Top 35 mẫu Phân tích tác phẩm Chiếc lược ngà
Sinx.edu.vn xin giới thiệu tới các em 35 mẫu Phân tích tác phẩm Chiếc lược ngà giúp các em làm bài văn có nhiều cách phân tích tác phẩm Chiếc lược ngà đa dạng hơn được điểm tốt trong môn Ngữ văn.
Phân tích tác phẩm Chiếc lược ngà
I) Sơ đồ tư duy phân tích tác phẩm Chiếc lược ngà
Sơ đồ tư duy phân tích tác phẩm Chiếc lược ngà (Mẫu 1)
Sơ đồ tư duy phân tích tác phẩm Chiếc lược ngà (Mẫu 2)
II) Dàn ý phân tích tác phẩm Chiếc lược ngà
Dàn ý phân tích tác phẩm Chiếc lược ngà (Mẫu 1)
1. Mở bài
Giới thiệu truyện ngắn Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng
Giới thiệu tình huống truyện đặc sắc, giàu kịch tính và đậm chất thơ qua đó thấy được tài năng viết truyện của nhà văn cũng vai trò của tình huống truyện đối với việc thể hiện tư tưởng tác phẩm
- Tình huống truyện là tình thế của câu chuyện, là cảnh huống chứa đựng những mâu thuẫn, xung đột hoặc tiềm tàng để cốt truyện diễn biến, phát triển nhân vật bộc lộ tính cách
2. Thân bài
a) Nội dung tình huống truyện
+ Ông Sáu nóng lòng muốn nhận con sau 8 năm xa cách nhưng bé Thu không nhận ông Sáu là ba chỉ vì vết thẹo trên má mãi tới khi mọi người chuẩn bị trở lại chiến trường miền Đông thì bé Thu mới chịu nhận ba
+ Ở chiến trường vì thương nhớ con ông Sáu đã làm cho con chiếc lược ngà nhưng chưa kịp trao cho con thì ông hy sinh
- Đặc điểm tình huống truyện Chiếc lược ngà
+ Giàu kịch tính: gây bất ngờ, tò mò cho người đọc
+ Giàu chất thơ: có cảm xúc, sức lay động lòng người
b) Phân tích, chứng minh
* Kịch tính trong tình huống truyện
- Cuộc gặp gỡ giữa hai cha con ông Sáu và bé Thu đầy bất ngờ khi bé Thu không nhận ba
+ Mọi nỗ lực của ông Sáu trong những ngày ở nhà không thể thay đổi được thái độ của bé Thu đối với mình
- Trước khi ông Sáu đi thật bất ngờ bé Thu lúc này lại thét lên “Ba…a…a…ba!”nhận ông Sáu là ba
- Trở lại chiến khu miền Đông, tất cả tình yêu thương ông Sáu dồn vào làm cho con chiếc lược ngà nhưng chưa kịp trao cho con thì ông hy sinh
+ Trước khi hy sinh ông Sáu trao lại cây lược ngà cho bác Ba- người đồng đội thân thiết cũng là người chứng kiến câu chuyện của cha con ông Sáu
→ Tình huống chuyện liên tục thay đổi tạo kịch tính, bất ngờ, gây xúc động cho người đọc
* Chất thơ thể hiện
- Tình huống truyện cuộc gặp gỡ của cha con ông Sáu giàu chất thơ thể hiện cảm xúc mãnh liệt, xúc động của tình cha con
+ Hình ảnh ông Sáu vội vàng trong hành động, bối rối trong lời nói với con khiến người đọc cảm thấy cảm động
+ Khi đứa con không nhận ông Sáu là cha, sự thất vọng của ông Sáu lại khiến người đọc thấy xót thương
- Đoạn miêu tả cảnh cha con ông Sáu từ biệt giàu cảm xúc đặc biệt là thái độ của của bé Thu dành cho cha lay động lòng người ( Nhìn thấy cảnh ấy bà con xung quanh không có ai cầm được nước mắt, còn tôi bỗng thấy khó thở như nắm lấy trái tim tôi”)
- Tình huống ông Sáu làm cây lược ngà và trao lại trước khihy sinh là điểm nhấn cho giai điệu về tình cha con trong hoàn cảnh chiến tranh
+ Khi trở lại chiến trường, ông Sáu dốc tâm sức làm cho con chiếc lược bằng tất cả nỗi nhớ mong, tình yêu thương và cả niềm ân hận
+ Chiếc lược trở thành biểu tượng của tình phụ tử thiêng liêng, cao đẹp
+ Tình huống truyện toát lên tình cảm, cảm xúc mãnh liệt tinh tế, tạo chất thơ cho thiên truyện này
- Truyện ngắn thành công khi xây dựng tình huống truyện bất ngờ, giàu kịch tính trong diễn biến truyện, gợi lên nhiều cảm xúc sâu lắng trong lòng người đọc
- Tình huống truyện góp phần thể hiện tư tưởng của tác phẩm: Chiếc lược ngà đã thể hiện thật cảm động tình cha con sâu nặng và cao đẹp trong cảnh ngộ éo le của chiến tranh
3. Kết bài
Dàn ý phân tích tác phẩm Chiếc lược ngà (Mẫu 2)
1. Mở bài
- Giới thiệu vài nét về tác giả Nguyễn Quang Sáng: Nguyễn Quang Sáng (1932 - 2014) là một trong những nhà văn tiêu biểu của nền văn học cách mạng Việt Nam, tác giả của nhiều tác phẩm văn chương và kịch bản phim nổi tiếng.
- Giới thiệu khái quát tác phẩm: Chiếc lược ngà (1966) là tác phẩm nổi tiếng gắn liền với tên tuổi của Nguyễn Quang Sáng ca ngợi tình cảm gia đình, tình cảm cha con cảm động và sâu sắc trong chiến tranh.
2. Thân bài
* Khái quát về hoàn cảnh sáng tác:
- Chiếc lược ngà được viết vào năm 1966, khi tác giả hoạt động ở chiến trường Nam Bộ những năm kháng chiến chống Mĩ và được đưa vào tập truyện cùng tên.
- Hoàn cảnh viết truyện theo lời kể của tác giả Nguyễn Quang Sáng: Năm 1966, tôi từ miền Bắc trở về miền Nam. Vùng Đồng Tháp Mười mênh mông nước trắng. Tôi đi ghe vào sâu trong rừng và sống ở một nhà sàn treo trên ngọn cây. Lúc đó, đoàn giao liên dẫn đường toàn là nữ. Tôi rất có ấn tượng với câu chuyện của một cô gái giao liên có chiếc lược ngà trắng. Sau khi nghe cô kể chuyện, tôi ngồi viết một ngày, một đêm là hoàn thành tác phẩm này.
* Tình huống truyện
- Ông Sáu nóng lòng muốn nhận con sau 8 năm xa cách nhưng bé Thu không nhận ông Sáu là ba chỉ vì vết thẹo trên má mãi tới khi mọi người chuẩn bị trở lại chiến trường miền Đông thì bé Thu mới chịu nhận ba.
- Bé Thu đã lâu ngày không gặp cha, hình ảnh của cha trong tâm trí nó chỉ được khắc ghi qua tấm ảnh cũ của mẹ.
- Còn ông Sáu, với vết thẹo dữ dằn kia, khác người đàn ông trong ảnh nhiều. Vì vậy phản ứng không nhận cha của Thu cũng rất tự nhiên, hợp với tâm lí, tình cảm của một đứa trẻ thơ.
- Ở chiến trường vì thương nhớ con ông Sáu đã làm cho con chiếc lược ngà nhưng chưa kịp trao cho con thì ông hy sinh.
=> Tình huống truyện giàu kịch tính, gây bất ngờ, tò mò cho người đọc giúp nhà văn thể hiện rõ nét tình thương con sâu sắc của anh Sáu và nét tính cách đặc biệt của bé Thu.
* Phân tích nội dung truyện
Ở đây, các em có thể chọn phân tích theo 2 hướng: dựa theo diễn biến tình huống truyện hoặc phân tích theo từng nhân vật.
Cách 1: Phân tích theo diễn biến tình huống truyện:
- Cuộc gặp gỡ của hai cha con sau bảy năm xa cách.
- Anh Sáu thoát li gia đình đi hoạt động cách mạng lúc con gái mới được một tuổi. Bảy năm sau, anh mới có dịp ghé thăm nhà, bé Thu đã lên tám tuổi.
- Anh Sáu quá đỗi vui mừng, muốn bày tỏ tình cảm yêu thương, âu yếm đối với con.
- Ngược lại, bé Thu đối với anh như người xa lạ: sợ hãi, xa lánh, dù má giải thích thế nào đi nữa, bé vẫn dứt khoát không nhận ba.
- Bữa cơm đoàn tụ, anh Sáu gắp cho con miếng trứng cá, bé Thu vùng vằng hất xuống đất. Anh Sáu đã nổi giận, đánh con một cái vào mông. Bé Thu giận lắm nên em đã chèo xuồng sang sông với bà ngoại ngay lúc đó.
- Cảnh chia tay đầy cảm động.
- Trong phút chia tay bịn rịn, tình yêu thương và nỗi khát khao được gặp cha bùng dậy trong lòng bé Thu khiến bé hối hả, cuống quýt bày tỏ tình cảm của minh.
- Bé bật kêu lên tiếng gọi “Ba!”, chạy lại ôm ghì lấy cổ ba không rời, khóc nức nở, không cho ba đi nữa.
- Chứng kiến cảnh này, hẳn ai ai cũng xúc động, xót xa. Bác Ba (bạn của anh Sáu) bỗng thấy khó thở như có bàn tay nắm chặt lấy trái tim đến nghẹn ngào.
Cách 2: Phân tích chân dung từng nhân vật
- Nhân vật bé Thu
- Ban đầu, khi ông Sáu mới về, bé Thu không chịu thừa nhận cha: không chịu vâng lời ông Sáu nói, không gọi “ba”, nói trống không, hất miếng trứng cá mà ông Sáu gắp cho nó ra khỏi bát, bỏ sang nhà ngoại khi giận ông Sáu…
- Sau khi được bà ngoại giải thích cặn kẽ, bé Thu mới hiểu ra đó là ba mình. Tiếng thét của bé Thu “Ba…a…a…ba!” chứa đựng tất cả tình yêu thương, nỗi nhớ và sự ân hận. Cô bé nhất định “không cho ba đi nữa”,“hôn tóc, hôn cổ, hôn vai và hôn cả vết thẹo dài bên má của ba nó nữa”…
- Lớn lên, Thu trở thành một cô giao liên dũng cảm, cùng tham gia kháng chiến, tiếp bước con đường của cha cô, để lí tưởng của cha còn sáng mãi. Hai cha con quả “đã thành đồng chí chung câu quân hành”.
- Nhân vật ông Sáu
+ Những ngày ở nhà:
- Tâm trạng háo hức, niềm xúc động khi được gặp con: cái thẹo trên má anh đỏ ửng lên, giần giật; giọng run run.
- Nỗi đau khổ khi bị con gái cự tuyệt: mặt sầm lại trông rất đáng thương, hai tay buông xuống như bị gãy.
- Cố gắng tìm mọi cách để chuyện trò, vỗ về con: gắp trứng cá cho con.
- Cơn giận và việc đánh con cũng xuất phát từ nỗi đau khổ của một người cha bị con cự tuyệt.
- Phút chia tay, niềm hạnh phúc khi được bé Thu gọi “ba” khiến anh bật khóc.
+ Khi ở chiến khu:
Bao nhiêu tình cảm yêu thương, nhớ nhung ông dồn vào việc làm chiếc lược ngà, món quà kỉ niệm ông đã hứa tặng con gái ngày ra đi: “Lúc rảnh rỗi anh ngồi cưa từng chiếc răng lược cho đến khi hoàn thành, những đêm nhớ con anh lấy cây lược ra ngắm nghía”.
Chiếc lược ngà đối với ông là vật kỉ niệm, vật mang tâm hồn, chứa đựng biết bao tình thương, nỗi nhớ của ông đối với con gái yêu. Chiếc lược là niềm an ủi, động viên ông trong những ngày tháng gian khổ. Có thể nói, chiếc lược ngà là biểu tượng tình cảm cha con - một tình cảm thiêng liêng, sâu nặng và bất diệt.
Bị thương nặng, chỉ đến khi gửi lại chiếc lược ngà lại cho bạn với lời nhắn nhủ sẽ trao tận tay bé Thu, ông mới yên lòng nhắm mắt.
3. Kết bài
- Khái quát lại nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.
- Giá trị nội dung: Truyện thể hiện sâu sắc tư tưởng, chủ đề của tác phẩm, đó là khẳng định ngợi ca tình phụ tử thiêng liêng như một giá trị nhân văn sâu sắc, là cội nguồn, sức mạnh vượt lên sự hủy diệt tàn bạo của chiến tranh.
- Đặc sắc nghệ thuật: Xây dựng cốt truyện khá chặt chẽ, lựa chọn nhân vật kể chuyện thích hợp; xây dựng tình huống truyện bất ngờ, giàu kịch tính mà vẫn tự nhiên, hợp lí; nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế và sâu sắc, nhất là bé Thu; ngôn ngữ kể dung dị mang đậm chất địa phương Nam Bộ.
- Nêu cảm nghĩ của em về tác phẩm.
Dàn ý phân tích tác phẩm Chiếc lược ngà (Mẫu 3)
1. Mở bài
- Đề cập đến sức mạnh giúp con người có thể vượt qua những khốc liệt của chiến tranh: Tình đồng chí, đồng đội, tình cảm cộng đồng, tình cảm cha con
- Truyện ngắn Chiếc lược ngà, một tác phẩm ra đời năm 1966 của Nguyễn Quang Sáng đã khắc họa thành công tình cảm cha con bất diệt của ông Sáu và bé Thu trước hoàn cảnh chiến tranh
2. Thân bài
a) Ông Sáu và bé Thu phải sống trong hoàn cảnh chia li bởi chiến tranh
- Ông Sáu là một chiến sĩ hoạt động trên chiến trường, suốt 8 năm ròng ông chưa từng được gặp mặt đứa con gái của mình
- Đồng nghĩa suốt 8 năm bé Thu chỉ biết cha qua tấm ảnh chụp chung với mẹ nó
⇒ Chiến tranh đẩy con người vào hoàn cảnh xa cách
b) Tình cảm cha con sâu nặng giữa ông Sáu và bé Thu
*) Lúc còn ở rừng
- Ông Sáu nhớ thương con vô cùng, khao khát gặp con, được sống trong tình yêu thương của con
- Khi gặp con:
+ Thuyền chưa cập bến đã nhảy vội lên bờ gọi con
+ Đáp lại bé Thu ngạc nhiên , sợ hãi, vụt bỏ chạy
*) Trong ba ngày ngày nghỉ phép
- Ông Sáu khao khát tình cảm của con bao nhiêu thì bé Thu lại hoàn toàn lạnh lùng trước mọi tình cảm của cha
+ Ông càng xích lại gần, bé Thu càng lùi xa
+ Ông càng chiều bé Thu bao nhiêu, bé Thu càng lẩn tránh
+ Ông càng mong nghe được tiếng ba, bé Thu coàng cố tình trốn tránh
+ Ngay cả khi bé Thu bị lâm vào thế bí “nồi cơm sôi sùng sục nó cũng không chịu cất lên cái tiếng mà ba nó mong đợi
+ Trong bữa cơm, hành động hất cái trứng cá của bé Thu là hành động đỉnh điểm nhất khiến ông Sáu thực sự đau lòng
⇒ Ông Sáu nhận ra tình cảm không dễ gì gượng ép, vì vậy ông cam chịu
- Bé Thu cũng là một người thương yêu ba của mình vô cùng
+ Tất cả những thái độ ương nhạnh ngang bướng của bé Thu đối với ông Sáu lại là biểu hiện tuyệt vời của tình phụ tử bởi Thu chỉ có duy nhất một người cha là người trong bức ảnh chụp với má nó
+ Khi Thu được bà ngoại giảng giải người có vết thẹo chính là ba em ⇒ Tình yêu thương dành cho ông Sáu tăng lên gấp bội
+ Trong khoảnh khắc cuối cùng trước lúc ông Sáu lên đường, Thu chạy ra ôm hôn cha
+ Hành động cùng giọt nước mắt ân hận của bé Thu chảy đầm đìa trên má, trên cằm khiến ông không kìm nén được xúc động
⇒ Tình cảm giữa hai cha con ông Sáu và bé Thu là vô cùng sâu nặng
*) Lại những ngày ông Sáu xa con
- Ông Sáu thương nhớ con, ân hận vì mình đã đánh con.
- Tình yêu thương con đã khiến ông tự tay làm chiếc lược ngà thực hiện lời hứa với con
- Khi bị thương nặng ông đã dồn tất cả tàn lực của mình trao chiếc lược ngà cho ông Ba như một lời chăng chối cuối cùng
⇒ Tình cảm cha con trong lòng ông Sáu là một tình cảm bất diệt, chiến tranh có thể hủy diệt thân xác ông nhưng không thể hủy diệt tình cảm cha con của ông Sáu và bé Thu kết tinh trong chiếc lược ngà.
3. Kết bài
- Vài nét về giá trị nghệ thuật tác phẩm: Nghệ thuật xây dựng tình huống truyện độc đáo, ngôn ngữ nhân vật đặc sắc...
- Qua truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng thể hiện được sâu sắc tư tưởng, chủ đề của tác phẩm, đó là sự khẳng định ngợi ca tình phụ tử thiêng liêng như một giá trị nhân văn sâu sắc. Tình cảm ấy là cội nguồn, sức mạnh vượt lên sự hủy diệt tàn bạo của chiến tranh.
III) Các bài văn mẫu phân tích tác phẩm Chiếc lược ngà
Phân tích tác phẩm Chiếc lược ngà (Mẫu 1)
Nguyễn Quang Sáng nổi tiếng trong nền văn học Việt Nam với nhiều thể loại như truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch bản phim và hầu như chỉ viết về cuộc sống và con người Nam Bộ trong hai cuộc kháng chiến cũng như sau hòa bình. Trong kháng chiến chống Pháp, Nguyễn Quang Sáng tham gia bộ đội, hoạt động ở chiến trường Nam Bộ. Từ sau năm 1954, tập kết ra miền Bắc, Nguyễn Quang Sáng bắt đầu viết văn. Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” được Nguyễn Quang Sáng viết vào năm 1966 khi ông hoạt động ở chiến trường Nam Bộ những năm kháng chiến chống Mĩ và được đưa vào tập truyện cùng tên. Truyện ngắn này ra đời trong hoàn cảnh đạn bom ác liệt nhưng lại tập trung nói về tình người, cụ thể là tình cha con của người chiến sĩ cách mạng. Với nhan đề của truyện ngắn “Chiếc lược ngà” nó nói lên mơ ước của bé Thu và nó cũng tượng trưng cho tình cảm cha con sâu nặng của ông Sáu với cô bé Thu từ lúc còn sống cho đến cả lúc hy sinh. Là kỷ vật cuối cùng mà ông Sáu để lại cho con, đồng thời cũng khắc sâu nỗi đau đớn mà chiến tranh đã để lại trong mỗi gia đình, sự mất mát, đau thương, sự chia cắt.
Truyện ngắn xoay quanh hai cha con ông Sáu và bé Thu. Anh Sáu xa nhà đi kháng chiến lúc đứa con gái đầu lòng mới một tuổi. Bé Thu ra đời, đã bảy tám năm nhưng chưa gặp cha mình lần nào. Nó chỉ được nghe mẹ kể về bà và xem hình ba qua bức ảnh cưới đen trắng mà thôi. Mãi đến khi nó lên tám tuổi, anh mới có dịp về thăm nhà. Ngày anh Sáu được nghỉ phép ít ngày về thăm gia đình, lần đầu tiên nhìn thấy con gái mình anh vô cùng nghẹn ngào xúc động. Anh Sáu chạy tới ôm con gọi lớn “Thu ơi! Ba đây con”. Nhưng đáp lại tình cảm sâu sắc mãnh liệt của anh Sáu là thái độ hờ hững, tìm cách thoát khỏi vòng tay của người cha. Bé Thu chạy vào nhà gọi mẹ.
Suốt ba ngày, anh Sáu chẳng đi đâu xa, muốn ở bên con vỗ về, chăm sóc, bù đắp cho con sự thiếu thốn tình cảm. Song, anh càng xích lại gần thì nó càng tìm cách xa lánh, nhất định không gọi một tiếng “ba”. Khi má dọa đánh bắt kêu “ba” vào ăn cơm, nó nói trổng: “Vô ăn cơm!”; “Cơm chín rồi!”; “Con kêu rồi mà người ta không nghe”. Hai tiếng “người ta” làm anh Sáu đau lòng đến mức không khóc được, chỉ khe khẽ lắc đầu cười. Đến bữa sau, mà giao cho nó nhiệm vụ ở nhà trông nồi cơm, nó không thể tự chắt nước. Tưởng chừng nó phải cầu cứu đến người lớn, phải gọi “ba”. Nhưng quyết không, nó vẫn nói trổng “Cơm sôi rồi, chắt nước giùm cái!”. Bác Ba mở đường cho nó, nhưng nó không để ý, nó lại kêu “Cơm sôi rồi, nhão bây giờ!”. Anh Sáu cứ vẫn ngồi im. Và nó đã tự mình làm lấy công việc nguy hiểm và quá sức, mà nhất định không chịu nhượng bộ, nhất định không chịu cất lên cái tiếng mà ba nó mong chờ. Đỉnh điểm của kịch tính bé Thu hất cái trứng cá mà anh Sáu đã gắp cho nó, làm cơm văng tung tóe. Anh Sáu không thể chịu đựng nổi nữa trước thái độ lạnh lùng của đứa con gái mà ông hết mực yêu thương, anh đã nổi giận và chẳng kịp suy nghĩ, anh vung tay đánh vào mông nó. Bị anh Sáu đánh, Thu không khóc, gắp lại trứng cá rồi bỏ sang nhà ngoại, lúc đi còn cố ý khua dây lòi tói kêu rổn rảng. Bé Thu không chịu nhận anh Sáu làm cha bởi nó thấy anh Sáu không giống với người cha trong ảnh mà nó thường nhìn thấy. Những vết sẹo gớm ghiếc trên mặt ông làm cho bé Thu không thể nào nhận ra ông được. Những ngày tháng hai cha con sống chung cũng có nhiều tình tiết khiến nhiều người phải suy nghĩ. Trong khi anh Sáu tìm đủ mọi cách để được gần gũi con, để được chăm sóc cho con gái những ngày được ở nhà, thì bé Thu lại vô cùng ngang ngạnh gai góc cương quyết không chịu nhận Ba. Nhưng khi bé Thu biết được đó chính là cha mình, những vết sẹo trên mặt anh Sáu là vì dân vì nước, vì bảo vệ mẹ con Thu mà có thì bé Thu đã khóc. Nó âm thầm lau những giọt nước mắt trên khuôn mặt mình khi nghe bà ngoại kể về những chiến công của cha, những khó khăn vất vả mà cha nói phải đối diện ngoài chiến trường.
