làn sóng thuỷ triều[7] dâng lên vỗ vào bãi cát, có khi lại nghe như tiếng thì thầm thiết tha nồng thắm truyền qua lá cành như một đốm lửa vô hình, có khi hai cây phong bỗng im bặt một thoáng, rồi khắp lá cành lại cất tiếng thở dài một lượt như thương tiếc người nào. Và khi mây đen kéo đến cùng với bão dông, xô gãy cành, tỉa trụi lá, hai cây phong nghiêng ngả tấm thân dẻo dai và reo vù vù như một ngọn lửa bốc cháy rừng rực. Về sau, khi nhưng năm đã trôi qua, tôi mới hiểu được điều bí ẩn của hai cây phong. Chẳng qua chúng đứng trên đồi cao lộng gió nên đáp lại bất kì chuyển động khe khẽ nào của không khí, mỗi chiếc lá nhỏ đều nhạy bén đón lấy mọi làn gió nhẹ thoảng qua. Nhưng việc khám phá ra chân lí giản đơn ấy vẫn không làm tôi vỡ mộng xưa, không làm tôi bỏ mất cách cảm thụ của tuổi thơ mà tôi còn giữ đến tận ngày nay. Và cho đến tận ngày nay tôi vẫn thấy hai cây phong trên đồi có một vẻ sinh động khác thường. Tuổi trẻ của tôi đã để lại nơi ấy, bên cạnh chúng như một mảnh vỡ của chiếc gương thần xanh... Vào năm học cuối cùng, trước khi bắt đầu nghỉ hè, bọn con trai chúng tôi chạy ào lên đấy phá tổ chim. Cứ mỗi lần chúng tôi reo hò, huýt còi ầm ĩ chạy lên đồi là hai cây phong khổng lồ lại nghiêng ngả đung đưa như muốn chào mời chúng tôi đến với bóng râm mát rượi và tiếng lá xào xạc dịu hiền. Và chúng tôi, lũ nhóc con đi chân đất, công kênh nhau bám vào các mắt mấu và cành cây trèo lên cao làm chấn động cả vương quốc loài chim. Hàng đàn chim hoảng hốt kêu lên, chao đi chao lại[8] trên đầu. Nhưng chúng tôi vẫn chưa coi vào đâu, đến đây đã thấm gì! Chúng tôi cứ leo lên cao nữa, cao nữa – nào xem ai can đảm và khéo léo hơn ai! – và từ trên những cành cao ngất, cao đến ngang tầm cánh chim bay, bỗng như có một phép thần thông[9]nào vụt mở ra trước mắt chúng tôi cả một thế giới đẹp đẽ vô ngần của không gian bao la và ánh sáng. Đất rộng bao la làm chúng tôi sửng sốt[10]. Mỗi đứa chúng tôi đều nín thở ngồi lặng đi trên một cành cây và quên mất cả chim lẫn tổ chim. Chuồng ngựa của nông trang[11] mà chúng tôi vẫn coi là toà nhà rộng lớn nhất trên thế gian, ngồi đây chúng tôi thấy chỉ như một căn nhà xép bình thường. Phía sau làng là dải thảo nguyên hoang vu[12] mất hút trong làn sương mờ đục. Chúng tôi cố gắng giương hết tầm mắt nhìn vào nới xa thẳm biêng biếc của thảo nguyên và nhìn thấy không biết bao nhiêu, bao nhiêu là vùng đất mà trước đây chúng tôi chưa từng biết đến, thấy những con sông mà trước đây chúng tôi chưa từng nghe nói. Những dòng sông lấp lánh tận chân trời như những sợi chỉ bạc mỏng manh. Chúng tôi nép mình ngồi trên các cành cây suy nghĩ: đã phải đấy là nơi tận cùng thế giới chưa, hay phía sau vẫn còn có bầu trời như thế này, những đám mây, những đồng cỏ và sông ngòi như thế này? Chúng tôi ngồi nép trên các cành cây, lắng nghe tiếng gió ảo huyền[13], và tiếng lá cây đáp lại lời gió, thì thầm to nhỏ về những miền đất bí ẩn đầy sức quyến rũ lẩn sau chân trời xa thẳm biêng biếc kia.

