Soạn bài Tự đánh giá cuối học kì 2 lớp 7 (Cánh Diều)

Sinx.edu.vn xin giới thiệu soạn bài Tự đánh giá cuối học kì 2 lớp 7 Cánh Diều hay, ngắn gọn giúp học sinh nắm được nội dung chính của bài, dễ dàng trả lời các câu hỏi trong bài từ đó dễ dàng soạn văn 7. Mời các bạn đón xem:

1 71 lượt xem


Nội dung bài viết


Soạn bài Tự đánh giá cuối học kì 2

I. Đọc hiểu 

a. Đọc câu chuyện sau và ghi vào vở chữ cái đứng trước phương án trả lời đúng của mỗi câu hỏi (từ câu 1 đến câu 6):

Đọc truyện: Lừa đội lốt sư tử (trang 98 sgk Ngữ văn lớp 7 Tập 2)

Câu 1 (trang 98 sgk Ngữ văn lớp 7 Tập 2): Phương án nào nêu đúng đặc điểm thể loại của văn bản Lừa đội lốt sư tử 

A. Là loại truyện các nhà văn viết cho thiếu nhi nhiều nước trên thế giới

B. Thường mượn chuyện loài vật để nói lên bài học đối với con người 

C. Là loại chuyện ngắn hiện đại được viết nhằm tạo ra tiếng cười cho bạn đọc

D. Là loại truyện dịch do các nhà văn nước ngoài viết về động vật

Lời giải:

Đáp án đúng là: B.

Thường mượn chuyện loài vật để nói lên bài học đối với con người.

Câu 2 (trang 98 sgk Ngữ văn lớp 7 Tập 2): Câu chuyện trên được kể theo ngôi kể nào?

A. Ngôi thứ 3

B. Ngôi thứ nhất 

C. Ngôi thứ nhất số nhiều

D. Ngôi thứ 2

Lời giải:

Đáp án đúng là: A.

Ngôi thứ 3

Câu 3 (trang 98 sgk Ngữ văn lớp 7 Tập 2): Câu nào sau đây gợi ra bài học cho con người?

A. Một hôm, lừa lấy được bộ lông sư tử do thợ săn quẳng ra ngoài để phơi.

B. Khi nó đến gần thì tất cả, người cũng như thú đều bỏ chạy 

C. “Cái mã bề ngoài có thể che mắt được người đời, còn lời nói sẽ bộc lộ kẻ ngốc.”

D. Ngay sau đó cáo chạy lại bảo với nó rằng: “A, ta nhận ra nhà ngươi!”

Lời giải:

Đáp án đúng là: C.

“Cái mã bề ngoài có thể che mắt được người đời, còn lời nói sẽ bộc lộ kẻ ngốc.”

Câu 4 (trang 98 sgk Ngữ văn lớp 7 Tập 2): Câu nào sau đây có chứa từ Hán Việt

A. Trong ngày hôm ấy nó là một cú lừa đầy kiêu hãnh 

B. Khi nó đến gần thì tất cả, người cũng như thú đều bỏ chạy… 

C. Nó khoác vào và tiến về làng.

D. “A, ta nhận ra nhà ngươi!”.

Lời giải:

Đáp án đúng là: A.

Trong ngày hôm ấy nó là một cú lừa đầy kiêu hãnh

Câu 5 (trang 99 sgk Ngữ văn lớp 7 Tập 2): Câu nào nêu đúng nội dung chính của văn bản Lừa đội lốt sư tử?

A. Nhân vật tôi kể về câu chuyện con lừa đội lốt sư tử

B. Ai đó kể chuyện về con lừa đội lốt sư tử

C. Con lừa đã kể về chuyện mình mượn lốt sư tử

D. Con cáo kể chuyện về con lừa đội lốt sư tử 

Lời giải:

Đáp án đúng là: A.

Nhân vật tôi kể về câu chuyện con lừa đội lốt sư tử.

Câu 6 (trang 99 sgk Ngữ văn lớp 7 Tập 2): Phương án nào nêu đúng ý nghĩa (bài học) rút ra được từ câu chuyện trên?

