Top 35 mẫu Phân tích trong lòng mẹ

Sinx.edu.vn xin giới thiệu tới các em 35 mẫu Phân tích trong lòng mẹ giúp các em làm bài văn có nhiều cách phân tích trong lòng mẹ đa dạng hơn được điểm tốt trong môn Ngữ văn.

1 83 lượt xem


Phân tích trong lòng mẹ

I) Dàn ý phân tích trong lòng mẹ

Dàn ý phân tích trong lòng mẹ (Mẫu 1)

1. Mở bài

  • Giới thiệu về nhà văn Nguyên Hồng và đoạn trích Trong lòng mẹ.

2. Thân bài

Khái quát ngắn gọn nội dung của đoạn trích Trong lòng mẹ

Nhân vật bà cô:

  • Là người thân ruột thịt của bé Hồng
  • Lời nói cay nghiệt, bụng dạ hiểm độc
  • Cố ý reo rắc ý nghĩ căm ghét mẹ vào đầu người cháu

Nhân vật bé Hồng:

  • Sớm nhận ra mục đích của những lời nói thâm độc, thấy được vẻ mặt giả tạo 'rất kịch' của bà cô.
  • Trước lời nói ác ý của bà cô Hồng chỉ im lặng
  • Thương mẹ, căm ghét những hủ tục xấu xa đã khiến cho mẹ phải khổ sở.

--> Luôn yêu thương và tin rằng mẹ sẽ trở về.

Bé Hồng gặp lại mẹ

3. Kết bài

  • Cảm nghĩ về đoạn trích 'Trong lòng mẹ

 

Dàn ý phân tích trong lòng mẹ (Mẫu 2)

1. Mở bài 

  • Giới thiệu khái quát về Nguyên Hồng và đối tượng chính trong văn ông. 
  • Khái quát về tác phẩm hồi kí ' Những ngày thơ ấu ' và nêu vị trí, nội dung của đoạn trích 'Trong lòng mẹ '. 

2. Thân bài

a, Khái quát 

  •  Vị trí và nội dung chính của đoạn trích. 
  •  Các biện pháp nghệ thuật trong đoạn. 

b, Phân tích

* Hoàn cảnh cậu bé Hồng:  

  • Hồng là kết quả của một cuộc hôn nhân không hạnh phúc. Cha mất sớm. Người mẹ vì cùng túng quá phải tha hương cầu thực. Chú phải sống xa mẹ, sống cùng họ hàng ở bên nội. Nhưng cậu lại không hề được yêu thương. 
  • Trong ngày giỗ đầu của cha, cậu vừa phải chịu nỗi đau mất cha, vừa phải nghe những lời châm chọc, cay nghiệt của người cô về mẹ của mình. 
  • Lời bà cô càng thâm hiểm, ác độc bao nhiêu thì chú bé lại càng đáng thương bấy nhiêu khi phải một mình chống đỡ yếu ớt lại miệng lưỡi người đời và những hủ tục lạc hậu, ác nghiệt.

* Cuộc nói chuyện giữa Hồng và cô ruột

  • Bà cô luôn nói xấu về mẹ Hồng trước mặt cậu để khiến cậu khinh miệt và ruồng rẫy mẹ mình. 
  • Hồng đã nhận ra 'rắp tâm tanh bẩn' trong đó , em đã chọn cách im lặng để bảo vệ mẹ mình. 
  • => Đó là hiện thân của những con người đã khô héo tình máu mủ , ruột thịt. Đó còn là sản phẩm của một xã hội đầy rẫy những bất công , hủ tục lạc hậu , những thành kiến đối với người phụ nữ. 

* Tâm trạng Hồng khi trò chuyện với bà cô

  • Càng nói chuyện với cô, Hồng càng thương mẹ nhiều hơn. 
  • Hàng loạt các động từ mạnh cùng phép so sánh , ẩn dụ đã được sử dụng ' Gía những cổ tục ... nát vụn mới thôi'. 

=> Hồng là đứa trẻ nhạy cảm , thông minh khi nhận ra những ý nghĩ cay độc trong lời nói của cô. Hồng luôn yêu thương mẹ , mong chờ mẹ về. 

  • * Bé Hồng khi bất ngờ được gặp lại mẹ  
  • Hồng vô cùng ngạc nhiên , bối rối và hạnh phúc. 
  • Òa khóc khi được ở trong lòng mẹ --> sự hạnh phúc , xen lẫn sự tủi thân. 
  • Ngắm mẹ , thấy mẹ vẫn trẻ như hồi gia đình còn sung túc. ---> Đang tận hưởng niềm hạnh phúc nhỏ nhoi mà sau bao ngày đau đớn , tủi hổ bây giờ em mới có được. 

=> Cuộc gặp gỡ vô cùng xúc động , chạm đến trái tim của hàng triệu người đọc -> tình mẫu tử thiêng liêng sâu nặng không gì chia cắt được. 

c, Đánh giá

  • Đoạn hồi kí thấm đẫm chất trữ tình. Kết hợp giữa tự sự - miêu tả - biểu cảm. 
  • Tình huống truyện đơn giản nhưng hấp dẫn. 
  • Các hình ảnh so sánh độc đáo , phép tương phản. 
  • Khẳng định lại nội dung và gía trị của đoạn trích. 
  • Liên hệ các tác phẩm khác. 

3. Kết bài

  • Khái quát lại hình ảnh nhân vật chú bé Hồng và nghệ thuật của đoạn trích: Hình ảnh nhân vật chú bé Hồng khiến người đọc xúc động với tình mẫu tử thiêng liêng, cao quý.

 

Dàn ý phân tích trong lòng mẹ (Mẫu 3)

1. Mở bài

  • Giới thiệu vài nét khái quát về tác giả Nguyên Hồng: là nhà văn của những người cùng khổ, dành cho những người phụ nữ và trẻ em tấm lòng chan chứa yêu thương và trân trọng thông qua việc diễn tả thấm thía nỗi cơ cực và tủi nhục mà họ gánh chịu, đồng thời thấu hiểu, trân trọng vẻ đẹp tâm hồn của họ
  • Khái quát những nét cơ bản nhất về đoạn trích Trong lòng mẹ: Trích chương IV hồi kí “Những ngày thơ ấu”, đoạn trích diễn tả thành công, sâu sắc và cảm động tâm trạng của nhân vật chính- bé Hồng đối với người mẹ đáng thương, bất hạnh của mình

2. Thân bài

a. Nhân vật bé Hồng

* Cảnh ngộ đáng thương và nỗi buồn của bé Hồng

  • Bố mới mất, mẹ tha hương cầu thực
  • Sống giữa sự ghẻ lạnh, cay nghiệt của người cô, một người luôn tìm cách gieo vào đầu Hồng những suy nghĩ không tốt để Hồng từ bỏ, ruồng rẫy người mẹ của mình
  • Sống trong nỗi cô đơn và niềm khát khao tình mẹ

* Tình thương yêu mãnh liệt đối với mẹ

  • Lúc nào cũng nghĩ đến mẹ và thông cảm với mẹ: khi cô hỏi ngọt nhạt ⇒ cúi đầu không đáp; từ chối cô, luôn nghĩ đến mẹ.
  • Không dao động, không suy giảm tình cảm kính yêu dành cho mẹ.
  • Cảm nhận mẹ vẫn tươi như ngày nào, giác ấm ấp mơn man khắp da thịt, niềm ngây ngất sung sướng khi ở trong lòng mẹ và ước ao mình nhỏ lại

⇒ Cảm nhận của bé Hồng về tình mẫu tử thiêng liêng, sâu nặng khi gặp mẹ

3. Kết bài: Suy nghĩ bản thân về tình mẫu tử thiêng liêng trong cuộc sống và liên hệ trách nhiệm của mình trong việc bảo vệ tình cảm thiêng liêng, chân thành, cao quý ấy

 

Dàn ý phân tích trong lòng mẹ (Mẫu 4)

1. Mở bài

Giới thiệu về tác giả Nguyên Hồng, tập truyện Những kỷ niệm thơ ấu và đoạn trích từ Trong lòng mẹ.

2. Thân bài

a. Tuổi thơ khó khăn của Hồng

Là đứa trẻ sinh ra trong một gia đình không có tình thương: bố mất sớm vì nghiện ma túy; mẹ phải rời xa để kiếm sống; em sống cùng với người cô nghiệt ngã.

b. Cuộc trò chuyện giữa Hồng và bà cô

Nhân vật bà cô

  • Tìm mọi cách để vu khống mẹ Hồng, đổ oan cho em, gieo rắc vào đầu em những suy nghĩ tiêu cực, để em cảm thấy lạc quan và hận mẹ.
  • Phóng đại tình huống sống của mẹ Hồng ở xa và tưởng tượng ra chuyện mẹ em có thai để làm em đau lòng.
  • Khi thấy Hồng buồn bã và chuẩn bị khóc, bà tiếp tục đổ thêm dầu vào lửa bằng cách nói thêm những lời độc ác.

→ Một con người tàn ác, không lòng trắc ẩn thậm chí còn với chính đứa cháu của mình.

Nhân vật bé Hồng

  • Trải qua những khó khăn, xa cách với mẹ và em, chịu đựng sự tàn nhẫn của người cô.
  • Khi người cô đẩy sâu vào nỗi đau, thiếu vắng tình mẫu tử: em im lặng không nói lên điều gì.
  • Khi người cô đổ oan cho em, đưa ra những ý nghĩ xấu xa rằng mẹ đã bỏ rơi em và có thai ở Thanh Hóa: trong lòng em tự hào với mẹ, luôn giữ vững niềm tin yêu vào mẹ của mình.
  • Sự tức giận lên đến cực điểm, em phẫn uất hơn những lời lẽ bỉ ổi và cảm giác khổ đau đã gieo rắc lên cuộc sống của mẹ, em ước mình có thể làm tổn thương tất cả những điều xấu xa đó → Tình yêu thương vô hạn với mẹ, mong muốn bảo vệ mẹ trước mọi điều ác độc.

Cuộc gặp gỡ của Hồng và mẹ

  • Trong lòng em luôn khát khao gặp mẹ, khi nhận ra người ngồi trong chiếc xe giống như mẹ, em liền chạy theo → hình bóng mẹ luôn hiện hữu trong tâm trí em.
  • Cảm giác bất an nếu không phải mẹ mình, nhưng trên hết là sự nhớ mong về mẹ.
  • Khi nhận ra đó là mẹ mình: em lao tới, òa khóc nức nở, biểu hiện sự phấn khích, hạnh phúc lên đỉnh điểm.
  • Ân cần ôm mẹ trong lòng để cảm nhận tình thương, sự ấm áp. Em nhận ra mẹ không bao giờ tồi tệ như lời người cô nói mà vẫn giữ được vẻ đẹp tự nhiên như thuở trước.
  • Những lời bất lương vang vọng trong tai nhưng sớm tan biến chỉ còn lại tình yêu và hạnh phúc.

→ Tình cảm mẫu tử thiêng liêng là sức mạnh giúp Hồng vượt qua mọi khó khăn.

3. Kết bài

Tôn vinh giá trị của tác phẩm.

 

Dàn ý phân tích trong lòng mẹ (Mẫu 5)

1. Mở bài

Giới thiệu khái quát về nhà văn Nguyên Hồng, đoạn trích Trong lòng mẹ.

2. Thân bài

a) Cuộc đối thoại của Hồng và người cô

- Hoàn cảnh diễn ra: Gần đến ngày giỗ đầu của cha Hồng nhưng mẹ vẫn chưa về. Một hôm, bà cô gọi Hồng lại và hỏi chuyện.

- Nội dung cuộc đối thoại: Người cô hỏi xem Hồng có muốn vào Thanh Hóa thăm mẹ không. Nhưng thực chất là muốn reo rắt những ý nghĩ cay nghiệt về mẹ vào đầu Hồng.

- Phản ứng của cậu bé Hồng: Nghĩ đến hình ảnh người mẹ đã định trả lời rằng “có”. Nhưng hiểu được ý định của bà cô: “muốn gieo giắc những hoài nghi để tôi khinh miệt…”

=> Nhân vật Hồng hiện lên là một cậu bé nhạy cảm, yêu thương mẹ.

- Những lời nói độc ác của người cô:

  • Mợ mày phát tài lắm có như dạo trước đâu?
  • Mày dại quá, cứ vào đi, tao cho tiền tàu. Vào mà bắt mợ mày may vá sắm sửa và thăm em bé nữa chứ.
  • Kể lại câu chuyện người ta nhìn thấy mẹ Hồng.

=> Một người thân mà lại độc ác, cay nghiệt khi muốn gieo giắt những điều xấu xa vào đầu cháu.

- Tâm trạng của Hồng khi nghe chuyện của bà cô:

  • Lòng thắt lại, khóe mắt cay cay.
  • Nghe thấy hai từ “em bé” xoắn lấy tâm can cậu.
  • Căm ghét những hủ tục khiến mẹ phải rời xa anh em mình.

=> Những lời nói cay độc chỉ khiến Hồng càng thương mẹ hơn.

b) Cuộc gặp gỡ của Hồng và mẹ, tĩnh mẫu tử thiêng liêng

- Hoàn cảnh: Ngày giỗ đầu của thầy, Hồng ở trường về thì nhìn thấy một bóng người quen thuộc. Hồng chạy theo gọi “Mợ ơi…”

- Cuộc gặp gỡ:

  • Khóc sụt sùi khi nhìn thấy mẹ.
  • Ngồi trên xe, áp đùi vào đùi mẹ, đầu ngả vào cánh tay mẹ, cảm nhận được hơi thở quen thuộc của mẹ.
  • Ước mong bé lại để có thể áp mặt vào bầu sữa nóng của mẹ, mơn man khuôn mặt mẹ từ trán xuống cằm.

=> Sự ngạc nhiên xen lẫn cảm xúc vui mừng, cuối cùng sau bao nhiêu ngày xa cách Hồng cũng được gặp lại mẹ.

=> Tình mẫu tử thiêng liêng không có điều gì chia cắt được.

3. Kết bài

Khái quát lại giá trị nội dung và nghệ thuật của đoạn trích Trong lòng mẹ.

 

Dàn ý phân tích trong lòng mẹ (Mẫu 6)

1. Mở bài

Giới thiệu tác giả Nguyên Hồng, Tập truyện Những ngày thơ ấu và đoạn trích Trong lòng mẹ.

2. Thân bài

a. Tuổi thơ cơ cực của Hồng

Là đứa con sinh ra trong một gia đình không có tình yêu: bố vì nghiện thuốc phiện mà chết sớm; mẹ phải bỏ đi tha hương cầu thực; em sống cùng với người cô cay nghiệt.

b. Cuộc đối thoại của Hồng và bà cô

Nhân vật bà cô

  • Tìm mọi cách để nói xấu mẹ em, gieo rắc vào đầu em những suy nghĩ xấu xa, tiêu cực để em ruồng rẫy, ghét bỏ mẹ.
  • Bịa đặt ra hoàn cảnh sống của mẹ em ở nơi xa và bịa đặt chuyện mẹ em có em bé để khiến em đau lòng.
  • Khi thấy Hồng cúi đầu, buồn bã và chực khóc thì tìm cách hạ giọng và tiếp tục nhồi nhét những ý nghĩ cay độc.

→ Là một con người xấu xa, ác độc ngay với cả đứa cháu ruột của mình.

Nhân vật bé Hồng

  • Sống khổ cực, xa mẹ và em, chịu đựng sự cay nghiệt của bà cô.
  • Khi bà cô xoáy sâu vào nỗ đau, sự thiếu thốn tình mẫu tử: em im lặng không nói gì.
  • Khi bà cô nhồi nhét vào đầu em những suy nghĩ xấu xa rằng mẹ đã ruồng rẫy em và có con ở Thanh Hóa: trong lòng em căm phẫn những lời nói đó, luôn một mực giữ lòng tin yêu ở mẹ mình.
  • Sự tức giận lên đến tột cùng, em căm hơn những hủ tục lạc hậu và miệng đời cay nghiệt đã đày đọa mẹ mình, em ước nó như hòn đá, cục thủy tinh, mẩu gỗ để cắn, nhai, nghiến đến kì nát thì thôi → Tình yêu thương mẹ vô bờ bến, khao khát muốn bảo vệ mẹ trước mọi điều xấu xa.

Cuộc gặp gỡ của Hồng và mẹ

  • Trong lòng em luôn khao khát mẹ về và được gặp mẹ, khi thấy người ngồi trong xe kéo giống mẹ đã gọi và chạy theo → mẹ luôn hiện hữu trong lòng em.
  • Cảm giác xấu hổ với đám bạn nếu đó không phải mẹ mình nhưng trên hết là sự tủi thân vì luôn mong ngóng mẹ.
  • Khi biết người ngồi trên xe là mẹ mình: chạy đến, òa khóc nức nở, vỡ òa cảm xúc.
  • Thu mình trong lòng mẹ để cảm nhận tình yêu thương, hơi ấm. Em nhận ra mẹ không tiều tụy như lời người cô kể mà vẫn tươi đẹp như thuở sung túc.
  • Lời người cô văng vẳng bên tai nhưng nhanh chóng tan biến chỉ còn lại tình yêu thương và cảm xúc hạnh phúc.

→ Tình mẫu tử thiêng liêng là động lực giúp Hồng vượt qua tất cả những nỗi đau.

3. Kết bài

Khẳng định lại giá trị của tác phẩm.

Ngữ văn 8: Trong lòng mẹ - Nguyên Hồng ...

II) Các bài văn mẫu phân tích trong lòng mẹ

Phân tích trong lòng mẹ (Mẫu 1)

Đoạn trích “Trong lòng mẹ” được trích trong hồi ký “Những ngày thơ ấu” của Nguyên Hồng đã khắc họa chân thực những cay đắng, tủi cực của nhà văn khi còn thơ ấu.

Sau khi bố mất, mẹ phải đi làm ăn xa tận Thanh Hóa, Hồng phải sống cùng bà cô độc ác. Một hôm, bà cô gọi Hồng lại và hỏi cậu có muốn được đi thăm mẹ. Hiểu được bà cô muốn gieo rắc vào đầu mình những hoài nghi để rồi “ruồng rẫy, căm ghét mẹ”, Hồng từ chối. Mặc dù vậy, bà cô vẫn tiếp tục kể cho cậu nghe về chuyện có người nhìn thấy mẹ Hồng ở Thanh Hóa và đã có em bé. Điều đó khiến cậu cảm thấy xót xa và căm ghét những hủ tục đã khiến mẹ phải xa rời anh em mình. Đến ngày giỗ đầu của bố, mẹ Hồng trở về khiến cậu vô cùng hạnh phúc khi được ngồi trong lòng mẹ, cảm nhận hơi thở quen thuộc của mẹ.