Tôi lắng nghe tiếng hai cây phong rì rào, tim đập rộn ràng vì thảng thốt[14] và vui sướng, rồi trong tiếng xào xạc không ngớt ấy, tôi cố hình dung ra những miền xa lạ kia. Thuở ấy chỉ có một điều tôi chưa hề nghĩ đến: ai là người đã trồng hai cây phong trên đồi này? Người vô danh[15] ấy đã ước mơ gì, đã nói những gì khi vùi hai gốc cây xuống đất, người ấy đã ấp ủ những niềm hi vọng gì khi vun xới chúng nơi đây, trên đỉnh đồi cao này?Quả đồi có hai cây phong ấy, không biết vì sao ở làng tôi họ gọi là “Trường Đuy-sen”.
[1] Cao nguyên: vùng đất bằng phẳng, rộng lớn và cao, xung quanh có sườn dốc rõ rệt.[2] Thung lũng: dải đất trũng xuống và kéo dài, nằm giữa hai sườn núi.[3] Thảo nguyên: vùng đất bằng rộng lớn, chỉ có cỏ mọc, do khí hậu khô, ít mưa.[4] Đồng bằng: vùng đất thấp, tương đối bằng phẳng, cao hơn chút ít so với mực nước biển.[5] Phong: một loại cây to, thân cao và thẳng, mọc ở vùng ôn đới, bắc bán cầu.[6] Hải đăng: đèn biển, thường dựng ở mũi đất hoặc trên một hòn đảo để hướng dẫn tàu thuyền đi lại ngoài khơi hoặc ra vào bến cảng.[7] Thủy triều: hiện tượng chuyển động lên - xuống có chu kì của nước biến do chịu ảnh hưởng sức hút của mặt trăng và mặt trời.[8] Chao đi chao lại: nghiêng cánh bay hết bên này đến bên kia.[9] Phép thần thông: phép biến hóa màu nhiệm, theo mê tín.[10] Sửng sốt: hết sức ngạc nhiên vì quá bất ngờ.[11] Nông trang: hình thức tổ chức sản xuất nông nghiệp tập thể (ở Liên Xô trước đây).[12] Hoang vu: ở trạng thái hoang vắng, chưa có sự tác động của con người.[13] Ảo huyền: nghĩa như “huyền ảo”, vừa như thực, vừa như hư, đầy vẻ bí ẩn.[14] Thảng thốt: bàng hoàng và ngơ ngác.[15] Người vô danh: ở đây muốn nói là người nào đó, không biết là ai.

Văn bản này là phần đầu truyện Người thầy đầu tiên. Nhan đề Hai cây phong là do người biên soạn SGK đặt. Nội dung truyện được đặt vào bối cảnh vùng quê hẻo lánh của Cư-rơ-gư-xtan, vào giữa những năm 20 của thế kỉ trước. Thời đó, trình độ phát triển ở nơi đây còn thấp, tư tưởng phong kiến, gia trưởng còn nặng nề, phụ nữ bị coi thường, trẻ mồ côi bị rẻ rúng. Cô bé An-tư-nai mồ côi sống trong gia đình chú thím ở làng Ku-ku-rêu, chẳng được học hành, và phải chịu sự giám sát, sai khiến hà khắc của bà thím. Đuy-sen được Đoàn Thanh niên Cộng sản cử nghiệt ép gả bán An-tư-nai làm vợ lẽ cho người ta. Một lần nữa, An-tư-nai được thầy Đuy-sen giải thoát, được lên tỉnh học, rồi đến học tiếp ở Mat-xcơ-va, sau trở thành nữ viện sĩ An-tư-nai Xu-lai-ma-nô-va. Còn thầy Đuy-sen, bấy giờ đã già, làm nghề đưa thư. Khi An-tư-nai còn đang học ở trường làng, có hôm Đuy-sen mang về trường hai cây phong non và bảo em: “Hai cây phong này thầy mang về cho em đây. Chúng ta sẽ cùng trồng. Và trong khi chúng lớn lên, ngày một thêm sức sống, em sẽ trưởng thành, em sẽ là một người tốt... em bây giờ trẻ măng nhe một thân cây non, như đôi cây phong nhỏ này...”Nguồn: Ai-ma-tốp, Người thầy đầu tiên, theo bản dịch của Nguyễn Ngọc Bằng – Cao Xuân Hạo – Bồ Xuân Tiến, trong Gia-mi-li-a, NXB Văn học, Hà Nội, 1999