Đến lúc bé Thu nhận ra cha thì cũng là lúc anh Sáu phải ra đi. Ba ngày nghỉ phép đã hết, ngày anh Sáu phải lên đường đi chiến đấu cũng đã tới, giây phút chia ly, tiễn biệt, nghẹn ngào. Anh Sáu nói với bé Thu “Ba đi nghe con” trong giây phút ấy bé Thu đã thực sự trở thành một cô bé đúng tuổi của mình. Đúng vào lúc không một ai ngờ tới, kể cả anh Sáu, Thu thốt lên tiếng kêu thét “Ba…a…a…ba!”. “Tiếng kêu của nó như tiếng xé, xé sự im lặng và ruột gan mọi người nghe thật xót xa. Đó là tiếng “ba” nó cố kìm nén trong bao nhiêu năm nay, tiếng “ba” như vỡ tung ra từ đáy lòng nó”. Tiếng gọi thân thương ấy đứa trẻ nào cũng gọi đến thành quen nhưng với cha con Thu là nỗi khát khao của 8 năm trời xa cách thương nhớ. Nó chạy xô tới, nhảy thót lên, dang chặt hai tay ôm lấy cổ ba, hôn ba cùng khắp, hôn tóc, hôn cổ, hôn vai, hôn cả vết thẹo dài trên má, khóc trong tiếng nấc, kiên quyết không cho ba đi…Cảnh tượng ấy tô đậm thêm tình yêu mãnh liệt, nỗi khát khao mong mỏi mà Thu dành cho ba. Đó là tiếng gọi của trái tim,của tình yêu trong lòng đứa bé 8 tuổi mong chờ giây phút gặp ba. Nó gọi lớn “Không cho ba đi, ba phải ở nhà với con” rồi ôm chầm lấy anh Sáu mà khóc. Tình cảm cha con trào dâng mãnh liệt, tiếng ba được dồn nén, kìm kẹp quá lâu nay được phát ra vô cùng nghẹn ngào. Qua những biểu hiện tâm lí và hành động của bé Thu, người đọc cảm nhận được tình cảm sâu sắc, mạnh mẽ nhưng cũng thật dứt khoát, rạch ròi của bé Thu. Sự cứng đầu, tưởng như ương ngạnh ở Thu là biểu hiện của một cá tính mạnh mẽ. Tuy nhiên, cách thể hiện tình cảm của em vẫn rất hồn nhiên, ngây thơ. Tình cha con thiêng liêng trỗi dậy mãnh liệt trong em khiến cho mọi người xúc động.
Sau khi chia tay với gia đình, nỗi day dứt, ân hận ám ảnh anh Sáu suốt nhiều ngày là việc anh đã lỡ tay đánh con. Lời dặn tha thiết của đứa con: “Ba về! Ba mua cho con một cây lược nghe ba!”, đã thôi thúc anh nghĩ đến việc làm một chiếc lược ngà nhỏ xinh dành tặng con gái. Ở khu căn cứ, người cha dồn hết tình cảm yêu quý, nhớ thương vào việc làm một chiếc lược bằng ngà để tặng cô con gái bé bỏng. Anh Sáu tỉ mỉ, mài từng cái răng của chiếc lược. Anh làm nó bằng cả trái tim yêu thương của một người cha dành cho đứa con gái bé bỏng của mình. Trên sống lưng lược có khắc một hàng chữ nhỏ mà anh đã gò lưng, tẩn mẩn khắc từng nét: “Yêu nhớ tặng Thu con của ba”. Chiếc lược ngà đã thành một kỉ vật quý giá, thiêng liêng đối với anh Sáu. Nó làm dịu đi nỗi ân hận, dằn vặt bấy lâu và ấp ủ bao nhiêu tình cảm nhớ thương, mong đợi của người cha đối với đứa con xa cách. Cây lược ngà ấy chưa chải được mái tóc của con, nhưng nó như gỡ rối được phần nào tâm trạng của anh. Rồi trong một lần tác chiến anh Sáu đã anh dũng hy sinh, máu nhuộm đỏ chiếc lược ngà anh để trong túi áo. Anh đã hy sinh khi chưa kịp trao tận tay đứa con gái chiếc lược ngà. Trước lúc nhắm mắt, anh còn kịp trao cây lược ngà cho người bạn thân thiết nhất của mình là anh Quang với ý nhờ anh Quang mang chiếc lược này về quê trao tận tay con gái của mình. Anh Sáu ra đi vì tiếng gọi thân thương của quê hương đất nước, vì độc lập của dân tộc Việt Nam, để bảo vệ mảnh đất và những con người anh yêu thương. Anh Sáu mãi mãi không thể nào gặp lại bé Thu được nữa, chiếc lược ngà anh Sáu làm tặng con là món quà đầu tiên và duy nhất mà anh để lại cho đứa con gái bé bỏng của mình. Nó là một món quà vô giá, thấm đẫm tình cảm cha con, tình phụ tử thiêng liêng.
Truyện Chiếc lược ngà đã diễn tả một cách xúc động tình cảm thắm thiết, sâu nặng của cha con anh Sáu. Trong hoàn cảnh éo le của chiến tranh, tình cảm thiêng liêng ấy càng cao đẹp và ngời sáng. Câu chuyện không chỉ nói lên tình cha con thiêng liêng mà còn gợi cho người đọc suy ngẫm và thấm thía những éo le, đau thương, mất mát mà chiến tranh mang đến cho bao nhiêu con người, bao nhiêu gia đình. Vì vậy mà ý nghĩa tố cáo, lên án chiến tranh xâm lược của truyện khá sâu sắc. Đây là câu truyện có cốt truyện hấp dẫn, xoay quanh những tình huống bất ngờ nhưng vẫn tự nhiên, hợp lý. Giọng kể mộc mạc, tự nhiên. Ngôn ngữ gần với khẩu ngữ và đậm màu sắc Nam Bộ. Đặc sắc của truyện ngắn này còn thể hiện ở ngòi bút miêu tả tâm lí, đặc biệt là tâm lý trẻ em rất tinh tế và chính xác. Điều đó thể hiện sự nhạy cảm và tấm lòng yêu thương, trân trọng của nhà văn với con người và cuộc đời. Tuy ông Sáu không còn nữa, ông đã vĩnh viễn nằm lại nơi chiến trường rừng thiêng nước độc, nhưng, câu chuyện cảm động về chiếc lược ngà và tình cảm cha con ông sẽ là một nhân chứng cho nỗi đau mà chiến tranh đã gây ra cho người dân của chúng ta. Thông qua tác phẩm này nhà văn Nguyễn Quang Sáng muốn tố cáo tội ác của chiến tranh đã làm cho nhiều gia đình Việt Nam phải nhà tan cửa nát, cha con không được gần gũi đoàn tụ.
Phân tích tác phẩm Chiếc lược ngà (Mẫu 2)
Nguyễn Quang Sáng là nhà văn chuyên viết về cuộc sống và con người Nam Bộ với rất nhiều thể loại khác nhau: tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch…Tác phẩm 'Chiếc lược ngà' được nhà văn sáng tác năm 1966 tại chính chiến trường miền Nam trong thời kì cuộc kháng chiến chống Mĩ đang diễn ra quyết liệt. Truyện thể hiện thật thấm thía, cảm động tình cảm cha con sâu nặng và cao đẹp trong cảnh ngộ éo le của chiến tranh. Qua thiên truyện, chúng ta thấy được tài năng xây dựng tình huống truyện độc đáo, nghệ thuật khắc họa miêu tả tâm lí, tính cách nhân vật khéo léo của nhà văn Nguyễn Quang Sáng.
Truyện được xây dựng trên hai tình huống cơ bản: Tình huống thứ nhất: Hòa bình lập lại, anh Sáu được nghỉ phép về thăm nhà, thăm con sau tám năm ròng xa cách. Nhưng thật trớ trêu thay, bé Thú đã không chịu nhận anh Sáu là cha vì trên khuôn mặt anh có vết thẹo (khác với tấm hình chụp với mẹ nó). Và đến lúc Thu hiểu ra và biểu lộ tình cảm với cha thì cũng là lúc ông Sáu phải lên đường. Tình huống thứ hai: Anh Sáu trở lại chiến khu và dồn hết tất cả tình thương, nỗi nhớ con bằng cách làm một chiếc lược ngà để tặng cho con. Nhưng anh chưa kịp trao món quà ấy cho con thì anh đã hi sinh. Trước lúc nhắm mắt, anh đã nhờ đồng đội trao tận tay chiếc lược đó cho con gái. Với cách tạo tình huống truyện như thế, nhà văn đã đầy câu chuyện lên sự kịch tính, chất chứa yếu tố bất ngờ và xúc động. Tình huống thứ nhất là tình huống cơ bản của truyện, bộc lộ tình cảm mãnh liệt của Thu với cha. Tình huống thứ hai lại biểu lộ tình cảm sâu sắc của người cha dành cho đứa con gái bé bỏng. Từ đó bật sáng tư tưởng chủ đề của tác phẩm: tình cảm cha con sâu nặng, bền chặt nhưng éo le, đau khổ trong chiến tranh.
Cũng qua tình huống truyện ấy, người đọc còn nhận ra tài năng khắc họa, miêu tả tâm lí, tính cách nhân vật sắc sảo của nhà văn Nguyễn Quang Sáng qua nhân vật ông Sáu và nhân vật bé Thu. Điều này được thể hiện trong haonf cảnh trước và sau khi bé Thu nhận ra cha. Có thể nói, niềm khao khát cháy bỏng của ông Sáu muốn được nghe một tiếng 'Ba' lớn lao bao nhiêu thì bé Thu – con ông Sáu lại càng lảng tránh, xa cách đến bấy nhiêu. Từ đó, những nét tâm lí giằng xé, đấu tranh nội tâm của hai cha con cứ diễn ra, biểu lộ tình cha con sâu nặng, cao cả và rất đỗi thiêng liêng, cao quí.
Ông Sáu được phép về thăm nhà, thăm con sau tám năm ròng xa cách, lòng nôn nao, mong ngóng được gặp con cháy rực trong lòng ông. Không đợi thuyền cập bến, ông Sáu đã “nhón chân nhảy thót lên bờ, xô chiếc xuồng tạt ra” rồi “bước vội vàng với những bước dài”, miệng “kêu to tên con, vừa bước vừa khom người đưa tay đón chờ con”. “Anh không kìm nổi nỗi xúc động” khi gặp lại con, vết sẹo dài bên má lại đỏ ửng , giần giật trông dễ sợ. Giọng lắp bắp, run run: “Ba đây con!, Ba đây con!”. Thế nhưng, trái lại với tình cảm đó của ông, bé Thu lại cảm thấy sợ hãi, giật mình tròn xoe mắt, bỏ chạy rồi thất thanh gọi 'Má, má'. “Anh đứng sững lại đó, nhìn theo con, nỗi đau đớn khiến mặt anh sầm lại trông thật đáng thương và hai tay buông xuống như bị gãy”. Tâm trạng ông Sáu đau khổ tột cùng, ông mong ngóng được con chạy lại ôm mình nhưng đứa con bé bỏng, ngây thơ lại xa lánh, hoảng sợ khiến ông hụt hẫng, đau đớn và thất vọng.
Trong ba ngày được nghỉ phép ở nhà, Ông Sáu tìm đủ mọi cách để được gần gũi con bé, nhưng dường như mọi sự cố gắng ấy đều trở nên thất bại. Bé thu càng trở nên ngờ vực, sợ hãi. Khi mẹ bảo mời cha vào ăn cơm, bé vẫn nhất quyết không gọi ba mà lại nói trổng 'vô ăn cơm', 'cơm chín rồi'. Ngay cả khi bé bị ép vào đường cùng là chắt nước nồi cơm, dù loay hoay không biết phải xử lý thế nào, nó cũng chẳng chịu gọi. Bé ướng bướng tới mức, chú Ba cũng phải thở dài 'con bé đáo để thật' hay trong bữa ăn khi gắp miếng trứng cá vào chén nó, nó lấy đũa soi vào trong chén rồi bất thần hắt cả miếng trứng cá ra khỏi chén, bắn tung tóe ra ngoài mâm, ông Sáu tức giận không kiềm chế được cảm xúc đã đánh con và bất lực mà thét lên 'sao mày cứng đầu quá vậy!'. Dường như ông khao khát có được tình cảm của con bao nhiêu thì con bé lại hoàn toàn lạnh lùng trước mọi tình cảm vồ vập của cha bấy nhiêu. Ông càng muốn xích gần nó, nó lại càng lùi xa; ông càng chiều thương nó, nó lại càng lẩn tránh; ông càng mong được nghe tiếng ba thì nó lại càng không gọi. Ông kiên nhẫn, đợi chờ tình cảm của con “ suốt mấy ngày anh chẳng đi đâu xa, lúc nào cũng vỗ về con”, “anh quay lại nhìn con vừa khẽ lắc đầu, vừa cười. Có lẽ vì khổ tâm đến nỗi không khóc được nên anh phải cười vậy thôi”.
Tuy nhiên, thái độ bướng bỉnh, ương ngạnh đó của bé thu hoàn toàn không đáng trách. Bởi đơn giản là vì bé thấy người cha của hiện tại trước mắt khác với tấm hình chụp chung với má của bé quá. Vả lại Thu còn quá bé bỏng để có thể thấu hiểu được sự khắc nghiệt của cuộc sống, của chiến tranh và người lớn cũng chưa kịp giả thích cho bé hiểu nên bé không tin là người có vết sẹo trên mặt kia là ba của mình. Đồng thời, điều đó cũng chứng tỏ tình cảm sâu sắc của bé dành cho ba. Bé chỉ yêu, chỉ nhận ba khi biết chính xác đó là ba của bé mà thôi.
Vì thế, sau khi ngủ một đêm bên nhà bà ngoại, được ngoại giải thích về nguyên nhân vết sẹo trên má của ba, bé Thu cảm thấy khó chịu, cả đêm lăn lóc không ngủ, xen lẫn niềm ân hận, khi đã đối xử với ba không tốt. Buổi sáng chia tay ấy, trước lúc ông Sáu lên đường, thái độ và hành động của bé khác hoàn toàn mọi khi: “nó không bướng bỉnh hay nhăn mày cau có nữa, vẻ mặt nó sầm lại buồn rầu”. Khi đối diện với ông Sáu, “đôi mắt mông mông của con bé bỗng xôn xao”, “tình cảm cha con như bỗng trỗi dậy trong người nó”, “nó kêu thét lên: “Ba…a…a…ba!”. Sự khao khát tình cảm cha bị kìm nén suốt mấy năm, nay bỗng bật lên xé tan cả sự im lặng và xé cả ruột gan mọi người, “nghe thật xót xa”. Thế rồi, nó vừa kêu, vừa chạy tới, nhanh như một con sóc, “nó chạy thót lên và dang hai tay ôm lấy cổ ba nó”. Sự xúc động ngẹn ngào đã khiến “làn tóc tơ sau ót nó như dựng đứng lên”. Nó hôn khắp người ông Sáu, “hôn tóc, hôn cổ, hôn vai và hôn cả vết thẹo dài bên má của ba nó nữa”. Sợ cha đi mất, “chắc nó nghĩ hai tay không thể giữ được ba nó, nó dang cả hai chân câu lấy ba nó và đôi vai nhỏ bé của nó run run”. Sau khi nghe ông Sáu nói: “Ba đi rồi ba về với con”, bé Thu thét lên: “không!”. Vừa khóc vừa không cho cha đi. Giọt nước mắt ấy là biểu hiện của tình cha con ấm áp, của sự hạnh phúc vỡ òa khi nhận ra cha sau tám năm xa cách, lại vừa xen lẫn cả sự ăn năn, hối hận vì không kịp nhận ra cha sớm hơn chút nữa… Chứng kiến cảnh ngộ ấy, có người đã không cầm được nước mắt, còn bác Ba thì cảm thấy như có bàn tay nắm lấy trái tim mình mà bóp thắt lại…Qua thái độ và hành động của bé Thu trước và sau khi nhận ra ông Sáu là cha mình, người đọc thấy được đằng sau sự hồn nhiên, ngây thơ và cứng đầu, bướng bỉnh của bé là tình cảm cha con sâu nặng, bền chặt, thiêng liêng. Đồng thời, người đọc cũng thấy được Nguyễn Quang Sáng là nhà văn rất am hiểu tâm lí và yêu thích trẻ thơ nên mới có những trang văn thật sinh động và cảm động về tình cha con đến như vậy!.
Trong Chiếc lược ngà, tình cảm của ông Sáu dành cho con cũng mãnh liệt, sâu nặng không kém. Tình cảm ấy được tác giả thể hiện phần nào trong chuyến về thăm nhà và được miêu tả kỹ lưỡng hơn khi ông ở căn cứ kháng chiên. Về tới chiến khu, ông Sáu cảm thấy day dứt,ân hận vì đã nóng giận đánh con. Ông dồn tất cả tình thương, nỗi nhớ con bằng việc làm một cây lược ngà – lời hứa với con trước lúc chia tay. Kiếm được khúc ngà voi, ông “hớn hở như một đứa trẻ được quà”, rồi dành hết tâm trí, tình cảm vào làm một cây lược. “Anh cưa từng chiếc răng lược thận trọng, tỉ mỉ và cố công như người thợ bạc”. Trên sống lưng của chiếc lược có khắc dòng chữ “Yêu nhớ tặng Thu con của ba” mà ông gò lưng, khắc từng nét một. Chiếc lược ngà phần nào gỡ rối được tâm trạng của người cha. Chiếc lược trở thành vật qúy giá mà ông dồn tất cả tình cảm yêu thương con của người cha sau tám năm ròng xa cách. Vì thế, mỗi khi nhớ con, ông lại mang chiếc lược ra ngắm và chải lên tóc mình cho thêm bóng, thêm mượt. Nhưng rồi ông Sáu đã hi sinh trong một trận càn của giặc, khi còn chauw kịp trao cây lược cho con gái. Trước lúc tắt thở, không còn sức trăng trối lại điều gì, “hình như chỉ có tình cha con là không thể chết được”, ông đã lấy cây lược mà ông thường mang theo bên mình rồi trao cho bác Ba và nhìn người bạn một hồi lâu, cái nhìn như gửi gắm sự ủy thác thiêng liêng. Chỉ khi nhận được lời hứa cua bác Ba, “mang về tận tay trao cho cháu” thì người cha mới nhắm mắt. Điều đó cho ta thấy tình cha con mãnh liệt và tha thiết của ông Sáu. Qua câu chuyện, người đọc không chỉ cảm nhận được tình cảm cha con sâu nặng của ông Sáu mà còn thấm thía về những đau thương, mất mát, éo le mà chiến tranh đã gây ra. Đồng thời thấy được những hi sinh thầm lặng mà cao cả của những người lính trong chiến tranh…
Như vậy, qua việc phân tích ở trên, chúng ta thấy 'Chiếc lược ngà' có một cốt truyện khá chặt chẽ, xây dựng được những tình huống bất ngờ hợp lí. Ngoài việc xây dựng thành công hai nhân vật chính bé Thu và ông Sáu, tác giả còn thành công trong việc lựa chọn nhân vật người kể chuyện: xưng 'tôi', ngôi thứ nhất, là ông Ba – người bạn thân thiết của ông Sáu trong chiến tranh. Ông không chỉ dừng lại ở việc chứng kiến câu chuyện, rồi kể lại theo điểm nhìn của mình mà cao hơn, ông Ba còn bày tỏ sự đồng cảm, chia sẻ với các nhân vật như một người trong cuộc. Chọn nhân vật kể chuyện như vậy, khiến cho câu chuyện trở nên đáng tin cậy, tăng theeo sự chân thực cho những tình tiết được kể. Người kể chuyện lại hoàn toàn chủ động điều khiển nhịp kể theo trạng thái cảm xúc của mình, chủ động xen vào những ý kiến bình luận, suy nghĩ để dẫn dắt sự tiếp nhận của người đọc, người nghe...Tất cả góp phần đắc lực tạo nên sự thành công của thiên truyện, cũng như ý nghĩa tư tưởng của tác phẩm được bộc lộ rõ hơn.
Tóm lại, qua truyện ngắn 'Chiếc lược ngà', chúng ta thực sự thấm thía và cảm động trước tình cảm cha con sâu nặng, bền chặt của cha con ông Sáu trong cảnh ngộ éo le của chiến tranh. Truyện không chỉ dừng lại ở việc khắc họa tình cảm phụ tử mà còn có ý nghĩa tố cáo hiện thực, tố cáo chiến tranh đã đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, đã phá tan đi biết bao nhiêu là hạnh phúc của các gia đình, khiến vợ chồng xa cách, cha con xa nhau. Từ câu chuyện, chúng ta càng cảm thấy trân trọng hơn nền hòa bình dân tộc và càng quí trọng hơn tình cảm gia đình mà mở rộng ra là tình yêu quê hương đất nước.
Phân tích tác phẩm Chiếc lược ngà (Mẫu 3)
Cuộc kháng chiến chống Mỹ trường kì đã để lại bao đau thương, mất mát cho dân tộc Việt Nam. Đã có biết bao tác phẩm ra đời trong hoàn cảnh khốc liệt ấy để ca ngợi tình người trong chiến tranh đồng thời phơi bày những giá trị hiện thực. Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng cũng là một tác phẩm như vậy. Là một nhà văn quê ở miền Tây Nam Bộ, hầu như ông chỉ viết về cuộc sống và con người của quê hương trong chiến tranh và sau hoà bình. Truyện ngắn này ra đời trong hoàn cảnh đạn bom ác liệt nhưng lại tập trung nói về tình người, cụ thể là tình cha con sâu sắc của người chiến sĩ cách mạng.
Anh Sáu xa nhà đi kháng chiến lúc đứa con gái đầu lòng mới một tuổi. Mãi đến khi nó lên tám tuổi, anh mới có dịp về thăm nhà. Con bé không nhận anh Sáu là cha vì vết sẹo trên mặt khiến anh không giống trong bức ảnh chụp cùng với vợ mà bé Thu đã được má cho xem. Đến lúc bé Thu nhận ra cha thì cũng là lúc anh Sáu phải ra đi. Tình cha con thiêng liêng trỗi dậy mãnh liệt trong em khiến cho mọi người xúc động. Ở khu căn cứ, người cha dồn hết tình cảm yêu quý, nhớ thương vào việc làm một chiếc lược bằng ngà để tặng cô con gái bé bỏng. Trong một trận càn của giặc, anh Sáu bị thương nặng. Trước lúc nhắm mắt, anh còn kịp trao cây lược ngà cho người bạn, với ý nhờ mang về quê trao tận tay con gái của mình.
Tình cha con sâu sắc được tác giả thể hiện qua hai tình huống: Tình huống thứ nhất là cuộc gặp gỡ của hai cha con sau tám năm xa cách. Thu đối xử với cha như đối với người xa lạ. Đến lúc em nhận ra và ôm riết lấy cha, thể hiện tình cảm mãnh liệt thì anh Sáu lại phải ra đi làm nhiệm vụ.
Tình huống thứ hai là ở khu căn cứ, anh Sáu dồn tất cả tình yêu thương, mong nhớ con vào việc làm cây lược ngà để tặng con, nhưng anh đã hi sinh và không kịp trao món quà ấy cho con gái. Tình huống này thể hiện tình cảm sâu nặng của người cha đối với con.
Sau nhiều năm xa cách, anh Sáu chỉ thấy con qua tấm ảnh nhỏ luôn mang bên người. Đến lúc được về thăm nhà, bao nỗi nhớ thương chất chứa từ lâu nên anh Sáu không kìm được niềm vui khi nhìn thấy bé Thu: Cái tình người cha cứ nôn nao trong người anh. 'Xuồng vào bến, thấy một đứa bé độ tám tuổi, tóc cắt ngang vai, mặc quần đen, áo bông đỏ đang chơi nhà chòi dưới bóng cây xoài trước sân nhà, đoán biết là con, không thể chờ xuồng cập lại bến, anh nhún chân nhảy thót lên, xô chiếc xuồng tạt ra, khiến tôi bị chới với. Anh bước vội vàng với những bước dài, rồi dừng lại kêu to: Thu! Con!'
Nhưng thật trớ trêu, đáp lại tình cảm nồng nàn của người cha, bé Thu lại tỏ ra sợ hãi và ngờ vực. Anh Sáu càng muốn gần con để vỗ về yêu thương thì đứa con lại càng tỏ ra lạnh nhạt, xa lánh.
Diễn biến tâm lí và tình cảm của bé Thu trong lần gặp cha đầu tiên được tác giả miêu tả ở hai thời điểm trước và sau khi nhận ra cha.
Tâm lí và thái độ của bé Thu được tác giả thuật lại rất sinh động qua hàng loạt các chi tiết vừa cảm động, vừa buồn cười: Nghe gọi, con bé giật mình, tròn mắt nhìn. Nó ngơ ngác, lạ lùng. Lần đầu tiên nhìn thấy người đàn ông lạ, lại xưng là ba, con bé hết sức ngạc nhiên và sợ hãi, mặt nó bỗng tái đi, rồi vụt chạy và kêu thét lên: “Má ! Má !'