A. Cáo luôn luôn là con vật tinh khôn, cần cảnh giác với nó 

B. Nên làm bạn thân với mọi người để tránh tai họa

C. Cần tránh xa những con vật hung dữ như sư tử

D. Mượn danh tiếng của người khác sẽ chuốc họa vào thân

Lời giải:

Đáp án đúng là: D.

Mượn danh tiếng của người khác sẽ chuốc họa vào thân

b. Đọc đoạn trích sau và ghi vào vở chữ cái đứng trước phương án trả lời đúng của mỗi câu hỏi (từ câu 7 đến câu 9)

Đọc đoạn trích trong SGK (trang 99 sgk Ngữ văn lớp 7 Tập 2)

Câu 7 (trang 100 sgk Ngữ văn lớp 7 Tập 2): Phương án nào nêu đúng căn cứ chủ yếu để xác định đoạn trích trên là văn bản nghị luận?

A. Nêu lí lẽ nhằm thuyết phục học sinh cần có trách nhiệm với chính mình

B. Nêu lên các ví dụ về sự đam mê học tập, có chí tiến thủ làm những việc lớn

C. Nêu lên tầm quan trọng của việc xác định ngành nghề trong tương lai

D. Nêu lên ý nghĩa của các phương pháp học tập giúp học sinh học giỏi hơn.

Lời giải:

Đáp án đúng là: A.

Nêu lí lẽ nhằm thuyết phục học sinh cần có trách nhiệm với chính mình

Câu 8 (trang 100 sgk Ngữ văn lớp 7 Tập 2): Trong các câu sau, câu nào nêu lí lẽ?

A. Các bạn có thể là một tác giả có tài – thậm chí tài đến mức có thể viết được sách hay báo …

B. Dù bạn muốn làm gì với cuộc đời mình thì tôi cũng cam đoan rằng bạn phải học rồi mới làm được 

C. Các bạn có thể là một nhà cải cách hay phát minh có tài – thâm chí tài đến mức có thể khám phá ra một loại iphone mới 

D. Các bạn có thể trở thành thị trưởng hoặc thượng nghị sĩ …

Lời giải:

Đáp án đúng là: B.

Dù bạn muốn làm gì với cuộc đời mình thì tôi cũng cam đoan rằng bạn phải học rồi mới làm được

Câu 9 (trang 100 sgk Ngữ văn lớp 7 Tập 2)Câu nào thể hiện rõ lời khuyên của tổng thống ô-ba-ma đối với học sinh?

A. Mỗi người trong các bạn đều giỏi một việc gì đó.

B. Đấy chính là cơ hội mà nền giáo dục có thể cung cấp cho các bạn

C. Bạn phải làm việc, phải rèn luyện và phải học thì mới có công việc tốt được

D. Các bạn có thể trở thành thị trưởng hoặc thượng nghị sĩ …

Lời giải:

Đáp án đúng là: C.

Bạn phải làm việc, phải rèn luyện và phải học thì mới có công việc tốt được

Câu 10 (trang 100 sgk Ngữ văn lớp 7 Tập 2): Tại sao có thể nói: “Kết quả học tập của các bạn quyết định chính tương lai của đất nước này.”? Viết vào vở câu trả lời ngắn gọn của em

Lời giải:

“Kết quả học tập của các bạn quyết định chính tương lai của đất nước này.” Vì kết quả học tập tốt phản ánh trình độ nhận thức, khả năng tư duy tốt của thế hệ trẻ. Mà thế hệ trẻ chính là người quyết định tương lai, vận mệnh cảu đất nước.

II. Viết 

Chọn một trong hai đề sau để viết thành bài văn ngắn:

Đề 1: Em hãy nêu suy nghĩ, cảm xúc và lí do yêu thích của bản thân đối với một bài thơ đã học ở sách Ngữ văn 7, Tập 2.

Lời giải:

Dàn ý: Em hãy nêu suy nghĩ, cảm xúc và lí do yêu thích của bản thân đối với một bài thơ

1. Mở bài:

– Giới thiệu sơ lược về tác giả: tên tuổi, bút danh, vị trí trong nền văn học, chủ đề sáng tác, phong cách sáng tác, những đóng góp của tác giả đối với phong trào văn học, giai đoạn văn học và nền văn học dân tộc.