III. Tác phẩm Hai cây phong

1. Thể loại

Truyện ngắn

2. Xuất xứ

Văn bản là phần đầu của truyện Người thầy đầu tiên, được sáng tác năm 1957

3. Phương thức biểu đạt

Tự sự

4. Người kể chuyện

Ngôi kể thứ 1

5. Tóm tắt tác phẩm Hai cây phong

Làng Ku-ku-rêu nằm ven chân núi, trên một cao nguyên, phía dưới là thung lũng Đất vàng, thảo nguyên Ca-dắc-xtan. Phía trên làng “tôi”, giữa một ngọn đồi, có hai cây phong lớn như một ngọn hải đăng trên núi. Đó là biểu tượng của tiếng nói riêng, như tâm hồn riêng của làng. Vào năm học cuối cùng, trước khi bắt đầu nghỉ hè, bọn trẻ chạy lên phá tổ chim và sửng sốt thấy thế giới bao la mà chúng chưa từng biết đến. “Tôi” không biết ai đã trồng hai cây phong này và vì sao ở làng “tôi” gọi là “Trường Đuy-sen”.

Hai cây phong - Ngữ văn lớp 6 - Chân trời sáng tạo (ảnh 1)

6. Bố cục tác phẩm Hai cây phong2 phần :

- Phần 1: Từ đầu đến “chiếc gương thần xanh”.

- Phần 2: Phần còn lại.

7. Giá trị nội dung tác phẩm Hai cây phong

- Đoạn trích miêu tả hai cây phong với ngòi bút sắc bén đậm chất hội họa và đong đầy cảm xúc.

- Qua đó truyền cho chúng ta tình yêu quê hương da diết và niềm xúc động đặc biệt vì hai cây phong gắn với câu chuyện về người thầy- người đã vun trồng những ước mơ cho những đứa học trò của mình

8. Giá trị nghệ thuật tác phẩm Hai cây phong

- Lựa chọn ngôi kể, người kể tạo nên hai mạch kể lồng ghép độc đáo

- Sự kết hợp giữa miêu tả, biểu cảm với ngòi bút đậm chất hội họa, truyền sự rung cảm đến người đọc

- Nghệ thuật nhân hóa với những liên tưởng tác bạo đầy chất thơ tại nên sức hấp dẫn cho văn bản

IV. Tìm hiểu chi tiết tác phẩm Hai cây phong

1.Hai mạch kể lồng ghép trong văn bản.

 

Mạch kể 1

Mạch kể 2

Đại từ xưng hô

 

Người kể giới thiệu mình là hoạ sĩ- xưng “tôi”.

người kể chuyện vẫn là “tôi” nhưng lại nhân danh cả bọn con trai ngày trước.