Khi má bảo gọi cha vào ăn cơm, nó nhất quyết không chịu. Má ép quá, bé Thu chỉ gọi trống không: Vô ăn cơm! Kể cả lúc má đi vắng, nó lâm vào thế bí, muốn nhờ anh Sáu chắt bớt nước nồi cơm đang sôi mà cũng vẫn nói trổng, nhất định không gọi là cha. Anh Sáu lặng im xem nó làm cách nào. Bé Thu lấy vá (muôi) múc nước ra, vừa múc vừa lầu bầu tức giận. Bữa cơm, anh Sáu âu yếm gắp cho con cái trứng cá vàng ươm. Bé Thu bất ngờ lấy đũa hất rơi xuống đất. Anh Sáu không nén được tức giận, đánh con một cái vào mông. Bé 'lặng lẽ đứng dậy, bước ra khỏi mâm' bỏ ăn, chèo xuồng về nhà bà ngoại bên kia sông. Lúc cởi dây xuồng, nó còn cố ý khua dây xích kêu rộn ràng để tỏ ý bất bình.
Sự ương ngạnh của bé Thu đúng là tâm lí và tính cách trẻ nhỏ nên không đáng trách. Trong hoàn cảnh chiến tranh, Thu còn quả nhỏ nên không thể hiểu được những tình thế khắc nghiệt, éo le. Phản ứng rất tự nhiên chứng tỏ bé Thu có cả tính mạnh mẽ, tình cảm sâu sắc và chân thật. Bé chỉ yêu khi tin chắc người đó đúng là ba của mình. Trong thái độ cứng đầu của bé ẩn chứa cả sự kiêu hãnh dành cho người cha thân yêu - tức là người đàn ông điển trai trong tấm hình chụp chung với má.
Khi đã nhận ra cha, cảm xúc và hành động của bé Thu biểu hiện thật mãnh liệt, khác hẳn lúc trước.
Ba ngày nghỉ phép đã hết. Trước lúc lên đường, anh Sáu đang bịn rịn chia tay thì bất chợt bé Thu cất tiếng gọi ba và tiếng kêu như xé, xé sự im lặng và xé cả ruột gan mọi người, nghe thật xót xa. Đó là tiếng “ba' mà nó cố đè nén trong bao nhiêu năm nay, tiếng “ba' như vỡ tung ra từ đáy lòng nó, nó vừa kêu vừa chạy xô tới, nhanh như một con sóc, nó nhảy thót lên và dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba nó. Nó hôn ba nó cùng khắp. Nó hôn tóc, hôn cổ, hôn vai và hôn cả vết thẹo dài bên má của ba nó nữa... Hai tay nó siết chặt lấy cổ, chắc nó nghĩ hai tay không thể giữ được ba nó, nó dang cả hai chân rồi câu chặt lấy ba nó, và đôi vai nhỏ bé của nó run run.
Điều gì đã dẫn đến sự thay đổi đột ngột trong thái độ cùa bé Thu? Thì ra khi bỏ về nhà bà ngoại, Thu đã được bà giải thích về vết sẹo làm thay đổi vẻ mặt của cha là do giặc Pháp bắn bị thương. Sự nghi ngờ đã được giải toả và bé Thu ân hận, hối tiếc về cung cách cư xử lạnh nhạt của mình đối với cha: Nghe bà kể, nó nằm im, lăn lộn và thỉnh thoảng lại thở dài như người lớn.
Vì thế, trong phút chia tay, tình yêu và nỗi mong nhớ đối với người cha xa cách bấy lâu đã bùng ra thật mạnh mẽ khiến bé Thu bối rối, cuống quýt. Chứng kiến cảnh ngộ éo le của cha con anh Sáu, nhiều người không cầm được nước mắt. Lòng trắc ẩn, sự thấu hiểu những hi sinh mà bạn mình phải chịu đựng khiến cho bác Ba tức người kể chuyện - thật sự xúc động. Diễn biến câu chuyện được trần thuật theo lời bác Ba, người bạn thân thiết của anh Sáu. Bác Ba đã chứng kiến tận mắt cảnh ngộ éo le của cha con anh Sáu và trong lòng bác dâng lên một nỗi xót xa. Bác bỗng thấy khó thở như có bàn tay nắm lấy trái tim.
Qua việc miêu tả diễn biến tâm lí, ngôn ngữ và hành động của bé Thu, tác giả đã làm nổi rõ một số nét trong tính cách nhân vật. Tình cảm cha con của bé Thu thật sâu sắc, mạnh mẽ, nhưng cũng thật dứt khoát, rạch ròi. Cá tính của bé Thu cứng cỏi đến mức ương ngạnh, nhưng thực ra Thu rất hồn nhiên, ngây thơ. Tác giả tỏ ra am hiểu và diễn tả rất sinh động tình cảm trẻ thơ trong sáng.
Tình cảm cha con sâu nặng đã được tác giả thể hiện phần nào trong chuyến anh Sáu về phép thăm nhà và được miêu tả kĩ lưỡng hơn khi anh Sáu vào căn cứ kháng chiến trong rừng sâu.
Sau khi chia tay với gia đình, nỗi day dứt, ân hận ám ảnh anh Sáu suốt nhiều ngày là việc anh đã lỡ tay đánh con. Lời dặn tha thiết của đứa con: Ba về! Ba mua cho con một cây lược nghe ba!', đã thôi thúc anh nghĩ đến việc làm một chiếc lược ngà nhỏ xinh dành tặng con gái.
Kiếm được một khúc ngà voi nhỏ, anh Sáu mừng rỡ vô cùng. Anh dành hết tâm trí vào việc làm cây lược: Anh cưa từng chiếc răng lược, thận trọng, tỉ mỉ và cố công như người thợ bạc. Trên sống lưng lược có khắc một hàng chữ nhỏ mà anh đã gò lưng, tẩn mẩn khắc từng nét: “Yêu nhớ tặng Thu con của ba'.
Chiếc lược ngà đã thành một kỉ vật quý giá, thiêng liêng đối với anh Sáu. Nó làm dịu đi nỗi ân hận, dằn vặt bấy lâu và ấp ủ bao nhiêu tình cảm nhớ thương, mong đợi của người cha đối với đứa con xa cách. Cây lược ngà ấy chưa chải được mái tóc của con, nhưng nó như gỡ rối được phần nào tâm trạng của anh. Nhưng rồi một tình cảnh đau thương lại đến với cha con anh Sáu. Anh đã hi sinh khi chưa kịp trao tận tay đứa con gái chiếc lược ngà. Những lời kể lại của bác Ba, người trong cuộc, đã làm nổi bật giá trị thiêng liêng bền vững của tình cha con và tình đồng chí của những chiến sĩ cách mạng.
Truyện Chiếc lược ngà có những đặc điểm khá tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật trong truyện ngắn của Nguyễn Quang Sáng. Cốt truyện hấp dẫn, xoay quanh những tình huống bất ngờ nhưng vẫn tự nhiên, hợp lí. Giọng kể mộc mạc, tự nhiên. Ngôn ngữ gần với khẩu ngữ và đậm màu sắc Nam Bộ. Đặc sắc của truyện ngắn này còn thể hiện ở ngòi bút miêu tả tâm lí, đặc biệt là tâm lí trẻ em rất tinh tế và chính xác. Điều đó thể hiện sự nhạy cảm và tấm lòng yêu thương, trân trọng của nhà văn với con người và cuộc đời.
Một điểm đáng chú ý nữa và cũng là điều góp phần tạo nên thành công của truyện ngắn này là việc lựa chọn nhân vật kể chuyện. Người kể chuyện trong vai một người bạn chiến đấu thân thiết của anh Sáu không chỉ chứng kiến và kể lại mà còn bày tỏ sự đồng cảm, chia sẻ với các nhân vật. Qua những quan sát và cảm xúc của người kể, các chi tiết, sự việc và nhân vật trong truyện đều được phản ánh chân thực, khắc hoạ rõ nét, góp phần nêu bật nội dung tư tưởng của tác phẩm.
Truyện Chiếc lược ngà đã diễn tả một cách xúc động tình cảm thắm thiết, sâu nặng của cha con anh Sáu. Trong hoàn cảnh éo le của chiến tranh, tình cảm thiêng liêng ấy càng cao đẹp và ngời sáng. Câu chuyện không chỉ nói lên tình cha con thiêng liêng mà còn gợi cho người đọc suy ngẫm và thấm thía những éo le, đau thương, mất mát mà chiến tranh mang đến cho bao nhiêu con người, bao nhiêu gia đình. Vì vậy mà ý nghĩa tố cáo, lên án chiến tranh xâm lược của truyện khá sâu sắc.
Phân tích tác phẩm Chiếc lược ngà (Mẫu 4)
Nếu biển khơi đánh rơi những đợt sóng dịu dàng khi cuộn sóng trào dâng, thì cuộc đời cũng chứa đựng những bất ngờ trong những thách thức của chiến tranh, đặc biệt là tình cảm con người.
Trong truyện ngắn 'Chiếc Lược Ngà' (1966) của Nguyễn Quang Sáng, câu chuyện về tình cha con được xây dựng từ những tình huống éo le, làm nổi bật tình cha con thiêng liêng và sâu sắc. Suốt câu chuyện, tiếng kêu 'Ba' vang vọng, là biểu tượng của tình yêu thương chân thành và không biết mệt mỏi.
Chiến tranh nổ ra, như nhiều người Việt Nam khác, ông Sáu cầm ba lô lên đường kháng chiến, để lại quê hương, gia đình và đứa con gái bé. Giữa chiến trường nguy hiểm, ông trở về khi con gái đã 8 tuổi, nhưng sự chấp nhận của con gái khiến ông đau lòng. Một cảnh tượng ấm áp trong gia đình, ông cố gắng làm cho bữa cơm trở nên ý nghĩa, nhưng sự ương ngạnh của con gái khiến tình cảm của ông trở nên đau xót.
Những khoảnh khắc chia tay, sự hiểu biết về vết sẹo trên khuôn mặt của cha, và niềm hối tiếc của con gái khi cha phải rời đi là những điểm đặc biệt trong câu chuyện. Ông Sáu mong chờ tiếng kêu của con, nhưng nó lại đến trong thời điểm không ngờ nhất, làm cho ông vui sướng mà đau lòng. Mọi cảm xúc được thể hiện một cách chân thực và sâu sắc.
Tình yêu thương cha con không ngừng trải qua những khó khăn, và chiếc lược ngà được làm từ lòng hiếu thảo của ông là biểu tượng cuối cùng của tình cha con. Trong những giây phút cuối cùng trước cái chết, ông vẫn giữ lời hứa với con gái, để lại cho cô một kỉ vật đặc biệt và ý nghĩa.
Phân tích tác phẩm Chiếc lược ngà (Mẫu 5)
Nguyễn Quang Sáng, một tác giả trưởng thành trong những cuộc chiến chống Pháp và chống Mỹ, đã để lại những tác phẩm ghi chép đời sống và con người Nam Bộ, nơi mà anh đã trải qua hai thời kỳ kháng chiến đầy cam go. Trong số những tác phẩm nổi tiếng của ông, 'Chiếc lược ngà' nổi bật, được sáng tác vào năm 1966. Tác phẩm này đặt ra những suy nghĩ sâu sắc về tình cảm cha con trong bối cảnh chiến tranh khốc liệt.
Chiếc lược ngà bắt đầu từ tình huống éo le: Nguyễn Quang Sáng, sau tám năm xa nhà tham gia kháng chiến, được nghỉ ba ngày về thăm gia đình. Trong khoảnh khắc gặp lại con gái yêu quý, ông Sáu tràn đầy cảm xúc, nhưng bé Thu lại không nhận ra ông là cha mình. Bức tranh về tình cảm cha con bắt đầu từ đây, khi mà sự hiểu lầm và xa cách giữa họ phải đối mặt với bóng tối của chiến tranh.
Truyện là cuộc đối diện giữa hai nhân vật chính: bé Thu và ông Sáu. Trong khi ông Sáu đổ trọn tình thương trong ba ngày ngắn ngủi, bé Thu lại hiện lên với vẻ lạnh lùng và xa cách. Bé không nhận ra người cha sau tám năm, và tình cảm cha con bắt đầu bằng những phút giây đau lòng của sự hiểu lầm và thách thức.
Bé Thu, dù bản tính bướng bỉnh, lại chứa đựng một tình yêu thương sâu sắc đối với cha mình. Tình cảm này không thể giữ chặt trong lúc bé còn gan góc, nhưng nó lại hiện rõ khi khoảnh khắc cuối cùng đến. Trong một bữa cơm, sau những tình tiết khó khăn, bé Thu nhận ra tình cảm thực sự và gọi ông Sáu là 'ba' với sự ấm áp và hạnh phúc tột cùng.
Ông Sáu, với trái tim giàu yêu thương, đối mặt với sự cự tuyệt của con gái mình mà không trách móc hay phê phán. Ba ngày ngắn ngủi trở thành hồi ức đẹp đẽ nhưng đau lòng khi phải chia xa. Chiếc lược ngà, được ông làm với tâm huyết, trở thành biểu tượng cho tình yêu thương, sự hy sinh và sự bất tử của tình cha con.
Nguyễn Quang Sáng đã thành công trong việc xây dựng một câu chuyện độc đáo, phản ánh tâm trạng và tình cảm của nhân vật một cách sâu sắc. Thông qua chiếc lược ngà, tác giả kể một câu chuyện về chiến tranh, hiểu lầm và sự hòa giải cuối cùng giữa cha và con.
Tác phẩm không chỉ là một câu chuyện về chiến tranh, mà còn là lời ca ngợi cho tình cha con bền vững, vượt qua mọi khó khăn. Đồng thời, nó cũng là một bức tranh về tình người và lòng nhân ái trong thời kỳ đau thương nhất của lịch sử dân tộc.
Phân tích tác phẩm Chiếc lược ngà (Mẫu 6)
Nguyễn Quang Sáng là nhà văn trưởng thành trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ. Các sáng tác của ông tập trung chủ yếu về cuộc sống và con người Nam Bộ trong hai cuộc chiến cũng như sau hòa bình. Chiếc lược ngà là một trong những tác phẩm nổi tiếng của ông được sáng tác năm 1966. Tác phẩm để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc về tình cảm cha con sâu nặng trong hoàn cảnh chiến tranh khốc liệt.
Tác phẩm xoay quanh tình huống truyện éo le: Ông Sáu sau tám năm xa nhà đi kháng chiến, ông được nghỉ ba ngày phép về thăm nhà, thăm con. Trước nỗi xúc động và tình cảm yêu mến của ông, bé Thu – đứa con gái ông yêu quý, mong nhớ suốt tám năm trời đã không nhận ra ông là ba. Ngày ông phải trả phép về đơn vị cũng chính là ngày con bé nhận ông là ba. Ở đơn vị, ông Sáu dồn tất cả tình yêu, nỗi nhớ, nỗi ân hận vào việc làm chiếc lược ngà để tặng con. Nhưng chưa kịp trao cây lược cho con thì ông đã hi sinh trong một trận càn lớn của Mỹ. Từ tình huống truyện, tác phẩm đề cao, ngợi ca tình ca tình cha con sâu nặng, đồng thời tố cáo tội ác chiến tranh.
Truyện xoay quanh hai nhân vật chính là bé Thu và ông Sáu, thông qua tình huống truyện éo le, mỗi nhân vật bộc lộ tính cách, phẩm chất của mình.
Trước hết về bé Thu, em là con của ông Sáu nhưng từ nhỏ đã phải xa cha do ba vào chiến trường. Sau tám năm xa cách, Thu được gặp lại ba, những tưởng đó sẽ là cuộc đoàn viên đầy hạnh phúc, nhưng trái ngược với ông Sáu mừng rỡ lao về phía em thì Thu dửng dưng, thậm chí hốt hoảng gọi Má. Má . Những ngày sau đó, dù ông Sáu hết lòng chăm sóc nhưng bé Thu vẫn lạnh nhạt, thậm chí xa lánh, ngang ngạnh cự tuyệt ông Sáu. Dù ông đã làm hết cách nhưng bé Thu vẫn không gọi ông là ba. Những lúc gặp khó khăn, nguy cấp Thu chỉ gọi trống không, không nhận được sự trợ giúp của ông Sáu, nó cũng loay hoay tự làm một mình. Trong bữa cơm, ông Sáu gắp cho nó cái trứng cá, Thu gạt ra, bị ông Sáu đánh, cô bé lập tức bỏ về nhà bà ngoại. Nguyễn Quang Sáng đã miêu tả thật chính xác thái độ, hành động khác thường của bé Thu. Bởi trong hoàn cảnh chiến tranh khốc liệt em không hiểu những éo le mà chiến tranh gây ra, nên chỉ vì một vết thẹo trên mặt ông Sáu em kiên quyết không nhận ba. Điều đó cũng cho thấy Thu là đứa trẻ bướng bỉnh, cá tính nhưng đằng sau sự từ chối đến cứng đầu đó là tình yêu thương thắm thiết Thu dành cho ba mình.
Bé Thu cứng đầu chối từ sự ân cần của cha bao nhiêu thì giây phút nhận ra cha lại mãnh liệt, xúc động bấy nhiêu. Sau khi nghe bà ngoại giải thích, bé Thu đã trở về nhà trong sáng ngày ông Sáu lên đường về đơn vị. Con bé đã thay đổi hoàn toàn thái độ trong sự ngỡ ngàng của ông Sáu và mọi người, tiếng gọi ba của Thu là tiếng gọi kìm nén suốt tám năm, tám năm yêu thương, đợi chờ ngày ba về. Không chỉ gọi, con bé con lao tới, nhảy lên người ba và hôn khắp cùng, hôn mặt, hôn má, và hôn cả vết thẹo dài trên mặt ba, vết thẹo đã khiến con bé bướng bỉnh không nhận ba. Thu ôm chặt anh, quàng cả chân vào người anh Sáu, bởi nó sợ buông lơi anh Sáu sẽ đi mất, cái ôm cái hôn ấy còn như muốn bày tỏ tất cả tình cảm Thu dành cho ba. Trong khoảnh khắc đó, ai cũng như lặng người đi vì xúc động. Với lối miêu tả chân thực, giàu cảm xúc tác giả đã cho thấy tình yêu thương sâu nặng Thu dành cho ba, dù có những lúc gan góc, bướng bỉnh nhưng em rất giàu tình cảm và dễ xúc động.
Về phía ông Sáu, trong ba ngày về nghỉ phép, ông dành trọn yêu thương cho đứa con gái bé bỏng. Thuyền chưa cập bến ông đã vội vàng nhảy lên bờ, chạy về phía con, đôi bàn tay sẵn sàng dang ra chờ đợi đứa con sà vào lòng. Nhưng trái ngược với điều ông tưởng tượng, bé Thu cự tuyệt, lảng tránh, điều đó làm ông hết sức đau lòng, hai tay ông buông thõng như bị gãy. Khuôn mặt ấy thật đáng thương biết bao, ông không biết làm thế nào để có thể xóa nhòa khoảng cách thời gian và không gian ấy. Để bù đắp cho con, ba ngày nghỉ phép ông không đi đâu, chỉ quanh quẩn bên con, yêu thương, ân cần bên con mong Thu sẽ thay đổi. Trước sự cứng đầu của Thu, ông chỉ khẽ lắc đầu, chứ không hề trách mắng con. Chỉ đến khi ông gắp thức ăn cho nó bị Thu bỏ ra, bao nhiều buồn đau dồn nén bấy lâu ông đã đánh Thu, điều ấy đã làm ông ân hận mãi về sau. Khoảnh khắc hạnh phúc nhất mà cũng đau lòng nhất của ông chính là được nghe tiếng gọi ba thiêng liêng, nhưng đó cũng là lúc ông phải chia tay con trở về đơn vị. Một người lính từng trải, gan góc trên chiến trường lại khóc bởi tiếng gọi đầy thân thương. Những giọt nước mắt không thể kiềm chế, cứ thế trào ra. Trong những ngày ở chiến trường ông ân hận vì đánh con, không quên lời hứa, ông dồn tâm huyết vào làm chiếc lược ngà. Ông chi chút, tỉ mẩn mài từng chiếc răng lược cho nhẵn bóng. Thậm chí, cái chết cũng không cướp đi được tình yêu thương con của ông Sáu. Vết thương nặng trong một trận càn khiến ông kiệt sức, không trăng trối được điều gì nhưng ông vẫn dồn hết tàn lực móc cây lược trao cho đồng đội và gửi gắm đồng đội mình qua ánh mắt đây yêu thương. Cây lược ấy đã được người đồng đội trao lại cho bé Thu. Tình cha con đã không chết, nâng đỡ cô bé trưởng thành, vượt lên mọi đau thương mất mát. Ông Sáu là biểu tượng cho tình yêu thương, sự ân cần và che chở của người cha dành cho con mình. Qua đó ta thấy được sự bất tử của tình cảm cha con trong hoàn cảnh chiến tranh.
Tác phẩm đã xây dựng được tình huống truyện độc đáo, bất ngờ qua đó thể hiện chủ đề của tác phẩm. Nghệ thuật phân tích tâm lí nhân vật tinh tế, sâu sắc, phù hợp với lứa tuổi. Lối kể chuyện chân thực, tự nhiên, giàu cảm xúc. Hình ảnh giản dị, mà giàu giá trị, ý nghĩa biểu tượng, kết tinh trong hình tượng chiếc lược ngà. Ngôn ngữ đậm giản dị, đậm chất Nam Bộ.
Câu chuyện đã tái hiện thành công tình cha con sâu nặng của bé Thu và ông Sáu. Từ đó, tác giả cho thấy sự tàn bạo của chiến tranh; những bi kịch cùng tình cảm gia đình đẹp đẽ trong thời chiến. Đồng thời tác phẩm cũng ca ngợi tình cảm phụ tử thiêng liêng trong hoàn cảnh chiến tranh khốc liệt.
Phân tích tác phẩm Chiếc lược ngà (Mẫu 7)
Nguyễn Quang Sáng, một nhà văn tài năng, chuyên sáng tác về cuộc sống và con người Nam Bộ qua nhiều thể loại, từ tiểu thuyết đến truyện ngắn và kịch. 'Chiếc lược ngà' là một tác phẩm xuất sắc của ông, ra đời năm 1966 tại miền Nam, ngay trong thời kì chiến tranh chống Mĩ. Truyện đưa người đọc đến với không khí của chiến trường, với tình cảm cha con đậm sâu và cao quý giữa những khó khăn của cuộc chiến. Nhà văn Nguyễn Quang Sáng đã tài năng xây dựng tình huống truyện độc đáo, khéo léo khắc họa tâm lý và tính cách nhân vật.
'Chiếc lược ngà' xoay quanh hai tình huống cơ bản: Hòa bình lập lại, anh Sáu trở về thăm nhà, nhưng con gái bé Thu từ chối nhận anh là cha vì vết thẹo trên khuôn mặt. Tình huống thứ hai, anh Sáu trở lại chiến khu, dành tất cả tình thương cho con bằng cách làm một chiếc lược ngà. Tuy nhiên, trước khi trao món quà ấy cho con, anh đã hy sinh. Những tình huống này làm nổi bật sự kịch tính, bất ngờ và xúc động trong câu chuyện.
Melodic lại phần nào tâm trạng của cha con ông Sáu. Mỗi lần nhớ con, ông lấy chiếc lược ngà ra ngắm và chải lên tóc, như một biểu tượng cho tình cảm cha con và lòng hi sinh của người cha. 'Chiếc lược ngà' không chỉ là câu chuyện về tình cảm gia đình, mà còn là bức tranh chân thực về cuộc sống trong chiến tranh, về những mất mát và đau thương mà nó mang lại. Tác phẩm không chỉ làm cho chúng ta cảm thấy quý trọng tình cảm gia đình mà còn đẩy mạnh sự hiểu biết và tôn trọng đối với những người lính và những người hy sinh trong cuộc chiến tranh.
Trong số những tác phẩm của Nguyễn Quang Sáng, 'Chiếc lược ngà' không chỉ đơn thuần là một câu chuyện, mà còn là một bức tranh đẹp về tình yêu thương và hi sinh. Qua những dòng văn của nhà văn tài năng, chúng ta không chỉ thấy được tình cảm cha con sâu nặng, bền chặt mà còn chạm vào những giá trị cao quý của tình người và lòng hi sinh vì đất nước. 'Chiếc lược ngà' là một tác phẩm đáng đọc và suy ngẫm, nó mở ra trước mắt chúng ta những khía cạnh đẹp nhất của tình người giữa những khó khăn và đau thương của cuộc sống.