– Giới thiệu tổng quát về bài thơ: hoàn cảnh xuất xứ, đại ý, nội dung chính của đoạn thơ/bài thơ. Dẫn vào đoạn thơ, bài thơ cần phân tích: trích lại bài thơ (nếu ngắn) còn khổ thơ thì phải ghi lại tất cả.

2. Thân bài:

– Khái quát về vị trí trích đoạn hoặc bố cục, mạch cảm xúc chủ đạo của khổ thơ, bài thơ.

– Giới thiệu vấn đề nghị luận và phương hướng nghị luận.

– Phân tích bài thơ/đoạn thơ: trích thơ rồi lần lượt phân tích những từ ngữ, hình ảnh, biện pháp tu từ, v.v…. trong từng câu thơ, giải mã đúng từ ngữ, hình ảnh đó để giúp người đọc cảm thấy được những cái hay, cái đặc sắc về nội dung, nghệ thuật của bài thơ.

– Nhận xét đánh giá bài thơ:

+ Đánh giá về nội dung, tư tưởng của bài thơ. (Nét đặc sắc về nội dung của bài thơ là gì? Thành công/hạn chế?)

+ Đánh giá về nghệ thuật biểu hiện đặc sắc (Thành công/hạn chế?)

+ Đánh giá về phong cách tác giả. (Qua bài thơ em thấy tác giả là người như thế nào; có thể nói thêm những đặc điểm về phong cách nghệ thuật và đóng góp của nhà thơ trên văn đàn lúc bấy giờ).

3. Kết bài:

+ Khẳng định lại toàn bộ gia trị về nội dung, nghệ thuật của bài thơ.

+ Liên hệ bản thân và cuộc sống (nếu có).

Em hãy nêu suy nghĩ, cảm xúc và lí do yêu thích của bản thân đối với một bài thơ (Mẫu 1)

Một bài thơ với lời thơ bình dị, giàu cảm xúc chất chứa tình cảm mà người đọc sẽ nhớ mãi của người con dành cho mẹ của mình trong chương trình Ngữ văn 7 mà em cảm thấy vô cùng yêu thích đó là bài thơ Mẹ và quả của tác giả Nguyễn Khoa Điềm.

Ngay từ nhan đề bài thơ tưởng chừng như đơn giản nhưng lại đọng lại, gợi thức cho chúng ta nhiều suy ngẫm về người mẹ đã vất vả sớm hôm, chăm chút cho nhiều thứ quả trên đời. Tác giả mở đầu bài thơ bằng những lời tâm tình chia sẻ với bạn đọc về những kỉ niệm than thương về mẹ, về mái ấm gia đình:

Những màu quả mẹ tôi hái được

Mẹ vẫn trông vào tay mẹ vun trồng

Những màu quả lặn rồi lại mọc

Như mặt trời, như khi mặt trăng

Những công việc hàng ngày mẹ vất vả vun trồng hàm chứa nhiều công lao của mẹ. Ý thơ của Nguyễn Khoa Điềm đã hiện ra những mảnh vườn xanh tốt, thấp thoáng bóng dáng mẹ sau những giàn bầu giàn bí. Kết quả của những công lao khó nhọc đó là những mùa quả mọc rồi lặn, tiếp nối nhau đem lại cuộc sống no đủ cho đàn con thơ.

Từ vườn cây cảu mẹ Nguyễn Khoa Điềm bẳt nhịp sangvườn người:

Lũ chúng tôi từ tay mẹ lớn lên

Còn những bầu và bí thì lớn xuống

Chúng mang dáng những giọt mồ hôi mặn

Rỏ xuông lòng thầm lặng mẹ tôi

Nguyễn Khoa Điềm hình dung những giọt mồ hôi của mẹ trong việc trồng cây, trồng người khi rơi xuống đất mà “rỏ xuống lòng thầm lặng mẹ tôi”. Nhà thơ đã thấu hiểu những giọt lòng đau đáu vì con. Thế nhưng mẹ chẳng than phiền khó nhọc, mẹ chỉ lau vội những giọt mồ hôi, giấu sự vất vả vào lòng đề các con mẹ được hưởng hạnh phúc.