Trong cuộc đối thoại với bà cô, Hồng đã suýt bật khóc khi được hỏi: “Hồng! Mày có muốn vào Thanh Hóa chơi với mợ mày không?”. Câu hỏi của bà cô đã khiến cậu nhớ đến mẹ. Hồng “tưởng đến vẻ mặt rầu rầu và sự hiền từ của mẹ tôi, và nghĩ đến cảnh thiếu thốn một tình thương yêu ấp ủ từng phen làm tôi rớt nước mắt”, toan trả lời có”. Nhưng rồi nhận ra những ý nghĩ cay độc của bà cô, cậu cố kìm nén những giọt nước mắt chực trào ra khi cậu nhớ đến mẹ. Như vậy, Hồng là một đứa trẻ nhạy cảm, việc sớm phải đối mặt với cuộc sống tự lập nên cậu đã trở nên mạnh mẽ, biết che giấu đi những cảm xúc thật sự của chính mình. Trước sự quan tâm bất thường của bà cô “gọi tôi đến bên, cười hỏi”, Hồng đã “nhận ra những ý nghĩa cay độc trong giọng nói và trên nét mặt khi cười rất kịch” ấy, nên “cúi đầu không đáp”. Không chỉ vậy, Hồng còn rất thông minh khi biết cách tự bảo vệ bản thân bởi những lời nói đó: “Tôi cũng cười đáp lại cô tôi: “Không! Cháu không muốn vào. Cuối năm thế nào mợ cháu cũng về”.

Khi người cô thông báo cho Hồng về việc mẹ có em bé: “Mày dại quá cứ vào đi, tao chạy cho tiền tàu. Vào mà bắt mợ mày may vá sắm sửa cho và thăm em bé chứ”. Những lời nói của bà cô cứ ám ảnh lấy tâm trí của câu. Để rồi đáp lại lời ba cô, Hồng cười dài trong tiếng khóc, hỏi: “Sao cô biết mợ con có con?”. Những lời nói cay nghiệt của người cô càng khiến cậu yêu thương người mẹ của mình nhiều hơn.

Ngày giỗ đầu của thầy, Hồng ở trường về thì nhìn thấy một bóng người quen thuộc. Hồng chạy theo gọi “Mợ ơi…” - điều đó cho thấy một sự xúc động. Khi cậu được mẹ “vừa kéo tay”, vừa “xoa đầu” và hỏi, thì Hồng òa lên khóc rồi cứ thế nức nở. Giọt nước mắt của sự đoàn tụ khiến người mẹ cũng sụt sùi theo: “Con nín đi! Mợ đã về với các con rồi mà” rồi cậu được mẹ “lấy vạt áo nâu thấm nước mắt cho”… Giọt nước mắt đã đưa cậu bé vào thế giới của tình mẹ, được tận hưởng niềm hạnh phúc “êm dịu vô cùng”, “những cảm giác ấm áp đã bao lâu mất đi bỗng lại mơn man khắp da thịt…”. Không còn là giọt nước mắt của cay đắng, tủi nhục như trước đó. Nước mắt lúc này là của niềm sung sướng, hạnh phúc vô bờ của Hồng khi được gặp lại mẹ sau nhiều ngày xa cách. Đó còn là sự ngạc nhiên xen lẫn cảm xúc vui mừng, cuối cùng sau bao nhiêu ngày xa cách Hồng cũng được gặp lại mẹ. Những đoạn văn miêu tả cảnh tượng này đã cho thấy tình mẫu tử thiêng liêng sâu sắc.

Như vậy, “Những ngày thơ ấu” là cuốn hồi ký nổi tiếng của nhà văn Nguyên Hồng. Nổi bật trong đó là đoạn trích “Trong lòng mẹ” đã khắc họa chân thực những cay đắng, tủi cực của nhà văn khi còn thơ ấu. Đồng thời tác giả cũng muốn khẳng định tình yêu thương sâu nặng với người mẹ bất hạnh.

 

Phân tích trong lòng mẹ (Mẫu 2)

Tình mẫu tử luôn là tình cảm thiêng liêng, đẹp đẽ nhất. Đối với mỗi người, tình mẫu tử có tầm quan trọng khác nhau nhưng khi phải xa mẹ hoặc chịu nhiều đau khổ, những lời nói cay độc hòng chia rẽ mẹ con thì sức mạnh của thứ tình cảm ấy lại trỗi dậy mạnh mẽ. Chú bé Hồng trong truyện Những ngày thơ ấu của tác giả Nguyên Hồng là một ví dụ điển hình. Tình yêu thương mãnh liệt dành cho mẹ của chú được thể hiện rõ nét qua đoạn trích Những ngày thơ ấu.

Chú bé Hồng là kết quả của một cuộc hôn nhân gượng ép, không có tình yêu. Người cha lớn tuổi và ốm yếu quanh năm lặng lẽ u uất bên bàn đèn thuốc phiện. Người mẹ trẻ trung, xinh đẹp luôn khao khát yêu thương song đành phải chôn vùi tuổi xuân bên ông chồng nghiện ngập. Gia đình bé Hồng lúc đầu sung túc, đầy đủ về vật chất nhưng lạnh lẽo, thiếu vắng tiếng nói, tiếng cười. Rồi người cha chết vì bệnh. Người mẹ không chịu nổi sự o ép khắc nghiệt của nhà chồng nên đành bỏ lại con thơ, dứt áo ra đi để Hồng phải sống với bà cô nghiệt ngã, thâm hiểm.

Suốt khoảng thời gian gần một năm xa cách, mẹ không gửi cho Hồng một bức thư, một đồng quà hay một lời hỏi thăm nhưng em vẫn luôn tin tưởng và yêu thương mẹ. Gần đến ngày giỗ đầu của bố cũng không nhận được tin tức gì của mẹ và bà cô lại bắt đầu giao rắc cho em những ý nghĩ cay nghiệt. Bà ta cố tình nói cho bé Hồng biết cảnh ngộ thảm thương của mẹ cậu để rồi cười cợt, nhạo báng, thoả mãn trên nỗi đau của người khác. Hồng biết rằng sau lời nói tươi cười quan tâm đó người cô không hề có ý tốt nào cả. Khi cô hỏi Hồng có muốn vào Thanh Hóa chơi với mẹ không? Hồng chỉ rớt nước mắt nhớ đến mẹ. Hồng nhớ đến gương mặt rầu rầu và sự hiền từ của mẹ. Biết được ý nghĩ xấu xa của cô mình Hồng đã trả lời: “Không! Cháu không muốn vào. Cuối năm thế nào Mợ cháu cũng về”. Khi cô người nói với giọng ngọt sớt: “Mợ mày phát tài lắm có như dạo trước đâu”, lòng cậu thắt lại, khóe mắt cay cay. Hồng thương mẹ vất vả, lam lũ. Người cô nói tiếp 'vào mà bắt mợ mày mua sắm quần áo cho và thăm “em bé” chứ”. Hai tiếng “em bé” kéo dài khiến nước mắt Hồng chảy ròng ròng, cười dài trong tiếng khóc. Khi người cô tươi cười kể về người mẹ đáng thương của mình thì cổ họng Hồng như nghẹn ứ lại khóc không ra tiếng. Cậu ước rằng giá như những cổ tục đang đày đọa mẹ cậu kia là những hòn đá hay mẩu thủy tinh thì cậu sẽ vồ ngay đến mà cắn, mà nhai mà nghiến, cho kì vụn nát. Cuộc trò chuyện cho ta thấy rõ sự độc ác, rắc tâm nghiệt ngã của bà cô. Nhưng chính những sự cay nghiệt, mỉa mai đó đã làm nổi bật lên tình yêu, niềm tin vững chắc của Hồng dành cho người mẹ.

Và rồi, những chờ đợi, mong mỏi của em không hề lãng phí. Một buổi chiều, lúc tan trường, thoáng thấy người ngồi trên xe kéo giống mẹ mình, em liền đuổi theo, bối rối gọi. Chỉ trong khoảng thời gian ngắn ngủi mà trong lòng cậu bé ấy đã hiện lên bao suy tư: nếu người ngồi trên chiếc xe kéo đó không phải là mẹ mình, em sẽ trở thành trò cười cho lũ bạn; nhưng hơn tất cả là sự thất vọng, tủi hổ vì mong ngóng của một đứa trẻ thiếu đi tình yêu thương. Chiếc xe chạy chậm dần rồi dừng hẳn lại, người ngồi trên xe chính là mẹ em, mẹ đưa tay vẫy em lại với mẹ. Vì chạy đuổi theo mẹ mà bé thở hồng hộc, trán đẫm mồ hôi. Đến khi trèo được lên xe thì mừng đến nỗi ríu cả chân lại. Mẹ vừa kéo tay, xoa đầu hỏi chuyện khiến em òa lên khóc rồi cứ thế nức nở. Tiếng khóc trút bỏ bao nỗi, tủi cực, uất ức trong những ngày xa mẹ. Tiếng khóc sung sướng được gặp lại người mẹ thương yêu. Tiếng khóc của niềm khát khao tột độ tình mẫu tử. Trong lòng mẹ, Hồng cảm nhận được hơi ấm, sức sống, tình yêu thương của mẹ làm bao nỗi tủi hờn mà em chịu đựng bấy lâu nay và thỏa lòng mong nhớ mẹ. Dưới ánh mắt của em, mẹ vẫn tươi trẻ nhu thuở còn sung túc, vẫn trìu mến và hiền từ như ngày nào. Trong những giây phút ấy, hình ảnh bà cô cùng những lời nói cay độc hiện lên trong đầu em nhưng lại nhanh chóng tan biến mà em chẳng mảy may để ý. Niềm hạnh phúc dâng trào đã nhấn chìm những uất hận, đau xót.

Bao nhiêu đau thương mà Hồng phải chịu đựng cuối cùng cũng được đền đáp xứng đáng. Tự bạch lại câu chuyện của đời mình, về những ngày ấu thơ gian khổ, Nguyên Hồng không những lấy đi nước mắt, sự thương cảm của bạn đọc mà còn để lại cho nền văn học Việt Nam một tác phẩm vô cùng ý nghĩa, giàu giá trị nhân văn.

Phân tích trong lòng mẹ (Mẫu 3)

Được biết đến là một nhà văn tôn vinh phụ nữ và trẻ em, tác giả Nguyên Hồng đã tạo ra những tác phẩm đầy ý nghĩa, đặc biệt là với hình ảnh mẹ, người phụ nữ hiền hậu, và những đứa trẻ vô tội vạ, nhưng phải trải qua tuổi thơ đầy đau khổ. Một trong những thành tựu nổi bật nhất chính là tập hồi ký 'Những ngày thơ ấu', nơi tác giả ghi lại một cách chân thực và cảm động nhất về những kỷ niệm buồn của tuổi thơ, trong đó có đoạn 'Trong lòng mẹ' thể hiện sâu sắc tình yêu của cậu bé Hồng dành cho mẹ.

Đoạn 'Trong lòng mẹ' nằm trong chương IV của cuốn hồi ký 'Những ngày thơ ấu', tập trung vào việc mô tả cảnh đời thương của cậu bé Hồng: Bố mất sớm, mẹ phải xa nhà vì áp lực từ gia đình chồng. Bé sống cùng họ hàng bên nhà, nhưng cuộc sống ấy cũng không dễ dàng khi bà cô - người thân thiết nhưng lại tàn nhẫn, phát ngôn những lời đắng cay để thỏa mãn lòng ích kỉ, đố kỵ của mình, phá vỡ tình cảm giữa cậu bé và mẹ. Đây cũng là một trong những đoạn cảm động nhất trong tập hồi ký, khi làm nổi bật tình mẫu tử cao cả, tình yêu vô bờ bến của cậu bé Hồng.

Thông qua cuộc trò chuyện giữa bà cô và cậu bé Hồng, Nguyên Hồng không chỉ thể hiện một cảnh đáng thương, tình yêu mãnh liệt của cậu bé dành cho mẹ mà còn vẽ nên một cách sống động nét gian xảo, tàn nhẫn, lạnh lùng của bà cô.

Bà cô bé Hồng, người thân ruột của bé Hồng, theo lẽ thường, nên là người chăm sóc, che chở cho bé. Nhưng sự tàn nhẫn của bà cùng gia đình đã khiến mẹ bé phải ra đi, và bà còn không ngừng miệt thị, gieo rắc những lời độc ác về mẹ của bé. Trong cuộc trò chuyện, bà hỏi Hồng: 'Con muốn vào Thanh Hóa chơi với mẹ con không?' Nghe qua, có vẻ như đây là lời quan tâm, thăm hỏi của người cô. Nhưng, từ ngữ châm chọc, giả tạo cùng vẻ mặt 'rất kịch' của bà, có thể thấy đây là một người độc ác, thâm hiểm.

Bà không hỏi vì quan tâm, mục đích chính không chỉ làm sâu thêm nỗi đau của bé Hồng mà còn xúc phạm mẹ bé. Bằng cách kể chuyện thấy mẹ bé ở Thanh Hóa, với đứa trẻ mới sinh, bà có vẻ như muốn khơi dậy cảm giác tủi thân, bị bỏ rơi và mong muốn bé Hồng oán hận mẹ. Trước sự im lặng và nỗi đau của bé, bà không chỉ không thểo lòng thương hại mà còn thỏa mãn, buông lời cay độc. Khi đã đạt được mục tiêu, bà còn cố ý tỏ ra thương cảm, nhưng thực ra đầy đủ ý độc ác, nhẫn tâm: 'Gần rằm tháng tám, là giỗ đầu của con, mẹ con về cũng đỡ tủi cho con, và con cũng cần có họ, có hàng, mọi người hỏi đến thì sao'. Thái độ, lời nói của bà là biểu tượng cho định kiến khắc nghiệt, tàn nhẫn của xã hội xưa đối với phụ nữ.

Lời nói cay độc, tàn nhẫn của bà không làm bé Hồng oán ghét mẹ mà ngược lại làm bé thêm yêu thương mẹ. Trước câu hỏi của bà, bé Hồng nhận ra sự độc ác trong từng từ, thấy được sự giả dối trong thái độ của bà. Dù không trả lời nhưng khóe mắt của bé đã cay đắng, bé hiểu rằng mẹ sẽ quay lại, mẹ không bỏ rơi bé mà chỉ tạm thời để bé lại. Khi nghe bà nói mẹ bé đã đi với người đàn ông khác, thậm chí sinh em bé, Hồng đã khóc, không vì giận mẹ mà vì thương mẹ. Bé căm phẫn những hủ tục đã làm mẹ bé đau khổ, bé ước chúng như hòn gỗ, thủy tinh để có thể nghiến, căn đến khi tan vỡ mới thôi. Bé là một cậu bé nhạy cảm, đầy tình thương, trước những từ ác ý, bé vẫn tin tưởng, yêu mẹ.

Chi tiết bé Hồng gặp lại mẹ ở phần cuối của đoạn trích khiến người đọc xúc động.

Đoạn 'Trong lòng mẹ' đã mang đến cho người đọc những cảm nhận chân thực nhất về tình mẫu tử. Chúng ta không chỉ cảm động trước tình yêu của bé Hồng dành cho mẹ mà còn phẫn nộ với những con người ác ý, những hủ tục đã gây ra nhiều đau khổ cho phụ nữ xưa.

Phân tích trong lòng mẹ (Mẫu 4)

Nguyên Hồng viết về những người gặp khó khăn với tình cảm chân thành. 'Những ngày thơ ấu' của ông là tập hồi kí chứa đựng nhiều cảm xúc về tuổi thơ đầy gian khổ. 'Trong lòng mẹ' là chương IV của tập hồi kí, miêu tả cảm xúc sâu sắc của một đứa trẻ đối với mẹ.

Bé Hồng ra đời trong một cuộc hôn nhân không tình yêu. Người cha qua đời, mẹ bé phải ra đi, để lại bé sống trong cảnh cô đơn. Nguyên Hồng kể về sự cay đắng trong tuổi thơ, nhấn mạnh vào mối quan hệ giữa bé và mẹ.

Bà cô bé Hồng tàn ác khi nói về mẹ bé, cố tình làm tổn thương bé. Bé Hồng nhạy cảm và nhận ra ý độc ác của bà. Bé quyết không để bị làm tổn thương, tự tin nói không muốn vào Thanh Hóa vì mẹ sẽ về cuối năm.

Bà cố xoay vào trái tim đứa bé đang đau khổ. Bé nhận ra sự giả dối và cố ý trong lời nói của bà. Bé quyết định tin tưởng và yêu mẹ, không để bị lừa dối bởi bà.

Tuy nhiên, bà vẫn không từ bỏ, tiếp tục nói cười: 'Vào đi, tao đưa tiền tàu. Vào làm việc cho bà và thăm em bé đi'. Những cử chỉ và lời nói đó chỉ là giả dối, độc ác. Điều này cho thấy bà cố ý đẩy đứa cháu vào trò chơi của người lớn. Bà không chỉ cay đắng mà còn châm chọc, nhục mạ cháu. Điều này khiến niềm tin và tình mẫu tử của cháu bị phản bội.

Từ nỗi đau vì mẹ, bé Hồng căm ghét những cổ tục làm tổn thương mẹ chú. Sự thương yêu trỗi dậy trong lòng, giữa sự phẫn uất: 'Giá những cổ tục là hòn đá, mẩu gỗ, tôi sẽ phá vụn. Tác giả sử dụng các động từ mạnh mẽ để diễn đạt sự phẫn nộ của bé Hồng.

Trong xã hội cổ đại, nhiều phụ nữ phải chịu nhiều đau đớn vì những quy định cứng nhắc. Tác giả bênh vực phụ nữ và chỉ trích những hành động tàn nhẫn. Hành động và lời nói của bà cô là minh chứng cho bản chất độc ác của mình.

Cảnh hai mẹ con gặp nhau được mô tả cảm động. Bé Hồng rơi nước mắt trong niềm vui khi gặp mẹ. Tình thương yêu dâng trào, làm tan biến những khổ đau đã trải qua. Bé nhận ra sự ấm áp trong vòng tay mẹ.

Nhà văn đã mô tả một cảnh đẹp đẽ của tình thương gia đình. Bé Hồng hạnh phúc khi gặp mẹ, nhận ra vẻ đẹp của mẹ. Đó là khoảnh khắc đáng nhớ trong cuộc đời bé.

Tất cả những cảm xúc ấy chỉ có khi đứa con yêu thương mẹ hết lòng. Được gặp mẹ là hạnh phúc lớn lao, là niềm vui mãnh liệt. Được ôm vào lòng mẹ, bé Hồng quên hết mọi thứ. Lời thăm hỏi giữa hai mẹ con chỉ là những âm thanh hạnh phúc, bé Hồng không nhớ rõ. Tình thương yêu mẹ là điều quan trọng nhất trong tâm hồn bé Hồng. Tình thương mẹ đã giúp bé nhìn nhận cuộc sống một cách đúng đắn. Dù cảnh ngộ có khó khăn thế nào, tình mẫu tử vẫn luôn rực cháy. Chúng ta càng yêu quý bé Hồng, càng trân trọng tình mẫu tử.

Bằng cách viết nhẹ nhàng và sâu lắng, Nguyên Hồng đã khiến người đọc “ôm tim mình” mà khóc. “Trong lòng mẹ” luôn để lại trong lòng người những cảm xúc ngọt ngào nhất.

Từ cảm động đến những rung động cực ...

Phân tích trong lòng mẹ (Mẫu 5)

Một trong những nhà văn gây ấn tượng mạnh với tôi chính là Nguyên Hồng. Trang văn của ông luôn chứa đựng một tình cảm bình yên đặc biệt, đưa ta trở về với tuổi thơ hồn nhiên, được nghỉ ngơi sau những lo toan cuộc sống, được ngập tràn trong tình yêu mẹ. Tác phẩm tiêu biểu là “Những ngày thơ ấu”.