Trong tất cả những tình cảm và tình tiết, Nguyễn Quang Sáng đã tạo nên một câu chuyện sâu sắc và ý nghĩa, làm cho người đọc không chỉ cảm nhận được xúc cảm mà còn suy ngẫm về ý nghĩa lớn lao hơn của cuộc sống và tình yêu thương. 'Chiếc lược ngà' không chỉ là một câu chuyện riêng lẻ mà còn là một bức tranh sống động về những góc khuất của cuộc sống, qua đó tác giả đã để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng người đọc.
Trong kết thúc, tác giả để lại những suy ngẫm về tình cha con, về những giá trị vô song của tình yêu thương và lòng hi sinh. 'Chiếc lược ngà' không chỉ là một câu chuyện về quá khứ, mà còn là bài học về sự quý báu của gia đình và lòng hi sinh vì đất nước. Tác phẩm thấu đáo và sâu sắc, mở ra trước mắt độc giả một thế giới đẹp, nền nhân văn và tình người, làm cho chúng ta suy ngẫm và trân trọng hơn những giá trị đích thực của cuộc sống.
Với tất cả những yếu tố trên, 'Chiếc lược ngà' xứng đáng là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của Nguyễn Quang Sáng, là nguồn cảm hứng và suy ngẫm cho độc giả về ý nghĩa lớn lao của tình cha con và lòng hi sinh trong cuộc sống.
Phân tích tác phẩm Chiếc lược ngà (Mẫu 8)
Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước, có rất nhiều các câu chuyện, các truyện ngắn cảm động về tình người, về tình nghĩa trong hai cuộc kháng chiến ác liệt đó. Câu chuyện nói về chiến tranh lại không có súng đạn, bom rơi nhưng lại vô cùng cảm động và lên án chiến tranh phi nghĩa tiêu biểu đó chính là truyện ngắn 'chiếc lược ngà' của Nguyễn Quang Sáng.
Câu chuyện kể về tình cha con sâu nặng, cảm động của anh Sáu và đứa con gái bé bỏng của anh (bé Thu) vì sự hiểu nhầm đáng tiếc mà tất cả cũng chỉ vì chiến tranh mà hai cha con đã không thể có nhiều với nhau những kỉ niệm đẹp về tình cha con. Câu chuyện được trần thuật lại bởi đồng đội của anh Sáu với những suy ngẫm và cảm xúc được đan xen vào câu chuyện càng làm câu chuyện chân thực và sống động hơn.
Chuyến thăm nhà sau một thời gian dài trên chiến trường, với tâm thế hào hứng và vô cùng hồi hộp về gặp gia đình đặc biệt là đứa con gái bé bỏng của anh Sáu được kể lại với hàng loạt các chi tiết khắc họa nội tâm và tâm lí nhân vật của Nguyễn Quang Sáng đã cho người đọc người nghe thấu hiểu cảm thông được nỗi khát khao nhưng cũng đầy đau khổ của người cha mà không được nghe tiếng gọi ba từ con mình, chỉ vì sự ương bướng và sự hiểu nhầm đáng tiếc má tất cả đều cho chiến tranh gây ra, ấy vậy mà giây phút cuối trước khi quay lại chiến trường thì anh Sáu cũng đã được nghe tiếng 'ba' đầy cảm động, làm cho chúng ta như muốn rơi lệ cùng, nút thắt đã được tháo câu chuyện như được mở ra với trang mới.
Truyện được kể với tình tiết vô cùng bất ngờ, nhưng cách sắp xếp và cách kể chuyện lại vô cùng hợp lý, lôi cuốn người đọc, đặc biệt chuyện được kể dưới giọng kể của anh Ba đồng đội của anh Sáu càng làm câu truyện xác thực và hấp dẫn hơn cả. xuyên suốt truyện với hai tình huống chính đó chính là trước khi nhận ông Sáu là cha của bé Thu và sau khi nhận cha của bé Thu. Qua đây người đọc có thể thấy tình cha con thiêng liêng biết bao, vô cùng trân trọng và sâu sắc.
Cách kể chuyện đan xen với những suy nghĩ và cảm xúc của anh Ba càng làm câu chuyện thêm phần bất ngờ và gay cấn. nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật đặc biệt là bé Thu càng làm cho câu chuyện thêm phần sinh động và độ xác thực cao, ngôn ngữ được sử dụng trong truyện cũng quen thuộc với nhiều từ địa phương đã làm cho ta như đang giữa khung cảnh chia li của hai cha con trước lúc lên đường ra chiến trường.
Câu chuyện được kể theo ngôi thứ nhất, tình tiết bất ngờ nhưng hợp lý đã gợi lên hình ảnh về tình cha con mãnh liệt, cảnh chia tay làm chúng ta như bật khóc vì cảm động và xót xa cho các nhân vật. từ đây Nguyễn Quang Sáng như muốn nhấn mạnh chiến tranh phi nghĩa chỉ mang lại đau thương mà thôi, tình cha con là thiêng liêng là bất diệt, chúng ta cần trân trọng những phút giây bên nhau, bên người thân bên gia đình thân yêu nơi đó có cha mẹ với tình yêu bao la vô bờ bến cho những đứa con của mình.
Phân tích tác phẩm Chiếc lược ngà (Mẫu 9)
Nguyễn Quang Sáng là một nhà văn chuyên sáng tác về cuộc sống và con người miền Nam Bộ, với nhiều thể loại văn học khác nhau như tiểu thuyết, truyện ngắn, và kịch. Tác phẩm 'Chiếc lược ngà' được sáng tác năm 1966 tại chiến trường miền Nam trong thời kỳ cuộc kháng chiến chống Mĩ diễn ra quyết liệt. Truyện thể hiện sự thấm thía và cảm động về tình cảm cha con trong hoàn cảnh khó khăn của chiến tranh. Nguyễn Quang Sáng thể hiện tài năng xây dựng tình huống truyện độc đáo và nghệ thuật miêu tả tâm lý, tính cách nhân vật.
Chiếc lược ngà xây dựng trên hai tình huống cơ bản: Hòa bình lập lại, anh Sáu được nghỉ phép về thăm nhà, nhưng con gái bé Thú lại không chấp nhận anh Sáu là cha. Tình huống thứ hai là anh Sáu trở lại chiến khu và làm một chiếc lược ngà để tặng cho con gái, nhưng anh đã hi sinh trước khi trao món quà. Những tình huống này đẩy câu chuyện lên sự kịch tính và xúc động, thể hiện tình cảm cha con sâu nặng trong bối cảnh chiến tranh.
Truyện cũng khắc họa tài năng khắc họa, miêu tả tâm lý và tính cách nhân vật sắc sảo của Nguyễn Quang Sáng qua nhân vật ông Sáu và bé Thú. Tình cảm giữa cha và con được thể hiện qua những tình huống trước và sau khi bé Thú nhận ra cha. Người đọc cảm nhận được sự đau khổ, những đau thương và hi sinh không lời của những người lính trong chiến tranh.
Tác giả chọn người kể chuyện là ông Ba, người bạn thân của ông Sáu trong chiến tranh, tạo ra một góc nhìn chân thực và đồng cảm với những tình tiết của câu chuyện. Ông Ba không chỉ là người chứng kiến mà còn là người cảm nhận và chia sẻ với các nhân vật, tạo thêm sự chân thực và cảm xúc cho câu chuyện. Chiếc lược ngà không chỉ là câu chuyện về tình cảm cha con mà còn là tác phẩm tố cáo về những tổn thương và mất mát của chiến tranh.
Phân tích tác phẩm Chiếc lược ngà (Mẫu 10)
Nguyễn Quang Sáng viết truyện Chiếc lược ngà năm 1966, tại chiến trường Nam Bộ trong thời kì chống Mĩ. Là một nhà văn quê ở miền Tây Nam Bộ, hầu như ông chỉ viết về cuộc sống và con người của quê hương trong chiến tranh và sau hoà bình. Truyện ngắn này ra đời trong hoàn cảnh đạn bom ác liệt nhưng lại tập trung nói về tình người, cụ thể là tình cha con của người chiến sĩ cách mạng.
Anh Sáu xa nhà đi kháng chiến lúc đứa con gái đầu lòng mới một tuổi. Mãi đến khi nó lên tám tuổi, anh mới có dịp về thăm nhà. Con bé không nhận anh Sáu là cha vì vết sẹo trên mặt khiến anh không giống trong bức ảnh chụp cùng với vợ mà bé Thu đã được má cho xem. Đến lúc bé Thu nhận ra cha thì cũng là lúc anh Sáu phải ra đi. Tình cha con thiêng liêng trỗi dậy mãnh liệt trong em khiến cho mọi người xúc động. Ở khu căn cứ, người cha dồn hết tình cảm yêu quý, nhớ thương vào việc làm một chiếc lược bằng ngà để tặng cô con gái bé bỏng. Trong một trận càn của giặc, anh Sáu bị thương nặng.
Trước lúc nhắm mắt, anh còn kịp trao cây lược ngà cho người bạn, với ý nhờ mang về quê trao tận tay con gái của mình. Tình cha con sâu sắc được tác giả thể hiện qua hai tình huống: Tình huống thứ nhất là cuộc gặp gỡ của hai cha con sau tám năm xa cách. Thu đối xử với cha như đối với người xa lạ. Đến lúc em nhận ra và ôm riết lấy cha, thể hiện tình cảm mãnh liệt thì anh Sáu lại phải ra đi làm nhiệm vụ.
Tình huống thứ hai là ở khu căn cứ, anh Sáu dồn tất cả tình yêu thương, mong nhớ con vào việc làm cây lược ngà để tặng con, nhưng anh đã hi sinh và không kịp trao món quà ấy cho con gái. Tình huống này thể hiện tình cảm sâu nặng của người cha đối với con. Sau nhiều năm xa cách, anh Sáu chỉ thấy con qua tấm ảnh nhỏ luôn mang bên người. Đến lúc được về thăm nhà, bao nỗi nhớ thương chất chứa từ lâu nên anh Sáu không kìm được niềm vui khi nhìn thấy bé Thu: Cái tình người cha cứ nôn nao trong người anh. 'Xuồng vào bến, thấy một đứa bé độ tám tuổi, tóc cắt ngang vai, mặc quần đen, áo bông đỏ đang chơi nhà chòi dưới bóng cây xoài trước sân nhà, đoán biết là con, không thể chờ xuồng cập lại bến, anh nhún chân nhảy thót lên, xô chiếc xuồng tạt ra, khiến tôi bị chới với. Anh bước vội vàng với những bước dài, rồi dừng lại kêu to: Thu! Con!'
Nhưng thật trớ trêu, đáp lại tình cảm nồng nàn của người cha, bé Thu lại tỏ ra sợ hãi và ngờ vực. Anh Sáu càng muốn gần con để vỗ về yêu thương thì đứa con lại càng tỏ ra lạnh nhạt, xa lánh. Diễn biến tâm lí và tình cảm của bé Thu trong lần gặp cha đầu tiên được tác giả miêu tả ở hai thời điểm trước và sau khi nhận ra cha. Tâm lí và thái độ của bé Thu được tác giả thuật lại rất sinh động qua hàng loạt các chi tiết vừa cảm động, vừa buồn cười: Nghe gọi, con bé giật mình, tròn mắt nhìn. Nó ngơ ngác, lạ lùng. Lần đầu tiên nhìn thấy người đàn ông lạ, lại xưng là ba, con bé hết sức ngạc nhiên và sợ hãi, mặt nó bỗng tái đi, rồi vụt chạy và kêu thét lên: “Má ! Má !'
Khi má bảo gọi cha vào ăn cơm, nó nhất quyết không chịu. Má ép quá, bé Thu chỉ gọi trống không: Vô ăn cơm! Kể cả lúc má đi vắng, nó lâm vào thế bí, muốn nhờ anh Sáu chắt bớt nước nồi cơm đang sôi mà cũng vẫn nói trổng, nhất định không gọi là cha. Anh Sáu lặng im xem nó làm cách nào. Bé Thu lấy vá (muôi) múc nước ra, vừa múc vừa lầu bầu tức giận. Bữa cơm, anh Sáu âu yếm gắp cho con cái trứng cá vàng ươm. Bé Thu bất ngờ lấy đũa hất rơi xuống đất. Anh Sáu không nén được tức giận, đánh con một cái vào mông. Bé 'lặng lẽ đứng dậy, bước ra khỏi mâm' bỏ ăn, chèo xuồng về nhà bà ngoại bên kia sông. Lúc cởi dây xuồng, nó còn cố ý khua dây xích kêu rộn ràng để tỏ ý bất bình.
Sự ương ngạnh của bé Thu đúng là tâm lí và tính cách trẻ nhỏ nên không đáng trách. Trong hoàn cảnh chiến tranh, Thu còn quả nhỏ nên không thể hiểu được những tình thế khắc nghiệt, éo le. Phản ứng rất tự nhiên chứng tỏ bé Thu có cả tính mạnh mẽ, tình cảm sâu sắc và chân thật. Bé chỉ yêu khi tin chắc người đó đúng là ba của mình. Trong thái độ cứng đầu của bé ẩn chứa cả sự kiêu hãnh dành cho người cha thân yêu - tức là người đàn ông điển trai trong tấm hình chụp chung với má. Khi đã nhận ra cha, cảm xúc và hành động của bé Thu biểu hiện thật mãnh liệt, khác hẳn lúc trước.
Ba ngày nghỉ phép đã hết. Trước lúc lên đường, anh Sáu đang bịn rịn chia tay thì bất chợt bé Thu cất tiếng gọi ba và tiếng kêu như xé, xé sự im lặng và xé cả ruột gan mọi người, nghe thật xót xa. Đó là tiếng “ba' mà nó cố đè nén trong bao nhiêu năm nay, tiếng “ba' như vỡ tung ra từ đáy lòng nó, nó vừa kêu vừa chạy xô tới, nhanh như một con sóc, nó nhảy thót lên và dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba nó. Nó hôn ba nó cùng khắp. Nó hôn tóc, hôn cổ, hôn vai và hôn cả vết thẹo dài bên má của ba nó nữa... Hai tay nó siết chặt lấy cổ, chắc nó nghĩ hai tay không thể giữ được ba nó, nó dang cả hai chân rồi câu chặt lấy ba nó, và đôi vai nhỏ bé của nó run run.
Điều gì đã dẫn đến sự thay đổi đột ngột trong thái độ cùa bé Thu? Thì ra khi bỏ về nhà bà ngoại, Thu đã được bà giải thích về vết sẹo làm thay đổi vẻ mặt của cha là do giặc Pháp bắn bị thương. Sự nghi ngờ đã được giải toả và bé Thu ân hận, hối tiếc về cung cách cư xử lạnh nhạt của mình đối với cha: Nghe bà kể, nó nằm im, lăn lộn và thỉnh thoảng lại thở dài như người lớn. Vì thế, trong phút chia tay, tình yêu và nỗi mong nhớ đối với người cha xa cách bấy lâu đã bùng ra thật mạnh mẽ khiến bé Thu bối rối, cuống quýt. Chứng kiến cảnh ngộ éo le của cha con anh Sáu, nhiều người không cầm được nước mắt. Lòng trắc ẩn, sự thấu hiểu những hi sinh mà bạn mình phải chịu đựng khiến cho bác Ba tức người kể chuyện - thật sự xúc động. Diễn biến câu chuyện được trần thuật theo lời bác Ba, người bạn thân thiết của anh Sáu. Bác Ba đã chứng kiến tận mắt cảnh ngộ éo le của cha con anh Sáu và trong lòng bác dâng lên một nỗi xót xa. Bác bỗng thấy khó thở như có bàn tay nắm lấy trái tim.
Qua việc miêu tả diễn biến tâm lí, ngôn ngữ và hành động của bé Thu, tác giả đã làm nổi rõ một số nét trong tính cách nhân vật. Tình cảm cha con của bé Thu thật sâu sắc, mạnh mẽ, nhưng cũng thật dứt khoát, rạch ròi. Cá tính của bé Thu cứng cỏi đến mức ương ngạnh, nhưng thực ra Thu rất hồn nhiên, ngây thơ. Tác giả tỏ ra am hiểu và diễn tả rất sinh động tình cảm trẻ thơ trong sáng. Sức hấp dẫn của truyện Chiếc lược ngà, toát ra từ cốt truyện đơn giản nhưng chặt chẽ, cùng những yếu tố bất ngờ mà hợp lí. Chuyện bé Thu lâu không nhận cha, rồi lại biểu lộ những tình cảm thật nồng nhiệt, đầy cảm động với cha trước lúc chia tay. Sự bất ngờ đã gây được hứng thú cho ngườ đọc, nhất là khi hiểu được diễn biến lôgic ở bên trong các sự việc, hành động có vẻ mâu thuẫn.
Tình cảm cha con sâu nặng đã được tác giả thể hiện phần nào trong chuyến anh Sáu về phép thăm nhà và được miêu tả kĩ lưỡng hơn khi anh Sáu vào căn cứ kháng chiến trong rừng sâu. Sau khi chia tay với gia đình, nỗi day dứt, ân hận ám ảnh anh Sáu suốt nhiều ngày là việc anh đã lỡ tay đánh con. Lời dặn tha thiết của đứa con: Ba về! Ba mua cho con một cây lược nghe ba!', đã thôi thúc anh nghĩ đến việc làm một chiếc lược ngà nhỏ xinh dành tặng con gái. Kiếm được một khúc ngà voi nhỏ, anh Sáu mừng rỡ vô cùng. Anh dành hết tâm trí vào việc làm cây lược: Anh cưa từng chiếc răng lược, thận trọng, tỉ mỉ và cố công như người thợ bạc. Trên sống lưng lược có khắc một hàng chữ nhỏ mà anh đã gò lưng, tẩn mẩn khắc từng nét: “Yêu nhớ tặng Thu con của ba'.
Chiếc lược ngà đã thành một kỉ vật quý giá, thiêng liêng đối với anh Sáu. Nó làm dịu đi nỗi ân hận, dằn vặt bấy lâu và ấp ủ bao nhiêu tình cảm nhớ thương, mong đợi của người cha đối với đứa con xa cách. Cây lược ngà ấy chưa chải được mái tóc của con, nhưng nó như gỡ rối được phần nào tâm trạng của anh. Nhưng rồi một tình cảnh đau thương lại đến với cha con anh Sáu. Anh đã hi sinh khi chưa kịp trao tận tay đứa con gái chiếc lược ngà. Những lời kể lại của bác Ba, người trong cuộc, đã làm nổi bật giá trị thiêng liêng bền vững của tình cha con và tình đồng chí của những chiến sĩ cách mạng. Truyện Chiếc lược ngà có những đặc điểm khá tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật trong truyện ngắn của Nguyễn Quang Sáng. Cốt truyện hấp dẫn, xoay quanh những tình huống bất ngờ nhưng vẫn tự nhiên, hợp lí. Giọng kể mộc mạc, tự nhiên. Ngôn ngữ gần với khẩu ngữ và đậm màu sắc Nam Bộ. Đặc sắc của truyện ngắn này còn thể hiện ở ngòi bút miêu tả tâm lí, đặc biệt là tâm lí trẻ em rất tinh tế và chính xác. Điều đó thể hiện sự nhạy cảm và tấm lòng yêu thương, trân trọng của nhà văn với con người và cuộc đời.
Một điểm đáng chú ý nữa và cũng là điều góp phần tạo nên thành công của truyện ngắn này là việc lựa chọn nhân vật kể chuyện. Người kể chuyện trong vai một người bạn chiến đấu thân thiết của anh Sáu không chỉ chứng kiến và kể lại mà còn bày tỏ sự đồng cảm, chia sẻ với các nhân vật. Qua những quan sát và cảm xúc của người kể, các chi tiết, sự việc và nhân vật trong truyện đều được phản ánh chân thực, khắc hoạ rõ nét, góp phần nêu bật nội dung tư tưởng của tác phẩm.
Truyện Chiếc lược ngà đã diễn tả một cách xúc động tình cảm thắm thiết, sâu nặng của cha con anh Sáu. Trong hoàn cảnh éo le của chiến tranh, tình cảm thiêng liêng ấy càng cao đẹp và ngời sáng. Câu chuyện không chỉ nói lên tình cha con thiêng liêng mà còn gợi cho người đọc suy ngẫm và thấm thía những éo le, đau thương, mất mát mà chiến tranh mang đến cho bao nhiêu con người, bao nhiêu gia đình. Vì vậy mà ý nghĩa tố cáo, lên án chiến tranh xâm lược của truyện khá sâu sắc.
Phân tích tác phẩm Chiếc lược ngà (Mẫu 11)
Nguyễn Quang Sáng sáng tác tác phẩm “Chiếc lược ngà” trong bối cảnh miền Bắc đã giải phóng và xây dựng xã hội chủ nghĩa. Truyện tố cáo tội ác của chiến tranh, làm tan nát nhiều gia đình và chia cắt đất nước. Cuộc gặp gỡ giữa anh Sáu và con gái sau nhiều năm xa cách làm nổi bật tình cảm cha con thiêng liêng, xúc động.
Câu chuyện thể hiện sự giao thoa giữa tâm hồn trẻ con ngây thơ và người lớn gan góc. Anh Sáu, bằng sự hy sinh cuối cùng, để lại chiếc lược ngà làm kỷ vật cho con gái. Sự chuyển biến tâm lý của cô bé Thu từ sự lạnh nhạt đến tình cảm thiêng liêng với người cha đã diễn ra một cách sinh động và cảm động.
Tác phẩm “Chiếc lược ngà” với cốt truyện đơn giản nhưng sâu sắc, thành công trong việc khắc họa những đau thương, tình cảm bền chặt giữa cha và con trong thời kỳ chiến tranh đầy khó khăn.
Truyện ngắn 'Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng là một tác phẩm đáng đọc, lôi cuốn người đọc bởi sự chân thực và xúc động trong cách diễn đạt về tình cảm con người.
Phân tích tác phẩm Chiếc lược ngà (Mẫu 12)
Những chi tiết nhỏ có thể tạo nên thành công cho một tác phẩm và chi tiết hình ảnh chiếc lược ngà trong truyện ngắn Chiếc lược ngà của nhà văn Nguyễn Quang Sáng là một chi tiết như thế. Không chỉ thể hiện tình cảm cha con thắm thiết sâu nặng giữa hai cha con ông Sáu và bé Thu, hình ảnh chiếc lược ngà trong tác phẩm còn gợi ra cho ta những đau thương mà chiến tranh gây ra cho con người, nhân dân Việt Nam.
Trong giây phút chia tay, ông Sáu đã hứa làm tặng cho bé Thu một chiếc lược ngà. Chính vì thế khi nhặt được một khúc ngà ở trong rừng, ông Sáu đã 'hớn hở như một đứa trẻ được quà'. Tình phụ tử sâu nặng làm động lực cho ông ngày đêm 'thận trọng, tỉ mỉ và cố công' để 'cưa từng chiếc răng lược'. Và khi chiếc lược đó được hoàn thành, nó là cầu nối cho tình cha con của ông, để mỗi lần nhớ con, ông đều mang nó ra ngắm. Chiếc lược ấy đã phần nào 'gỡ rối' cho tâm trạng nhớ con của ông Sáu, cũng phần nào làm ông bớt đi niềm 'hối hận đánh con' ngày trước.
Chiếc lược ấy chứa được tất cả những yêu thương, mong nhớ xa cách lâu ngày ông dành cho con gái nhỏ của mình. Thế nhưng, chiến tranh tàn nhẫn đã không để ông được trao tận tay con gái chiếc lược yêu thương ấy. Đến tận khi hi sinh, trong lòng ông Sáu 'tình cha con là không thể chết được', ông 'móc cây lược', nắm chặt trong tay cho tới khi bác Ba hứa sẽ mang về cho bé Thu, ông mới 'nhắm mắt đi xuôi'. Chiếc lược ngà là thứ kỉ niệm, là cầu nối, là tình yêu thương hết lòng của người cha dành cho con. Và không chỉ thế, khi nhìn thấy chiếc lược ngà ấy, chúng ta còn thấy được những đau thương, chua xót mà chiến tranh đế quốc Mỹ đã gây ra cho dân tộc Việt Nam. Chiếc lược ấy là minh chứng cho sự tàn ác, khốc liệt của những bom đạn kẻ thù đã chia cắt đi tình phụ tử sâu nặng giữa cha con ông Sáu.