Đến khi tay mẹ đã mỏi mà mình vẫn là một thứ quả xanh non:

Và chúng tôi một thứ quả trên đời

Bảy mươi tuổi mẹ mong chờ được hái

Tôi hoảng sợ ngày bàn tay mẹ mỏi

Mình vẫn còn một thứ quả non xanh

Trên đời này ai trồng cây mà không mong đến ngày hái quả. Và quả của mẹ chính là những đứa con khôn lớn trưởng thành. Mẹ luôn mong mỏi các con của mẹ trưởng thành, mẹ luôn dõi theo các con. Ý thơ làm lay động tất cả những đứa con. Hãy sống sao để mẹ được yên lòng, đừng biến thành quả sâu quả héo để mẹ buồn nghe không!

Vần thơ Mẹ và quả ngân lên như lời tỉ tê tâm sự của tác giả với mỗi chúng ta và tình cảm yêu kính, biết ơn của tác giả về mẹ của mình.

TOP 10 mẫu Em hãy nêu suy nghĩ, cảm xúc và lí do yêu thích của bản thân đối với một bài thơ hay nhất (ảnh 1)

Em hãy nêu suy nghĩ, cảm xúc và lí do yêu thích của bản thân đối với một bài thơ (Mẫu 2)

Những cánh buồm của Hoàng Trung Thông là Bài thơ giàu chất suy tư, trầm lắng trong hình ảnh thơ hai cha con với những hoài bão trong sáng làm xúc động lòng người.

Hình ảnh những cánh buồm là hình tượng thể hiện ước mơ được bay xa của nhà thơ. Nó xuyên suốt cả bài thơ.

Hình ảnh hai cha con giữa thiên nhiên, chan hòa màu sắc rực rỡ:

Hai cha con bước đi trên cát

Ánh mặt trời rực rỡ biển xanh

Bóng cha dài lênh khênh

Bóng con tròn chắc nịch

Hai cha con bước đi trên cát, chan chứa một hơi ấm lan truyền chan hòa trong sắc trời đại dương thật kỳ diệu. bóng hai cha con nổi bật hẳn với sự bé nhỏ của con người trước khung cảnh thiên nhiên bao la. Hình ảnh đối lập thật dễ thương đó là bóng lênh khênh của cha bên cái bóng tròn chắc nịch thể hiện sự khác biệt giữa hai thế hệ cha con đang trên cùng một hướng đi.

Đại dương chứa chang huyền diệu, sau trận mưa biển càng đẹp càng trong, cũng như hai cha con trong bóng chân dài và gầy để cho con sự chắc nịch khỏe khoắn. đó là quy luật của tạo hóa. Những gì cha mơ ước ngày trước sự rả rích của trận mưa thì ngày sau người con lại tiếp tục đưa ước mơ bay xa. Người cha chỉ dẫn cho con đi trong thế giới màu hồng của một chân trời trong tương lai rộng mở.

Em hãy nêu suy nghĩ, cảm xúc và lí do yêu thích của bản thân đối với một bài thơ (Mẫu 3)

Những mùa quả mẹ tôi hái được

Mẹ vẫn trông vào tay mẹ vun trồng

Những mùa quả lặn rồi lại mọc

Như mặt trời khi như mặt trăng

Lũ chúng tôi từ tay mẹ lớn lên

Còn những bí và bầu thì lớn xuống

Chúng mang dáng giọt mồ hôi mặn

Rỏ xuống lòng thầm lặng mẹ tôi

Và chúng tôi, một thứ quả trên đời

Bảy mươi tuổi mẹ đợi chờ được hái

Tôi hoảng sợ ngày bàn tay mẹ mỏi

Mình vẫn còn một thứ quả non xanh.

Bài thơ là một hiện minh thuyết phục về luật nhân - quả trong cuộc sống con người - thế giới khách quan với tính biện chứng sâu sắc của nó. Hình tượng Mẹ và Quả xuyên suốt toàn bài thơ làm sáng rõ thêm cho luật nhân - quả (nhân nào thì quả ấy...) đã tác động mạnh mẽ đến tư tưởng, tình cảm, tâm hồn mỗi chúng ta.