Trong mỗi trang văn, đều hiện hữu bóng dáng của Nguyên Hồng, vì tuổi thơ đầy bi thương của ông là nguồn cảm hứng cho việc sáng tác.

“Trong lòng mẹ” thuộc chương VI của “Những ngày thơ ấu”, kể về cuộc sống cơ cực, thiếu thốn tình yêu của bé Hồng. Hàng ngày, cậu phải chịu sự ghẻ lạnh, đày nghiến và mỉa mai từ người cô và họ hàng bên nhà nội. Bên cạnh đó là hình ảnh một người mẹ nghèo khổ với tình yêu thương con vô bờ bến. Bé Hồng sinh ra trong một cuộc hôn nhân không hạnh phúc. Bố cậu là kẻ nghiện ngập, rời bỏ cậu và mẹ để lại cuộc sống khó khăn và đầy đau thương. Cuối cùng, mẹ Hồng phải xa con để cầu sống.

Nguyên Hồng mở đầu đoạn văn nhẹ nhàng, đầy cảm xúc: “Tôi đã cất chiếc khăn tang bằng vải màn đi. Không phải vì tang thầy tôi mà là vì tôi mới mua được chiếc mũ trắng và quấn băng đen. Gần ngày giỗ thầy, mẹ tôi vẫn chưa về”. Hình ảnh “khăn tang” trắng làm đau lòng người đọc. Bé Hồng luôn mong ngóng mẹ trở về trong ngày giỗ của cha. Tác giả miêu tả cảnh mẹ “bán bóng đèn và vàng hương ở chợ”, tất cả để kiếm sống và quay trở lại.

Bé Hồng sống với bà cô đầy đau khổ, ghẻ lạnh, luôn nghe những lời độc địa về mẹ. Bà cô hiện thân cho một xã hội độc ác, nhiều hủ tục, và bé Hồng là nạn nhân của sự bất công. Một lần, bà cô hỏi Hồng có muốn thăm mẹ không, câu hỏi ẩn chứa nhiều ý. Bé Hồng run rẩy nhưng nhận ra bà cô không tốt và chỉ biết cúi đầu. Nỗi đau của mẹ bị xã hội đè bẹp khiến cậu thương mẹ hơn. Dù bà cô có nói xấu về “em bé” nhưng cậu vẫn mong mẹ trở về.

Trong đoạn này, khoảnh khắc mẹ và con gặp nhau là điểm cao trào của tình cảm. Tiếng gọi “Mợ! Mợ! Mợ ơi” khi thấy một người giống mẹ làm lòng bé xúc động. Khoảnh khắc ôm mẹ làm đau lòng độc giả. Tác giả diễn tả cảnh bé ôm mẹ, cảm nhận được tình thương từ bàn tay mẹ và nước mắt không thể cầm nổi.

Một tiếng gọi đầy tình yêu khi thấy người giống mẹ khiến bé Hồng xúc động. Tình thương kìm nén bấy lâu nay bùng phát thành tiếng. Bé được ôm vào lòng mẹ làm người đọc rơi nước mắt. Tác giả diễn tả cảnh bé ôm mẹ, cảm nhận được sự êm đềm và thương yêu vô bờ bến từ người mẹ.

Cuộc gặp định mệnh khiến tình cảm sâu đậm hơn. Có thể nói đến đây, người đọc thở phào nhẹ nhõm vì cậu bé cuối cùng được nhận lấy tình yêu thương. Không có sức mạnh nào có thể cản trở tình cảm thiêng liêng ấy.

Bằng cách viết nhẹ nhàng, sâu lắng, và diễn tả tâm lí sắc nét, tác giả đã làm người đọc “ôm tim mình” và khóc. “Trong lòng mẹ” luôn gợi lên trong người đọc một tình cảm thiêng liêng, chân thành nhất.

Phân tích trong lòng mẹ (Mẫu 6)

Được biết đến là nhà văn chuyên viết về cuộc sống của phụ nữ và trẻ em, Nguyên Hồng đã để lại những tác phẩm đầy cảm xúc về hình ảnh của người mẹ và những đứa trẻ với tuổi thơ đầy bi kịch. Tập hồi ký 'Những ngày thơ ấu' được coi là tác phẩm thành công nhất của ông, nổi bật với những câu chuyện chân thực và xúc động về những kỷ niệm ngọt ngào và đắng cay trong tuổi thơ của tác giả. Trong đó, đoạn 'Trong lòng mẹ' trong chương IV đặc biệt nổi bật, thể hiện sâu sắc tình yêu của cậu bé Hồng dành cho người mẹ.

Đoạn này tập trung vào hoàn cảnh đáng thương của cậu bé Hồng: cha mất sớm, mẹ bỏ đi vì áp lực gia đình chồng. Bé sống với họ hàng bên nội, nhưng cuộc sống không dễ dàng khi bà cô, người có quan hệ gần gũi, lại tàn nhẫn và thù dai, chia rẽ tình cảm giữa bé và mẹ. Đoạn này không chỉ làm nổi bật tình cảm mẫu tử sâu lắng của Hồng mà còn khắc họa thực tế đau đớn và tàn ác của bà cô.

Bà cô, dù có mối quan hệ huyết thống với bé Hồng, lại không đáp ứng vai trò của người mẫu mực hay người chăm sóc. Thay vào đó, bà ta lại càng làm sâu thêm nỗi đau của Hồng bằng những lời ác ý và lời nói độc địa, nhằm vào tình mẹ của Hồng. Câu hỏi 'Hồng có muốn mẹ về Thanh Hóa chơi không?' từ bà cô, dường như là biểu hiện quan tâm, nhưng thực chất lại là một lời thách thức châm chọc và giả tạo.

Đoạn này không chỉ làm lộ rõ tính cách xấu xa, thâm hiểm của bà cô mà còn phản ánh sự độc ác và sự kỳ thị của xã hội đối với phụ nữ trong quá khứ. Những lời nói cay độc của bà cô không khiến Hồng oán ghét mẹ mà ngược lại, càng thêm yêu thương và quyết tâm bảo vệ mẹ.

Chi tiết cuối cùng của đoạn trích khi Hồng gặp lại mẹ đã làm cho nhiều độc giả bật khóc vì xúc động. Đoạn 'Trong lòng mẹ' mang đến cho người đọc những cảm nhận sâu sắc và đẹp về tình mẫu tử, đồng thời chỉ trích mạnh mẽ những con người tàn ác và những phong tục cổ xưa đã giam giữ phụ nữ trong bế tắc.

Phân tích trong lòng mẹ (Mẫu 7)

Những ngày thơ ấu (viết năm 1938, Nhà xuất bản Đời nay in lần đầu năm 1940) là một tác phẩm xuất sắc của nhà văn Nguyên Hồng. Đó là một tập hồi ký ghi lại những năm tháng tuổi thơ rất ít niềm vui nhưng nhiều cay đắng của tác giả, thể hiện một cách chân thật những “rung động cực điểm của một linh hồn trẻ dại”. (Thạch Lam)

Hồi kí Những ngày thơ ấu gồm 9 chương, Trong lòng mẹ là chương IV của tác phẩm. Nhân vật chính của chương sách này là bé Hồng. Bé Hồng được đặt trong tình huống hết sức tội nghiệp: bố mất, mẹ đi bước nữa bị gia đình nhà chồng ruồng rẫy. Bé Hồng phải sống nhờ họ hàng và bị hắt hủi tàn nhẫn. Em thương mẹ, nhớ mẹ vô cùng mà phải xa mẹ, đồng thời thường xuyên phải nghe những lời nói xấu về mẹ. Ta hiểu vì sao em vô cùng sung sướng khi mẹ trở về.

Trong chương sách này, nhà văn đã tập trung làm nổi bật tình cảm xót thương, yêu quý sâu sắc của bé Hồng đôi với người mẹ nhân từ, tần tảo mà cuộc đời đầy bất hạnh. Tình cảm ấy trước hết được thể hiện qua tâm trạng cua bé Hồng khi nói chuyện với bà cô. Diễn biến tâm trạng của bé Hồng được miêu tả thật sinh động. Lúc đầu bé Hồng định nghe lời bà cô vào Thanh Hóa thăm mẹ. Nhưng khi nhận ra “ý nghĩa cay độc” trong giọng nói và trên nét mặt “khi cười rất kịch”, đầy giả dối của bà cô, bé Hồng lẳng lặng “cúi đầu không đáp”. Cử chỉ “im lặng, cúi đầu xuống đất” của bé Hồng lại được miêu tả lặp lại một lần nữa khi bà cô tiếp tục giục giã em vào Thanh Hóa thăm mẹ, vì mẹ em dạo này “phát tài lắm”. Bà cô đưa tin mẹ bé Hồng có con khi chưa hết tang chồng, lại nghèo túng khốn khổ nơi đất khách quê người, thấy người quen lại tránh mặt để lăng nhục bé Hồng và gieo rắc vào đầu óc em sự “hoài nghi”, “khinh miệt và ruồng rẫy mẹ”. Những lời cay độc của bà cô như những con dao nứa cứa vào tâm hồn thơ dại của đứa trẻ. Bé Hồng từ chỗ nhẫn nhục, “im lặng, cúi đầu” đến lúc không sao nén nổi nỗi đau đớn tủi nhục đã bật lên tiếng khóc, nước mắt “ròng ròng rớt xuống hai bên mép rồi chan hòa đầm đìa ở cằm và ở cổ”. Và một thứ tình cảm phức tạp, vừa thương yêu, vừa căm tức nẩy sinh trong tâm hồn ngây thơ của bé Hồng, khiến em “cười dài trong tiếng khóc”.

Bé Hồng cười (cười mỉa mai) vì hiểu thâu những rắp tâm “tanh bẩn' của cô, vì khinh bỉ thái độ rất cay độc của bà: làm ra vẻ thông cảm, nhưng kỳ thực: chỉ có ý gieo rắc vào đầu óc em những hoài nghi “để em khinh miệt và ruồng rẫy mẹ”. Bé Hồng khóc vì thương mẹ bị đày đọa, bị lăng nhục, bị đối xử một cách tàn nhẫn, bất công, vô nhân đạo. Khóc vì thương mẹ chỉ vì “sợ hãi những thành kiến tàn ác” mà xa lìa hai con “để sinh nở một cách giấu giếm, trốn tránh như một kẻ giết người”. Càng thương mẹ, bé Hồng càng căm ghét những hủ lục phong kiên vô lý, tàn nhẫn đã đày đọa, trói buộc người phụ nữ. Lòng căm ghét cao độ, mãnh liệt ây đã được tác giả diễn tả bằng những hình ảnh cụ thể, cùng với nhịp văn gấp gáp, dồn dập: “Giá những cổ tục đã đày đọa mẹ tôi là một vật như hòn đá hay cục thủy tinh, đầu mẩu gỗ, tôi quyết vồ ngay lấy mà cắn, mà nhai, mà nghiến cho kỳ nát vụn mới thôi”.

Vậy là, dù có tinh ma, độc địa đến đâu, bà cô bé Hồng cũng không thể chia rẽ được tình cảm giữa em với người mẹ: “Nhưng đời nào lình thương yêu và lòng kính mến mẹ tôi lại bị những rắp tâm tanh bẩn xâm phạm đến... Mặc dầu non một năm ròng mẹ tôi không gửi cho tôi lấy một lá thư, nhắn người thăm tôi lấy một lần và gửi cho tôi lấy một đồng quà”. Tâm địa xấu xa của bà cô chỉ làm khơi sâu thêm tình cảm thương yêu mẹ của bé Hồng và thổi bùng lên trong em sự căm ghét sâu sắc những kẻ đối xử tàn nhẫn với mẹ em. Có thể nói, chương Trong lòng mẹ là lời khẳng định chân thành đầy cảm động sự bất diệt của tình mẫu tử. Tình cảm thiêng liêng muôn đời ấy không một thế lực nào có thể tàn phá nổi.

Cuối chương hồi kí, tác giả đã diễn tả thật cụ thể và sinh động tâm trạng của bé Hồng khi gặp mẹ. Một buổi chiều tan học, bố Hồng “chợi thoáng thấy một bóng người trên xe kéo giống mẹ” và em “liền đuổi theo, gọi rối rít”. Nhưng nếu người trên xe lại là người khác thì cái lầm đó thành ra một trò cười lức bụng cho lũ bạn. “Cái lầm đó không những làm cho tôi thẹn mà còn tủi cực nữa, khác gì cái ảo ảnh của một dòng nước trong suốt chảy dưới bóng râm đã hiện ra trước con mắt gần rạn nứt của người bộ hành ngã gục giữa sa mạc”. Thủ pháp so sánh ví von này đã diễn tả được một cách cụ thể sự khao khát tình mẹ con thật là mãnh liệt như người bộ hành ở giữa sa mạc khát nước đến cháy bỏng. Nỗi vui sướng của bé Hồng khi gặp mẹ còn được nhà văn thể hiện qua những cử chỉ, hành động. Vì cuống cuồng đuổi theo xe, bố Hồng “thở hồng hộc, trán đẫm mồ hôi” và “ríu cả chân lại” khi trèo lên xe. Và đến khi được bàn tay dịu hiền của mẹ xoa đầu thì bé Hồng “òa lên khóc rồi cứ thế nức nở”. Đó là ! khóc đầy hạnh phúc.

Để diễn tả những rung cảm sâu xa và niềm hạnh phúc lớn lao của bé Hồng khi được ngồi trong lòng mẹ, tác giả đã miêu tả rất cụ thể những cảm giác của em khi ngồi trên đệm xe, đùi áp vào đùi mẹ, “đầu ngả vào cánh tay mẹ '. Em còn cảm nhận được cả mùi quần áo quen thuộc của mẹ và “những hơi thở ở khuôn miệng xinh xắn nhai trầu phả ra (...) thơm tho lạ thường”. Vừa trực tiếp miêu tả những cảm giác cụ thể của bé Hồng, tác giả vừa diễn tả những ý nghĩ của em bình luận về niềm hạnh phúc tuyệt vời của mình: “Phải bé lại và lăn vào lòng một người mẹ, để bàn tay người mẹ vuốt ve từ trán xuống cằm, và gãi rôm ở sống lưng cho, mới thấy người mẹ có một sự êm dịu vô cùng”. Trong những giây phút say sưa và “rạo rực” ấy, bé Hồng không còn nghĩ gì, thứ gì khác nữa kể cả những âu yếm mẹ con với nhau và những lời cay độc của bà cô trước đó. Tất cả tâm trí của em đều dồn cho sự tận hưởng tình mẹ. Đôi với em, niềm sung sướng và hạnh phúc nhất trên đời là được sống trong lòng mẹ.

Phân tích trong lòng mẹ (Mẫu 8)

“Những ngày thơ ấu” của Nguyên Hồng là tập hồi kí kể về những tháng ngày tuổi thơ cay đắng và khắc nghiệt của tác giả - một tuổi thơ mồ côi, chịu nhiều khó khăn. Trong tác phẩm, đoạn trích “Trong lòng mẹ” làm cho người đọc cảm động nhất. Nó cho thấy sự đau lòng và khao khát tình mẫu tử của bé Hồng.

Đoạn đầu của đoạn trích mô tả về chiếc khăn tang và tin tức về mẹ của nhân vật khiến người đọc hiểu rõ hoàn cảnh của bé Hồng. Cha mất, mẹ đi tha hương, bé sống với họ hàng trong sự lạnh lùng. Bà cô bé Hồng, không phải là người hiền lành, gọi bé đến và hỏi liệu bé có muốn thăm mẹ không.

Là một đứa trẻ nhạy cảm, Hồng có khả năng nhận biết ác ý trong lời nói và nụ cười giả dối của bà cô. Gia đình họ nội của Hồng không ưa mẹ bé, luôn tìm cách nói xấu để khiến bé ghét mẹ. Dù người khác có nói xấu về mẹ bao nhiêu, trong tâm trí Hồng, hình ảnh của mẹ luôn hiện với vẻ mặt buồn và hiền từ. Là một đứa trẻ thông minh và yêu mẹ, Hồng luôn tin rằng tình thương và lòng kính mến mẹ không thể bị xâm phạm.

Khi bà cô hỏi xem bé muốn vào hay không, Hồng từ chối và tin tưởng rằng mẹ sẽ trở về. Một câu trả lời cho thấy Hồng không chỉ thông minh và dũng cảm mà còn rất yêu mẹ, luôn bảo vệ mẹ trước mọi khó khăn.

Khi bà cô nói về 'em bé' của mẹ Hồng, đau đớn của Hồng trỗi dậy. Cảm xúc đến nỗi nước mắt rơi xuống và cảm giác nặng trĩu lan tỏa. Hồng muốn bóp nát những nỗi đau mà mẹ phải chịu, để chúng biến mất mãi mãi. Sự so sánh độc đáo làm nổi bật sự căm phẫn của Hồng với những nghi lễ làm đau đớn mẹ.

Người đọc cảm động khi thấy tình yêu của hai mẹ con Hồng. Khi nhận ra người giống mẹ, Hồng không kìm nén mà chạy đến, dù có thể bị châm chọc. Tình yêu của Hồng dành cho mẹ đã đưa bé đi mà không thể ngăn lại.

Cuối cùng, hai mẹ con Hồng gặp nhau trong niềm vui. Mặc dù bà cô nói xấu, mẹ Hồng vẫn tươi sáng và tràn đầy hạnh phúc khi ôm con vào lòng. Được gặp con, ôm con, mẹ quên hết mọi khó khăn và cả mệt mỏi, trở nên tươi đẹp hơn bao giờ hết.

Nằm trong vòng tay mẹ, Hồng cảm nhận “Hơi thở của mẹ và mùi quần áo đang ôm mình lan tỏa, cùng với hương vị ngọt ngào của lá trầu” và cảm thấy ấm áp và yên bình. Trong khoảnh khắc đó, Hồng nhớ đến hình ảnh bé nhỏ, nằm sát vào lòng mẹ, nghe tiếng trái tim nhẹ nhàng đập, và tận hưởng cảm giác được mẹ vuốt ve, xoa xoa từ trán xuống cằm, và gãi nhẹ lưng, tất cả tạo nên một cảm giác êm đềm, an lành.” Đó chính là tình mẫu tử, vĩnh cửu và tinh tế!

Đọc đoạn “Trong lòng mẹ”, ta không chỉ đau lòng vì hoàn cảnh khó khăn của Hồng mà còn cảm thấy rõ ràng vẻ cao quý của tình mẹ.

Trong lòng mẹ - Tác giả sản phẩm (mới ...

Phân tích trong lòng mẹ (Mẫu 9)

Mỗi khi mở sách “Những ký ức tuổi thơ” của Nguyên Hồng, tôi không đơn giản chỉ đọc, mà tôi để trái tim mình thấu hiểu, cảm nhận và tan chảy theo những dòng văn. Văn của ông làm động lòng người vì sâu sắc và chân thành. Đoạn “Trong lòng mẹ” trong cuốn “Những ký ức tuổi thơ” có lẽ là đoạn văn ấn tượng và gây ám ảnh nhất về tình mẹ, vĩnh cửu và không thể phai nhạt. Bằng cách tinh tế và sâu sắc, Nguyên Hồng đã dẫn dắt độc giả khám phá thế giới văn chương của mình bằng cảm xúc.