Chiến tranh đã khiến ông Sáu phải rời xa đứa con gái yêu thương mãi mãi và bé Thu vĩnh viễn mất đi người cha yêu quý của mình. Hình ảnh chiếc lược ngà trong truyện ngắn cùng tên của nhà văn Nguyễn Quang Sáng đã để lại cho ta nhiều ấn tượng sâu sắc.
Phân tích tác phẩm Chiếc lược ngà (Mẫu 13)
“Khi con tát cạn biển Đông
Thì con mới hiểu tấm lòng của cha”
Tình cảm cha con là chủ đề vĩnh cửu và sâu sắc. Nguyễn Quang Sáng, một nhà văn tài năng, đã viết về tình cha con một cách rất đặc sắc. Tham gia cuộc chiến chống Pháp và Mỹ, ông bắt đầu sáng tác sau năm 1954, với đề tài chính là cuộc sống ở Nam Bộ. Trong số nhiều truyện ngắn, “Chiếc lược ngà” nổi bật với tình cảm cha con chân thành và cao quý giữa những thử thách khắc nghiệt của chiến tranh.
Chiến tranh, với những hệ lụy đau lòng, đã tách biệt con người khỏi nhau, làm đứt đoạn tình cảm gia đình, tình cha con và tình mẫu tử. Trong cảnh đau đớn đó, Nguyễn Quang Sáng đã viết nên câu chuyện “Chiếc lược ngà”, một câu chuyện về tình cha con đầy xúc động giữa bối cảnh khốc liệt của chiến tranh.
Truyện mô tả những tình huống éo le, bi kịch, nhưng tất cả diễn ra tự nhiên, phản ánh đúng tâm tư của nhân vật và ý tưởng của tác giả. Nhân vật chính, bé Thu, được tạo hình rất độc đáo, với tính cách nổi bật và ngôn ngữ sống động. Sự phản ứng của bé Thu trước sự trở lại của anh Sáu, người cha xa xôi, là sự kết hợp hài hòa giữa sự hồn nhiên và nỗi sợ hãi. Những đoạn thoại của bé Thu làm đau lòng độc giả khi thấu hiểu được nỗi đau và sự thiếu thốn trong tình cảnh chiến tranh.
Bé Thu, với sự cứng đầu và ương ngạnh, thể hiện tính mạnh mẽ, tình cảm sâu sắc và chân thật. Tác giả đã thành công trong việc tái hiện tâm lý và tính cách của một đứa trẻ trong bối cảnh khó khăn. Đoạn kết của truyện, khi bé Thu nhận ra ba của mình, là điểm nhấn cảm xúc, khiến người đọc không thể giữ nước mắt. Bé Thu đã trao cho người cha xa xôi một chiếc lược ngà, tượng trưng cho tình yêu và hi sinh. Chi tiết này được mô tả rất tỉ mỉ, thể hiện sự hiểu biết sâu sắc về tình cảm gia đình và lòng hiếu thảo.
Tình cảm cha con trong “Chiếc lược ngà” không chỉ là một câu chuyện cá nhân, mà là bức tranh lớn về tình người, tình thân, và lòng hiếu thảo trong điều kiện khắc nghiệt. Tác phẩm là một lời tố cáo về tội ác của chiến tranh, nhưng đồng thời cũng là một sự tôn vinh cho tình cảm cha con, một giá trị vô song truyền thống và nhân văn.
“Cha là tất cả cha ơi
Ngàn năm con vẫn trọn đời yêu thương”
Phân tích tác phẩm Chiếc lược ngà (Mẫu 14)
Nguyễn Quang Sáng viết tác phẩm “Chiếc lược ngà” khi mà miền Bắc nước ta đã giải phóng đang tiến lên xây dựng xã hội chủ nghĩa, tăng gia sản xuất và chi viện cho tiền tuyến Miền Nam. Tuy nhiên, trong bối cảnh Nam - Bắc chia hai nhiều người con miền Bắc đã phải đi bộ dọc rừng Trường Sơn để vào Miền Nam đánh Mỹ cứu nước thống nhất nước nhà, nhiều gia đình vì thế mà ly biệt.
Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” tố cáo tội ác của chiến tranh, tố cáo chiến tranh phi nghĩa mà giặc Mỹ đã gieo xuống dân tộc ta, làm cho đất nước ta phải chia hai. Nhiều người con phải xa cha, người vợ xa chồng. Truyện ngắn kể về cuộc gặp gỡ ngắn ngủi của anh Sáu một chiến sĩ cách mạng với ba ngày nghỉ phép về thăm nhà, được gặp cô con gái đầu lòng chưa từng nhìn thấy mặt. Con bé Thu không nhận ra ba mình, bởi nó chỉ nhìn thấy hình ảnh anh Sáu qua bức ảnh chụp ngày ba mẹ cưới nhau. Còn anh Sáu hiện tại thì già hơn, sương gió hơn, đặc biệt là vết sẹo do chiến tranh để lại làm khuôn mặt anh có nhiều biến dạng.
Thu là một có bé cá tính, có chút ngang ngạnh, gai góc. Nhưng cũng là người sống vô cùng nội tâm, sâu sắc. Những ngày anh Sáu về phép nó nhất quyết không chịu nhận anh làm ba. Nói năng với anh chỉ trống không. Nhưng khi anh sắp phải lên đường đi công tác nhận nhiệm vụ mới, thì nó òa khóc. Ôm chầm lấy ba mà nói “Không cho ba đi. Ba phải ở nhà với con”. Tình cảm cha con thật thiêng liêng, xúc động khiến nhiều người đọc phải nghẹn ngào bật khóc. Tác giả Nguyễn Quang Sáng đã vô cùng tinh tế khi khắc họa cô bé Thu láu lỉnh, gai góc nhưng có cá tính riêng, nội tâm sâu sắc. Anh Sáu là người cha thương con, nhẫn nhịn thể hiện tình cảm cha con bền chặt, ruột thịt gắn bó không gì có thể chia cắt được.
Những ngày ở khu căn cứ, anh Sáu đã dành thời gian tình cảm của mình làm tặng cho con gái một chiếc lược ngà để tặng cô con gái bé bỏng. Trong một trận càn của giặc, không may anh Sáu bị thương nặng. Trước lúc nhắm mắt, anh chỉ biết trao cây lược ngà cho người bạn thân, đồng đội chiến đấu của mình để mang về tặng cô con gái giúp mình. Món quà đầu tiên và cũng là cuối cùng chứa đựng biết bao tình cảm sâu sắc, thiêng liêng của người cha dành cho con. Tình huống truyện vô cùng độc đáo, thể hiện nỗi đau của chiến tranh khi đã làm tan nát nhiều gia đình hạnh phúc, yên ấm.
Tình huống truyện được tác giả Nguyễn Quang Sáng thể hiện vô cùng khéo léo, tinh tế: Cuộc gặp gỡ định mệnh của hai cha sau bao năm xa cách. Bé Thu là một cô bé mong muốn có cha, luôn khao khát gặp ba. Nhưng khi gặp ba thì em lại không nhận ra. Sự lạnh nhạt của em dành cho ba ông Sáu trong những ngày nghỉ phép thể hiện sự trẻ con của một cô bé tám tuổi. Anh Sáu khi được nghỉ phép về nhà nhìn thấy con gái anh vui mừng ôm chầm lấy con bằng tình cảm nồng nàn của người cha phải xa đứa con gái bé bỏng lâu ngày. Nhưng đáp lại tình cảm của anh con bé Thu chỉ hững hờ tránh né, tỏ vẻ xa lánh và coi anh như người lạ.
Khi má bảo gọi bà vào ăn cơm con bé chỉ ra ngoài và đáp trống không “Vô ăn cơm”. Kể cả khi má không có nhà nó muốn nhờ anh Sáu bỏ bớt nước nồi cơm cho mình nhưng không biết xưng hô như thế nào. Nó cũng nói trống không nhất quyết không gọi anh Sáu bằng ba. Không nhờ anh Sáu. Anh Sáu im lặng chú ý xem con định làm như thế nào thì con bé nhanh nhẹn lấy muôi múc từng ít nước bỏ đi cho cơm khỏi nhão. Trong bữa ăn cơm anh Sáu thương con gắp thức ăn cho nó nhưng nó hất tay anh ra làm cho miếng thức ăn rơi xuống đất, hành động của nó khiến anh giận dữ và đánh cho con bé một cái vào mông. Con bé bỏ cơm rồi chèo thuyền sang nhà bà ngoại.
Diễn biến tâm lý của cô bé Thu được tác giả Nguyễn Quang Sáng thể hiện rất sinh động chi tiết, khiến người đọc cảm nhận được cô bé là người cá tính, gai góc giống như một con nhím nhỏ luôn xù lông của mình ra để bảo vệ lớp thịt mềm yếu bên trong. Nội tâm của con bé Thu vô cùng sâu sắc, tình cảm. Trong thái độ cứng đầu của bé Thu thể hiện tình cảm thiêng liêng mãnh liệt của cô bé dành cho cha mình, bởi cô bé không biết ông Sáu mặt có vết sẹo kia chính là ông Sáu trong bức hình chụp cùng mẹ ngày cưới. Nên cô bé mới có thái độ chống đối như vậy mà thôi.
Ba ngày phép ngắn ngủi rồi cũng qua, ngày ông Sáu chuẩn bị lên đường đang bịn rịn chia tay người nhà thì bất chợt cô bé Thu cất tiếng gọi rồi nó lao vào ôm ba “không cho ba đi” vừa nói nó vừa khóc, nghe thật cảm động xót xa, thể hiện tình cảm của một người con không muốn ba mình đi xa. Tiếng ba mà cô bé Thu gọi thể hiện sự dồn nén bao lâu trong tâm hồn cô bé. Nó là tiếng gọi tha thiết từ đáy lòng của người con dành cho ba của mình.
Tác phẩm Chiếc lược ngà hấp dẫn người đọc bởi cốt truyện đơn giản nhưng chặt chẽ. Tác giả đã khai thác tâm lý nhân vật vô cùng tinh tế, thể hiện sự chuyển đổi tâm lý nhân vật vô cùng sâu sắc, khắc họa thành công nhân vật bé Thu vừa trẻ con ngây thơ, vừa người lớn gan góc cứng đầu. Nhưng dù ở hướng nào thì cô bé Thu cũng là người con vô cùng đáng yêu. Sự hy sinh của anh Sáu và kỷ vật mà anh để lại cho con gái mình khiến cho nhiều người đọc cảm thấy xót xa, nghẹn ngào, tội ác của chiến tranh là vô cùng to lớn. Chính chiến tranh đã làm cho những người con không được gần cha, nhiều người vợ không được gần chồng. Nhiều gia đình ly tán.
Truyện ngắn 'Chiếc lược ngà” đã miêu tả thành công, xúc động sự chuyển biến tâm trạng của nhân vật bé Thu và tình cảm sâu sắc của người cha anh Sáu dành cho cô con gái bé bỏng của mình.
Phân tích tác phẩm Chiếc lược ngà (Mẫu 15)
Trong cuộc sống tự nhiên, mọi người thường thừa nhận rằng, tình cảm giữa con cái và mẹ có vẻ gần gũi hơn. Tuy nhiên, với cha thì sao? Tình cảm của cha rộng lớn và hy sinh vì con cũng không kém phần so với người mẹ, thậm chí có lúc còn mãnh liệt và sâu sắc hơn. Sáu, một chiến sỹ cách mạng, phải xa nhà từ khi con cái còn nhỏ, đến khi hòa bình thiết lập, ông mới có cơ hội quay về thăm nhà. Niềm vui hạnh phúc xen lẫn với nỗi đau khổ và thất vọng khi con không nhận ra cha. Cuộc gặp sau 8 năm xa cách là khởi đầu cho những sự kiện, thái độ, và hành động thể hiện tình yêu cha của Thu.
Phân tích tác phẩm Chiếc lược ngà (Mẫu 16)
“Khi con tát cạn biển Đông
Thì con mới hiểu tấm lòng của cha”
Tình cảm cha con mãi mãi là đề tài sâu sắc và ý nghĩa. Nguyễn Quang Sáng thấu hiểu được vấn đề ấy nên đã có những bài văn viết về tình cha con rất đặc sắc. Nguyễn Quang Sáng tham gia hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ. Ông bắt đầu viết văn sau năm 1954 và đề tài chủ yếu là cuộc sống con người Nam Bộ. Ông sáng tác nhiều truyện ngắn nhưng tác phẩm tạo được tiếng vang nhất là truyện ngắn “Chiếc lược ngà”. Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” được viết năm 1966 khi hoạt động ở chiến trường Nam Bộ. “Chiếc lược ngà” đã thể hiện thật cảm động tình cha con sâu nặng và cao đẹp trong tình cảnh éo le của chiến tranh.
Chiến tranh đi qua nhưng mãi mãi để lại trong lòng mọi người một nổi khiếm khuyết, một nổi đau rất khó lành. Nó đã chia cắt con người ta rất nhiều thứ, như tình cảm gia đình, tình cha con hay tình mẫu tử. Thấu hiểu được nỗi đau khổ ấy, Nguyễn Quang Sáng đã viết nên một câu chuyện ngắn “Chiếc lược ngà” là câu chuyện về tình cha con gây xót xa người đọc. Tình huống chuyện được Nguyễn Quang Sáng xây dựng rất tinh tế. Tình huống thứ nhất là anh Sáu được về thăm nhà 3 ngày sau mấy năm trời xa cách. Thế nhưng éo le thay là bé Thu lại không chấp nhận anh Sáu là ba vì một số hiểu lầm của cô bé. Nhưng đến khi anh Sáu sắp quay lại chiến khu thì cô bé mới chịu nhận nah Sáu là ba. Tình huống thứ hai là khi quay lại chiến khu anh Sáu đã làm tặng con gái một chiếc lược ngà, nhưng chưa kịp trao tặng tay cho con thì anh Sáu đã hi sinh. Tình huống truyện có phần éo le, bi kịch, nhưng tình tiết diễn ra đều rất tự nhiên như đúng ý tưởng mà nhà văn sáng tác nên.
Thu – một nhân vật được Nguyễn Quang Sáng xây dựng đặc sắc với ngôn ngữ thoại và tính cách nổi bật. Đầu tiên, là thái độ và hành động của bé Thu trước khi nhận anh Sáu là ba. Một cô bé sống với mẹ sau mấy năm trời rồng rã xa bố. Thu chỉ biết nhìn bố qua tấm ảnh mẹ đưa. Đến khi thuyền anh Sáu cập bến anh cất tiếng gọi “Thu!Con” đã làm cô bé giật mình. Một cô bé chừng tám tuổi, “tóc cắt ngang vai, mặc quần đen, áo bông đỏ đang chơi nhà chòi”. Với cái độ tuổi và sự hồn nhiên ấy sẽ dễ bị hoảng sợ khi gặp một người lạ mà có cách kêu thân mật với mình. Bé Thu “giật mình, tròn mắt nhìn. Nó ngơ ngác lạ lùng”. Một cảm giác hoảng hốt và đầy nỗi sợ hãi của Bé Thu. Với việc miêu tả tâm lí nhân vật qua tài tình Nguyễn Quang Sáng đã tái hiện lại y như thật với cách viết rất tinh tế. Sau đó con bé “vụt chạy và kêu thét lên: “Má! Má”. Tiếng kêu ấy như xé lòng, cho thấy bé Thu thật sự rất sợ hãi. Bé chỉ biết dựa vào mẹ của mình, vì nhiều năm trời chỉ biết mỗi có mẹ. Một sự thiếu thốn tình cảm ấy khiến cô bé trở nên rất đáng thương. Những nổi đau khổ ấy đều cho chiến tranh mà ra.
Khi anh Sáu ở nhà ba ngày đã có những lần anh Sáu và bé Thu gaio tiếp với nhau nhưng tất cả con bé đều trả lời trống rỗng không đầu không đuối khiến anh Sáu đau lòng. Như gọi anh Sáu ăn cơm bé Thu nói rỗng: “Vô ăn cơm” hay “cơm chín rồi”. Với cách miêu tả tâm lí nhân vật đặc sắc và am hiểu tính cách trẻ con nên tác giả đã xây dựng những câu thoại rất tự nhiên và hợp tình hợp lí. Từ đó, khiến không ít đọc giả đau lòng thay anh Sáu biết bao. Xa con bao nhiêu năm rồng rã, ngày trở về chỉ mong con gái nhận ba. Nhưng hoàn cảnh đã đi ngược lại mọi dự tính cảu anh Sáu, tất cả đều khiến anh đau lòng. Ngoài ra cô bé này còn nhiều lần nói rỗng khi chưa chịu nhận anh Sáu là ba như: “Cơm sôi rồi chắc nước giùm cái!” hay “Cơm sôi rồi nhão bây giờ”.
Những lời nói trống không ấy không thể nào trách cứ được bé Thu vì đó cũng là tâm lí của bao đứa trẻ con trong hoàn cảnh ấy. Ngay cả khi lên ăn cơm anh Sáu gắp cá cho mà cô bé còn hất văng ra đất. Sự ương ngạnh của bé Thu đúng là tâm lí và tính cách trẻ nhỏ nên không đáng trách. Trong hoàn cảnh chiến tranh, Thu còn quả nhỏ nên không thể hiểu được những tình thế khắc nghiệt, éo le. Phản ứng rất tự nhiên chứng tỏ bé Thu có cả tính mạnh mẽ, tình cảm sâu sắc và chân thật. Bé chỉ yêu khi tin chắc người đó đúng là ba của mình. Trong thái độ cứng đầu của bé ẩn chứa cả sự kiêu hãnh dành cho người cha thân yêu – tức là người đàn ông điển trai trong tấm hình chụp chung với má.
Bé Thu mãi mãi là cô bé đáng yêu nhất trong việc xây dựng nhân vật trong truyện ngắn này của tác giả Nguyễn Quang Sáng. Sau tất cả tác giả cũng để cho nhân vật mình nhận ra ba của mình, một chuỗi chi tiết lấy đi không ít nước mắt của người đọc, người nghe. Bé Thu nhận ra ba khi được bà ngoại dạy và kể câu chuyện cảm động: Thu không nhận anh Sáu là ba vì trên mặt anh Sáu có vết sẹo dài không giống như lúc mẹ cho Thu coi. Bà đã kể đó là vết sẹo đó do anh Sáu đi đánh Tây để lại. Cô bé hiểu chuyện nên đã biết mình nên làm gì vào sáng hôm sau khi anh Sáu chuẩn bị quay lại chiến trường. Thu đã nhận ba: con bé kêu thét lên: “Ba…a…a…! Ba!”.
Tiếng kêu ấy thật xé lòng cả anh Sáu và lẫn bé Thu và biết bao những người chứng kiến lúc ấy. Những điều ấy cho thấy nghệ thuật tài hoa trong việc miêu tả tâm lí và diễn biến cốt chuyện của Nguyễn Quang Sáng. Cô bé Thu đã ôm chầm lấy ba của mình và nhất định không cho ba đi: “Con bé hét lên, hai tay ôm chặt lấy cổ…”. Chi tiết ấy được Nguyễn Quang Sáng miêu tả rất chân thật và lấy đi không ít nước mắt của độc giả. Qua việc miêu tả diễn biến tâm lí, ngôn ngữ và hành động của bé Thu, tác giả đã làm nổi rõ một số nét trong tính cách nhân vật. Tình cảm cha con của bé Thu thật sâu sắc, mạnh mẽ, nhưng cũng thật dứt khoát, rạch ròi. Cá tính của bé Thu cứng cỏi đến mức ương ngạnh, nhưng thực ra Thu rất hồn nhiên, ngây thơ. Tác giả tỏ ra am hiểu và diễn tả rất sinh động tình cảm trẻ thơ trong sáng.
“Người ba nào mà chẳng thương con-chỉ là cách thể hiện tình cảm của mỗi người mỗi khác”. Câu nói ấy thật đúng! Anh Sáu khi quay lại chiến trường đã luôn thương nhớ về đứa con gái bé bổng của mình. Lúc chuẩn bị ra đi anh Sáu “Hai tay buông lỏng xuống như bị gãy…” Anh Sáu lúc ấy rất đau khổ, đau hơn cả trăm mũi tên cùng bắn vào tim anh. Cảm giác ấy có lẽ ai đã làm ba sẽ hiểu, nhưng với lối viết và ngôn ngữ gợi tả tinh tế chi tiết đã làm mọi người đều cảm nhận sự đau khổ tột cùng của anh Sáu. Anh thương con! Thương hơn cả sinh mệnh của bản thân anh. Nhưng vẫn còn chuyện làm anh ray rưc mãi là đã đánh bé Thu trong lúc con bé ương ngạnh không nhận tình cảm của anh.
Về chiến khu anh đã làm ngay một chiếc lược ngà bằng tất cả tình yêu và tâm huyết. Anh vui mừng khi tìm được “khúc ngà” và “mặt anh hớn hở như một đứa trẻ được quà”! “Những lúc rỗi, anh cưa từng chiếc răng lược, thận trọng, tỉ mỉ và cố công như người thợ bạc”. Những chi tiết ấy được Nguyễn Quang Sáng miêu tả tỉ mỉ và rất chân thực. Điều đó làm người đọc cảm nhận được nhiều hơn tình cảm và tâm huyết của anh Sáu vào chiếc lược ngà. Anh hi vọng với chiếc lược này sẽ chảy lên máy tóc óng ánh của con gái, chảy đi bao muộn phiền uẩn khúc của hai cha con. Để mai này con gái anh lớn lên nó sẽ luôn nhớ về người ba từng yêu con bé rất sâu sắc!
Với việc xây dựng tính cách và tâm lí nhân vật rất tinh tế, sâu sắc, tình huống truyện tự nhiên hợp lí. Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng đã tái hiện chân thật và sâu sắc về tình cảm cha con sâu nặng. Qua đó, tố cáo tội ác chiến tranh đã gây ra biết bao nghịch cảnh éo le, ngang trái mà điển hình là câu chuyện của cha con bé Thu và anh Sáu. Nhưng sau tất cả “ba vẫn mãi là ba của con” đúng như câu nói ấy. Bé Thu, anh Sáu đã trao yêu thương cho nhau qua “Chiếc lược ngà” mà anh Sáu dành tặng cho con gái-đó là tài sản quý báu nhất của bé Thu! Từ đó, tác giả đã cho ta thấy một triết lí sống rất nhân văn:
“Cha là tất cả cha ơi
Ngàn năm con vẫn trọn đời yêu thương”
Phân tích tác phẩm Chiếc lược ngà (Mẫu 17)
Tác phẩm 'Chiếc lược ngà' của nhà văn Nguyễn Quang Sáng kể về mối quan hệ cha con đầy xúc động giữa ông Sáu và bé Thu trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ. Câu chuyện đơn giản nhưng ẩn chứa nhiều điều bất ngờ, thể hiện tầm nhìn sâu sắc về nhân sinh của tác giả.
Bằng cách này, tác giả muốn chỉ trích tội ác của chiến tranh, gây đau đớn và chia rẽ tình cảm gia đình. Bé Thu, dù đã bảy tám tuổi nhưng chưa từng gặp cha. Sự hiện diện ngắn ngủi của ông Sáu khi về thăm gia đình làm cho mọi thứ trở nên phức tạp.
Ông Sáu muốn gần gũi con hơn, nhưng bé Thu lại ngang ngạnh từ chối, tạo ra nhiều tình huống thú vị và xúc động. Sự hiểu biết giữa cha và con dần tăng lên qua những cử chỉ nhỏ nhưng ý nghĩa.
Trong giây phút chia ly, bé Thu mới thấu hiểu tình yêu và sự hy sinh của cha. Chiếc lược ngà trở thành biểu tượng của tình cảm cha con, là một món quà thiêng liêng và vô giá mà ông Sáu để lại cho con gái.