Những mùa quả mẹ tôi hái được

Mẹ vẫn trông vào tay mẹ vun trồng

Hai câu thơ mở đầu là một sự khẳng định, định hướng tính biện chứng về luật nhân - quả. Vì sao như vậy? Vì:

'Những mùa quả mẹ tôi hái được

Mẹ vẫn trông vào tay mẹ vun trồng'

Dẫu tay của ai khác có thể khoẻ, chắc (!) hơn tay mẹ nhưng phẩm chất của mẹ là tự lực cánh sinh. Là người từng trải mẹ không thiếu kinh nghiệm về sự trả giá đó. Mẹ chỉ thu hoạch được, hái được những mùa quả từ tay mẹ vun trồng mà thôi. Những mùa quả với mẹ cần thiết biết bao, không thể thiếu nó được. Và nữa, những mùa quả không phải lúc nào cũng có, thậm chí có khi 'thất bát' trắng tay nhưng thường là tuần tự theo một chu kỳ nhất định, lặn rồi lại mọc – như mặt trời khi như mặt trăng. Cho nên theo mẹ không thể “Đại Lãn chờ sung' mà được, phải có thời gian vun trồng, chăm sóc và chờ đợi. Sự “vun trồng” của mẹ phụ thuộc vào mẹ, vun trồng chu đáo kỹ lưỡng ắt sẽ được quả tốt, ngược lại, thì...

Thời gian chăm sóc - chờ đợi là thời gian quả lặn. Còn khi thu hoạch (quả chín, quả đến kỳ hái được), chính là thời gian quả mọc. Hai từ 'lặn' và 'mọc' thật ấn tượng. Đây là một ẩn dụ đầy tính sáng tạo của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm khi nói về luật nhân - quả trong chu kỳ trồng trọt của nhà nông.

Nhưng vấn đề không dừng lại ở quy luật trồng trọt của nhà nông. Điều chính yếu là trong bài thơ này là Nguyễn Khoa Điềm nói đến công lao dưỡng dục sinh thành của người mẹ đối với con cái. Tay mẹ như có phép thần nên 'lũ chúng tôi' (là con của mẹ) cứ thế lớn lên qua sự chăm sóc nuôi dưỡng của mẹ.

'Còn những bí và bầu thì lớn xuống

Chúng mang dáng giọt mồ hôi mặn

Rỏ xuống lòng thầm lặng mẹ tôi'.

Các câu thơ đọc lên nghe thật ấm áp, dân giã, tưởng như không có gì dân giã hơn, bởi đó là lời ăn tiếng nói hàng ngày gắn bó thân thiết của nhà nông. Nguyễn Khoa Điềm đã chọn quả bí, quả bầu với đặc trưng của nó là 'lớn xuống', hình dáng lại 'mang dáng giọt mô hôi mặn' nhằm diễn tả nỗi khổ nhọc, vất vả của mẹ. Biết bao giọt mồ hôi mặn của mẹ đã nhỏ xuống âm thầm, lặng lẽ để “kết nên” những quả bí, quả bầu.

Điều thiết thực là, chính những quả bí, quả bầu này (có thể còn nhiều loại hoa màu khác) lại là nguồn sống nuôi dưỡng cho 'lũ chúng tôi' lớn lên. Hẳn là mẹ rất vui và tin tưởng vào sự 'vun trồng' của mình sẽ được đền bù xứng đáng. Không có người mẹ nào nuôi con mà kể công lao. Trái lại, con cái nhiều khi... Thế nên, dân gian mới truyền đời

'Mẹ nuôi con biển hồ lai láng

Con nuôi mẹ tính tháng ngày công'.

Ngẫm thật chạnh lòng phải không bạn?! Chính vậy mà cha ông vẫn luôn răn dạy con trẻ rằng:

Công cha như núi Thái Sơn

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra

Một lòng thờ mẹ kính cha

Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.