Nguyên Hồng không viết ra một câu chuyện hư cấu ảo diệu nào, mà ông dùng chính trải nghiệm, tuổi thơ đầy những khó khăn, đắng cay và nước mắt để khắc sâu trên giấy.

Chương IV của cuốn sách “Những ngày thơ ấu” là nơi tái hiện cuộc sống khó khăn, đầy thiếu thốn tình thương của bé Hồng. Hàng ngày, Hồng phải chịu đựng sự khinh thường, cay nghiệt và sự trêu ghẹo từ người phụ nữ bên cạnh gọi là “thầy”. Ngoài ra, còn có hình ảnh của người mẹ nghèo khổ, nhưng lại yêu thương con cái vô điều kiện.

Sinh ra trong một gia đình không hạnh phúc, bé Hồng phải đối mặt với cuộc sống cơ cực vì bố mẹ ly hôn. Cha của Hồng là một người nghiện ma túy, qua đời vì overdose, để lại cho mẹ con một cuộc sống đầy khó khăn và bất hạnh. Cuối cùng, mẹ Hồng phải rời xa để tìm kiếm cơ hội sống tốt hơn, để lại Hồng phải đối mặt với sự cô đơn và khó khăn với người dì.

Nguyên Hồng bắt đầu câu chuyện bằng cách nhấn mạnh vào những khắc khoải nhẹ nhàng, đầy tiếc nuối: “Tôi đã bỏ chiếc khăn tang từ vải màn đi rồi. Không phải vì tang lễ của thầy, mà chỉ vì tôi mới có thể mua được chiếc mũ trắng và quấn băng đen. Gần ngày giỗ của thầy, mẹ tôi ở Thanh Hóa vẫn chưa trở về”. Một chuỗi kí ức đau lòng bắt đầu từ “chiếc khăn tang” trắng, làm cho độc giả cảm thấy rất tiếc nuối. Bé Hồng luôn mong chờ mẹ quay về trong ngày giỗ của thầy. Đọc giả được biết mẹ đang “bán bóng đèn và vàng hương ở chợ”, tất cả chỉ để kiếm tiền sống và trở về.

Bé Hồng phải sống với người dì độc địa, lạnh lùng, luôn dùng những lời độc ác nhất để nói về mẹ của bé, làm cho đứa trẻ cảm thấy thiếu thốn tình thương mẹ. Người dì là biểu tượng của xã hội phong kiến tàn bạo, đầy bất công và đau đớn, trong khi bé Hồng là biểu tượng của những người ở đáy xã hội, phải chịu đựng sự đàn áp và không công bằng nhất.

Một lần, người dì gọi bé Hồng lại và hỏi: “Con có muốn đi Thanh Hóa thăm mẹ không?”, một câu hỏi đầy ý nghĩa, khiến con tim của đứa trẻ đang run rẩy và cảm thấy lo lắng, nhưng vẫn gật đầu đồng ý. Đọc giả cảm nhận được sự đấu tranh nội tâm đầy mâu thuẫn và kiềm chế “Tưởng về khuôn mặt buồn bã và lòng nhân từ của mẹ, và nghĩ về sự thiếu thốn một tình yêu thương ấm áp khiến tôi rơi nước mắt, tôi muốn trả lời là có. Nhưng, khi nhận ra sự độc ác trong giọng điệu và ánh mắt cười của người dì, tôi chỉ cúi đầu im lặng.

Biết rõ rằng khi nhắc đến mẹ, cô tôi chỉ muốn trói buộc tâm trí tôi bằng những nghi ngờ, để tôi ghê tởm và khinh miệt mẹ, một người phụ nữ đã phải đối diện với sự góa chồng, nợ nần và túng thiếu. Những lời này của bé Hồng như một lưỡi dao sâu đâm vào trái tim độc giả, khi suy nghĩ của một đứa trẻ trong hoàn cảnh khó khăn lại có thể sâu sắc như vậy. Bé Hồng phải trưởng thành với cuộc sống đầy cay đắng và thử thách.

Tâm trạng của bé Hồng trong đoạn này chứa đựng tình cảm yêu thương sâu sắc đối với người mẹ nghèo khổ đáng thương. Nỗi khổ của mẹ, những truyền thống cũ đã làm tan nát một người phụ nữ góa chồng, đẩy bà đến bước đường cùng. Bé yêu mẹ hơn cả, chỉ mong gặp lại mẹ là đủ. Với cách xây dựng tâm lý tinh tế, Nguyên Hồng đã khiến cho người đọc không thể kìm nén được cảm xúc. Vì vậy, khi nghĩ về mẹ, “Tôi im lặng, cúi đầu, giữ kín nỗi đau trong lòng, không để nó trỗi dậy trước mặt bà độc ác này, vì biết rằng nếu khóc, bà sẽ trêu chọc và châm chọc tôi hơn nữa.”

Khi bà cô nhắc đến “đứa bé”, cô nói về việc mẹ phải sinh em bé một cách lén lút, trước khi chưa kịp đưa chồng vào tang lễ, cô nói rằng mẹ là người phụ nữ xấu xa. Nhưng bé Hồng đã lờ đi những lời ác ý đó, vẫn yêu và thương mẹ không điều kiện.

Hình ảnh của người mẹ qua lời bà cô kể khiến bé Hồng cảm thấy đau lòng và cay đắng “Mẹ tôi ăn mặc rách rưới, khuôn mặt xanh xao, người gầy gò, khi bà ta thấy như vậy, bà ta thấy thương tình và hỏi thăm, mẹ tôi vội vàng rời khỏi, che đầu bằng chiếc nón”. Đặc biệt ở suy nghĩ tiếp theo, tác giả đã mô tả thành công tâm trạng của nhân vật “dường như những nghi lễ đã làm cho mẹ tôi như một viên đá hoặc một tảng thủy tinh, tôi quyết định đập nát và nghiền nát nó cho đến khi không còn gì.”

Sự kìm nén cảm xúc suốt thời gian dài đã khiến cho đứa trẻ không thể chịu đựng nổi, đành phải thả lỏng bằng cách suy nghĩ cứng rắn như vậy. Ngôn từ gần gũi, đơn giản nhưng sắc sảo đã phản ánh toàn bộ tâm trạng của một đứa trẻ bị kìm kẹp.

Trong đoạn này, tác giả đã thành công trong việc tái hiện tâm trạng của nhân vật bé Hồng thông qua việc sử dụng các động từ mạnh mẽ, ngôn ngữ sắc bén và phép đối lập tinh tế nhất. Phần thứ hai, ngôn từ trở nên ôn hòa hơn khi tái hiện lại cảnh gặp gỡ đầy cảm động giữa mẹ và bé Hồng sau bao xa cách. Đây là điểm cao điểm của cảm xúc, nơi nút thắt của tình cảm được mở ra để yêu thương lan tỏa.

Chỉ một tiếng gọi “Mợ! Mợ! Mợ ơi” khi nhìn thấy một phụ nữ giống mẹ là đủ để tình yêu trong bé Hồng trào dâng. Tình yêu bị kìm nén từ lâu giờ đã có cơ hội được thể hiện thành tiếng. Tiếng gọi của bé Hồng lúc ấy khiến độc giả cảm thấy đau lòng, xé toạc từng mảnh trái tim, từng sợi dây cảm xúc.

Tưởng tượng của bé Hồng khi nghĩ về viễn cảnh nếu đó không phải là mẹ thật là rất thú vị và đầy tư duy “cái sai đó không chỉ khiến tôi xấu hổ mà còn đau đớn tột cùng, giống như ảo giác của một dòng nước trong suốt chảy dưới bóng râm xuất hiện trước mắt của những người bộ hành bị mệt mỏi và ngã gục giữa sa mạc. Xe chạy rất chậm.” Phải sâu sắc, phải tinh tế như thế, tác giả mới có thể tưởng tượng phong phú và chính xác như vậy. Có lẽ do chờ đợi tình yêu quá lâu, quá nhiều nên một sai lầm nhỏ có thể khiến người ta rơi vào tuyệt vọng.

Khoảnh khắc bé Hồng được ôm vào lòng mẹ làm cho người đọc rất xúc động. Tác giả đã sử dụng những từ ngữ đẹp nhất, ngọt ngào nhất để diễn tả lại khoảnh khắc hiếm hoi, cảm động đó “Phải bé lại và lăn vào lòng một người mẹ, áp mặt vào ngực ấm của người mẹ, để bàn tay của người mẹ vuốt ve từ trán xuống cằm, và xoa nhẹ lưng cho, mới cảm nhận được sự êm dịu vô cùng từ người mẹ.” Câu này đã khiến không ít người rơi nước mắt vì tình yêu thương vô bờ bến của mẹ.

Cuộc gặp gỡ định mệnh, và tình cảm cũng trở nên sâu sắc và nặng nề hơn. Có thể nói đến đây, độc giả đã nhẹ nhõm vì tình mẫu tử cuối cùng cũng được thỏa mãn. Không có sức mạnh nào mạnh mẽ hơn sức mạnh của tình mẫu tử, không ai có thể ngăn cản được mẹ và con đoàn tụ.

Bằng cách viết dịu dàng và sâu lắng, cùng việc diễn đạt tâm trạng sâu sắc và bằng tình yêu thương không mờ mịt, Nguyên Hồng đã khiến người đọc “ôm tim” mà rơi nước mắt. “Trong lòng mẹ” luôn để lại trong lòng người những rung động ngọt ngào và chân thành nhất.

Phân tích trong lòng mẹ (Mẫu 10)

Trong lòng mẹ là đoạn trích đặc sắc từ hồi ký Những ngày thơ ấu của nhà văn Nguyên Hồng, tả lại những kỷ niệm đắng cay thuở thơ ấu của tác giả và người mẹ không hạnh phúc. Tình mẫu tử sâu sắc được thể hiện qua lời văn cảm động và chân thực của tác giả.
Nguyên Hồng (1918-1982), tên khai sinh Nguyễn Nguyên Hồng, quê ở Nam Định, lớn lên tại Hải Phòng trong một xóm lao động nghèo. Tuổi thơ của ông khó khăn, đầy những cay đắng, thiếu thốn tình cảm từ cha và mẹ, sống trong sự cô đơn của gia đình. Nhưng đó cũng là nguồn cảm hứng làm nên nhà văn Nguyên Hồng, với phong cách sống đặc trưng, tập trung vào gia đình. Ông được biết đến với biệt danh 'nhà văn của những người chia sẻ khó khăn', 'nhà văn của phụ nữ và trẻ em', có nhiều đóng góp xuất sắc trong văn xuôi. Tác phẩm của Nguyên Hồng luôn trung thực, giàu cảm xúc và toát lên tình yêu thương.

Những ngày thơ ấu (1938) là tập hồi ký chân thực, chứa đựng nhiều cảm xúc, với 9 chương mô tả những kí ức đau lòng và cay đắng từ thời thơ ấu của tác giả. Theo giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh, đây là những kí ức đau lòng, buồn bã của một đứa trẻ sinh ra trong một gia đình tan vỡ, phải đối mặt với sự cô đơn, nghèo đói, bị gia đình giàu có và xã hội phụ nữa. Hồi ký này là biểu tượng cho phong cách nghệ thuật của Nguyên Hồng. Đoạn trích Trong lòng mẹ nằm ở nửa đầu chương 4 của tập hồi ký.
Bài viết giúp ta hình dung về cảnh vật, sự tuyệt vọng và độ khó khăn của người mẹ khi đối mặt với cuộc sống khó khăn. Tác giả sử dụng ngôn ngữ sống động để tả lên cảnh người mẹ và cậu bé Hồng trong cuộc trò chuyện với người cô ruột. Hồng là sản phẩm của một cuộc hôn nhân không có tình yêu, cha mất sớm, và mẹ phải đối mặt với sự áp đặt từ gia đình chồng. Cảnh đối thoại này mở ra một khía cạnh khác về cuộc sống và tình cảm trong tác phẩm.

Bài viết giúp ta hình dung về cảnh vật, sự tuyệt vọng và độ khó khăn của người mẹ khi đối mặt với cuộc sống khó khăn. Tác giả sử dụng ngôn ngữ sống động để tả lên cảnh người mẹ và cậu bé Hồng trong cuộc trò chuyện với người cô ruột. Hồng là sản phẩm của một cuộc hôn nhân không có tình yêu, cha mất sớm, và mẹ phải đối mặt với sự áp đặt từ gia đình chồng. Cảnh đối thoại này mở ra một khía cạnh khác về cuộc sống và tình cảm trong tác phẩm.

Người cô tiếp tục với sự “ngọt ngào”, nhưng ngọt ngào đặc biệt, có một chút “kịch”: “Chẳng phải mợ đang chăm sóc cháu đấy không?”. Hồng “im lặng, cúi đầu”, “tâm hồn bị coi lại”, con người Hồng chẳng chỉ là sự yếu đuối, mà còn là sự mạnh mẽ, tìm ra sự hiểu biết sâu sắc từ những lời nói khó nghe, tin chắc rằng mẹ sẽ quay về.

Sự đinh ninh giả tạo của người cô trở nên hiển nhiên khi nhìn thấy cháu đau khổ, vẫn giữ nguyên vẻ mặt hạnh phúc, lên tiếng: “Cậu vào đi, tớ sẽ chạy làm vé tàu. Còn mắc kẹt gặp mẹ của cậu và thăm đứa bé nữa nè”. Lời nói giễu cợt, cười nhạo trên nỗi đau của cháu và mẹ Hồng. Tâm trạng của Hồng không chỉ là sự buồn bã mà còn được mô tả chi tiết, nước mắt Hồng rơi “đầy mặt”, “hòa mình trong đau đớn”, và cậu “cười dài giữa tiếng khóc” hỏi: “Làm sao cô biết mẹ con có em bé?”, từng từng câu như lẻn vào tâm can của Hồng và người đọc, tiếng cười chứa đựng nỗi đau và khổ đau, Hồng chỉ biết đáp lại người cô bằng câu hỏi đầy nghi vấn.

Không thể tin được người cô ruột lại vui vẻ khi thấy cháu mình đau đớn, vẫn “tươi cười kể chuyện”, với giọng điệu nhạo báng, lấy Hồng và mẹ Hồng làm trò đùa cho trò chơi độc ác của mình, để nhìn thấy Hồng “nghẹn ngào không thể kêu ra tiếng”, mới hết mắc. Sau đó lại làm bộ làm ra vẻ “nghiêm túc”, bảo Hồng hỏi địa chỉ mẹ từ họ hàng xa, xúi Hồng viết thư gửi mẹ. Hồng không khóc nữa, chỉ yên bình im lặng, vô tâm với những từ ngữ xấu xa từ người cô.

Cuộc đối thoại giữa họ là cuộc chiến không cân sức, một bên tấn công bằng đòn ác độc, một bên cố gắng chống đỡ, mặc dù chiến đấu mãnh liệt nhưng Hồng vẫn giữ được trái tim trong sạch. Tình cảm đó lớn đến nỗi Hồng nghĩ “Những thứ cổ tục có vẻ như chỉ là vật phẩm, mẹ tôi như hòn đá hoặc cục thủy tinh, tôi sẽ nắm bắt và nghiền nát chúng cho đến khi không còn gì”. Lời thoại nội tâm của cậu tiết lộ tình cảm sâu sắc, tình yêu thương và lòng khoan dung dành cho mẹ, không ai có thể thay thế. Tình cảm này mạnh mẽ, Hồng không quan tâm mẹ có con với người khác, chỉ yêu thương và “đau đớn” vì mẹ sợ những định kiến xã hội xa rời anh em Hồng. Cậu ghét bỏ việc tình cảm ấy “bị rắp tâm tanh bẩn xâm phạm”, và có lẽ Hồng rất căm ghét người cô độc ác.

Ngày giỗ đầu của cha Hồng, cuối cùng mẹ Hồng cũng xuất hiện, trong mắt Hồng, mẹ như một thiên thần cổ tích, “không còn vẻ xơ xác quá” như người cô nói, “khuôn mặt mẹ rạng ngời, đôi mắt trong và làn da mịn màng”, “nụ cười dễ thương”, “hương thơm lạ thường”. Có lẽ do xa cách quá lâu, nỗi nhớ và tình thương trong lòng Hồng khiến cậu thấy mẹ mình đẹp đến kỳ lạ, cảm nhận được sự ấm áp của tình mẫu tử, thiêng liêng. Lúc này Hồng “không nghĩ điều gì cả”, tình mẫu tử chiến thắng mọi thử thách, làm cho Hồng tự tin hơn, phấn khích vì ý niệm được gặp mẹ trở thành hiện thực.

Phân tích trong lòng mẹ (Mẫu 11)

Nguyên Hồng sinh năm 1918, qua đời năm 1982, quê quán tại thành phố Nam Định. Trước Cách mạng tháng Tám 1945, ông sống chủ yếu ở Hải Phòng, trong một khu phố lao động nhỏ, nơi ông chứng kiến những khó khăn của cuộc sống. Nguyên Hồng là một nhà văn của những người “ở dưới đáy” xã hội. Viết về thế giới của những nhân vật đó, ông thường thể hiện niềm yêu thương sâu sắc và tôn trọng những phẩm chất đáng quý của họ. Văn của Nguyên Hồng tràn đầy tình cảm. Đó là giọng nói chân thành của một trái tim nhạy cảm trước nỗi đau và niềm hạnh phúc bình dị của con người.

Những ngày thơ ấu là tập hồi ký viết về tuổi thơ đau khổ của chính tác giả. Tác phẩm này gồm 9 chương, được đăng trên báo từ năm 1938 và xuất bản thành sách vào năm 1940. Trong lòng mẹ là chương 4. Bằng lời văn chân thực và đầy cảm xúc, tác giả kể lại nỗi đau buồn của tình yêu thương sâu sắc dành cho người mẹ của một đứa trẻ mồ côi sớm. Thông qua cảnh ngộ bi thảm và lòng tự ái đau khổ của chú bé Hồng, tác giả cũng cho chúng ta thấy bộ mặt vô cảm và tàn nhẫn của xã hội tư bản phong kiến. Những định kiến cổ hủ của tư sản nhỏ nhen đã cố tình phá vỡ tình mẫu tử thiêng liêng.

Đoạn trích này có thể chia thành hai phần. Phần 1 là cuộc trò chuyện giữa bà cô độc ác và chú bé Hồng. Ý nghĩa, cảm xúc của chú bé về người mẹ đáng thương. Phần 2 là cuộc gặp gỡ không ngờ với mẹ và cảm giác hạnh phúc không thể diễn tả của chú bé Hồng khi được ngồi trong lòng mẹ.

Chàng trai Hồng là kết quả của một cuộc hôn nhân ép buộc, thiếu đi tình yêu. Người cha già yếu bệnh của cậu luôn sống trong cô đơn và buồn phiền bên bàn đèn thuốc lá. Người mẹ trẻ đẹp luôn khát khao được yêu thương nhưng lại phải dày vò bên người chồng nghiện ngập. Gia đình chàng Hồng ban đầu giàu có về vật chất nhưng luôn cảm thấy lạnh lẽo, thiếu vắng âm thanh và tiếng cười.