Cuối cùng, câu chuyện này là lời kêu gọi chống lại tác động tiêu cực của chiến tranh, làm cho nhiều gia đình phải chịu đựng những đau thương không lẽ.
Phân tích tác phẩm Chiếc lược ngà (Mẫu 18)
Trong đời sống tự nhiên, ai ai cũng thầm công nhận một điều rằng, tình cảm của con cái hình như thân thiết và gần gũi với mẹ hơn. Còn với cha thì sao? Tình cha bao la và hy sinh vì con cái cũng không kém gì người mẹ, đôi khi còn mãnh liệt và sâu sắc hơn. Là một chiến sỹ cách mạng xa nhà đi thoát ly cách mạng từ khi đứa con đầu lòng còn chưa đầy tuổi, mãi đến khi hòa bình lập lại ông Sáu mới có dịp về thăm nhà. Nôn nao và hạnh phúc khôn tả khi nghĩ đến giây phút gặp con, ông Sáu lại thấy đau khổ và thất vọng hơn khi con không nhận cha. Cuộc gặp gỡ sau 8 năm xa cách là khởi đầu cho chuỗi những sự việc, thái độ, hành động thể hiện tình yêu thương cha mãnh liệt của Thu.
Xa cách bao năm, Thu và cha chưa một lần gặp mặt, ông Sáu “chỉ thấy con qua tấm ảnh nhỏ luôn mang bên người”, bé Thu chỉ biết mặt cha qua tấm hình chụp chung với má. Xa cha, Thu nhớ thương vô cùng và dường như hình ảnh người cha trong tấm ảnh đã in sâu vào trong trí nhớ của Thu, là hình ảnh đẹp nhất trong lòng Thu. Tám năm sau khi người cha trở về, chiến tranh đã làm ông có sự thay đổi lớn khiến Thu không thể nhận ra cha mình.
Từ đằng xa thấy “một đứa bé độ tám tuổi, tóc cắt ngang vai, mặc quần đen, áo bông đỏ đang chơi nhà chòi” ông Sáu đoán biết là con, không chờ xuồng cập bến “anh nhún chân nhảy thót lên, xô chiếc xuồng tạt ra”. Linh tính của người cha cho ông biết đấy là con mình, trái tim người cha hướng ông mau mau chạy về phía con để ôm lấy cái hình hài máu mủ mà ông hằng thương nhớ trong bao năm xa cách. “Anh vừa bước, vừa khom người đưa tay đón chờ con… giọng lặp bặp run run: Ba đây con, ba đây con!”. Những tưởng cha con ông sẽ ôm chầm lấy nhau trong khoảnh khắc sung sướng thì trớ trêu thay con bé không nhận ra ông, nó giật mình “tròn mắt nhìn…ngơ ngác, lạ lùng”. Mặt Thu tái đi em kêu lên, bỏ chạy và cầu cứu “Má! Má”. Với ông Sáu thái độ của Thu khiến ông hụt hẫng, đau đớn. Nhưng với Thu đây là phản ứng tâm lý tự nhiên. Bởi từ khi em lớn lên, ông Sáu đâu có ở bên cạnh, chưa bao giờ em được trông thấy cha bằng xương, bằng thịt. Hôm nay một người đàn ông lạ lẫm với “vết sẹo dài đỏ ửng, giật giật, trông rất dễ sợ” đột ngột xuất hiện tự xưng là cha, làm sao em không sợ hãi? Một nghịch lý trớ trêu, đau xót cho người cha, một sự ngỡ ngàng, lạ lẫm cho đứa con được Nguyễn Quang Sáng miêu tả thật sinh động, tài tình.
Những ngày sau đó, đáp lại tình cảm nồng nàn của cha, bé Thu lại càng tỏ ra sợ hãi, ngờ vực. Trong ba ngày phép ngắn ngủi, ông Sáu càng vỗ về, Thu càng lùi ra xa, ông càng chiều thương, nó càng lẩn tránh. Ông chỉ mong được nghe tiếng Ba mà sao khó khăn đến thế. Khi phải gọi ông Sáu ăn cơm, dẫu được mẹ nhắc nhở, Thu vẫn chỉ nói trổng “vô ăn cơm” hoặc “cơm chín rồi”. Đặc biệt trong một tình huống tưởng chừng cô bé không thể ương bướng hơn được nữa vậy mà Thu vẫn quyết liệt. Đó là lúc nồi cơm sôi, một đứa bé không thể tự mình nhấc nồi để chắt nước. Tình thế đó cứ ngỡ rằng Thu sẽ ngoan ngoãn nhờ ba giúp. Nhưng không, ngay cả khi bác Ba mở đường cho “Cháu phải gọi Ba chắt nước giùm con”, phải nói như vậy”, Thu vẫn không cất tiếng dẫu mấy lần em tỏ ra lo sợ bị mẹ đánh đòn nếu để cơm bị nhão. Bướng bỉnh và bất cần, Thu tự mình làm một công việc nguy hiểm và quá sức. Nghĩa là nó không chịu thua, không chịu nhượng bộ. Song đỉnh điểm của sự ương bướng được thể hiện khi Thu “hất tung cái trứng cá to vàng” mà ông Sáu gắp cho nó.
Bị đánh, nhưng Thu không khóc, lẳng lặng gắp lại cái trứng cá rồi bỏ sang nhà ngoại. Lúc cởi dây xuồng, nó còn cố ý khua dây xích “kêu rổn rảng” để tỏ ý bất bình, có lẽ nó muốn cho mọi người biết nó sắp đi để chạy ra dỗ dành. Một chuỗi những thái độ của Thu khiến ta có thể cho Thu là một cô bé bướng bỉnh, cứng đầu. Nhưng xét căn nguyên sâu xa, không thể coi đó là biểu hiện của sự ương ngạnh, cứng đầu, hỗn láo. Trong hoàn cảnh xa cách và trắc trở của chiến tranh, bé Thu còn quá nhỏ để hiểu được những tình thế khắc nghiệt éo le của cuộc sống, hơn nữa ba má bé Thu cũng không lường trước được sự việc để giải thích cho bé rõ.
Trong suy nghĩ non nớt của em, ông Sáu có vết sẹo đáng sợ ấy sao chẳng giống hình ba chụp chung với má. Mà đã không phải là cha thì không thể gọi tiếng “ba”. Điều đó chi phối toàn bộ suy nghĩ, hành động của em. Sự bướng bỉnh của Thu không thể hiểu là sự ương ngạnh của một đứa trẻ khó dạy mà là sự kiên định của một cô bé có lập trường yêu ghét phân minh. Trong thái độ cứng đầu ẩn chứa sự kiêu hãng dành cho người cha thân yêu - người cha trong tấm hình chụp chung với má. Thế mới biết Thu là một cô bé có cá tính. Điều mà ở những đứa trẻ bảy, tám tuổi thường không có. Đó cũng là tiền đề tạo phẩm chất gan dạ, dũng cảm của cô giao liên sau này.
Tình yêu cha của Thu được thể hiện ngay trong chính hành động bướng bỉnh. Vì cha, Thu kiên quyết từ chối sự quan tâm của ông Sáu, thương cha nên bao nhiêu yêu thương kính trọng được em giữ gìn trong tiếng Ba trìu mến. Với em, ba là duy nhất, không ai có thể thay thế tình yêu ấy khiến em tỏ rõ thái độ căm ghét những gì em hoài nghi là sự xâm phạm đến hình ảnh người cha yêu quý. Đó là nét đẹp phẩm chất nơi Thu khiến ta khâm phục. Nhưng khi được ngoại giải thích rõ về nguyên nhân vết sẹo, thì sự nghi ngờ của em được giải tỏa”. “Nghe bà kể, nó nằm im lăn lộn, thỉnh thoảng thở dài như người lớn”. Sự miêu tả nội tâm gian tiếp qua hành động cho thấy những tình cảm, cảm xúc đang trào dâng trong lòng em- yêu thương cha xen lẫn nỗi ân hận.
Hôm sau trở về nhà, nhìn mọi người vây quanh cha, vẻ mặt Thu buồn rầu “Cái nhìn của nó không ngơ ngác, lạnh lùng, nó nhìn với vẻ nghĩ ngợi, sâu xa”. Và khi bắt gặp ánh mắt của cha thì đôi mắt ấy như xôn xao. Cái “xôn xao” của đôi mắt như nói lên bao điều. Khi ông Sáu cất tiếng chào “Thôi ba đi nghe con” thì nỗi niềm trong nó bật tung thành tiếng “Ba…….a…a”. Tiếng kêu của nó như xé, xé sự im lặng và xé cả ruột gan mọi người, nghe thật xót xa. Đó là tiếng “ba” mà nó cố đè nén trong bao nhiêu lâu nay, tiếng ba như vỡ tung từ nỗi lòng nó. Đọc truyện ta như thấy cách Thu bộc lộ tình cảm với cha thật xúc động, là người ngoài cuộc ta cũng không khỏi nhói lòng. Yêu thương cha vô cùng nên em quyết định lạnh lùng với ông Sáu. Thương cha nên em không thể dành tiếng “ba” để gọi người xa lạ. Thế nhưng khi biết ngọn nguồn vết sẹo, biết đích xác là ba rồi, tình cảm nơi em vỗ òa, tức tưởi.
Cũng như bao đứa trẻ khác có cha trên đời, em mong được cha chăm chút, yêu thương. Nhưng bất hạnh thay, em xa cha từ bé, em đã trông ngóng biết bao ngày cha về nhưng chỉ tại vết sẹo, mà Thu đã để mất ba ngày quý giá, làm tổn thương tình cảm cha mình. Chính vì thế nên ta không lạ gì Thu “ôm chặt lấy cổ ba nó… dang cả hai chân rồi câu chặt lấy ba nó. Nó hôn ba cùng khắp… hôn cả vết thẹo dài bên má của ba nó nữa”. Nếu như trước đây, Thu ghét ông Sáu bao nhiêu thì giờ đây tình cảm của em dành cho ông mãnh liệt bấy nhiêu. Ta nhận ra hai thái độ ấy tuy trái ngược này thực ra lại nhất quán trong sự phát triển tính cách - tính cách của cô bé dành trọn tất cả tình yêu cho người cha vô cùng kính mến. Có người cho rằng tác giả xây dựng hình tượng bé Thu hơi thái quá, song thiết nghĩ thái độ ngang ngạnh đó cũng vì xuất phát từ tình yêu thương cha mãnh liệt. Với sự am hiểu tâm lý trẻ thơ, ngòi bút miêu tả sinh động diễn biến tâm lý trẻ thơ của tác giả đã xây dựng nên một cô bé Thu cứng cỏi, mạnh mẽ, sâu sắc trong tình cảm. Tâm lí và hành động của Thu được miêu tả sinh động, sát với tâm lí lứa tuổi của em. Điểm nổi bật gợi sự xúc động của em là một tình cảm chân thành, mãnh liệt mà thánh thiện dành cho cha.
Trong Chiếc lược ngà, tình cảm của ông Sáu dành cho con cũng mãnh liệt, sâu nặng không kém. Tình cảm ấy được tác giả thể hiện phần nào trong chuyến về thăm nhà và được miêu tả kỹ lưỡng hơn khi ông ở căn cứ kháng chiến. Sau khi chia tay với gia đình, nỗi day dứt ân hận ám ảnh ông Sáu nhiều ngày là việc là ông lỡ tay đánh con. Nhớ lời dặn tha thiết của con, ông nghĩ đến việc làm một chiếc lược ngà nhỏ xinh tặng con. Tìm được một khúc ngà voi, “anh hớt hải chạy về, tay cầm khúc ngà đưa lên khoe… mặt hớn hở như đứa trẻ được quà”. “Những lúc rỗi, anh cưa từng chiếc răng lược, thận trọng, tỉ mỉ và cố công như người thợ bạc”. Tại sao chiếc lược bằng ngà mà không bằng một vật liệu gì khác? Phải chăng là để thể hiện tình yêu thương của ông đối với con? Chiếc lược ngà ấy rất quý, phải như thế mới xứng đáng với đứa con gái bé bỏng của ông, với tình yêu ông dành cho nó.
Từng chiếc răng lược dần hiện ra là từng niềm vui của ông. Bụi ngà rơi mỗi lúc một nhiều. Bao nhiêu bụi ngà rơi là bấy nhiêu tình cảm ông dành cho con. Trên sống lưng lược, ông còn gò lưng, tẩn mẩn khắc từng nét “Yêu nhớ tặng Thu con gái của ba”. Bao trìu mến thân thương toát lên từ hai chữ “Yêu nhớ”, bao nồng nàn, thấm đẫm nhớ nhung, yêu thương con của ông Sáu ẩn chứa trong những chữ “Thu con của ba”. Cây lược ngà ấy chưa chải được mái tóc của con, nhưng nó gỡ rối được phần nào tâm trạng của anh.” Có cây lược, ông càng mong được gặp con để trao tận tay cho nó nhưng éo le thay, chiến tranh đã vô tình cướp đi của ông giây phút vui mừng trao cho con cây lược. Giây phút cuối, tình cảm cha con trong ông vẫn da diết, trước lúc nhắm mắt, dòng suy tưởng của ông vẫn nhớ về con mình. Trút hơi thở cuối cùng, ông Sáu chỉ kịp gửi lại chiếc lược ngà cho đồng đội. Lần đầu tiên một người chiến sỹ trở thành một nghệ nhân sáng tạo tài tình dù chỉ sáng tạo một sản phẩm duy nhất Chiếc lược ngà. Người mất nhưng kỷ vật còn. Chiếc lược ngà là gạch nối giữa cái mất mát và sự tồn tại, nó vẫn còn mãi, là kết tinh của tình phụ tử mộc mạc, đơn sơ mà đằm thắm, kỳ diệu, là hiện hữu của tình cha con bất tử không bao giờ chết được.
Bản thân là người Nam Bộ, là người lính từng chiến đấu xa nhà nên hơn ai hết Nguyễn Quang Sáng hiểu được tình cảm gia đình đối với người lính sâu đậm biết chừng nào. Kết cấu truyện với nhiều tình huống bất ngờ đã làm nổi bật vẻ đẹp tính cách của các nhân vật, gây xúc động sâu sắc cho người đọc. Chuyện được ghi theo lời kể của một chiến sỹ cách mạng - người bạn thân thiết của ông Sáu, khiến chuyện càng trở nên đáng tin cậy, trung thực.
Truyện Chiếc lược ngà là bài ca đẹp về tình cha con. Trong hoàn cảnh éo le của chiến tranh, tình cảm thiêng liêng ấy càng cao đẹp và càng ngời sáng. Truyện không chỉ nói lên tình cảm cha con thắm thiết sâu nặng mà còn gợi cho ta suy nghĩ thấm thía về những éo le, đau thương, mất mát mà chiến tranh gieo rắc cho bao nhiêu con người, bao nhiêu gia đình. Ta càng thấm thía rằng tình cảm gia đình là sức mạnh, niềm tin để con người có thể vượt qua tất cả, ngay cả cái chết. Ta hiểu “Nếu trên đời có những nguồn vui chân chính và niềm hạnh phúc thật sự, thì nó sẽ nằm trong tổ ấm gia đình”.
Phân tích tác phẩm Chiếc lược ngà (Mẫu 19)
Trong suốt cuộc đời sáng tác, có những nhà văn chỉ để lại dấu ấn bằng một vài tác phẩm, nhưng tiếng vang của chúng lại lan tỏa mãi qua nhiều thế hệ độc giả. 'Chiếc lược ngà' là một kiệt tác của nhà văn Nguyễn Quang Sáng, ghi lại tình cảm cha con sâu sắc giữa những thời kỳ chiến tranh khốc liệt.
Tác phẩm này được viết năm 1966, khi tác giả đang hoạt động ở chiến trường Nam Bộ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. 'Chiếc lược ngà' kể về cuộc gặp gỡ ngắn ngủi giữa anh Sáu - chiến sĩ cách mạng và bé Thu - con gái của anh, trong bối cảnh chiến tranh khốc liệt.
Sau những năm tháng xa cách, anh Sáu trở về với hình ảnh của một người đàn ông già dặn, mang theo những vết thương chiến tranh trên khuôn mặt. Bé Thu chỉ biết về bố mình qua bức ảnh ngày cưới, khi đó anh Sáu chưa có vết sẹo.
Truyện nói về sự đối mặt của bé Thu với người cha sau nhiều năm xa cách. Sự ngạc nhiên, sợ hãi ban đầu của bé Thu khi gặp người cha lạ lùng đã dần dịu đi, thay vào đó là tình cảm sâu sắc, và giây phút chia tay đầy xúc động.
Chiếc lược ngà, món quà ý nghĩa mà anh Sáu dành cho bé Thu, cuối cùng đã trở thành kỷ vật anh để lại cho con. Mỗi chi tiết trong truyện đều thể hiện tình cảm cha con trong hoàn cảnh chiến tranh đầy éo le và khó khăn.
Câu chuyện có sức hấp dẫn bởi sự chân thực của tình cảm cha con, đồng thời là lời kêu gọi chống chiến tranh và làm nổi bật những đau khổ mà chiến tranh mang lại cho con người. 'Chiếc lược ngà' không chỉ là một tác phẩm xuất sắc của Nguyễn Quang Sáng mà còn là một biểu tượng của tình cảm và lòng nhân đạo.
Phân tích tác phẩm Chiếc lược ngà (Mẫu 20)
Cuộc kháng chiến chống Mỹ trường kì đã để lại bao đau thương, mất mát cho dân tộc Việt Nam. Đã có biết bao tác phẩm ra đời trong hoàn cảnh khốc liệt ấy để ca ngợi tình người trong chiến tranh đồng thời phơi bày những giá trị hiện thực. Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng cũng là một tác phẩm như vậy. Là một nhà văn quê ở miền Tây Nam Bộ, hầu như ông chỉ viết về cuộc sống và con người của quê hương trong chiến tranh và sau hoà bình. Truyện ngắn này ra đời trong hoàn cảnh đạn bom ác liệt nhưng lại tập trung nói về tình người, cụ thể là tình cha con sâu sắc của người chiến sĩ cách mạng.
Anh Sáu xa nhà đi kháng chiến lúc đứa con gái đầu lòng mới một tuổi. Mãi đến khi nó lên tám tuổi, anh mới có dịp về thăm nhà. Con bé không nhận anh Sáu là cha vì vết sẹo trên mặt khiến anh không giống trong bức ảnh chụp cùng với vợ mà bé Thu đã được má cho xem. Đến lúc bé Thu nhận ra cha thì cũng là lúc anh Sáu phải ra đi. Tình cha con thiêng liêng trỗi dậy mãnh liệt trong em khiến cho mọi người xúc động. Ở khu căn cứ, người cha dồn hết tình cảm yêu quý, nhớ thương vào việc làm một chiếc lược bằng ngà để tặng cô con gái bé bỏng. Trong một trận càn của giặc, anh Sáu bị thương nặng. Trước lúc nhắm mắt, anh còn kịp trao cây lược ngà cho người bạn, với ý nhờ mang về quê trao tận tay con gái của mình.
Tình cha con sâu sắc được tác giả thể hiện qua hai tình huống: Tình huống thứ nhất là cuộc gặp gỡ của hai cha con sau tám năm xa cách. Thu đối xử với cha như đối với người xa lạ. Đến lúc em nhận ra và ôm riết lấy cha, thể hiện tình cảm mãnh liệt thì anh Sáu lại phải ra đi làm nhiệm vụ.
Tình huống thứ hai là ở khu căn cứ, anh Sáu dồn tất cả tình yêu thương, mong nhớ con vào việc làm cây lược ngà để tặng con, nhưng anh đã hi sinh và không kịp trao món quà ấy cho con gái. Tình huống này thể hiện tình cảm sâu nặng của người cha đối với con.
Sau nhiều năm xa cách, anh Sáu chỉ thấy con qua tấm ảnh nhỏ luôn mang bên người. Đến lúc được về thăm nhà, bao nỗi nhớ thương chất chứa từ lâu nên anh Sáu không kìm được niềm vui khi nhìn thấy bé Thu: Cái tình người cha cứ nôn nao trong người anh. 'Xuồng vào bến, thấy một đứa bé độ tám tuổi, tóc cắt ngang vai, mặc quần đen, áo bông đỏ đang chơi nhà chòi dưới bóng cây xoài trước sân nhà, đoán biết là con, không thể chờ xuồng cập lại bến, anh nhún chân nhảy thót lên, xô chiếc xuồng tạt ra, khiến tôi bị chới với. Anh bước vội vàng với những bước dài, rồi dừng lại kêu to: Thu! Con!'
Nhưng thật trớ trêu, đáp lại tình cảm nồng nàn của người cha, bé Thu lại tỏ ra sợ hãi và ngờ vực. Anh Sáu càng muốn gần con để vỗ về yêu thương thì đứa con lại càng tỏ ra lạnh nhạt, xa lánh.
Diễn biến tâm lí và tình cảm của bé Thu trong lần gặp cha đầu tiên được tác giả miêu tả ở hai thời điểm trước và sau khi nhận ra cha.
Tâm lí và thái độ của bé Thu được tác giả thuật lại rất sinh động qua hàng loạt các chi tiết vừa cảm động, vừa buồn cười: Nghe gọi, con bé giật mình, tròn mắt nhìn. Nó ngơ ngác, lạ lùng. Lần đầu tiên nhìn thấy người đàn ông lạ, lại xưng là ba, con bé hết sức ngạc nhiên và sợ hãi, mặt nó bỗng tái đi, rồi vụt chạy và kêu thét lên: “Má ! Má !'
Khi má bảo gọi cha vào ăn cơm, nó nhất quyết không chịu. Má ép quá, bé Thu chỉ gọi trống không: Vô ăn cơm! Kể cả lúc má đi vắng, nó lâm vào thế bí, muốn nhờ anh Sáu chắt bớt nước nồi cơm đang sôi mà cũng vẫn nói trổng, nhất định không gọi là cha. Anh Sáu lặng im xem nó làm cách nào. Bé Thu lấy vá (muôi) múc nước ra, vừa múc vừa lầu bầu tức giận. Bữa cơm, anh Sáu âu yếm gắp cho con cái trứng cá vàng ươm. Bé Thu bất ngờ lấy đũa hất rơi xuống đất. Anh Sáu không nén được tức giận, đánh con một cái vào mông. Bé 'lặng lẽ đứng dậy, bước ra khỏi mâm' bỏ ăn, chèo xuồng về nhà bà ngoại bên kia sông. Lúc cởi dây xuồng, nó còn cố ý khua dây xích kêu rộn ràng để tỏ ý bất bình.
Sự ương ngạnh của bé Thu đúng là tâm lí và tính cách trẻ nhỏ nên không đáng trách. Trong hoàn cảnh chiến tranh, Thu còn quả nhỏ nên không thể hiểu được những tình thế khắc nghiệt, éo le. Phản ứng rất tự nhiên chứng tỏ bé Thu có cả tính mạnh mẽ, tình cảm sâu sắc và chân thật. Bé chỉ yêu khi tin chắc người đó đúng là ba của mình. Trong thái độ cứng đầu của bé ẩn chứa cả sự kiêu hãnh dành cho người cha thân yêu - tức là người đàn ông điển trai trong tấm hình chụp chung với má.
Khi đã nhận ra cha, cảm xúc và hành động của bé Thu biểu hiện thật mãnh liệt, khác hẳn lúc trước.
Ba ngày nghỉ phép đã hết. Trước lúc lên đường, anh Sáu đang bịn rịn chia tay thì bất chợt bé Thu cất tiếng gọi ba và tiếng kêu như xé, xé sự im lặng và xé cả ruột gan mọi người, nghe thật xót xa. Đó là tiếng “ba' mà nó cố đè nén trong bao nhiêu năm nay, tiếng “ba' như vỡ tung ra từ đáy lòng nó, nó vừa kêu vừa chạy xô tới, nhanh như một con sóc, nó nhảy thót lên và dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba nó. Nó hôn ba nó cùng khắp. Nó hôn tóc, hôn cổ, hôn vai và hôn cả vết thẹo dài bên má của ba nó nữa... Hai tay nó siết chặt lấy cổ, chắc nó nghĩ hai tay không thể giữ được ba nó, nó dang cả hai chân rồi câu chặt lấy ba nó, và đôi vai nhỏ bé của nó run run.