Như vậy, đủ thấy các bậc làm cha làm mẹ luôn mong muốn gì ở các con? Nguyễn Khoa Điềm đã lý giải điều đó một cách chân thành, mộc mạc và thấm thía qua khổ thơ cuối của bài. Từ chuyện quả thật do cây tạo ra đến quả - con người do dưỡng dục mà thành – là một chuyển ý bất ngờ độc đáo của nhà thơ:

Và chúng tôi, một thứ quả trên đời

Bảy mươi tuổi mẹ đợi chờ được hái

Tứ của bài thơ chính là ở hai câu này. Đời của mẹ đã bao lần hái được quả nhưng điều để mẹ toại nguyện hơn cả là mong muốn các con trở thành một thứ 'quả lành có ích' cho đời vì mẹ đã 'thất thập cổ lai hy' rồi. Tưởng thế là đủ không cần phải nói gì thêm. Đọc tiếp hai câu cuối của bài thơ mới thấy chữ HIẾU của đứa con đặt ra vượt hẳn trên sự nghĩ bình thường của mẹ, của nhân gian:

Tôi hoảng sợ ngày bàn tay mẹ mỏi

Mình vẫn còn một thứ quả non xanh.

Thật là tài tình. Đứa con Nguyễn Khoa Điềm nghĩ được như vậy quả là đại hiếu đối với mẹ. Đằng sau nỗi day dứt thường niên đó là một tấm lòng 'cho tròn chữ hiếu mới là đạo con' của nhà thơ. Rằng, bất cứ ai đọc Mẹ và Quả, hẳn đều cảm ơn mẹ - chính mẹ đã có công sinh thành, dưỡng dục nên một người con tuyệt vời là tác giả của bài thơ trên.

Dẫu không phải xếp lớp 'tập này tập nọ' nhưng công chúng yêu thơ đã 'đọc anh' là 'bắt mắt' liền.

Âm hưởng sử thi và trữ tình công dân là hai cảm hứng chủ đạo, thông qua bút pháp tả thực và điển hình hoá cao độ trên cái nền cuộc sống đầy biến động được tinh lọc qua nhãn quan sáng suốt, nên Nguyễn Khoa Điềm luôn trụ vững với thời gian, tạo một vị thế xứng đáng trong nền thơ dân tộc. Mẹ và Quả trên đây là một trong rất nhiều bài thơ hay 'không thể kể hết' của nhà thơ.

Em hãy nêu suy nghĩ, cảm xúc và lí do yêu thích của bản thân đối với một bài thơ (Mẫu 4)

Hoàng Trung Thông là một nhà thơ tiêu biểu của nền thơ ca cách mạng. Bài thơ “Những cánh buồm” là một trong những tác phẩm hay của ông.

Bài thơ được rút ra từ tập thơ cùng tên, được xuất bản lần đầu vào năm 1964:

“Hai cha con bước đi trên cát

Ánh mặt trời rực rỡ biển xanh

Bóng cha dài lênh khênh

Bóng con tròn chắc nịch,

Sau trận mưa đêm rả rích

Cát càng mịn, biển càng trong

Cha dắt con đi dưới ánh mai hồng

Nghe con bước, lòng vui phơi phới.”

Hình ảnh mở đầu là người cha và đứa con đang bước đi trên cát. Sau một đêm mưa rả rích, ánh mặt trời xuất hiện đầy rực rỡ, khiến cho nước biển trong xanh, cát trở nên mịn màng. Chiếc bóng của cha dài lênh khênh, còn bóng con tròn chắc nịch - một hình ảnh đáng yêu cho thấy sự gắn bó, yêu thương của cha và con. Khi lắng nghe tiếng chân con bước, lòng cha cảm thấy sung sướng và hạnh phúc.

Ngắm nhìn thế giới rộng lớn ngoài kia, đứa trẻ đã hỏi cha bằng một giọng điệu đầy hồn nhiên, ngây thơ:

“Cha ơi, sao xa kia chỉ thấy nước thấy trời,

Không thấy nhà, không thấy cây, không thấy người ở đó?”

Đáp lại câu hỏi của con, người cha đã giải thích cho con hiểu được rằng:

“Theo cánh buồm đi mãi đến nơi xa,

Sẽ có cây, có cửa, có nhà

Vẫn là đất nước của ta

Ở nơi đó cha chưa hề đi đến.”

Thế giới rộng lớn ngoài kia có muôn vàn điều thú vị. Đó cũng là nơi người cha chưa từng đi đến. Và rồi cậu bé lại chỉ cánh buồm bảo:

“Cha mượn cho con cánh buồm trắng nhé,

Để con đi!”