Sau đó, người cha qua đời vì bệnh tật. Người mẹ không chịu được sự áp đặt khắc nghiệt từ nhà chồng nên buộc phải bỏ lại đứa con nhỏ, rời bỏ đi. Để Hồng phải sống với bà cô tàn nhẫn và độc ác. Như bao đứa trẻ khác, chàng trai yêu quý mẹ, mong muốn được ở bên cạnh mẹ nhưng lại phải giấu kín điều đó trong lòng, chỉ thỉnh thoảng mới để lộ ra. Vì vậy, tình yêu thương của Hồng dành cho mẹ càng trở nên sâu sắc hơn.

Bắt đầu từ đoạn trích, thông qua cách kể chuyện tự nhiên, chân thành, tác giả giúp độc giả hiểu rõ hơn về cảnh đời đầy bi thương của Hồng: Tôi đã tháo chiếc nơ tang bởi tôi đã có chiếc mũ trắng mới và băng đen để quấn. Sau đó, nhà văn mô tả về thời gian và hoàn cảnh sống của người mẹ khổ đau:

Gần đến ngày giỗ của thầy, mẹ tôi vẫn ở Thanh Hóa không trở về. Nghe nói mẹ tôi đi bán bóng đèn và tham gia các phiên chợ tỉnh, thậm chí còn bán vàng hương. Tôi nói 'nghe đâu' vì tôi nghe được tin đồn rằng mẹ và em trai tôi đang sống bằng cách đó.

Câu chuyện đã bắt đầu được kể. Nhân vật bà cô hiện ra và tính cách tàn ác, độc ác của bà ta càng lúc càng rõ nét. Bà ta cố ý kể cho Hồng biết về cảnh tương thương của mẹ cậu để sau đó cười nhạo, chế giễu, hưởng thụ trên nỗi đau của người khác:

Một ngày kia, người cô gọi tôi lại với vẻ mặt buồn cười và hỏi:

- Hồng ơi! Mày có muốn về Thanh Hóa chơi với mẹ mày không?

Nụ cười giả tạo của người cô đầy ác ý hiển nhiên. Nó giống như một lưỡi dao sắc bén cố ý chọc vào trái tim non dại của đứa trẻ mới mồ côi cha, phải xa lìa mẹ. Ban đầu, bé Hồng nên sẽ trả lời rằng muốn đi vì cảm thấy cô đơn, nhưng với sự nhạy cảm, bé ngay lập tức cảm nhận được sự độc ác trong lời nói và gương mặt cười giả của người cô. Do đó, bé chỉ có thể cúi đầu im lặng.

Phân tích trong lòng mẹ (Mẫu 12)

Đoạn văn về Nguyên Hồng là một trong những dấu ấn sâu sắc nhất trong lòng tôi. Văn phong của ông không chỉ dày đặc cảm xúc bình yên mà còn đưa tâm hồn chúng ta trở về với những ngày thơ ấu đầy hồn nhiên, nơi mà chúng ta được nương tựa vào tình mẹ thương yêu sau bao cuộc sống bon chen.

Tác phẩm 'Những ngày thơ ấu' là minh chứng rõ nét cho phong cách viết của Nguyên Hồng, và trong đó, đoạn 'Trong lòng mẹ' nổi bật như một điểm nhấn đầy cảm động. Mỗi trang văn của ông đều mang dấu ấn của tuổi thơ cay đắng của mình, là nguồn động lực sáng tác bất tận.

Câu chuyện 'Trong lòng mẹ' thuộc chương VI của 'Những ngày thơ ấu', lồng ghép cuộc sống khổ cực và thiếu thốn yêu thương của cậu bé Hồng. Hằng ngày, cậu phải chịu đựng sự lạnh nhạt, sỉ nhục và chế giễu từ người hàng xóm và gia đình của mẹ. Trên hết, là hình ảnh của một người mẹ nghèo khổ với tình yêu thương vô bờ bến dành cho con.

Bé Hồng ra đời từ một cuộc hôn nhân bất hạnh, bố là kẻ nghiện ngập và qua đời vì thuốc phiện, để lại mẹ con Hồng phải vật lộn với cuộc sống cơ cực và sự chà đạp từ gia đình bên ngoại. Cuối cùng, mẹ Hồng buộc phải rời xa con đi kiếm sống, để lại cậu với bà nội già yếu.

Nguyên Hồng khéo léo mở đầu đoạn văn bằng những dòng nhẹ nhàng nhưng đầy xót xa: 'Tôi đã bỏ chiếc khăn tang trên đầu từ lâu, không phải vì tang thầy mà vì tôi mới có chiếc mũ trắng và dải băng đen. Gần ngày giỗ thầy, mẹ ở Thanh Hóa vẫn chưa về.' Câu chuyện mở đầu với hình ảnh 'khăn tang' trắng lặng lẽ, khiến lòng người đọc xúc động. Bé Hồng luôn mong ngóng mẹ quay về trong ngày giỗ cha, và tác giả tài tình mô tả mẹ đang 'bán bóng đèn và vàng hương ở chợ', cố gắng kiếm sống và trở về với con.

Bé Hồng sống cùng bà nội, chịu đựng sự lạnh nhạt và ác độc từ bà, người luôn dùng những lời độc để nói về mẹ của cậu, làm sâu thêm nỗi đau trong tâm hồn nhỏ bé. Bà là biểu tượng của một xã hội phong kiến tàn ác, nhiều cay đắng, và bé Hồng là biểu tượng của những người dưới đáy xã hội, chịu đựng sự bất công. Một lần, bà gọi Hồng lại và hỏi: 'Mày có muốn đi Thanh Hóa thăm mẹ mày không?', một câu hỏi chứa đầy ý nghĩa, làm rung động trái tim đứa bé. Tuy nhiên, cậu bé nhận ra sự gian ác ẩn sau nụ cười của bà và chỉ biết im lặng cúi đầu. Nỗi đau của mẹ bị xã hội phong kiến áp đặt, đẩy lên đôi vai của cậu, làm cậu chỉ biết 'cúi đầu im lặng, khóe mắt cay cay'. Dù bà cô có nhắc đến 'em bé' với ý ám chỉ điều xấu xa, cậu vẫn không để ý, vẫn mãi mong mỏi mẹ trở về.

Trong đoạn văn này, hình ảnh và câu chuyện khiến nước mắt của người đọc chảy nhiều nhất chính là khi mẹ và con Hồng gặp lại nhau, là điểm cao trào của tình cảm được thể hiện một cách sâu sắc.

Một tiếng gọi đơn giản 'Mợ ơi!' khi nhìn thấy một người phụ nữ giống mẹ đã đủ để lòng bé Hồng dâng trào tình yêu thương. Cảm xúc đã bị kìm nén mãi bấy lâu giờ đây đã có dịp tự do. Tiếng gọi đó khiến người đọc cảm nhận sâu sắc nỗi đau, đắng cay đến tận đáy lòng. Khoảnh khắc đứa bé được ôm vào lòng mẹ, cảm giác thật đầy xúc động. Tác giả dùng những từ ngữ tươi đẹp nhất để mô tả lại 'phải lòng bé dừng lại và nằm trong lòng mẹ, chạm mặt vào bầu ngực ấm áp của mẹ, để bàn tay mẹ xoa xoa từ trán xuống cằm, và gãi đầu bé ở sống lưng, cảm giác mẹ êm dịu vô cùng'. Câu văn khiến nhiều người không thể kìm được nước mắt vì sự chân thực và tình cảm vô bờ bến của mẫu tử.

Cuộc gặp gỡ định mệnh và tình yêu thương được thể hiện một cách sâu lắng hơn. Có thể nói rằng khiến người đọc cảm thấy nhẹ lòng, bởi cuối cùng bé Hồng cũng được đền đáp tình yêu thương. Không có sức mạnh nào có thể ngăn cản được tình cảm thiêng liêng ấy.

Bằng cách viết nhẹ nhàng, sâu lắng, diễn tả tâm lí một cách sắc sảo và hơn hết, bằng tình yêu thương vô bờ bến, tác giả đã khiến người đọc 'ôm tim mình' và không thể không rơi nước mắt. 'Trong lòng mẹ' luôn in sâu trong lòng người đọc một tình cảm thiêng liêng, chân thành nhất.

Ý nghĩa chú thích Trong phần cha mẹ hãy tóm tắt ...

Phân tích trong lòng mẹ (Mẫu 13)

Nguyên Hồng được biết đến là một trong những tác giả hiện thực nổi bật trong văn học Việt Nam. Ông để lại một di sản văn học đồ sộ và đáng giá. Ông là người viết về những người cùng cảnh ngộ, có lòng đồng cảm và yêu thương sâu sắc, bảo vệ và ủng hộ những phẩm chất tốt đẹp trong họ. Những kỷ niệm từ tuổi thơ là tài liệu biểu hiện rõ nét phong cách của Nguyên Hồng: giản dị, chân thành, và đậm chất trữ tình. Trong đoạn Trong lòng mẹ, người ta thấy sự yêu thương sâu đậm của bé Hồng dành cho mẹ.

Hồng là hậu quả của một cuộc hôn nhân không hạnh phúc, cha mất sớm, mẹ buộc phải ra nước ngoài kiếm sống. Hồng trải qua cuộc sống cay đắng, lạnh leo, bên cạnh bà cô tàn nhẫn. Mặc dù xa mẹ, nhưng cậu luôn nhớ và yêu mẹ, mong ngày gặp lại. Tình yêu ấy được thể hiện qua cuộc trò chuyện với bà cô và khi bất ngờ gặp lại mẹ.

Trong tác phẩm, hai nhân vật chính là bà cô và Hồng. Qua ngôn ngữ, cử chỉ và tâm trạng, ta thấy được tính cách và cảm xúc của họ.

Bà cô là người thâm hiểm, độc ác. Trước tình huống của Hồng, bà ta hỏi: 'Hồng! Mày muốn về Thanh Hóa chơi với mẹ mày không?'. Lời hỏi đó không phải là quan tâm, mà chứa đựng sự độc ác, thâm hiểm của bà ta. Mọi hành động, lời nói của bà ta đều mang tính xúc phạm đến mẹ của Hồng. Bà ta là người tận dụng cơ hội để làm tổn thương Hồng và gây oán hận trong lòng cậu. Hồng mang trái tim nhân hậu, yêu thương mẹ sâu sắc.

Hồng là nhân vật chính, thể hiện tình yêu thương mẹ mãnh liệt. Trong cuộc trò chuyện với bà cô, cậu nhận ra sự độc ác sau giọng nói và khuôn mặt của bà cô. Cậu không đáp lại lời hỏi và giữ vững niềm tin vào mẹ. Khi gặp lại mẹ, cậu òa khóc và cảm nhận hơi ấm từ mẹ.

Tình yêu đó được thể hiện rõ khi Hồng gặp lại mẹ. Cậu vội vàng chạy theo và òa khóc khi biết đó là mẹ. Đó là những giọt nước mắt hạnh phúc sau những ngày dài xa cách. Cậu nằm trong lòng mẹ và cảm nhận hơi ấm từ mẹ.

Hình ảnh của mẹ trong trái tim của Hồng vẫn thân thuộc nhưng cũng mang một sự mới lạ: “vạt áo nâu”, “gương mặt tươi sáng với đôi mắt trong” vẫn ấm áp, quen thuộc. Nhưng từ mùi của quần áo đến hơi thở của mẹ đều “thơm tho lạ thường”. Cảm giác của tình mẫu tử mà từ lâu đã mất đi bây giờ lại hiện hữu ở khắp mọi nơi: “khi bàn tay của mẹ vuốt ve từ trán xuống cằm, và gãi rôm ở sống lưng cho, tôi cảm nhận được sự êm dịu vô cùng của mẹ”. Lúc này, chỉ còn tình mẹ con, tình mẫu tử thiêng liêng còn tồn tại thì những lời nói độc ác của bà cô đều tan biến hết.

Nghệ thuật mô tả tâm lý nhân vật thông qua việc xây dựng tình huống, ngôn ngữ và cử chỉ của họ. Kỹ thuật tăng tiến độc đáo, khi sự độc ác của bà cô ngày càng gia tăng thì tình yêu thương, sự bảo vệ của Hồng đối với mẹ cũng ngày một nhiều hơn. Các hình ảnh so sánh đặc biệt thể hiện được cảm xúc và tình yêu thương mẹ mãnh liệt của Hồng. Câu chuyện đậm chất trữ tình được thể hiện rõ qua tình huống, nội dung và ngôn ngữ truyện kể giàu cảm xúc, đầy chất thơ.

Chỉ với một phần trích ngắn nhưng cũng đủ để người đọc cảm nhận được tình cảm mẫu tử thiêng liêng, sâu sắc mà Hồng dành cho mẹ. Không chỉ vậy, tác phẩm còn thể hiện sự đồng cảm và lên án những hủ tục phong kiến đã gây ra nỗi đau khổ cho phụ nữ, đẩy họ vào cảnh khốn khổ.

Phân tích trong lòng mẹ (Mẫu 14)

Nguyên Hồng là một nhà văn biết cảm nhận sâu sắc những nỗi đau của những người gặp phải khổ đau. Ông nổi tiếng với việc viết về cuộc sống của những người 'dưới đáy' với tình cảm yêu thương và chân thành. Tập hồi kí 'Những ngày thơ ấu' của ông là một tác phẩm giàu trữ tình và cảm động, miêu tả một cách chân thật và sâu sắc về tuổi thơ đầy khó khăn của Nguyên Hồng. Chương IV của tập hồi kí, 'Trong lòng mẹ', đặc biệt nhấn mạnh sự kết nối sâu sắc và tình cảm yêu thương của Nguyên Hồng dành cho người mẹ.

Cuộc đời Nguyên Hồng bắt đầu trong một cuộc hôn nhân không có tình yêu, và sự hiện diện của người cha u uất với bàn đèn thuốc phiện trước khi qua đời đã để lại cô đơn cho cậu bé. Để đối mặt với khó khăn, người mẹ của Nguyên Hồng buộc phải bỏ con đi cầu sống trong khi cậu vẫn còn nhỏ, bị bỏ rơi giữa sự lạnh lùng của họ hàng. Nguyên Hồng mở đầu câu chuyện một cách nhẹ nhàng nhưng cay đắng: 'Tôi đã cất bỏ cái khăn tang trên đầu. Không phải để tưởng niệm cha tôi, mà là vì tôi mới có chiếc mũ trắng và quấn băng đen. Gần ngày giỗ của cha, mẹ tôi ở Thanh Hóa vẫn chưa về.' Sự khởi đầu bằng chiếc khăn tang trắng gợi lên nhiều nỗi đau trong lòng đọc giả.

Người mẹ của Nguyên Hồng đã phải đi làm thuê bán bóng đèn và tham gia vào các phiên chợ để kiếm sống. Cuộc đời cô càng trở nên nặng nề hơn với sự xuất hiện của bà cô, người có tâm hồn độc ác và thâm độc. Bà ta cố ý làm cho Nguyên Hồng biết được những khổ đau mà người mẹ của cậu phải chịu đựng, sau đó cười nhạo và thỏa mãn trong nỗi đau của người khác. Nụ cười giả dối của bà cô chứa đựng sự tàn ác rõ rệt.

Điều này như một lưỡi dao sắc cố ý xoay vào trái tim non nớt của một đứa trẻ mới mồ côi cha mẹ, phải đối mặt với sự xa lìa mẹ. Mặc dù Nguyên Hồng ban đầu muốn bảo vệ tình cảm mẹ con, nhưng cậu nhạy cảm nhận ra sự cay độc trong lời nói và biểu hiện khi bà cô cười. Cậu đã quyết định không chịu để những tình cảm yêu thương và kính mến mẹ của mình bị xúi dục và hành hạ. 'Không! Cháu không muốn vào. Mẹ cháu sẽ về vào cuối năm', câu trả lời mạnh mẽ, đầy tin tưởng vào mẹ, khiến bà cô bối rối, với ánh mắt sắc lạnh và lời nói châm chọc.

Bà cô tiếp tục cố gắng khiến Nguyên Hồng chịu khổ, đồng thời giả vờ ân cần và thương xót khi nhắc đến người chồng đã mất của cô. Những hành động này chỉ là giả dối và độc ác, làm rõ bản chất thực sự của bà cô. Nhà văn đã sử dụng ngôn từ mạnh mẽ như 'vồ, cắn, nhai, nghiến' để miêu tả sự phẫn uất và căm giận của Nguyên Hồng với những cảm xúc khác nhau, từ đó làm nổi bật sự thương yêu và lòng bảo vệ mẹ của cậu.

Trong xã hội phong kiến, nhiều người phụ nữ đã phải chịu nhiều đau khổ vì những bức tường ngăn cách và các quan niệm bảo thủ. Nhà văn đã trình bày quan điểm nhân đạo, bênh vực những người phụ nữ và thông cảm với họ. Bằng cách này, tác giả đã tố cáo những con người tàn nhẫn và lòng dối trá, coi thường tình cảm mẫu tử trong xã hội phong kiến.

Bằng những lời văn nhẹ nhàng nhưng sâu lắng, miêu tả tâm lý sâu sắc và bằng tình yêu thương vô bờ bến, Nguyên Hồng đã khiến độc giả cảm thấy xúc động và khóc. 'Trong lòng mẹ' luôn để lại trong lòng đọc giả những cảm xúc chân thành và sâu sắc nhất.

Phân tích trong lòng mẹ (Mẫu 15)

Đoạn trích “Trong lòng mẹ” đã kể lại cuộc đối thoại của người cô với Hồng về người mẹ bất hạnh của cậu. Cũng như việc Hồng được gặp lại mẹ sau nhiều tháng ngày xa cách. Từ đó, nhà văn đã làm nổi bật tình mẫu tử thiêng liêng, sâu sắc.

Cuộc đối thoại với bà cô diễn ra trong hoàn cảnh gần đến ngày giỗ đầu của cha Hồng nhưng mẹ vẫn chưa về. Một hôm, cô gọi Hồng lại và hỏi chuyện: “Hồng! Mày có muốn vào Thanh Hóa chơi với mợ mày không?”. Câu hỏi ấy đã khiến cậu nhớ đến mẹ. Hồng “tưởng đến vẻ mặt rầu rầu và sự hiền từ của mẹ tôi, và nghĩ đến cảnh thiếu thốn một tình thương yêu ấp ủ từng phen làm tôi rớt nước mắt”, toan trả lời có”. Nhưng vốn là một đứa trẻ nhạy cảm, cậu nhận ra ngay những ý nghĩ cay độc của cô. Bà cô hỏi Hồng có muốn vào Thanh Hóa thăm mẹ không. Nhưng thực chất là muốn reo rắt những ý nghĩ cay nghiệt về mẹ vào đầu Hồng. Chính vì vậy, Hồng đã cố kìm nén những giọt nước mắt chực trào ra. Trước sự quan tâm bất thường của bà cô, Hồng đoán biết được sự giả tạo trong lời nói, cử chỉ ấy và không để cho cô Hồng đạt được mục đích. Cậu đã thông minh đối đáp lại: “Không! Cháu không muốn vào. Cuối năm thế nào mợ cháu cũng về”. Đây đâu phải là nụ cười hồn nhiên của một đứa trẻ. Mà là nụ cười của sự nhìn thấu tâm địa độc ác của cô.