Nội dung mạch kể

Kể lại hình ảnh hai cây phong và cho thấy tình cảm mà người họa sĩ dành cho chúng. (hiện tại)

Kể lại những kỉ niệm của bọn con trai ngày trước gắn liền với hình ảnh hai cây phong. (quá khứ)

Tác dụng của việc đan xen hai mạch kể

Hai mạch kể bổ sung cho nhau diễn tả những tình cảm, những kỉ niệm nhất là thể hiện sự gắn bó giữa con người với thiên nhiên tươi đẹp.

2. Hình ảnh hai cây phong

Hai cây phong

Qua cái nhìn của họa sĩ

Trong kí ức tuổi thơ

Vị trí

Gữa ngọn đồi phía trên làng.

Hình ảnh

Hai cây phong như những ngọn hải đăng đặt trên núi.

Hai cây phong khổng lồ.

- Cành cao ngất, ngang tầm chim bay.

Âm thanh

+ Chan chứa những lời ca êm dịu, không ngớt những tiếng rì rào theo nhiều cung bậc.

- Tiếng lá xào xạc dịu hiền.

 

Hoạt động

Nghiêng ngả thân cây, lay động lá cành

- Nghiêng ngả đung đưa chào mời

 

NT được sử dụng

So sánh, nhân hóa, dùng các từ láy tượng hình.

Dùng nhiều từ láy, phép nhân hoá… , miêu tả sống động.

Hai cây phong trong cái nhìn của họa sĩ: Chỉ bằng một đôi ba nét phác thảo của một nghệ sĩ, hình ảnh hai cây phong hiện lên với đường nét, màu sắc pha lẫn âm thanh thật tuyệt diệu, có tâm hồn, rất gắn bó con người.

Hai cây phong trong kí ức tuổi thơ: Đó là những bức tranh thiên nhiên rộng lớn, huyền ảo, đầy đường nét, mầu sắc làm tăng chất bí ẩn, quyến rũ của những miền đất lạ, khơi gợi ước mơ khao khát trong tâm hồn trẻ thơ.

3. Ý nghĩa của hai cây phong

Ý nghĩa của hai cây phong

Đối với tác giả

Đối với quê hương

Đối với câu chuyện về thầy Đuy-sen

- Gắn bó với kỉ niệm tuổi thơ của tuổi học trò. Khơi gợi bao ước mơ khát vọng của tuổi thơ.

- Hai cây phong là biểu tượng của quê hương, gắn với tình yêu quê hương da diết.

- Là nhân chứng cho câu chuyện cảm động về thầy Đuy-sen.