Điều gì đã dẫn đến sự thay đổi đột ngột trong thái độ cùa bé Thu? Thì ra khi bỏ về nhà bà ngoại, Thu đã được bà giải thích về vết sẹo làm thay đổi vẻ mặt của cha là do giặc Pháp bắn bị thương. Sự nghi ngờ đã được giải toả và bé Thu ân hận, hối tiếc về cung cách cư xử lạnh nhạt của mình đối với cha: Nghe bà kể, nó nằm im, lăn lộn và thỉnh thoảng lại thở dài như người lớn.
Vì thế, trong phút chia tay, tình yêu và nỗi mong nhớ đối với người cha xa cách bấy lâu đã bùng ra thật mạnh mẽ khiến bé Thu bối rối, cuống quýt. Chứng kiến cảnh ngộ éo le của cha con anh Sáu, nhiều người không cầm được nước mắt. Lòng trắc ẩn, sự thấu hiểu những hi sinh mà bạn mình phải chịu đựng khiến cho bác Ba tức người kể chuyện - thật sự xúc động. Diễn biến câu chuyện được trần thuật theo lời bác Ba, người bạn thân thiết của anh Sáu. Bác Ba đã chứng kiến tận mắt cảnh ngộ éo le của cha con anh Sáu và trong lòng bác dâng lên một nỗi xót xa. Bác bỗng thấy khó thở như có bàn tay nắm lấy trái tim.
Qua việc miêu tả diễn biến tâm lí, ngôn ngữ và hành động của bé Thu, tác giả đã làm nổi rõ một số nét trong tính cách nhân vật. Tình cảm cha con của bé Thu thật sâu sắc, mạnh mẽ, nhưng cũng thật dứt khoát, rạch ròi. Cá tính của bé Thu cứng cỏi đến mức ương ngạnh, nhưng thực ra Thu rất hồn nhiên, ngây thơ. Tác giả tỏ ra am hiểu và diễn tả rất sinh động tình cảm trẻ thơ trong sáng.
Tình cảm cha con sâu nặng đã được tác giả thể hiện phần nào trong chuyến anh Sáu về phép thăm nhà và được miêu tả kĩ lưỡng hơn khi anh Sáu vào căn cứ kháng chiến trong rừng sâu.
Sau khi chia tay với gia đình, nỗi day dứt, ân hận ám ảnh anh Sáu suốt nhiều ngày là việc anh đã lỡ tay đánh con. Lời dặn tha thiết của đứa con: Ba về! Ba mua cho con một cây lược nghe ba!', đã thôi thúc anh nghĩ đến việc làm một chiếc lược ngà nhỏ xinh dành tặng con gái.
Kiếm được một khúc ngà voi nhỏ, anh Sáu mừng rỡ vô cùng. Anh dành hết tâm trí vào việc làm cây lược: Anh cưa từng chiếc răng lược, thận trọng, tỉ mỉ và cố công như người thợ bạc. Trên sống lưng lược có khắc một hàng chữ nhỏ mà anh đã gò lưng, tẩn mẩn khắc từng nét: “Yêu nhớ tặng Thu con của ba'.
Chiếc lược ngà đã thành một kỉ vật quý giá, thiêng liêng đối với anh Sáu. Nó làm dịu đi nỗi ân hận, dằn vặt bấy lâu và ấp ủ bao nhiêu tình cảm nhớ thương, mong đợi của người cha đối với đứa con xa cách. Cây lược ngà ấy chưa chải được mái tóc của con, nhưng nó như gỡ rối được phần nào tâm trạng của anh. Nhưng rồi một tình cảnh đau thương lại đến với cha con anh Sáu. Anh đã hi sinh khi chưa kịp trao tận tay đứa con gái chiếc lược ngà. Những lời kể lại của bác Ba, người trong cuộc, đã làm nổi bật giá trị thiêng liêng bền vững của tình cha con và tình đồng chí của những chiến sĩ cách mạng.
Truyện Chiếc lược ngà có những đặc điểm khá tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật trong truyện ngắn của Nguyễn Quang Sáng. Cốt truyện hấp dẫn, xoay quanh những tình huống bất ngờ nhưng vẫn tự nhiên, hợp lí. Giọng kể mộc mạc, tự nhiên. Ngôn ngữ gần với khẩu ngữ và đậm màu sắc Nam Bộ. Đặc sắc của truyện ngắn này còn thể hiện ở ngòi bút miêu tả tâm lí, đặc biệt là tâm lí trẻ em rất tinh tế và chính xác. Điều đó thể hiện sự nhạy cảm và tấm lòng yêu thương, trân trọng của nhà văn với con người và cuộc đời.
Một điểm đáng chú ý nữa và cũng là điều góp phần tạo nên thành công của truyện ngắn này là việc lựa chọn nhân vật kể chuyện. Người kể chuyện trong vai một người bạn chiến đấu thân thiết của anh Sáu không chỉ chứng kiến và kể lại mà còn bày tỏ sự đồng cảm, chia sẻ với các nhân vật. Qua những quan sát và cảm xúc của người kể, các chi tiết, sự việc và nhân vật trong truyện đều được phản ánh chân thực, khắc hoạ rõ nét, góp phần nêu bật nội dung tư tưởng của tác phẩm.
Truyện Chiếc lược ngà đã diễn tả một cách xúc động tình cảm thắm thiết, sâu nặng của cha con anh Sáu. Trong hoàn cảnh éo le của chiến tranh, tình cảm thiêng liêng ấy càng cao đẹp và ngời sáng. Câu chuyện không chỉ nói lên tình cha con thiêng liêng mà còn gợi cho người đọc suy ngẫm và thấm thía những éo le, đau thương, mất mát mà chiến tranh mang đến cho bao nhiêu con người, bao nhiêu gia đình. Vì vậy mà ý nghĩa tố cáo, lên án chiến tranh xâm lược của truyện khá sâu sắc.
Phân tích tác phẩm Chiếc lược ngà (Mẫu 21)
Người xưa vẫn hay nói “tình phụ tử không thể đẹp đẽ và ấm áp như tình mẫu tử” và có lẽ cũng chính vì nhận định đó nên hiếm có nhà văn nào viết về tình cha con. Trong số ít đó có thể kể đến Nguyễn Quang Sáng với truyện ngắn “Chiếc lược ngà” được sáng tác năm 1966. Đây có thể được coi là một câu chuyện cảm động về tình cha con sâu nặng trong cảnh ngộ éo le của chiến tranh. Truyện ngắn chắc hẳn đã lấy đi khá nhiều nước mắt của bạn đọc và cũng đã khắc sâu vào trong lòng những ai đã đọc truyện tình phụ tử sâu nặng.
Truyện kể về ông Sáu - 1 người chiến sĩ cách mạng. Ông xa nhà đi kháng chiến đã được 8 năm. Lần này được về phép ba ngày nên ông vô cùng phấn khởi khi nhận ra con gái của mình. Ông mừng rỡ chạy đến nhưng bé Thu Đã bỏ chạy vì sợ. Trong suốt 3 ngày ở nhà ông không dám đi đâu, suốt ngày bên con an ủi vỗ về mong con gọi một tiếng ba nhưng bé Thu luôn tìm cách lảng tránh ông. Nó nói trống không, hỗn xược với ông. Thậm chí trong bữa cơm tức giận quá ông đã đánh con bé. Thu liền chạy sang nhà bà ngoại. Ngày hôm sau trước khi ông Sáu lên đường bé Thu đã cất tiếng gọi ba. Cả ông Sáu và bé Thu đều bật khóc. Em đã cố níu giữ không cho ba đi nhưng vì công việc vì nhiệm vụ ông Sáu vẫn phải lên đường. Trước khi đi ông đã đồng ý với lời dặn của con là mua cho nó một cây lược. Ở chiến khu ông Sáu không nguôi nỗi nhớ về con, ân hận vì đã lỡ đánh con và nhớ tới lời dặn của con. Từ khi bắt được khúc ngà voi ông ra sức làm cho con cây lược, ông khắc lên đó dòng chữ “Yêu nhớ tặng Thu - con của ba”. Trong một trận càn ông Sáu bị thương nặng, trước lúc hi sinh ông đã trao lại cây lược ngà cho bác Ba với ánh mắt như muốn trao gửi lại tất cả cho người đồng đội của mình.
Hiện lên trong truyện ngắn là hình ảnh của bé Thu - một em bé miền Nam đã chịu nhiều thiệt thòi vì chiến tranh, là một đứa bé ương ngạnh, bướng bỉnh nhưng cũng rất yêu mến cha của mình. Khi bé Thu đang chơi nhà chòi dưới bóng cây xoài trước sân nhà cùng với các bạn của em thì chiếc xuồng của ông Sáu cập bến. Khi nghe có người gọi “Thu! Con”, con bé giật mình, nó tròn mắt nhìn ngơ ngác, lạ lùng, tái mặt đi, vụt chạy và thét lên “Má! Má!”. Đó là sự bất ngờ, ngạc nhiên và hoảng sợ của một đứa bé khi lần đầu tiên nghe có người gọi là con và xưng là ba của nó. Phản ứng ấy rất tự nhiên và phù hợp. Trong ba ngày ngắn ngủi, em nhất quyết không chịu nhận ông Sáu là ba. Nghe mẹ nó bảo gọi ba vào ăn cơm nó lại nói “Thì má cứ kêu đi” đến khi mẹ nó nổi giận, quơ đũa bếp dọa đánh thì nó gọi trống không “Vô ăn cơm” rồi lại “Cơm chín rồi”. Trong lần mẹ em phải đi ra chợ mua thức ăn, em ở nhà phải trông nồi cơm. Khi nghe nồi cơm sôi, em giở nắp, lấy đũa bếp sơ qua. Vì nồi cơm hơi to không thể nhấc xuống nhưng vẫn không chịu nhờ ông Sáu. Lúc nồi cơm sôi lên sùng sục, em hơi sợ “nó nhìn xuống, vẻ nghĩ ngợi, nhắc không nổi, nó lại nhìn lên” và cuối cùng nó cũng đã tự mình múc nước ở nồi cơm “miệng lẩm bẩm điều gì không rõ”. Trong bữa cơm, khi ông Sáu gắp cho nó cái trứng cá để vào chén nó đã hất cái trứng cá ra làm cơm văng tung tóe ra cả mâm. Bị ông Sáu đánh nó không khóc mà chạy ngay sang nhà bà ngoại khoe với bà và khóc. Cả đêm nó nằm im, lăn lộn và thở dài khi nghe bà ngoại lí giải mọi chuyện. Ngày hôm sau, khi ông Sáu lên đường nó cũng theo bà về, nó lặng lẽ đứng ở góc nhà, đôi mắt buồn với vẻ nghĩ ngợi sâu xa, vẻ mặt nó sầm lại buồn rầu, “cái vẻ buồn trên gương mặt ngây thơ của con bé trông rất dễ thương. Lúc ông Sáu chuẩn bị lên đường, nó bỗng kêu thét lên “Ba..a..a..ba!”. “Tiếng kêu của nó như tiếng xé, xé sự im lặng và xé cả ruột gan mọi người nghe thật xót xa”. Đó là tiếng “ba” mà nó cố đè nén trong bao nhiêu năm nay, tiếng ba như vỡ tung ra từ tận sâu trong đáy lòng nó, nó vừa kêu vừa chạy xô tới, nhanh như một con sóc nó nhảy thót lên và dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba nó. Tất cả cảm xúc dồn nén đến vỡ òa ra trong giây phút đỉnh điểm của sự xúc động, cảm xúc lần đầu tiên chạm đến thứ quý báu nhất trên đời, đó là tiếng gọi ba lần đầu tiên trong suốt 8 năm tuổi thơ chịu nhiều thiệt thòi. Rồi tình cảm của nó được biểu hiện bằng những nụ hôn “Nó hôn ba nó cùng khắp. Nó hôn tóc, hôn cổ, hôn vai và hôn cả vết thẹo dài bên má của ba nó nữa”. Nó hôn lên vết thẹo dài bên má ba nó không chỉ là sự chuộc lỗi mà còn thể hiện tình cảm lớn lao mà nó dành cho ba. Vì vết thẹo đó mà nó ba nó đã phải chịu nhiều sự đau đớn về cả thể xác lẫn tinh thần. Người đọc nhận ra thái độ của em thay đổi đột ngột: em đã nhận ông Sáu là ba. Lúc này tình yêu ba của em dâng lên đầy mãnh liệt.
Còn về ông Sáu, trước sự ương bướng, ngang ngạnh của Thu ông Sáu vẫn là một người cha yêu con hết mực, vẫn cố gắng an ủi, vỗ về con. Sau 8 năm đi kháng chiến xa nhà, lần này được nghỉ phép ba ngày “cái tình người cha cứ nôn nao trong người anh”. Xuồng vào bến, chợt nhận ra bé Thu, không thể chờ xuồng cập bến “anh nhún chân nhảy thót lên, xô chiếc xuồng tạt ra” và ông gọi to “Thu! Con” giọng lắp bắp run run “Ba đây con! Ba đây con! “.Khi bé Thu chạy đi vì hoảng sợ cũng là lúc ông Sáu “đứng sững lại đó, nhìn theo con, nỗi đau đớn khiến mặt anh sầm lại trông thật đáng thương và hai tay buông xuống như bị gãy”. Trong ba ngày nghỉ phép ông chẳng đi đâu cả, chỉ quanh quẩn ở nhà vỗ về, an ủi bé Thu mong em gọi một tiếng ba nhưng nó nhất quyết không chịu gọi. Bực mình trước sự ngang ngạnh và thái độ của Thu, không kìm nổi cảm xúc ông đã đánh con “giận quá, không kịp suy nghĩ, anh vung tay đánh vào mông con bé và hét lên: Sao mày cứng đầu quá vậy hả? “. Đang trong lúc tuyệt vọng nhất, ngỡ như bé Thu sẽ mãi mãi không bao giờ gọi là ba thì ông đã hạnh phúc tột cùng khi Thu nhận ông là ba, ông “vứt khăn lau nước mắt rồi hôn lên mái tóc con”. Nước mắt của ông Sáu chính là niềm vui sướng khi cuối cùng bé Thu đã chịu nhận ông là ba - niềm mong mỏi bấy lâu nay của ông Sáu. Rồi trước khi lên đường ông đã hứa sẽ mua cho nó một cây lược ngà.
Ở chiến khu, lúc nào ông cũng cảm thấy ân hận và day dứt vì đã đánh con. Từ khi bắt được khúc ngà voi ông Sáu vui lên hẳn. Ngày nào cũng cần mẫn, tỉ mỉ đẽo, gọt thành một chiếc lược ngà thật đẹp cho con gái yêu dấu. Ông còn khắc lên đó dòng chữ “Yêu nhớ tặng Thu - con của ba”. Từ ngày làm xong chiếc lược ông cũng bớt đi phần nào ân hận vì đã đánh con. Những lúc rảnh rỗi ông thường lôi chiếc lược ra mà ngắm rồi chải lên mái tóc cho chiếc lược thêm bóng mượt và ông càng mong được gặp con hơn. Không may mắn trong một trận càn của địch ông Sáu bị thương, trước khi nhắm mắt ông đã cố sức lấy chiếc lược ngà nhờ bác Ba gửi lại cho con gái. Đến giây phút cuối của cuộc đời người cha ấy vẫn luôn nghĩ tới con, dành trọn tình yêu cho đứa con gái bé bỏng.
Bằng ngòi bút nghệ thuật tinh tế, đậm chất Nam Bộ Nguyễn Quang Sáng đã xây dựng rất thành công hình ảnh bé Thu và ông Sáu. Hai nhân vật chính cùng các tình huống truyện bất ngờ, hấp dẫn đã làm nổi bật lên tình cảm cha con trong hoàn cảnh éo le của chiến tranh, trong bom đạn khốc liệt. Tình cảm ấy là cội nguồn sức mạnh giúp con người Việt Nam vượt lên sự hủy diệt của bom đạn kẻ thù.
Phân tích tác phẩm Chiếc lược ngà (Mẫu 22)
Tác phẩm 'Chiếc lược ngà' của nhà văn Nguyễn Quang Sáng là một truyện ngắn viết về tình phụ tử vô cùng sâu sắc, của cha con nhà bé Thu trong chiến tranh kháng chiến chống Mỹ. Đây là một câu chuyện có cốt truyện giản dị nhưng chứa đựng nhiều bất ngờ, thể hiện cái nhìn nhân sinh quan sâu sắc của tác giả Nguyễn Quang Sáng.
Thông qua câu chuyện tác giả muốn tố cáo tội ác của chiến tranh, đã chia cắt tình cảm cha con, gia đình mang nhiều thương đau tới người dân đau khổ. Truyện ngắn xoay quanh hai cha con ông Sáu và bé Thu. Ông Sáu tham gia lực lượng vũ trang khi bé Thu chỉ là một phôi thai nằm trong bụng mẹ. Bé Thu ra đời, đã bảy tám năm nhưng chưa gặp cha mình lần nào. Nó chỉ được nghe mẹ kể về bà và xem hình ba qua bức ảnh cưới đen trắng mà thôi.
Ngày ông Sáu được nghỉ phép ít ngày về thăm gia đình, lần đầu tiên nhìn thấy con gái mình ông vô cùng nghẹn ngào xúc động. Ông Sáu chạy tới ôm con gọi lớn 'Thu ơi! Ba đây con' Nhưng đáp lại tình cảm sâu sắc mãnh liệt của ông Sáu là thái độ hờ hững, tìm cách thoát khỏi vòng tay của người cha. Bé Thu chạy vào nhà gọi mẹ. Những ngày tháng hai cha con sống chung cũng có nhiều tình tiết khiến nhiều người phải suy nghĩ. Trong khi ông Sáu tìm đủ mọi cách để được gần gũi con, để được chăm sóc cho con gái những ngày được ở nhà, thì bé Thu lại vô cùng ngang ngạnh gai góc cương quyết không chịu nhận Ba.
Trong bữa cơm, khi mẹ bảo Thu ra kêu bà vào ăn cơm. Nó chỉ ra ngoài và gọi trống không 'vô ăn cơm!'. Sự gai góc, ngang ngạnh của con bé Thu khiến anh Sáu nhiều khi vừa tức giận, vừa cảm thấy thương nó. Có lần mẹ đi chợ xa, nó ở nhà nấu cơm, muốn đổ bớt nước trong nồi cơm cho cơm khỏi nhão. Nhưng sức nó yếu cái bếp lại cao nó không làm được điều đó. Ông Sáu quan sát bé Thu loay hoay bên nồi cơm xem thử con bé có chịu kêu mình bằng ba để nhờ sự giúp đỡ hay không. Nhưng không nó không bắt được nồi cơm khỏi bếp nhưng nó rất thông minh khi lấy cái muôi cơm xúc từng ít nước đổ đi.
Trong bữa cơm gia đình quây quần bên nhau, ông Sáu muốn tăng cường tình cảm cha con muốn gần gũi chăm sóc con nhiều hơn nên gắp cho con một miếng trứng cá thơm ngon nhất. Nhưng còn bé hất mạnh tay làm cho miếng trứng cá rơi văng ra nền đất. Bực quá, ông Sáu phát cho con mấy cái vào đít. Con bé không khóc lóc mà nó chạy ra ngoài sông lấy chèo thuyền qua nhà bà ngoại, tối đó nó ngủ ở bên đó.
Nhờ bà ngoại giảng giải, và nói lên nguyên nhân của những vết sẹo trên khuôn mặt của ông Sáu mà bé Thu đã hiểu ra tất cả. Hóa ra bấy lâu nay bé Thu không chịu nhận ông Sáu làm cha bởi nó thấy ông Sáu không giống với người cha trong ảnh mà nó thường nhìn thấy. Những vết sẹo gớm ghiếc trên mặt ông làm cho con bé Thu không thể nào nhận ra ông được.
Nhưng khi bé Thu biết được đó chính là cha mình, những vết sẹo trên mặt ông Sáu là vì dân vì nước, vì bảo vệ mẹ con Thu mà có thì bé Thu đã khóc. Nó âm thầm lau những giọt nước mắt trên khuôn mặt mình khi nghe bà ngoại kể về những chiến công của cha, những khó khăn vất vả mà cha nói phải đối diện ngoài chiến trường.
Rồi ba ngày nghỉ phép cũng hết, ngày ông Sáu phải lên đường đi chiến đấu cũng đã tới, giây phút chia ly, tiễn biệt, nghẹn ngào. Ông Sáu nói với bé Thu 'Ba đi nghe con' trong giây phút ấy bé Thu đã thực sự trở thành một cô bé đúng tuổi của mình. Nó gọi lớn 'Không cho ba đi, ba phải ở nhà với con' rồi ôm chầm lấy ông Sáu mà khóc. Tình cảm cha con trào dâng mãnh liệt, tiếng ba được dồn nén, kìm kẹp quá lâu nay được phát ra vô cùng nghẹn ngào.
Rồi ông Sau đi, bé Thu dặn dò 'Ba mua cho một cây lược nghe'. Trong những ngày ông Sáu ở chiến trường ngoài những giờ phút đánh trận hiểm nguy, thì cứ lúc nào rảnh không lại ngồi để khắc cho con một chiếc lược ngà. Ông Sáu tỉ mỉ, mài từng cái răng của chiếc lược. Ông là nó bằng cả trái tim yêu thương của một người cha dành cho đứa con gái bé bỏng của mình.
Rồi trong một lần tác chiến ông Sáu đã anh dũng hy sinh, máu nhuộm đỏ chiếc lược ngà ông để trong túi áo. Trong giây phút sinh tử hấp hối đó, ông Sáu đã lấy chiếc lược ngà ra trao cho người đồng đội thân thiết nhất của mình ông Quang và dặn dò ông Quang hãy trao tận tay cho con gái mình bé Thu chiếc lược ngà đó và nói với nó rằng 'Ba rất yêu con'. Ông Sáu ra đi vì tiếng gọi thân thương của quê hương đất nước, vì độc lập của dân tộc Việt Nam, để bảo vệ mảnh đất và những con người ông yêu thương. Ông Sáu mãi mãi không thể nào gặp lại bé Thu được nữa, chiếc lược ngà ông Sáu làm tặng con là món quà đầu tiên và duy nhất mà ông để lại cho đứa con gái bé bỏng của mình. Nó là một món quà vô giá, thấm đẫm tình cảm cha con, tình phụ tử thiêng liêng.
Tuy ông Sau không còn nữa, ông đã vĩnh viễn nằm lại nơi chiến trường rừng thiêng nước độc, nhưng, câu chuyện cảm động về chiếc lược ngà và tình cảm cha con ông sẽ là một nhân chứng cho nỗi đau mà chiến tranh đã gây ra cho người dân của chúng ta. Thông qua tác phẩm này nhà văn Nguyễn Quang Sáng muốn tố cáo tội ác của chiến tranh đã làm cho nhiều gia đình Việt Nam phải nhà ta cửa nát, cha con không được gần gũi đoàn tụ.
Phân tích tác phẩm Chiếc lược ngà (Mẫu 23)
Trong suốt quãng đời cầm bút của mình, có những nhà văn chỉ ghi lại dấu ấn bằng một vài tác phẩm nhưng tiếng vang của nó lại lưu truyền mãi qua nhiều thế hệ độc giả. “Chiếc lược ngà” là một tác phẩm như thế. Đây là một tác phẩm xuất sắc của nhà văn Nguyễn Quang Sáng, nó đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc về tình cảm cha con sâu nặng trong hoàn cảnh chiến tranh khốc liệt.
Tác phẩm được viết năm 1966 khi tác giả hoạt động ở chiến trường Nam Bộ những năm kháng chiến chống Mĩ và được đưa vào tập truyện cùng tên. Truyện kể về cuộc gựp gỡ ngắn ngủi của anh Sáu – chiến sĩ cách mạng với ba ngày phép và bé Thu – con gái của anh. Những gì bé Thu biết về bố nó chỉ là hình ảnh anh Sáu trong bức ảnh chụp chung với mẹ nó ngày cưới nhau. Hồi đó, bố nó chưa có vết sẹo trên mặt.