Rồi cô lại tiếp tục kể cho Hồng nghe những câu chuyện về mẹ. Hình ảnh của cô: “Cô tôi liền vỗ vai tôi cười mà nói rằng: Mày dại quá cứ vào đi, tao chạy cho tiền tàu. Vào mà bắt mợ mày may vá sắm sửa cho và thăm em bé chứ?”. Những lời nói ấy đã xoáy lấy tâm trí cậu, khiến cậu cảm thấy vô cùng đau đớn. Để rồi đáp lại lời ba cô, Hồng cười dài trong tiếng khóc, hỏi: “Sao cô biết mợ con có con?”. Nụ cười nhưng lại là trong tiếng khóc thể hiện một sự tự vệ trước những lời lẽ mỉa mai, cay nghiệt của bà cô về mẹ của Hồng. Bản chất giả tạo, cay nhiệt của người cô đã được bộc lộ. Một người thân mà lại độc ác, cay nghiệt khi muốn gieo giắt những điều xấu xa vào đầu cháu. Thương mẹ bao nhiêu, cậu càng cảm thấy căm ghét bà cô bấy nhiêu. Hình ảnh người cô đại diện cho những hủ tục đã đẩy Hồng và mẹ phải rơi vào hoàn cảnh xa cách.

Sau cuộc nói chuyện với bà cô, tác giả đã xây dựng một hoàn cảnh rất đặc sắc. Hồng tình cờ gặp lại mẹ sau nhiều ngày tháng chia cách. Hồng dường như trở về là một đứa trẻ ngây thơ. Khi người mẹ “vừa kéo tay”, vừa “xoa đầu” và hỏi, thì Hồng òa lên khóc rồi cứ thế nức nở. Giọt nước mắt của sự đoàn tụ khiến người mẹ cũng sụt sùi: “Con nín đi! Mợ đã về với các con rồi mà.” rồi được mẹ “lấy vạt áo nâu thấm nước mắt cho”… Giọt nước mắt đã đưa cậu bé vào thế giới của tình mẹ, được tận hưởng niềm hạnh phúc “êm dịu vô cùng”, “những cảm giác ấm áp đã bao lâu mất đi bỗng lại mơn man khắp da thịt…”. Giọt nước mắt ở đây không còn là của những cay đắng, tủi nhục nữa. Mà nó là của niềm vui, sự sung sướng và hạnh phúc khi cậu được gặp lại mẹ, được ngồi trong lòng mẹ và cảm nhận hơi thở của mẹ. Tình mẫu tử thật thiêng liêng đến nhường nào: “Phải bé lại và lăn vào lòng một người mẹ, áp mặt vào bầu sữa nóng của người miệng, để bàn tay người mẹ vuốt ve từ trên trán xuống cằm, và gãi rôm ở sống lưng cho, mới thấy người mẹ có một êm dịu vô cùng”. Câu văn chân thật nhưng lại khiến người đọc yêu thích. Nó đã diễn tả thật tinh tế nỗi sung sướng của nhân vật Hồng.

Như vậy, đoạn trích 'Trong lòng mẹ' được trích trong hồi ký 'Những ngày thơ ấu' của Nguyên Hồng đã khắc họa chân thực những cay đắng, tủi cực của nhà văn khi còn thơ ấu. Đồng thời tác giả cũng muốn khẳng định tình yêu thương sâu nặng với người mẹ bất hạnh.

 

Phân tích trong lòng mẹ (Mẫu 16)

Được mệnh danh là nhà văn của phụ nữ và trẻ em, nhà văn Nguyên Hồng đã có những trang văn giá trị mà cũng quá đỗi xúc động về hình ảnh người mẹ, người phụ nữ tần tảo, những đứa trẻ hồn nhiên nhưng có tuổi thơ bất hạnh. Thành công nhất có thể kể đến tập hồi kí 'Những ngày thơ ấu', đây được coi là những ghi chép chân thực, xúc động nhất về những tháng ngày tuổi thơ đầy cay đắng của tác giả, trong đó đoạn trích 'Trong lòng mẹ' đã thể hiện sâu sắc tình yêu của cậu bé Hồng dành cho mẹ.

Đoạn trích 'Trong lòng mẹ' thuộc chương IV của cuốn hồi kí 'Những ngày thơ ấu', đoạn trích tập trung miêu tả tình cảnh đáng thương của cậu bé Hồng: Bố mất sớm, mẹ bỏ đi vì sự hà khắc của gia đình nhà chồng. Bé sống nhờ họ hàng bên nội, thế nhưng cuộc sống ấy cũng chẳng mấy dễ chịu khi bà cô - người có quan hệ thân thiết lại nhẫn tâm buông những lời cay nghiệt để thỏa mãn sự ích kỉ, đố kị của bản thân, chia rẽ tình cảm giữa bé Hồng và mẹ. Đây cũng là một trong những đoạn trích cảm động nhất trong tập hồi kí khi làm nổi bật được tình mẫu tử thiêng liêng, tình yêu mẹ vô bờ bến của cậu bé Hồng.

Qua cuộc đối thoại giữa bà cô bé Hồng và bé Hồng, nhà văn Nguyên Hồng không chỉ cho người đọc thấy được hoàn cảnh đáng thương, tình yêu vô bờ bến của bé Hồng dành cho mẹ mà còn khắc họa đầy chân thực nét gian xảo, tàn nhẫn, lạnh lùng của bà cô bé Hồng.

Bà cô bé Hồng vốn là người thân ruột thịt của bé Hồng, đứng trên quan hệ huyết thống hay tình cảm thì lẽ ra bà cô phải là người cưu mang, chăm sóc cho bé Hồng. Thế nhưng sự hà khắc của bà ta cùng gia đình bên nội không chỉ bức ép khiến mẹ bé Hồng phải bỏ đi mà bà ta còn không ngừng reo rắc vào đầu người cháu những lời miệt thị, đặt điều đầy cay độc về người mẹ của mình. Trong cuộc trò chuyện với bé Hồng, bà ta đã hỏi Hồng 'Hồng! Mày có muốn vào Thanh Hóa chơi với mẹ mày không?', nghe qua tưởng chừng đây là lời hỏi thăm, sự quan tâm của người cô dành cho cháu. Thế nhưng, chỉ cần nghe ngữ điệu châm chọc, giả tạo cùng bộ mặt 'rất kịch' của bà ta thì có thể thấy đây là một người độc ác, thâm hiểm.

Người bà cô đâu vì quan tâm mà hỏi, mục đích chính của bà ta không chỉ khơi sâu sự tổn thương của bé Hồng mà còn mang ý xúc phạm đến mẹ của bé. Bà ta kể lại chuyện có người nhìn thấy mẹ bé ở Thanh Hóa, trên tay là đứa trẻ mới sinh, dường như mục đích của bà ta là gợi ra sự tủi thân, cảm giác bị bỏ rơi và hơn hết là muốn bé Hồng oán hận mẹ. Trước sự im lặng cùng nét mặt khổ sở của người cháu, bà ta không những không động lòng thương cảm mà tỏ ra vui sướng, thỏa mãn, càng buông lời cay độc, tàn nhẫn. Khi đã thành công trong việc khơi dậy nỗi đau đớn, xót xa nơi người cháu, bà ta còn cố tình tỏ ra cảm thông, nói bằng giọng ngậm ngùi thương cảm nhưng lại mang đầy hàm ý của sự độc ác, nhẫn tâm: 'Mấy lại rằm tháng tám này là giỗ đầu của cậu mày, mợ mày về dù sao cũng đỡ tủi cho cậu mày, và mày cũng còn phải có họ, có hàng, người ta hỏi đến chứ'. Từ những lời nói xảo trá, cay độc, thái độ giả tạo, trơ trẽn, bà cô đã tự phơi bày bản chất xấu xa, thâm hiểm của mình. Thái độ, lời nói của bà cô cũng chính là đại diện cho những định kiến khắc nghiệt, tàn nhẫn của xã hội xưa đối với người phụ nữ xưa.

Những lời nói cay độc, tàn nhẫn của bà cô không những không làm cho bé Hồng oán ghét mẹ mà ngược lại khiến bé Hồng càng thêm thương và yêu mẹ hơn. Trước câu hỏi đầy hàm ý của bà cô, bé Hồng đã nhận ra được sự cay độc trong lời nói, thấy được vẻ mặt cố tỏ ra thương cảm nhưng rất kịch của bà cô. Dù không đáp lại lời bà cô nhưng khóe mắt đã bắt đầu cay, trong lòng bé hiểu rằng mẹ nhất định sẽ quay lại, mẹ không bỏ rơi mà chỉ vì hoàn cảnh nên tạm để bé ở lại. Khi nghe bà cô nói rằng mẹ bé đã đi bước nữa với người đàn ông khác, thậm chí đã sinh em bé, Hồng đã khóc, khóc không phải vì giận mẹ mà vì thương mẹ, bé căm giận những hủ tục đã đầy đọa mẹ bé, Hồng ước chúng là những vật hữu hình như mẩu gỗ, cục thủy tinh để có thể nhai, căn đến nát vụn mới thôi. Hồng là một cậu bé nhạy cảm, giàu tình thương, đứng trước những lời dèm pha ác ý, em vẫn luôn tin tưởng, yêu thương mẹ.

Chi tiết bé Hồng gặp lại mẹ trong phần cuối của đoạn trích khiến cho bao độc giả vỡ òa trong sự xúc động.

Đoạn trích 'Trong lòng mẹ' đã mang đến cho người đọc những cảm nhận chân thực, đẹp đẽ nhất về tình mẫu tử. Ta không chỉ cảm động trước tình yêu của bé Hồng dành cho mẹ mà còn bất bình thay đối với những con người lòng dạ hiểm độc, những hủ tục phong kiến đã đẩy người phụ nữ xưa vào con đường bất hạnh.

Trong lòng mẹ trang 84, 85, 86 ...

Phân tích trong lòng mẹ (Mẫu 17)

Nguyên Hồng sinh năm 1918, mất năm 1982, quê gốc ở thành phố Nam Định. Trước Cách mạng tháng Tám 1945, ông sống chủ yếu ở Hải Phòng, trong một xóm lao động nhỏ nên được tận mắt chứng kiến những cảnh đời cơ cực. Nguyên Hồng là nhà văn của lớp người “dưới đáy” xã hội. Viết về thế giới nhân vật ấy, ông thường bày tỏ niềm yêu thương sâu sắc và thái độ trân trọng những nét đáng quý trong phẩm chất của họ. Văn xuôi Nguyên Hồng giàu chất trữ tình. Đó là tiếng nói chân thành của một trái tim nhạy cảm trước nỗi đau và niềm hạnh phúc bình dị của con người.

Những ngày thơ ấu là tập hổi kí viết về tuổi thơ bất hạnh của chính nhà văn. Tác phẩm gồm 9 chương, lần lượt đăng trên báo từ năm 1938 và được in thành sách năm 1940. Trong lòng mẹ là chương 4. Bằng lời văn chân thực và giàu cảm xúc, tác giả đã kể lại nỗi cay đắng tủi cực về tình yêu thương cháy bỏng đối với mẹ của đứa con sớm mồ côi cha. Thông qua cảnh ngộ éo le và tâm sự đau khổ của chú bé Hồng, tác giả còn cho ta thấy bộ mặt vô cảm lạnh lùng của loại người nhỏ nhen, đố kị đến mức độc ác trong xã hội phong kiến tư sản chỉ trọng đồng tiền. Những thành kiến cổ hủ của đám thị dân tiểu tư sản… đã cố tình cắt đứt tình mẫu tử thiêng liêng.

Đoạn trích này có thể chia làm hai phần. Phần 1 là cuộc đối thoại giữa bà cô cay độc và chú bé Hồng. Ý nghĩ, cảm xúc của chú bé về người mẹ đáng thương. Phần 2 là cuộc gặp gỡ bất ngờ với mẹ và cảm giác vui sướng cực điểm của chú bé Hồng khi được ngồi trong lòng mẹ.

Chú bé Hồng là kết quả của một cuộc hôn nhân gượng ép, không có tình yêu. Người cha lớn tuổi và ốm yếu quanh năm lặng lẽ u uất bên bàn đèn thuốc phiện. Người mẹ trẻ trung, xinh đẹp luôn khao khát yêu thương song đành phải chôn vùi tuổi xuân bên ông chồng nghiện ngập. Gia đình bé Hồng lúc đầu sung túc, đầy đủ về vật chất nhưng lạnh lẽo, thiếu vắng tiếng nói, tiếng cười.

Rồi người cha chết vì bệnh. Người mẹ không chịu nổi sự o ép khắc nghiệt của nhà chồng nên đành bỏ lại con thơ, dứt áo ra đi. Để Hồng phải sống với bà cô nghiệt ngã, thâm hiểm. Như mọi đứa trẻ khác, bé yêu mẹ, thèm được ở bên mẹ nhưng cố giấu kín điều đó trong lòng, chỉ thỉnh thoảng mới hé lộ ra. Vì thế, lòng thương yêu mẹ của bé Hồng lại càng da diết.

Mở đầu đoạn trích, qua giọng kể mộc mạc, tự nhiên, tác giả giúp người đọc hình dung ra cảnh ngộ thương tâm của bé Hồng: Tôi đã bỏ cái khăn tang bằng vải màn ở trên đầu đi rồi. Không phải đoạn tang thầy tồi mà vì tồi mới mua được cái mũ trắng và quấn băng đen. Tiếp theo, nhà văn kể về thời gian xảy ra câu chuyện và hoàn cảnh sống của người mẹ tội nghiệp:

Gần đến ngày giỗ đầu thầy tôi, mẹ tôi ở Thanh Hóa vẫn chưa về. Trong đó nghe đâu mẹ tôi đi bán bóng đèn và những phiên chợ chỉnh còn bán cả vàng hương nữa. Tôi nói “nghe đâu” vì tôi thấy người ta bắn tin rằng mẹ và em tôi xoay ra sống bằng cách đó.

Câu chuyện đã được khơi nguồn. Nhân vật bà cô xuất hiện và tâm địa độc ác của bà ta càng về sau càng lộ rõ. Bà ta cố tình nói cho bé Hồng biết cảnh ngộ thảm thương của mẹ cậu để rồi cười cợt, nhạo báng, thoả mãn trên nỗi đau của người khác:

Một hôm, cô tôi gọi tôi đến bên cười hỏi:

- Hồng! Mày có muốn vào Thanh Hóa chơi với mẹ mày không?

Nụ cười giả tạo của bà cô chứa đựng ác ý rõ ràng. Nó như một mũi dao nhọn cố tình xoáy vào trái tim non nớt đang rớm máu của đứa cháu vừa mới mồ côi cha, lại phải chịu cảnh xa lìa mẹ. Lẽ ra, bé Hồng sẽ trả lời rằng muốn vì bé đang thiếu thốn tình mẫu tử, nhưng vốn nhạy cảm, bé lập tức nhận ra những ý nghĩa cay độc trong giọng nói và trên nét mặt khi cười rất kịch của người cô. Vì thế, bé cúi đầu không đáp.

Không thể để tình thương yêu và lòng kính mến mẹ của mình bị những rắp tâm tanh bẩn xâm phạm đến, bé Hồng đã trả lời: Không! Cháu không muốn vào. Cuối năm thế nào mẹ cháu cũng về. Cuộc đối thoại tưởng chừng sẽ chấm dứt sau lời đáp có vẻ bất cần mà thực ra đầy suy nghĩ của đứa cháu nhỏ, nhưng bà cô thâm hiểm nào đã chịu buông tha.

Bà ta hỏi dồn, giọng vẫn ngọt nhạt: Sao lại không vào? Mẹ mày phát tài lắm, có như dạo trước đâu. Cùng với giọng nói cố tình làm ra vẻ tử tế nhưng đầy mỉa mai, châm chọc là hai con mắt long lanh nhìn chằm chặp vào đứa cháu mồ côi. Rõ ràng, bà ta muốn lôi kéo cậu bé Hồng vào một trò chơi độc ác đã toan tính sẵn. Mặc dù chú bé phản ứng bằng cách im lặng cúi đầu và khóe mắt đã cay cay, nhưng bà cô vẫn tiếp tục tấn công. Từ vẻ mặt đến lời nói, hành động của bà ta đểu toát ra vẻ giả dối và độc ác: Cô tôi liền vỗ vai tôi cười mà nói rằng: Mày dại quá, cứ vào đi, tao chạy cho tiền tàu. Vào mà bắt mẹ mày may vá sắm sửa cho và thăm em bé chứ. Đến đây, bà ta không cần che đậy ác ý nữa mà còn tỏ rõ thái độ giễu cợt và nhục mạ. Quả là đau đớn khi vết thương lòng của đứa cháu lại bị chính cô ruột của mình săm soi, hành hạ: Hai tiếng “em bé” mà cô tôi ngân dài ra thật ngọt, thật rõ, quả nhiên đã xoắn chặt lấy tâm can tôi như ý cô tôi muốn. Nhân vật bà cô tàn nhẫn đến mức lạnh lùng, vô nhân đạo đối với đứa cháu đáng thương.

Cho đến khi bé Hồng phẫn uất, oà lên khóc nức nở, bà cô vẫn cố tình hành hạ bằng những câu chuyện bịa đặt về hoàn cảnh bi đát của người mẹ nơi đất khách quê người. Đối lập với tâm trạng đau đớn, xót xa như bị gai cào, muối xát của đứa cháu là sự vô cảm đáng sợ của người cô: Cô tôi vẫn cứ tươi cười kể các câu chuyện cho tôi nghe. Tình cảnh túng quẫn, hình dáng gầy guộc, rách rưới của mẹ bé Hồng được bà cô thêu dệt, miêu tả tỉ mỉ với vẻ thích thú rõ ràng.

Cử chỉ vỗ vai, nhìn vào mặt đứa cháu rồi đổi giọng làm ra vẻ nghiêm nghị của bà cô chỉ là sự thay đổi cách thức tấn công. Bà ta tung ra miếng đòn hiểm cuối cùng. Khi thấy đứa cháu tức tưởi, phẫn uất đến cực độ thì bà ta lại giả vờ hạ giọng, tỏ vẻ ngậm ngùi, thương xót người anh đã mất. Đến đây, bản chất độc ác, giả dối, thâm hiểm và trơ trẽn của nhân vật bà cô đã được phơi bày toàn bộ. Tác giả muốn thông qua hình ảnh ấy để tố cáo hạng người tàn nhẫn, coi nhẹ tình máu mủ ruột rà trong xã hội thực dân phong kiến lúc bấy giờ.

Đối lập với ác cảm ghê gớm của bà cô là tình yêu thương mãnh liệt của chú bé Hồng dành cho người mẹ đáng thương. Nhận ra lòng dạ thâm độc của bà cô, bé Hồng càng thêm yêu quý mẹ. Diễn biến tâm trạng bé Hồng được nhà văn miêu tả theo diễn biến câu chuyện giữa hai cô cháu.

Nghe bà cô hỏi, trong kí ức bé Hồng vụt hiện lên vẻ mặt rầu rầu và hiền từ của mẹ. Tất cả họ hàng bên nội có thể ruồng rẫy mẹ, kết tội mẹ, thóa mạ mẹ… nhưng với bé Hồng, mẹ vẫn là người mẹ yêu quý mà bé Hồng ra sức bênh vực và bảo vệ. Bé Hồng còn nhỏ lắm nên trước những lời kết tội mẹ mình, bé chỉ phản ứng bằng cử chỉ im lặng, cúi đầu mà lòng thắt lại, khóe mắt cay cay. Bé nhận ra ngay những ý nghĩa cay độc trong giọng nói và trên nét mặt của bà cô. Bé không muốn tình thương yêu và lòng kính mến mẹ của mình bị những rắp tâm tanh bẩn xâm phạm đến.