V. Các bài văn mẫu

Hai cây phong - Ai-ma-tốp

Đề bài: Phân tích bài Hai cây phong

Bài tham khảo 1

Hai cây phong quan trọng với lũ trẻ, với nhân vật xưng “tôi” không chỉ bởi chúng là người bạn cùng tham gia vào những trò chơi thú vị với bọn trẻ, mà dường như điều quan trọng hơn là chính hai cây phong đã mang lại cho chúng một thế giới khác, mở rộng tầm mắt chúng với những chân trời bao la. Từ trên cao ngất, phép thần thông mở ra trước mắt lũ trẻ những điều kì thú, “cả một thế giới đẹp đẽ vô ngần của không gian bao la và ánh sáng”. Đó là một thế giới vừa quen vừa lạ mà nếu đứng dưới gốc cây phong hay trên cánh thảo nguyên, chúng cũng không thể nào thấy được. Cảm giác choáng ngợp làm chúng sửng sốt, nín thở, quên đi cả việc làm chúng thích thú bậc nhất là bắt tổ chim. Tiếp theo là chuồng ngựa nông trang bây giờ bỗng nhỏ lại, thảo nguyên hoang vu mất hút trong sương mờ, dòng sông lấp lánh như một sợi chỉ bạc chạy tới chân trời… ở trên không, chúng mới cảm nhận được sự mênh mông, không cùng, quyến rũ và đầy bí ẩn của đất đai, bầu trời cảnh vật của quê hương đất nước. Hai cây phong đã thức dậy trong chúng những suy nghĩ mà có lẽ trước đó lũ trẻ tinh nghịch này chưa bao giờ nghĩ tới: “Đã phải đấy là nơi tận cùng thế giới chưa, hay phía sau vẫn còn có bầu trời như thế này, những đám mây, những đồng cỏ và sông ngòi như thế này?”. Đó là những suy nghĩ sẽ là bệ đỡ, bệ phóng cho những ước mơ vầ khát vọng lần đầu thức tỉnh trong tâm hồn những đứa trẻ làng Kukurêu. Khát vọng đã vượt qua khỏi ngôi làng nhỏ bé, đến với những miền đất xa xôi của Tổ quốc. Chính hai cây phong đã đem chúng đến với thế giới mở đầy thú vị ấy. Hai cây phong sở dĩ trở nên đặc biệt, ngoài những lí do trên chủ yếu nó còn gắn với một người – nhân vật chính của câu chuyện – thầy giáo trường làng Đuy-sen – người thầy giáo đầu tiên có công xây dựng ngôi trường đầu tiên, xoá mù chữ cho lũ trẻ trong làng. Chính thầy đã đem hai cây phong về,’cùng với cô học trò nghèo khổ An-tư-nai trồng chúng. Hai cây phong chính là nhân chứng của câu chuyện xúc động về tình cảm của thầy trò An-tư-nai. Thầy Đuy-sen trồng hai cây phong để gửi gắm ước mơ, hi vọng những đứa trẻ nghèo khổ, thông minh, ham học như An-tư-nai sau này sẽ lớn lên, trưởng thành và bay xa, trở thành những người có ích. Hai cây phong được gửi gắm biết bao ước mơ và hi vọng về một thế hệ trẻ, thế hệ mới sẽ làm đổi thay cho làng Ku-ku-rêu. Hai cây phong chính là hiện thân xúc động cho khoảng trời ấu thơ nghĩa tình, là nơi lưu giữ những kỉ niệm của bao thế hệ học trò làng Ku-ku-rêu bé nhỏ. Từ câu chuyện về hình ảnh hai cây phong, Ai-ma-tốp gợi lên trong lòng người đọc về suối nguồn của tình yêu với quê hương, đất nước thật giản dị, sâu sắc mà cảm động biết bao.