Những cánh buồm kiêu hãnh ngoài biển khơi thể hiện khao khát muốn đi xa để khám phá của con. Khi l ắng nghe lời đề nghị của con, cha dường như bắt gặp tiếng lòng của chính mình. Khi còn là một cậu bé, người cha cũng từng mong ước được khám phá thế giới rộng lớn ngoài kia. Và giờ, những ước mơ chưa thể thực hiện của người cha nay được gửi gắm trong con. Đứa con sẽ tiếp tục thực hiện ước mơ đó thay cho người cha:

“Lời của con hay tiếng sóng thầm thì

Hay tiếng của lòng cha từ một thời xa thẳm

Lần đầu tiên trước biển khơi vô tận

Cha gặp lại mình trong tiếng ước mơ con.”

Như vậy, bài thơ “Những cánh buồm” đã thể hiện niềm tự hào của người cha khi thấy con mình cũng ấp ủ những ước mơ cao đẹp. Qua đó, Hoàng Trung Thông còn muốn ca ngợi ước mơ được khám phá cuộc sống của trẻ thơ - đó là những ước mơ làm cho cuộc sống trở nên tốt đẹp hơn.

Đề 2: Có ý kiến cho rằng ăn mặc, sinh hoạt hằng ngày giản dị là biểu hiện của lối sống lạc hậu, quê mùa. Em có tán thành suy nghĩ này không? Hãy nêu ý kiến của mình và đưa ra các lí lẽ, bằng chứng để làm sáng tỏ ý kiến ấy.

Lời giải:

Bài làm tham khảo

Trong cuộc sống mỗi người sẽ lựa chọn cho mình một lối sống. Bản thân em sẽ lựa chọn cho mình lối sống giản dị. Em phản đối ý kiến cho rằng ăn mặc sinh hoạt hằng ngày giản dị là biểu hiện của lối sống lạc hậu, quê mùa.

Giản dị là một cách sống tự nhiên thể hiện qua lối ăn mặc, phong cách làm việc, cách ứng xử với mọi người…

Trong ăn mặc ta lựa chọn cho mình những bộ trang phục phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện. Đừng cố tỏ ra mình là người sành điệu, hợp thời trang mà đánh mất bản thân. Đối với học sinh thì ăn mặc giản dị là điều vô cùng cần thiết. Chúng ta mặc đồng phục, tóc tai gọn gàng đúng quy định của nhà trường là thể hiện giản dị. Khi mặc những trang phục cầu kì, kiểu cách sẽ làm chúng ta khác biệt với mọi người một cách vô nghĩa. Nếu quần áo bạn quá sành điệu mà khôngphù hợp với hoàn cảnh chẳng hóa là chúng ta dang thiếu tôn trọng mọi người, chúng ta trở thành những kẻ lố bịch hay sao?

Giản dị còn được thể hiện ở việc chúng ta biết cách cư xử đúng mực. Sống hòa đồng với mọi người, luôn quan tâm giúp đỡ những người xung quanh. Sống giản dị sẽ giúp chúng ta tiết kiệm được tiền bạc, thời gian công sức đầu tư vào những thứ phù phiếm xa hoa. Sống giản dị cũng giúp chúng ta sẽ dễ dang hòa nhập với mọi người xung quanh, giúp chúng ta có thêm bạn. Hơn nữa, sống giản dị cũng giúp ta thư thái tâm hồn, gắn bó sâu sắc với cộng đồng.

Vậy thì chẳng có lí do gì để nói sống giản dị là lạc hâu, quê mùa. Chúng ta chỉ quê mùa lạc hậu khi chúng ta có những hành động lố bịch, thiếu hiểu biết. Giống như một nhà văn đã từng nói “ Quần áo giản dị là y phục đúng kiểu của kẻ thô tục; chúng được may cho họ và phù hợp hoàn toàn với tiêu chuẩn cuả họ, nhưng đối với nhữngngười đã đổ đầy cuộc đời mình với những hành động lớn lao thì chúng lại được trang trí lộng lẫy”.

Giản dị chính là một trong những điều làm nên chuẩn mực và sự thanh lịch cho tâm hồn. Chính vì vậy chúng ta hãy luôn giữ cho mình một lối sống giản dị.

1 71 lượt xem