Đến khi mục đích mỉa mai, nhục mạ của bà cô đã phơi bày trắng trợn thì bé không nén nổi uất ức và oà lên khóc: Nước mắt tôi đã ròng ròng rớt xuống hai bên mép rối chan hòa đầm đìa ở cằm và ở cổ. Bé khóc vì những lời cạnh khóe độc ác mà bà cô cứ cố ý nhắc đi nhắc lại. Bé khóc vì căm tức những thành kiến bất công của người đời đối với người mẹ tội nghiệp. Bé khóc vì thương xót người mẹ khốn khổ sợ dư luận chê cười nên phải lìa con, tha phương cầu thực và trốn tránh tìm nơi sinh nở.

Hình ảnh cậu bé cười dài trong tiếng khóc thể hiện tâm trạng đau đớn cực điểm:

Nhưng không phải vì thấy mẹ tôi chưa đoạn tang thầy tôi mà đã chửa đẻ với người khác mà tôi có những cảm giác đau đớn ấy. Chỉ vì tôi thương mẹ tôi và căm tức sao mẹ tôi lại vì sợ hãi những thành kiến tàn ác mà xa lìa anh em tôi, để sinh nở một cách giấu giếm…

Những hình ảnh và động từ trong đoạn văn trên có sức gợi tả, gợi cảm rất lớn. Lúc này, tình thương mẹ của bé Hồng trỗi dậy mãnh liệt hơn bao giờ hết. Tình thương ấy đã biến thành sự phản kháng quyết liệt: Cô tồi chưa dứt câu, cổ họng tồi đã nghẹn ứ khóc không ra tiếng. Giá những cổ tục đã đày đoạ mẹ tôi là một vật như hòn đá hay cục thủy tinh, đầu mẩu gỗ, tôi quyết vồ ngay lấy mà cắn, mà nhai, mà nghiến cho kì nát vụn mới thôi.

Trong tâm khảm bé Hồng lúc nào cũng in sâu hình bóng mẹ. Một buổi chiều, lúc tan trường, thoáng thấy người ngồi trên xe kéo giống mẹ mình, bé Hồng liền đuổi theo, bối rối gọi. Đó là tiếng gọi bật ra từ trái tỉm thương nhớ mẹ không nguôi của chú bé tội nghiệp.

Tác giả đã miêu tả hàng loạt cử chỉ thể hiện niềm vui sướng của bé Hồng khi gặp mẹ. Vì chạy đuổi theo mẹ mà bé thở hồng hộc, trán đẫm mồ hôi. Đến khi trèo được lên xe với mẹ thì mừng đến nỗi ríu cả chân lại. Mẹ vừa kéo tay, xoa đầu hỏi chuyện thì bé đã òa lên khóc rồi cứ thế nức nở. Tiếng khóc trút bỏ bao nỗi, tủi cực, uất ức trong những ngày xa mẹ. Tiếng khóc sung sướng được gặp lại người mẹ thương yêu. Tiếng khóc của niềm khát khao tột độ tình mẫu tử.

Nước mắt của bé Hồng lúc này khác hẳn nước mắt uất ức, căm giận khi trả lởi bà cô độc ác. Đây là những giọt nước mắt dỗi hờn mà hạnh phúc, tức tưởi mà mãn nguyện.

Cảnh hai mẹ con bé Hồng gặp nhau được tả bằng ngòi bút trữ tình đẫm nước mắt. Nhà văn đã vẽ nên bức tranh bằng ngôn ngữ về một thế giới của tình thương yêu đang bừng nở, hổi sình, tràn đầy những kỉ niệm dịu dàng và ấm áp tình mẫu tử… Cậu bé Hồng như bồng bềnh trôi trong cảm giác vui sướng, rạo rực. Những lời nói cay độc của bà cô, những tủi cực chất chồng trong thời gian xa mẹ đã bị nhấn chìm giữa niềm hạnh phúc đang dâng tràn.

Cảm giác sung sướng cực điểm của đứa con khi được ôm ấp trong lòng mẹ đã được Nguyên Hồng diễn tả bằng cảm hứng say mê cùng những rung động tinh tế lạ thường.

Trong lòng mẹ, bé Hồng nhận ra rằng cảm giác ấm áp thiếu vắng bao lâu nay giờ đây lại mơn man khắp cả da thịt. Đó là những phút giây không thể nào quên của bé Hồng. Bé nhận ra hơi quần áo của mẹ, hơi thở của mẹ lúc đó thơm tho lạ thường. Bé nhận ra gương mặt mẹ vẫn tươi sáng, mắt trong, da mịn, má hồng, vẫn đẹp như thuở nào. Bé cũng nhận ra người mẹ có một êm dịu vô cùng… Tất cả những cảm giác đó, những ý nghĩ đó chỉ có được khi đứa con hết lòng yêu thương mẹ.

Được gặp mẹ là niềm hạnh phúc lớn lao, là niềm vui khôn xiết. Được sà vào lòng mẹ, bé Hồng mừng đến nỗi quên hết mọi thứ trên đời. Những lời thăm hỏi giữa hai mẹ con chỉ còn là một chuỗi âm thanh hạnh phúc, bé Hồng không thể nhớ đó là những câu gì, chuyện gì. Bao trùm tâm trí bé là nỗi vui sướng khôn xiết. Phải thương nhớ mẹ, yêu quý mẹ, thèm khát được gần mẹ đến chừng nào thì bé Hồng mới cảm thấy sung sướng tột đỉnh khi được ôm ấp trong vòng tay dịu hiền của mẹ sau bao ngày xa cách.

Tình thương yêu mẹ là nét nổi bật trong tâm hồn bé Hồng. Tình thương mẹ đã giúp bé Hồng có cách nhìn xác thực về con người và cuộc đời. Cho dù cảnh ngộ có éo le đốn mấy thì tình mẫu tử thiêng liêng vẫn không thể phai mờ. Chúng ta càng thêm thông cảm và quý mến bé Hồng, từ đó càng trân trọng tình mẫu tử.

Trong lòng mẹ là một đoạn văn có tính chất hồi kí mà âm hưởng trữ tình thấm đẫm toàn bộ nội dung câu chuyện. Đặc biệt, đoạn cuối cùng là bài ca cảm động về tình mẫu tử thiêng liêng, bất diệt. Dòng cảm xúc chân thành như tuôn chảy dưới ngòi bút tài hoa của Nguyên Hồng. Nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn với khả năng miêu tả tâm lí nhân vật tỉnh tế của ông gây ấn tượng mạnh, làm rung động lòng người. Thấm thìa nỗi khổ của những đứa con xa mẹ, chúng ta mới nhận ra rằng hạnh phúc thay những đứa con được sống trong vòng tay yêu thương, bảo bọc của mẹ hiền.

Phân tích trong lòng mẹ (Mẫu 18)

Nguyên Hồng là nhà văn của những người cùng khổ. Ông thường viết về những lớp người 'dưới đáy' với tình cảm yêu thương sâu sắc, chân thành. 'Những ngày thơ ấu' là một tập hồi kí giàu chất trữ tình, trung thực và cảm động về tuổi thơ cay đắng của Nguyên Hồng thời thơ ấu. 'Trong lòng mẹ' là chương IV của tập hồi kí. Đoạn trích đã miêu tả một cách sinh động 'những rung động cực điểm của một tâm hồn trẻ dại' (Thạch Lam) đối với người mẹ, đã bộc lộ sâu sắc lòng yêu thương mẹ của bé Hồng.

Chú bé Hồng ra đời là kết quả của cuộc hôn nhân miễn cưỡng không tình yêu. Người bố sống lặng lẽ, u uất với bàn đèn thuốc phiện rồi chết, người mẹ vì 'cùng túng quá, phải bỏ con cái đi tha hương cầu thực', để lại đứa bé sống bơ vơ giữa sự ghẻ lạnh cay nghiệt của họ hàng. Nguyên Hồng mở đầu bằng cách kể nhẹ nhàng, nhiều chua xót “Tôi đã bỏ cái khăn tang bằng vải màn ở trên đầu đi rồi. Không phải đoạn tang thầy tôi mà vì tôi mới mua được cái mũ trắng và quấn băng đen. Gần đến ngày giỗ đầu thầy tôi, mẹ tôi ở Thanh Hóa vẫn chưa về”. Một chuỗi tuổi thơ cay đắng mở đầu bằng “chiếc khăn tang” trắng, gợi lên trong lòng người đọc nhiều chua xót.

Bé Hồng vẫn luôn mong ngóng người mẹ phương xa trở về trong ngày giỗ đầu của thầy. Tiếp theo, nhà văn kể về thời gian xảy ra câu chuyện và hoàn cảnh sống của người mẹ tội nghiệp: 'Trong đó nghe đâu mẹ tôi đi bán bóng đèn và những phiên chợ chỉnh còn bán cả vàng hương nữa.' Câu chuyện đã được khơi nguồn. Nhân vật bà cô xuất hiện và tâm địa độc ác của bà ta càng về sau càng lộ rõ. Bà ta cố tình nói cho bé Hồng biết cảnh ngộ thảm thương của mẹ cậu để rồi cười cợt, nhạo báng, thoả mãn trên nỗi đau của người khác. Nụ cười giả tạo của bà cô chứa đựng ác ý rõ ràng.

Nó như một mũi dao nhọn cố tình xoáy vào trái tim non nớt đang rớm máu của đứa cháu vừa mới mồ côi cha, lại phải chịu cảnh xa lìa mẹ. Lẽ ra, bé Hồng sẽ trả lời rằng muốn vì bé đang thiếu thốn tình mẫu tử, nhưng vốn nhạy cảm, bé lập tức nhận ra những ý nghĩa cay độc trong giọng nói và trên nét mặt khi cười rất kịch của người cô. Không thể để tình thương yêu và lòng kính mến mẹ của mình bị những rắp tâm tanh bẩn xâm phạm đến, bé Hồng đã trả lời: 'Không! Cháu không muốn vào. Cuối năm thế nào mẹ cháu cũng về.' một lời đáp cứng cỏi, đầy niềm tin đối với mẹ, thì bà cô hỏi luôn, giọng ngọt, kèm theo cái nhìn bằng đôi mắt long lanh, chằm chặp: 'Sao lại không vào? Mợ mày phát tài lắm, có như dạo trước đâu!'. Nói câu này, bà cô như ngầm báo với Hồng rằng mẹ của chú bé đã thay lòng đổi dạ, không thương con, không gắn bó với gia đình như trước nữa. Khi thấy cháu im lặng, cúi đầu xuống đất, bà cô hẳn biết rằng lòng cháu đang thắt lại.

Nhưng bà vẫn chưa tha, tiếp tục cười mà nói: 'Mày cứ vào đi, tao chạy cho tiền tàu. Vào mà bắt mợ mày may vá sắm sửa cho và thăm em bé chứ'. Cái cử chỉ vỗ vai, cái nụ cười và lời nói ấy mới giả dối, độc ác làm sao! Điều này chứng tỏ bà ta cố ý lôi đứa cháu đáng thương vào một trò chơi cay độc của người lớn. Đến đây, bà cô không chỉ cay độc, mà còn châm chọc, nhục mạ cháu. Thật cay đắng biết bao khi niềm tin và tình mẫu tử bị người khác lại chính là cô mình, người gắn bó với mình bằng tình máu mủ cứ săm soi hành hạ. Nỗi đau của chú âm thầm cố kìm nén bên trong giờ đây không thể nào kìm giữ nổi, đã vỡ ra thành nước mắt 'nước mặt tôi ròng ròng rớt xuống hai bên mép rồi chan hòa đầm đìa ở cằm và ở cổ'. Lời nói của người bà cô quả như mũi dao ghê gớm, sắc lạnh đã chạm đến nơi dễ tổn thương nhất của một trái tim ngây thơ đã từng rỉ máu vì nỗi đau xa mẹ.

Từ nỗi đau đớn vì thương mẹ, bé Hồng căm phẫn những cổ tục đã đày đọa mẹ chú qua hình ảnh so sánh thật dữ dội. Đến đây tình thương trào lên như bão nổi, giằng xé với bao phẫn uất: 'Giá những cổ tục đã đày đọa mẹ tôi là một hòn đá hay cục thủy tinh, đầu mẩu gỗ, tôi quyết vồ ngay lấy mà cắn, mà nhai, mà nghiến cho kì nát vụn mới thôi.' Nhà văn đã sử dụng các động từ chỉ hành động mạnh: vồ, cắn, nhai, nghiến với sắc thái ngày càng tăng, khiến lời văn dường như sôi sục, tuôn trào đặc tả tâm trạng phẫn uất, căm giận cao độ của bé Hồng với những thành kiến vô hình đã làm khổ mẹ chú. Qua đó, ta càng thấu hiểu bé Hồng thương mẹ đến nhường nào.

Trong xã hội phong kiến xưa, biết bao người phụ nữ đã phải chôn vùi tuổi xuân vì những thành kiến vô hình mà ác liệt ấy. Qua đây, tác giả đã phát biểu quan điểm nhân đạo tiến bộ, dứt khoát đứng về phía người phụ nữ mà thông cảm, bênh vực họ. Cử chỉ vỗ vai, nhìn vào mặt đứa cháu rồi đổi giọng làm ra vẻ nghiêm nghị của bà cô chỉ là sự thay đổi cách thức tấn công. Bà ta tung ra miếng đòn hiểm cuối cùng. Khi thấy đứa cháu tức tưởi, phẫn uất đến cực độ thì bà ta lại giả vờ hạ giọng, tỏ vẻ ngậm ngùi, thương xót người anh đã mất. Đến đây, bản chất độc ác, giả dối, thâm hiểm và trơ trẽn của nhân vật bà cô đã được phơi bày toàn bộ. Tác giả muốn thông qua hình ảnh ấy để tố cáo hạng người tàn nhẫn, coi nhẹ tình máu mủ rụột rà trong xã hội thực dân phong kiến lúc bấy giờ.

Trong tâm khảm bé Hồng lúc nào cũng in sâu hình bóng mẹ. Một buổi chiều, lúc tan trường, thoáng thấy người ngồi trên xe kéo giống mẹ mình, bé Hồng liền đuổi theo, bối rối gọi. Đó là tiếng gọi bật ra từ trái tỉm thương nhớ mẹ không nguôi của chú bé tội nghiệp. Tác giả đã miêu tả hàng loạt cử chỉ thể hiện niềm vui sướng của bé Hồng khi gặp mẹ. Vì chạy đuổi theo mẹ mà bé thở hồng hộc, trán đẫm mồ hôi. Đến khi trèo được lên xe với mẹ thì mừng đến nỗi ríu cả chân lại. Mẹ vừa kéo tay, xoa đầu hỏi chuyện thì bé đã òa lên khóc rồi cứ thế nức nở. Tiếng khóc trút bỏ bao nỗi,tủi cực, uất ức trong những ngày xa mẹ. Tiếng khóc sung sướng được gặp lại người mẹ thương yêu. Tiếng khóc của niềm khát khao tột độ tình mẫu tử. Nước mắt của bé Hồng lúc này khác hẳn nước mắt uất ức, căm giận khi trả lởi bà cô độc ác. Đây là những giọt nước mắt dỗi hờn mà hạnh phúc, tức tưởi mà mãn nguyện.

Cảnh hai mẹ con bé Hồng gặp nhau được tả bằng ngòi bút trữ tình đẫm nước mắt. Nhà văn đã vẽ nên bức tranh bằng ngôn ngữ về một thế giới của tình thương yêu đang bừng nở, hổi sình, tràn đầy những kỉ niệm dịu dàng và ấm áp tình mẫu tử. Cậu bé Hồng như bồng bềnh trôi trong cảm giác vui sướng, rạo rực. Những lời nói cay độc của bà cô, những tủi cực chất chồng trong thời gian xa mẹ đã bị nhấn chìm giữa niềm hạnh phúc đang dâng tràn. Trong lòng mẹ, bé Hồng nhận ra rằng cảm giác ấm áp thiếu vắng bao lâu nay giờ đây lại mơn man khắp cả da thịt. Đó là những phút giây không thể nào quên của bé Hồng. Bé nhận ra hơi quần áo của mẹ, hơi thở của mẹ lúc đó thơm tho lạ thường. Bé nhận ra gương mặt mẹ vẫn tươi sáng, mắt trong, da mịn, má hồng, vẫn đẹp như thuở nào. Bé cũng nhận ra người mẹ có một êm dịu vô cùng.

Tất cả những cảm giác đó, những ý nghĩ đó chỉ có được khi đứa con hết lòng yêu thương mẹ. Được gặp mẹ là niềm hạnh phúc lớn lao, là niềm vui khôn xiết. Được sà vào lòng mẹ, bé Hồng mừng đến nỗi quên hết mọi thứ trên đời. Những lời thăm hỏi giữa hai mẹ con chỉ còn là một chuỗi âm thanh hạnh phúc, bé Hồng không thể nhớ đó là những câu gì, chuyện gì. Bao trùm tâm trí bé là nỗi vui sướng khôn xiết. Phải thương nhớ mẹ, yêu quý mẹ, thèm khát được gần mẹ đến chừng nào thì bé Hồng mới cảm thấy sung sướng tột đỉnh khi được ôm ấp trong vòng tay dịu hiền của mẹ sau bao ngày xa cách. Tình thương yêu mẹ là nét nổi bật trong tâm hồn bé Hồng. Tình thương mẹ đã giúp bé Hồng có cách nhìn xác thực về con người và cuộc đời. Cho dù cảnh ngộ có éo le đốn mấy thì tình mẫu tử thiêng liêng vẫn không thể phai mờ. Chúng ta càng thêm thông cảm và quý mến bé Hồng, từ đó càng trân trọng tình mẫu tử.

Bằng cách viết nhẹ nhàng và sâu lắng, cách diễn tả tâm lý cực kỳ sâu sắc và hơn hết bằng tình yêu thương vô bờ bến Nguyên Hồng đã khiến người đọc “ôm tim mình” mà khóc. “Trong lòng mẹ” luôn để lại trong lòng người những rung động ngọt ngào và chân thành nhất.

Phân tích trong lòng mẹ (Mẫu 19)

Một trong những nhà văn để lại cho tôi ấn tượng nhất có lẽ là Nguyên Hồng. Bởi trong những trang văn của ông chất chứa dạt dào một thứ tình cảm bình yên đến lạ lùng, tâm hồn ta sẽ được trở về với những ngày thơ ấu hồn nhiên, được bình yên sau cuộc sống bộn bề, được chìm đắm trong tình yêu thiết tha của tình mẹ. tác phẩm tiêu biểu cho lối phong cách sáng tác ấy chính là “Những ngày thơ ấu” của ông. Đặc biệt là đoạn trích “Trong lòng mẹ”.

Trong trang văn của mình, đều có phần nào đó bóng dáng của Nguyên Hồng, bởi chính tuổi thơ cay đắng, tăm tối của mình luôn là niềm động lực để ông cầm bút sáng tác.