Bài tham khảo 2

Dường như trên con đường trở về làng Ku-ku-rêu thân yêu của mình, tâm trí của người hoạ sĩ cứ dần chìm sâu vào kỉ niệm êm đềm về hai cây phong. Những kỉ niệm của thời thơ ấu với chúng bạn như được đánh thức. Tác giả vừa nhớ lại vừa kể, tả một cách rất cụ thể thấm đượm cảm xúc mến thương ngọt ngào. “Cứ mỗi lần chúng tôi reo hò, huýt còi ầm T chạy lên đồi là hai cây phong khổng lồ lại nghiêng ngả đung đưa như muốn chào mời chúng tôi đến với bóng râm mát rượi và tiếng lá xào xạc dịu hiền”. Dường như ở đây có một mối giao cảm kì lạ và thiêng liêng. Hai cây phong như rất vui mừng chơi đùa với lũ trẻ. Trong những trò chơi đó, chúng cũng là những người bạn thân thiết và dịu hiền, che chở cho lũ trẻ. Hai cây phong như những người bạn lớn vô cùng thân thiết, bao dung, độ lượng và gắn bó với lũ trẻ trong làng. Còn lũ trẻ thì như những chú chim non ngây thơ, nghịch ngợm và ngộ nghĩnh, chơi đùa không biết mệt, không biết chán dưới gốc và trên hai cây phong đã thành cổ thụ. Hai cây phong quan trọng với lũ trẻ, với nhân vật xưng “tôi” không chỉ bởi chúng là người bạn cùng tham gia vào những trò chơi thú vị với bọn trẻ, mà dường như điều quan trọng hơn là chính hai cây phong đã mang lại cho chúng một thế giới khác, mở rộng tầm mắt chúng với những chân trời bao la. Từ trên cao ngất, phép thần thông mở ra trước mắt lũ trẻ những điều kì thú, “cả một thế giới đẹp đẽ vô ngần của không gian bao la và ánh sáng”. Đó là một thế giới vừa quen vừa lạ mà nếu đứng dưới gốc cây phong hay trên cánh thảo nguyên, chúng cũng không thể nào thấy được. Cảm giác choáng ngợp làm chúng sửng sốt, nín thở, quên đi cả việc làm chúng thích thú bậc nhất là bắt tổ chim. Tiếp theo là chuồng ngựa nông trang bây giờ bỗng nhỏ lại, thảo nguyên hoang vu mất hút trong sương mờ, dòng sông lấp lánh như một sợi chỉ bạc chạy tới chân trời… ở trên không, chúng mới cảm nhận được sự mênh mông, không cùng, quyến rũ và đầy bí ẩn của đất đai, bầu trời cảnh vật của quê hương đất nước. Hai cây phong đã thức dậy trong chúng những suy nghĩ mà có lẽ trước đó lũ trẻ tinh nghịch này chưa bao giờ nghĩ tới : “Đã phải đấy là nơi tận cùng thế giới chưa, hay phía sau vẫn còn có bầu trời như thế này, những đám mây, những đồng cỏ và sông ngòi như thế này ?”. Đó là những suy nghĩ sẽ là bệ đỡ, bệ phóng cho những ước mơ và khát vọng lần đầu thức tỉnh trong tâm hồn những đứa trẻ làng Ku-ku-rêu. Khát vọng đã vượt qua khỏi ngôi làng nhỏ bé, đến với những miền đất xa xôi của Tổ quốc. Chính hai cây phong đã đem chúng đến với thế giới mở đầy thú vị ấy. Hai cây phong sở dĩ trở nên đặc biệt, ngoài những lí do trên chủ yếu nó còn gắn với một người – nhân vật chính của câu chuyện – thầy giáo trường làng Đuy-sen – người thầy giáo đầu tiên có công xây dựng ngôi trường đầu tiên, xoá mù chữ cho lũ trẻ trong làng. Chính thầy đã đem hai cây phong về,’cùng với cô học trò nghèo khổ An-tư-nai trồng chúng. Hai cây phong chính là nhân chứng của câu chuyện xúc động về tình cảm của thầy trò An-tư-nai. Thầy Đuy-sen trồng hai cây phong để gửi gắm ước mơ, hi vọng những đứa trẻ nghèo khổ, thông minh, ham học như An-tư-nai sau này sẽ lớn lên, trưởng thành và bay xa, trở thành những người có ích. Hai cây phong được gửi gắm biết bao ước mơ và hi vọng về một thế hệ trẻ, thế hệ mới sẽ làm đổi thay cho làng Ku-ku-rêu. Với một tâm hồn giàu xúc cảm, với con mắt tinh tế của một hoạ sĩ, hai cây phong được khắc họa đậm nét và giàu chất tạo hình. Với cách kể chuyện đan xen, lồng ghép hai thời điểm, hiện tại – quá khứ, trưởng thành – niên thiếu câu chuyện trở nên sống động, thân mật, gần gũi, ấm áp và chân thật hơn đối với người đọc. Hai cây phong là góc trời của tuổi thơ, nuôi dưỡng tâm hồn nhân vật xưng “tôi” dù sau này anh không còn ở làng Ku-ku-rêu nữa. Chúng cũng chính là tiếng mời gọi thân thiết những đứa con xa quê trở về với ngôi làng nhỏ bé. Hai cây phong nhắc chúng ta đừng quên quá khứ tuổi thơ, đừng bao giờ quên công ơn và tình cảm của người thầy giáo đầu tiên của cuộc đời mình.

1 68 lượt xem