Phân tích truyện ngắn Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang SángSau bao nhiêu năm xa cách, anh Sáu ngày trở về đã trở thành một người đàn ông già dặn, nếm đủ mọi sương gió và phải gánh chịu hậu quả mà chiến tranh để lại – vết sẹo trên má làm gương mặt anh có phần biến dạng. Chính vết sẹo đó đã khiến bé Thu nhất quyết không chịu nhận lại cha của mình cho đến khi anh sắp lên đường quay lại chiến trường gian khó, ác liệt. Giây phút nó chạy đến ôm chầm lấy ba “Không cho ba đi. Ba phải ở nhà với con” khiến cho cả tác phẩm bừng sáng tình cha con, khiến nhiều độc giả phải nghẹn ngào bật khóc. Khi quay trở lại chiến trường, anh Sáu vẫn nhớ lời hứa với con. Anh làm tặng bé Thu một chiếc lược ngà nhưng chưa kịp trao cho con anh đã hy sinh nơi chiến trường. Chiếc lược được một người đồng chí của anh là bác Ba đưa lại cho bé Thu.
Tình cảm cha con sâu nặng được thể hiện qua hai tình huống. Đầu tiên là cuộc gặp gỡ của hai cha con ông Sáu sau tám năm xa cách, nhưng thật trớ trêu là bé Thu không nhận cha, đến lúc em nhận ra và biểu lộ tình cảm thắm thiết thì ông Sáu lại phải lên đường. Tình huống hai, ở khu căn cứ, ông Sáu dồn tất cả tình yêu thương và lòng mong nhớ đứa con vào việc làm cây lược ngà nhưng ông đã hi sinh khi chưa kịp trao món quà ấy cho con gái. Như vậy câu chuyện đã đi từ tình yêu mãnh liệt của bé Thu dành cho cha đến tình cảm sâu sắc, thắm thiết mà ông Sáu dành cho đứa con của mình. Có thể thấy, đây là tình huống đầy éo le mà chúng ta thường gặp trong chiến tranh.
Tình tiết éo le của chuyện bắt đầu từ cuộc gặp gỡ của hai cha con sau bảy năm xa cách. Cũng giống như Thu, anh Sáu chỉ thấy con qua tấm ảnh nhỏ luôn mang bên người. Tình cảm cha con chất chứa bao năm khiến anh không khỏi xúc động khi trở về, nhìn thấy đứa con gái nhỏ của mình: “Xuồng vào bến, thấy một đứa bé độ tám tuổi, tóc cắt ngang vai, mặc quần đen, áo bông đỏ đang chơi nhà chòi dưới bóng cây xoài trước sân nhà, đoán biết là con, không thể chờ xuồng cập lại bến, anh nhún chân nhảy thót lên, xô chiếc xuồng tạt ra, khiến tôi bị chới với. Anh bước vội vàng với những bước dài, rồi dừng lại kêu to: Thu! Con!”.
Nhưng thật trớ trêu, đáp lại tình cảm nồng nàn của người cha, bé Thu lại tỏ ra sợ hãi và ngờ vực: “Nghe gọi, con bé giật mình, tròn mắt nhìn. Nó ngơ ngác, lạ lùng. Lần đầu tiên nhìn thấy người đàn ông lạ, lại xưng là ba, con bé hết sức ngạc nhiên và sợ hãi, mặt nó bỗng tái đi, rồi vụt chạy và kêu thét lên: “Má ! Má !”. Anh Sáu càng muốn gần con để vỗ về yêu thương thì đứa con lại càng tỏ ra lạnh nhạt, xa lánh bởi trong mắt nó anh không giống người cha trong tấm ảnh chụp chung với mẹ. Khi má bảo gọi cha vào ăn cơm nó nhất quyết không chịu nhưng vì má ép quá nó cũng chỉ gọi trống không “Vô ăn cơm”. Khi má không có nhà, nó lâm vào thế bí, muốn nhờ anh Sáu chắt bớt nước nồi cơm đang sôi mà nó vẫn giữ thái độ xa lánh, nhất quyết không chịu gọi một tiếng cha.
Đến bữa cơm, anh Sáu yêu chiều gắp cho nó một miếng trứng cá vàng ươm nhưng nó lại bất ngờ lấy đữa hất rơi xuống đất. Hành động ngang ngược của nó đã khiến anh Sáu tức giận, anh ra tay đánh nó. Trước hành động đó của cha, bé Thu chỉ “lặng lẽ đứng dậy, bước ra khỏi mâm” bỏ ăn, chèo xuồng về nhà bà ngoại bên kia sông. Lúc cởi dây xuồng, nó còn cố ý khua dây xích kêu rộn ràng để tỏ ý bất bình.
Thật ra đằng sau sự ương ngạnh kia của Thu là tình yêu vô bờ bến mà cô bé dành cho cha của mình. Anh Sáu ngày trở về đã không còn giống với bức ảnh chụp chung với má. Bé Thu còn quá nhỏ để có thể hiểu ra những khắc nghiệt mà chiến tranh mang đến. Có trách thì phải trách chiến tranh đã vô tình trở thành bức ngăn tình yêu thương của một cô bé dành cho cha mình.
Nhưng khi về nhà bà ngoại, nó đã hiểu ra mọi chuyện. Bà ngoại đã kể cho nó nghe nguyên nhân của vết sẹo là do giặc Pháp đã làm cha nó bị thương. Khi sự nghi ngờ được xóa bỏ bé Thu vô cùng ân hận, day dứt về cách cư xử lạnh nhạt của mình với cha. Vì thế, hết ba ngày phép của cha, trước giờ phút chia tay, tình yêu và nỗi mong nhớ của Thu như bừng cháy. Nó cất tiếng “Ba” đầu tiên.
Tiếng “Ba” như xé lòng, xé tan đi sự im lặng, cào xé cả tâm can của tất thẩy mọi người. Đó là tiếng “ba” mà nó đè nén bao nhiêu năm nay, là tiếng “Ba” mà anh Sáu đã mong chờ suốt ngần ấy thời gian. Tiếng “ba” như vỡ tung ra từ đáy lòng nó, nó vừa kêu vừa chạy xô tới, nhanh như một con sóc, nó nhảy thót lên và dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba nó. Nó hôn tóc, hôn cổ, hôn vai và hôn cả vết thẹo dài bên má của ba nó nữa… Hai tay nó siết chặt lấy cổ, chắc nó nghĩ hai tay không thể giữ được ba nó, nó dang cả hai chân rồi câu chặt lấy ba nó, và đôi vai nhỏ bé của nó run run. Tiếng gọi “ba” như cào xé, cái ôm thật chặt đầy nồng thắm ấy khiến người đọc không khỏi nghẹn ngào xúc động.
Sau khi chia tay với gia đình, nỗi day dứt, ân hận ám ảnh anh Sáu suốt nhiều ngày là việc anh đã lỡ tay đánh con. Lời dặn tha thiết của đứa con: “Ba về! Ba mua cho con một cây lược nghe ba!”, đã thôi thúc anh nghĩ đến việc làm một chiếc lược ngà nhỏ xinh dành tặng con gái. Chiếc lược là báu vật anh dành tất cả tình yêu thương của mình vào đó nhưng chưa kịp trao nó cho Thu anh đã hi sinh nơi chiến trường. Chiếc lược từ món quà dành tặng con đã trở thành kỷ vật anh để lại cho con với dòng chữ: “Yêu nhớ tặng Thu con của ba”.
Sức hấp dẫn của “Chiếc lược ngà” cũng chính là toát ra từ tình cảm cha con sâu nặng ấy. Một cốt truyện đơn giản mà chặt chẽ, cùng những yếu tố bất ngờ mà hợp lí đã tạo được sự bất ngờ đầy được hứng thú cho người đọc, nhất là khi hiểu được diễn biến lôgic ở bên trong các sự việc, hành động có vẻ mâu thuẫn.
Có thể thấy, truyện ngắn “Chiếc lược ngà” đã diễn tả chân thực tình cha con thắm thiết, sâu nặng. Trong hoàn cảnh chiến tranh, tình cảm ấy càng thiêng liêng, ngời sáng. Đặc biệt, ẩn sau câu chuyện được kể một cách khách quan là tiếng nói lên án chiến tranh xâm lược gây bao đau khổ cho con người. Với hai lớp phản ánh hiện thực và nhân đạo đan xen nhau cùng với những gì mà nó thể hiện, “Chiếc lược ngà” xứng đáng là tác phẩm xuất sắc nhất của Nguyễn Quang Sáng.
Phân tích tác phẩm Chiếc lược ngà (Mẫu 24)
Có những câu chuyện dù phải đọc nhiều lần ta vẫn không thể nhớ,. Lại có những câu chuyện dù chỉ đọc một lần ta vẫn không thể quên. Có những hạnh phúc muộn màng và ngắn ngủi khiến ta phải trào nước mắt. Có những tình cảm nồng ấm và thiêng liêng mà ta chỉ cảm nhận được trong tổ ấm gia đình...
Tất cả những ấn tượng ấy đều có từ truyện ngắn Chiếc lược ngà của nhà văn Nguyễn Quang Sáng. Một truyện ngắn dung dị nhưng gây xúc động lòng người trước tình cảm sâu nặng của cha con ông Sáu. Đặc biệt truyện còn làm ngời sáng vẻ đẹp cứng cỏi cùng tình yêu thương cha mãnh liệt của một em bé mới bảy tám tuổi.
Trong đời sống tự nhiên, ai ai cũng thầm công nhận một điều rằng , tình cảm của con cái hình như thân thiết và gần gũi với mẹ hơn. CÒn với cha thì sao? Tình cha bao la và hy sinh vì con cái cũng không kém gì người mẹ, đôi khi còn mãnh liệt và sâu sắc hơn. Là một chiến sĩ cách mạng xa nhà đi thoát li cách mạng từ khi đứa con đầu lòng còn chưa đầy tuổi, mãi đến khi hòa bình lập lại ông Sáu mới có dịp về thăm nhà. Nôn nao và hạnh phúc khôn tả khi nghĩ đến giây phút gặp con , ông Sáu lại thấy đau khổ và thất vọng hơn khi con không nhận cha. Cuộc gặp gỡ sau 8 năm xa cách là khởi đầu cho chuỗi những sự việc , thái độ, hành động thể hiện tình yêu thương cha mãnh liệt của Thu.
Xa cách bao năm, Thu và cha chưa một lần gặp mặt, ông Sáu ' chỉ thấy con qua tấm ảnh nhỏ luôn mang bên người', bé Thu chỉ biết mặt cha qua tấm hình chụp chung với má. Xa cha, Thu nhớ thương vô cùng và dường như hình ảnh người cha trong tấm ảnh đã in sâu vào trong trí nhớ của Thu, là hình ảnh đẹp nhất trong lòng Thu. Tám năm sau khi người cha trở về, chiến tranh đã làm ông có sư thay đổi lớn khiến Thu không thể nhận ra cha mình.
Từ đằng xa thấy ' một đứa bé độ tám tuổi, tóc cắt ngang vai, mặc quần đen, áo bông đỏ đang chơi nhà chòi' ông Sáu đoán biết là con , không chờ xuồng cập bến ' anh nhún chân nhảy thót lên, xô chiếc xuồng tạt ra'. Linh tính của người cha cho ông biết đấy là con mình, trái tim người cha hướng ông mau mau chạy về phía con để ôm lấy cái hình hài máu mủ mà ông hằng thương nhớ trong bao năm xa cách. ' Anh vừa bước, vừa khom người đưa tay đón chờ con... giọng lặp bặp run run Ba đây con, ba đây con!' Những tưởng cha con ông sẽ ôm chầm lấy nhau trong khoảnh khắc sung sướng thì trớ trêu thay con bé không nhận ra ông, nó giật mình ' tròn mắt nhìn...ngơ ngác, lạ lùng'. Mặt Thu tái đi em kêu lên, bỏ chạy và cầu cứu ' Má! Má'. Với ông Sáu thái độ của Thu khiến ông hụt hẫng, đau đớn. Nhưng với Thu đây là phản ứng tâm lý tự nhiên. Bởi từ khi em lớn lên, ông Sáu đâu có ở bên cạnh, chưa bao giờ em được trông thấy cha bằng xương, bằng thịt. Hôm nay một người đàn ông lạ lẫm với ' vết sẹo dài đỏ ửng, giật giật, trông rât dễ sợ' đột ngột xuất hiện tự xưng là cha, làm sao em không sợ hãi? Một nghịch lý trớ trêu, đau xót cho người cha, một sự ngỡ ngàng, lạ lẫm cho đứa con được Nguyễn Quang Sáng miêu tả thật sinh động, tài tình
Những ngày sau đó, đáp lại tình cảm nồng nàn của cha, bé Thu lại càng tỏ ra sợ hãi, ngờ vực. Trong ba ngày phép ngắn ngủi, ông Sáu càng vỗ về, Thu càng lùi ra xa, ông càng chiều thương, nó càng lẩn tránh. Ông chỉ mong được nghe tiếng Ba mà sao khó khăn đến thế . Khi phải gọi ông Sáu ăn cơm, dẫu được mẹ nhắc nhở, Thu vẫn chỉ nói trổng ' vô ăn cơm' hoặc ' cơm chín rồi'. Đặc biệt trong một tình huống tưởng chừng cô bé không thể ương bướng hơn được nữa vậy mà Thu vẫn quyết liệt. Đó là lúc nồi cơm sôi, một đứa bé không thể tự mình nhấc nồi để chắt nước. Tình thế đó cứ ngỡ rằng Thu sẽ ngoan ngoãn nhờ ba giúp. Nhưng không, ngay cả khi bác Ba mờ đường cho ' Cháu phải gọi Ba chắt nước giùm con', phải nói như vậy', Thu vẫn không cất tiếng dẫu mấy lần em tỏ ra lo sợ bị mẹ đánh đòn nếu để cơm bị nhão. Bướng bình và bất cần, Thu tự mình làm một công việc nguy hiểm và quá sức. Nghĩa là nó không chịu thua, không chịu nhượng bộ. Song đỉnh điểm của sự ương bướng được thể hiện khi Thu ' hất tung cái trứng cá to vàng' mà ông Sáu gắp cho nó.
Bị đánh, nhưng Thu không khóc, lẳng lặng gắp lại cái trứng cá rồi bỏ sang nhà ngoại. Lúc cởi dây xuồng, nó còn cố ý khua dây xích ' kêu rổn rảng' để tỏ ý bất bình, có lẽ nó muốn cho mọi người biết nó sắp đi để chạy ra dỗ dành. Một chuỗi những thái độ của Thu khiến ta có thể cho Thu là một cô bé bướng bỉnh, cứng đầu. Nhưng xét căn nguyên sâu xa, không thể coi đó là biểu hiện của sự ương ngạnh, cứng đầu, hỗn láo. Trong hoàn cảnh xa cách và trắc trở của chiến tranh, bé Thu còn quá nhỏ để hiểu được những tình thế khắc nghiệt éo le của cuộc sống , hơn nữa ba má bé Thu cũng không lường trước được sự việc để giải thích cho bé rõ. Trong suy nghĩ non nớt của em, ông Sáu có vết sẹo đáng sợ ấy sao chẳng giống hình ba chụp chung với má. Mà đã không phải là cha thì không thể gọi tiếng ' ba'. Điều đó chi phối toàn bộ suy nghĩ, hành động của em. Sự bướng bỉnh của Thu không thể hiểu là sự ương ngạnh của một đứa trẻ khó dạy mà là sự kiên định của một cô bé có lập trường yêu ghét phân minh. Trong thái độ cứng đầu ẩn chứa sự kiêu hãng dành cho người cha thân yêu.- người cha trong tấm hình chụp chung với má. Thế mới biết Thu là một cô bé có cá tính. Điều mà ở những đứa trẻ bày, tám tuổi thường không có. Đó cũng là tiền đề tạo phẩm chất gan dạ, dũng cảm của cô giao liên sau này.
Tình yêu cha của Thu được thể hiện ngay trong chính hành động bướng bỉnh. Vì cha, Thu kiên quyết từ chối sự quan tâm của ông Sáu, thương cha nên bao nhiêu yêu thương kính trọng được em giữ gìn trong tiếng Ba trìu mến. Với em, ba là duy nhất, không ai có thể thay thế tình yêu ấy khiến em tỏ rõ thái độ căm ghét những gì em hoài nghi là sự xâm phạm đến hình ảnh người cha yêu quý. Đó là nét đẹp phẩm chất nơi Thu khiến ta khâm phục. Nhưng khi được ngoại giải thích rõ về nguyên nhân vết sẹo, thì sự nghi ngờ của em được giải tỏa' ' Nghe bà kể, nó nằm im lăn lộn, thỉnh thoảng thở dài như người lớn' . Sự miêu tả nội tâm gián tiếp qua hành động cho thấy những tình cảm, cảm xúc đang trào dâng trong lòng em- yêu thương cha xen lẫn nỗi ân hận.
Hôm sau trỏ về nhà, nhìn mọi người vây quanh cha, vẻ mặt Thu buồn rầu ' Cái nhìn của nó không ngơ ngác, lạnh lùng , nó nhìn với vẻ nghĩ ngợi, sâu xa'. Và khi bắt gặp ánh mắt của cha thì đôi mắt ấy như xôn xao. Cái ' xôn xao' của đôi mắt như nói lên bao điều. Khi ông Sáu cất tiếng chào ' Thôi ba đi nghe con' thì nỗi niềm trong nó bật tung thành tiếng ' Ba.......a...a' Tiếng kêu của nó như xé, xé sự im lặng và xé cả ruột gan mọi người, nghe thật xót xa. Đó là tiếng 'ba' mà nó cố đè nén trong bao nhiêu lâu nay , tiếng ba như vỡ tung từ nỗi lòng nó. Đọc truyện ta như thấy cách Thu bộc lộ tình cảm với cha thật xúc động, là người ngoài cuộc ta cũng không khỏi nhói lòng. Yêu thương cha vô cùng nên em quyết định lạnh lùng với ông Sáu. Thương cha nên em không thể dành tiếng ' ba' để gọi người xa lạ. Thế nhưng khi biết ngọn nguồn vết sẹo, biết đích xác là ba rồi, tình cảm nơi em vỗ òa, tức tưởi. Cũng như bao đứa trẻ khác có cha trên đời, em mong được cha chăm chút, yêu thương. Nhưng bất hạnh thay, em xa cha từ bé, em đã trông ngóng biết bao ngày cha về nhưng chỉ tại vết sẹo, mà Thu đã để mất ba ngày quý giá, làm tổn thương tình cảm cha mình. Chính vì thế nên ta không lạ gì Thu ' ôm chặt lấy cổ ba nó... dang cả hai chân rồi câu chặt lấy ba nó. Nó hôn ba cùng khắp...hôn cả vết thẹo dài bên má của ba nó nữa'. Nếu như trước đây, Thu ghét ông Sáu bao nhiêu thì giờ đây tình cảm của em dành cho ông mãnh liệt bấy nhiêu. Ta nhận ra hai thái độ ấy tuy trái ngược này thực ra lại nhất quán trong sự phát triển tính cách- tính cách của cô bé dành trọn tất cả tình yêu cho người cha vô cùng kính mến. Có người cho rằng tác giả xây dựng hình tượng bé Thu hơi thái quá, song thiết nghĩ thái độ ngang ngạnh đó cũng vì xuất phát từ tình yêu thương cha mãnh liệt. Với sự am hiểu tâm lý trẻ thơ, ngòi bút miêu tả sinh động diễn biến tâm lý trẻ thơ của tác giả đã xây dựng nên một cô bé Thu cứng cỏi, mạnh mẽ, sâu sắc trong tình cảm. Tâm lý và hành động của Thu được miêu tả sinh động , sát với tâm lý lứa tuổi của em. Điểm nổi bật gợi sự xúc động của em là một tình cảm chân thành, mãnh liệt mà thánh thiện dành cho cha.
Trong Chiếc lược ngà, tình cảm của ông Sáu dành cho con cũng mãnh liệt, sâu nặng không kém. Tình cảm ấy được tác giả thể hiện phần nào trong chuyến về thăm nhà và được miêu tả kỹ lưỡng hơn khi ông ở căn cứ kháng chiến.
Sau khi chia tay với gia đình, nỗi day dứt ân hận ám ảnh ông Sáu nhiều ngày là việc là ông lỡ tay đánh con. Nhớ lời dặn tha thiết của con, ông nghĩ đến việc làm một chiếc lược ngà nhỏ xinh tặng con. Tìm được một khúc ngà voi, ' anh hớt hải chạy về, tay cầm khúc ngà đưa lên khoe... mặt hớn hở như đứa trẻ được quà'. ' Những lúc rỗi, anh cưa từng chiếc răng lược, thận trọng, tỉ mỉ và cố công như người thợ bạc'. Tại sao chiếc lược bằng ngà mà không bằng một vật liệu gì khác? Phải chăng là để thể hiện tình yêu thương của ông đối với con? Chiếc lược ngà ấy rất quý, phải như thế mới xứng đáng với đứa con gái bé bỏng của ông, với tình yêu ông dành cho nó. Từng chiếc răng lược dần hiện ra là từng niềm vui của ông. Bụi ngà rơi mỗi lúc một nhiều. Bao nhiêu bụi ngà rơi là bấy nhiêu tình cảm ông dành cho con. Trên sống lưng lược, ông còn gò lưng , tẩn mẩn khắc từng nét ' Yêu nhớ tặng Thu con gái của ba'. Bao trìu mến thân thương toát lên từ hai chữ ' Yêu nhớ', bao nồng nàn , thấm đẫm nhớ nhung, yêu thương con của ông Sáu ẩn chứa trong những chữ ' Thu con của ba'. Cây lược ngà ấy chưa chải được mái tóc của con, nhưng nó gỡ rối được phần nào tâm trạng của anh.' Có cây lược, ông càng mong được gặp con để trao tận tay cho nó nhưng éo le thay, chiến tranh đã vô tình cướp đi của ông giây phút vui mừng trao cho con cây lược. Giây phút cuối, tình cảm cha con trong ông vẫn da diết, trước lúc nhắm mắt, dòng suy tưởng của ông vẫn nhớ về con mình. TRút hơi thở cuối cùng, ông Sáu chỉ kịp gửi lại chiếc lược ngà cho đồng đội. Lần đầu tiên một người chiến sỹ trở thành một nghệ nhân sáng tạo tài tình dù chỉ sáng tạo một sản phẩm duy nhất Chiếc lược ngà. Người mất nhưng kỷ vật còn. Chiếc lược ngà là gạch nối giữa cái mất mát và sự tồn tại, nó vẫn còn mãi, là kết tinh của tình phụ tử mộc mạc, đơn sơ mà đằm thắm, kỳ diệu, là hiện hữu của tình cha con bất tử không bao giờ chết được.
Bản thân là người Nam bộ, là người lính từng chiến đấu xa nhà nên hơn ai hết Nguyễn Quang Sáng hiểu được tình cảm gia đình đối với người lính sâu đậm biết chừng nào. Kết cấu truyện với nhiều tình huống bất ngờ đã làm nổi bật vẻ đẹp tính cách của các nhân vật, gây xúc động sâu sắc cho người đọc.
Chuyện được ghi theo lời kể của một chiến sỹ cách mạng- người bạn thân thiết của ông Sáu, khiến chuyện càng trở nên đáng tin cậy, trung thực
Truyện Chiếc lược ngà là bài ca đẹp về tình cha con. Trong hoàn cảnh éo le của chiến tranh, tình cảm thiêng liêng ấy càng cao đẹp và càng ngời sáng. Truyện không chỉ nói lên tình cảm cha con thắm thiết sâu nặng mà còn gợi cho ta suy nghĩ thấm thía về những éo le, đau thương, mất mát mà chiến tranh gieo rắc cho bao nhiêu con người, bao nhiêu gia đình. Ta càng thấm thía rằng tình cảm gia đình là sức mạnh , niềm tin để con người có thể vượt qua tất cả, ngay cả cái chết. Ta hiểu ' Nếu trên đời có những nguồn vui chân chính và niềm hạnh phúc thật sự , thì nó sẽ nằm trong tổ ấm gia đình'.