“Trong lòng mẹ” nằm trong chương VI của “Những ngày thơ ấu” kể về cuộc sống cơ cực, thiếu thốn tình yêu thương của cậu bé Hồng. Hằng ngày cậu phải chịu sự ghẻ lạnh, đay nghiến và mỉa mai của người cô cùng họ hàng bên nhà nội. Bên cạnh đó còn là hình ảnh một người mẹ nghèo tiều tụy với một tình yêu thương con vô bờ bến.bé Hồng sinh ra là kết quả của cuộc hôn nhân không hạnh phúc. Bố là kẻ nghiện ngập, chết mòn trên bàn thuốc phiện để lại cho mẹ con Hồng một cuộc sống tù túng cực độ cùng những cay nghiệt bên nhà nội, cuối cùng mẹ Hồng phải tha hương cầu thực, bỏ Hồng lại một mình sống với bà cô.

Nguyên Hồng mở đầu đoạn bằng cách kể nhẹ nhàng, nhiều chua xót: “Tôi đã bỏ cái khăn tang bằng vải màn trên đầu đi rồi. không phải đoạn tang thầy tôi mà vì tôi mới mua được cái mũ trắng và quấn băng đen. Gần đến ngày giỗ đầu thầy tôi, mẹ tôi ở Thanh Hóa vẫn chưa về”. Một chuỗi tuổi thơ cay đắng mở đầu bằng “chiếc khăn tang” trắng gợi lên trong lòng người đọc nhiều xót xa. Bé Hồng vẫn luôn mong ngóng người mẹ phương xa trở về trong ngày giỗ của cha. Tác giả được biết mẹ đang 'bán bóng đèn và bán vàng hương ở chợ”, mẹ làm tất cả để mưu sinh kiếm sống và trở về.

Bé Hồng sống với bà cô cay nghiệt, ghẻ lạnh, luôn dùng những lời độc địa nhất kể về mẹ của bé, để bôi thêm muối vào tâm hồn non nớt kia. Bà cô là hiện thân của một xã hội phong kiến độc ác, nhiều hủ tục, nhiều cay đắng và bé Hồng chính là hiện thân của những người ở dưới đáy cùng xã hội, chịu đựng sự chà đạp và bất công nhất. Trong một lần bà cô gọi Hồng đến và nói “Mày có muốn vào Thanh Hóa thăm mẹ mày không”, một câu hỏi chứa đầy hàm ý khiến trái tim đứa bé run rẩy toan gật đầu đồng ý. Nhưng sau đó cậu đã tỉnh táo nhận ra phía sau của nụ cười đầy gian tà kia của cô mình nên chỉ biết cúi đầu. Nỗi khổ của mẹ cậu bị những hủ tục phong kiến đè bẹp lên, đè lên gánh nặng đôi vai để rồi mẹ cậu phải xa cậu. Bằng cách xây dựng tâm lí tinh tế, tác giả khiến người đọc không kìm được cảm xúc. Bởi khi nghĩ về mẹ, cậu chỉ “biết cúi đầu im lặng, khóe mắt cay cay”. Dù bà cô có nhắc đến “em bé” có gieo rắc thêm bất cứ điều xấu xa nào nhưng cậu vẫn bỏ ngoài tai, vẫn luôn hướng tình cảm mong ngóng tha thiết mẹ về.

Và có lẽ trong đoạn trích này, khung cảnh, phân đoạn lấy đi nhiều nước mắt nhất chính là đoạn hai mẹ con bé Hồng được gặp nhau, chính là nút thắt cao trào tình cảm được bung ra để yêu thương ùa về.

Chỉ một tiếng gọi “Mợ! Mợ! Mợ ơi” khi thấy một người đàn bà giống mẹ thì tình yêu trong bé chực trào ra. Yêu thương lâu nay bị kìm nén giờ đây có dịp bật ra thành tiếng. Tiếng gọi ấy khiến người đọc đứt từng khúc ruột, cay đến sống mũi. Khoảnh khắc cậu được ôm vào lòng mẹ thật cảm động. Tác giả dùng những từ ngữ tươi đẹp nhất để diễn tả lại “phải bé lại và lăn vào lòng một người mẹ, áp mặt vào bầu sữa nóng của người mẹ, để bàn tay người mẹ vuốt ve từ trán xuống cằm, và gãi rôm ở sống lưng cho mới thấy người mẹ có một êm dịu vô cùng”. Câu văn khiến không ít người run rẩy vì độ chân thực cũng như tình thương vô bờ bến của tình mẫu tử.

Cuộc gặp gỡ định mệnh và tình cảm trở nên sâu nặng hơn. Có thể nói người đọc đến đây thở phào nhẹ nhõm vì cuối cùng cậu bé cũng được đền đáp tình yêu thương. Không có sức mạnh nào có thể ngăn được tình cảm thiêng liêng ấy.

Bằng lối viết nhẹ nhàng, sâu lắng, cách diễn tả tâm lí sâu sắc và hơn hết bằng tình yêu thương vô bờ bến của tác giả đã khiến người đọc “ôm tim mình” mà khóc. “Trong lòng mẹ” luôn in đậm trong người đọc một tình cảm thiêng liêng, chân thành nhất.

Phân tích trong lòng mẹ (Mẫu 20)

“Những ngày thơ ấu” của Nguyên Hồng là tập hồi kí viết về những tháng ngày tuổi thơ cay đắng và khắc nghiệt của chính tác giả - một tuổi thơ mồ côi, chịu bao nhiêu tủi cực, thiếu thốn. Và có lẽ, trong tác phẩm, làm cho người đọc cảm động nhất chính là đoạn trích “Trong lòng mẹ”. Đoạn trích đã cho ta hiểu được tình cảnh đáng thương cùng nỗi đau tinh thần bấy lâu của bé Hồng đồng thời là khát khao tình mẫu tử của bé.

Đoạn đầu của đoạn trích khi nhân vật “tôi” kể về chuyện chiếc khăn tang và tin tức về mẹ của mình ta hiểu phần nào về hoàn cảnh của bé Hồng khi ấy. Cha mất, mẹ đi tha hương cầu thực, bé phải sống với họ hàng trong sự ghẻ lạnh. Bà cô bé Hồng, vốn không phải là một người cô hiền lành, một hôm gọi bé Hồng đến gợi chuyện về mẹ bé hỏi bé có muốn vào Thanh Hóa chơi với mẹ hay không.

Vốn là một đứa trẻ nhạy cảm, Hồng như nhận ra ngay ác ý trong lời nói và nụ cười giả dối rất “kịch” của bà cô. Gia đình họ nội của bé Hồng vốn không ưa gì mẹ bé Hồng, luôn tìm cách để nói xấu mẹ bé Hồng để khiến cho bé ghét mẹ của mình. Có điều, dù họ có tiêm nhiễm vào đầu bé Hồng bao nhiêu điều xấu về mẹ đi nữa thì trong tâm trí bé Hồng, hình ảnh của mẹ bé Hồng liên hiện lên với “vẻ mặt rầu rầu và sự hiền từ”. Là một cậu bé vô cùng yêu mẹ và thông minh, Hồng tự nhủ với lòng mình “đời nào tình thương yêu và lòng kính mến mẹ tôi lại bị những rắp tâm tanh bẩn xâm phạm đến....”.

Nên bé Hồng đã trả lời là không muốn vào đồng thời bé đưa ra niềm tin về chuyện mẹ nhất định sẽ về. Chỉ một câu nói, ta hiểu rằng bé Hồng không chỉ là một cậu bé thông minh, can đảm mà còn rất yêu mẹ, ra sức bảo vệ mẹ trước những cay nghiệt của nhà nội.

Khi bà cô nói mẹ bé Hồng có “em bé”, những lời nói của bà cô mà bé Hồng đau đớn “Nước mắt tôi đã ròng ròng rớt xuống hai bên mép rồi chan hòa đầm đìa ở cằm và ở cổ” và khi bà cô kể cho bé nghe về chuyện có người nhìn thấy mẹ bé Hồng “ngồi cho con bú ở một bên rổ bóng đèn”, “ăn vận rách rưới, mặt mày xanh bủng, người gầy rạc đi”, nỗi đau của bé lại càng như thắt lại: “Cô tôi chưa dứt câu, cổ họng tôi đã nghẹn ứ khóc không ra tiếng. Giá những cổ tục đã đày đọa mẹ tôi là một vật như hòn đá hay cục thủy tinh, đầu mẩu gỗ, tôi quyết vồ lấy ngay mà cắn, mà nhai, mà nghiến cho kỳ nát vụn mới thôi”. Cách so sánh liên tưởng độc đáo đã làm nổi bật sự căm tức ghê gớm của bé Hồng đối với những cổ tục đã đày đọa mẹ bé, bé chỉ muốn làm sao bóp nát nó để những đau khổ mà mẹ bé phải chịu sẽ mãi mãi biến mất.

Người đọc còn xúc động hơn nữa khi thấy tình cảm hai mẹ con bé Hồng gặp nhau. Khi mới thấy thoáng bóng ai giống mẹ, bé Hồng đã không kìm được lòng mà chạy gọi theo dù biết nếu đó là nhầm lẫn sẽ là một trò cười xấu hổ nhưng tình yêu thương mẹ của bé khi dậy đã lôi bé đi, không sao kìm lại được.

Vậy là hai mẹ con bé Hồng gặp nhau trong niềm hạnh phúc. Khi này bé Hồng thấy mẹ mình không hề xơ xác như những gì bà cô tả mà “Gương mặt mẹ tôi vẫn tươi sáng với đôi mắt trong, và nước da mịn làm nổi bật màu hồng của hai gò má”, người mẹ ấy trông tươi đẹp như vậy có lẽ là vì: “Sự sung sướng bỗng được trông nhìn và ôm ấp cái hình hài máu mủ của mình mà mẹ tôi lại tươi đẹp như thuở còn sung túc”. Được nhìn thấy con, ôm con trong vòng tay, người mẹ như quên hết mọi cực nhọc, đau khổ và cả khuôn mặt đều ánh lên hạnh phúc.

Trong lúc nằm trong lòng mẹ, Hồng thấy “Hơi quần áo mẹ tôi và những hơi thở ở khuôn miệng xinh xắn nhai trầu phả ra lúc đó thơm tho lạ thường” đồng thời có sự liên tưởng kì lạ “Phải bé lại và lăn vào lòng một người mẹ, áp mặt vào bầu sữa nóng của người mẹ, để bàn tay người mẹ vuốt ve từ trên trán xuống cằm, và gãi rôm ở sống lưng cho, mới thấy người mẹ có một êm dịu vô cùng”. Đó chính là tình mẫu tử thiêng liêng, cao quý vô ngần!

Đọc đoạn trích “Trong lòng mẹ” ta thấy xót xa cho tình cảnh đáng thương của bé Hồng và đồng thời cũng đọc xúc động biết bao trước tình mẫu tử thiêng liêng cao quý.

Mytour.vn

Phân tích trong lòng mẹ (Mẫu 21)

Mỗi lần ngồi lật dở và đọc từng trang “Những ngày thơ ấu” của Nguyên Hồng tôi không đọc bằng mắt nữa mà để cho trái tim tự đọc, tự cảm nhận và tự rung động. Văn của ông rất sâu, rất sắc bởi nó cứa vào lòng người niềm thương cảm chân thành nhất. Đoạn “Trong lòng mẹ” trích trong “Những ngày thơ ấu” có lẽ là trích đoạn có sức lay động và ám ảnh người đọc nhất về tình mẫu tử thiêng liêng bất diệt. Bằng ngòi bút tinh tế và tình cảm sâu đậm Nguyên Hồng đã dẫn người đọc khám phá văn chương của mình bằng trái tim.

Nguyên Hồng không thêu dệt một câu chuyện bi lụy ở đâu đó quanh chúng ta mà ông trải lòng lên trang giấy bằng chính cuộc đời, bằng chính tuổi thơ cùng cực, cay đắng và nước mắt của mình.

“Trong lòng mẹ” nằm ở chương IV của “Những ngày thơ ấu” kể về cuộc sống cơ cực, thiếu thốn tình yêu thương của bé Hồng. Hằng ngày Hồng chịu sự ghẻ lạnh, đay nghiến và mỉa mai của người cô bên nhà “thầy”. Bên cạnh đó còn là hình ảnh người mẹ nghèo tiều tụy với một tình yêu thương con vô bờ bến.

Bé Hồng sinh ra là kết quả của một cuộc hôn nhân không hạnh phúc. Bố là một kẻ nghiện ngập, chết mòn trên bàn thuốc phiện để lại cho mẹ con Hồng một cuộc sống tù túng cực độ cùng những cay nghiệt bên nhà nội, cuối cùng mẹ Hồng phải tha hương cầu thực, bỏ lại Hồng một mình sống với bà cô.

Nguyên Hồng mở đầu bằng cách kể nhẹ nhàng, nhiều chua xót “Tôi đã bỏ cái khăn tang bằng vải màn ở trên đầu đi rồi. Không phải đoạn tang thầy tôi mà vì tôi mới mua được cái mũ trắng và quấn băng đen. Gần đến ngày giỗ đầu thầy tôi, mẹ tôi ở Thanh Hóa vẫn chưa về”. Một chuỗi tuổi thơ cay đắng mở đầu bằng “chiếc khăn tang” trắng, gợi lên trong lòng người đọc nhiều chua xót. Bé Hồng vẫn luôn mong ngóng người mẹ phương xa trở về trong ngày dỗ đầu của thầy. Tác giả được biết mẹ đang “bán bóng đèn và bán vàng hương ở chợ”, mẹ làm tất cả để mưu sinh để kiếm sống và để trở về.

Bé Hồng sống với bà cô cay nghiệt, ghẻ lạnh, luôn dùng những lời độc địa nhất để kể về mẹ của bé, để bôi thêm muối vào tâm hồn đứa trẻ thơ đang quá thiếu thốn tình mẫu tử. Bà cô là hiện thân của một xã hội phong kiến độc ác, nhiều hủ tục, nhiều cay đắng và bé hồng là hiện thân của những người ở dưới đáy cùng xã hội, chịu đựng sự chà đạp và bất công nhất.

Trong một lần bà cô ấy gọi Hồng đến và nói “Mày có muốn vào Thanh hóa thăm mẹ mày không”, một câu hỏi chứa đầy hàm ý xấu khiến trái tim đứa bé ấy toan run rẩy và toan gật đầu đồng ý. Người đọc nhận ra một sự đấu tranh nội tâm đầy mâu thuẫn và kiềm chế đến tột cùng “tưởng đến vẻ mặt rầu rầu và sự hiền từ của mẹ tôi, và nghĩ đến cảnh thiếu thốn một tình thương yêu ấp ủ từng phen làm tôi rơi nước mắt, tôi toan trả lời có. Nhưng, nhận ra những ý nghĩ cay độc trong giọng nói và trên nét mặt khi cười rất kịch của cô tôi kia, tôi cúi đầu không đáp.

Vì tôi biết rõ, nhắc đến mẹ tôi, cô tôi chỉ có ý gieo rắc vào đầu óc tôi những hoài nghi để tôi khinh miệt và ruồng rẫy mẹ tôi, một người đàn bà đã bị cái tội là góa chồng, nợ nần cùng túng quá, phải bỏ con cái đi tha hương cầu thực”. Lời lẽ ấy của bé Hồng như một mũi dao đâm thẳng vào tim người đọc, bởi suy nghĩ của một đứa bé sống trong cảnh bị đọa đầy lại có thể sâu sắc như vậy. Bé Hồng đã phải trải qua một cuộc sống nhiều đắng cay nên buộc phải lớn, buộc phải trưởng thành.

Tâm lý của bé Hồng trong đoạn hội thoại này chất chứa yêu thương đối với người mẹ nghèo đáng thương. Nỗi khổ của mẹ, những hủ tục phong kiến ấy đã đè bẹp một người phụ nữ góa chồng, đẩy bà ấy đến bước đường cùng. Bé càng thương mẹ nhiều hơn, chỉ mong được gặp mẹ là đủ. Bằng cách xây dựng tâm lý cực kỳ tinh tế, Nguyên Hồng đã khiến người đọc không kìm được cảm xúc. Bởi vậy khi nghĩ về mẹ “tôi chỉ im lặng, cúi đầu, khóa mắt cay cay”, nén cảm xúc vào bên trong, không để nó bật ra trước mắt bà cô độc ác này, vì thể nào nếu khóc bà cô sẽ càng mỉa mai và châm biếm hơn.

Khi bà cô nhắc đến từ “em bé”, cô bảo rằng mẹ đã phải lén lút sinh em bé sau khi chưa đoạn tang chồng, cô bảo rằng mẹ là người đàn bà xấu xa. Nhưng bé Hồng bỏ mặc ngoài tai những lời nói cay nghiệt đó, vẫn yêu và thương mẹ vô cùng.

Hình ảnh người mẹ qua lời kể bà cô khiến bé hồng nghẹn đắng, chua chát “Mẹ tôi ăn vận rách rưới, mặt mày xanh bủng, người gầy rạc đi, thấy thế bà ta thương tình gọi hỏi xem sao thì mẹ tôi vội quay đi, lấy nón che”. Đặc biệt ở suy nghĩ tiếp theo, tác giả đã diễn tả cực kỳ thành công tâm lý của nhân vật “giá những cổ tục đã đày đọa mẹ tôi là một vật như hòn đá hay cục thủy tinh, đầu mẫu gỗ, tôi quyết vồ lấy ngay mà cắn, mà nhai, mà nghiến cho kỳ nát vụn mới thôi”.

Sự kìm nén cảm xúc bấy lâu nay khiến cho một đứa bé không thể chịu đựng được, đành phải để nó thoát ra bằng suy nghĩ đanh thép và cứng rắn như vậy. Ngôn ngữ gần gũi, đơn giản nhưng có góc cạnh sắc nhọn đã lột tả hết tâm lý của một đứa trẻ bị kìm kẹp.

Có thể nói đoạn trích này tác giả đã diễn tả cực kỳ thành công tâm lý nhân vật bé Hồng bằng hàng loạt động từ mạnh, ngôn ngữ sắc cạnh, phép đối lập đắc địa nhất. Đến phần thứ hai, giọng văn trở nên dịu nhẹ đi vì nó tái hiện lại cảnh gặp gỡ đầy cảm động giữ mẹ và bé Hồng sau bao nhiêu xa cách. Đây chính là mạch cảm xúc chính, là cao trào thắt nút tình cảm được mở bung ra để yêu thương ùa về.

Chỉ một tiếng gọi “Mợ! Mợ! Mợ ơi” khi thấy một người đàn bà giống mẹ mà tình yêu trong bé Hồng đã chực trào ra. Yêu thương từ lâu được kìm nén giờ đây có dịp được bật ra thành tiếng. Tiếng gọi của bé Hồng lúc ấy khiến người đọc đứt từng khúc ruột, đứt từng mạch cảm xúc.

Sự liên tưởng của bé hồng khi tưởng tượng ra viễn cảnh nếu đó không phải là mẹ thật hay, thật thú vị “cái lầm đó không những làm tôi thẹn mà còn tủi cực nữa, khác gì cái ảo ảnh của một dòng nước trong suốt chảy dưới bóng râm đã hiện ra trước con mắt gần rạn nứt của người bộ hành ngã gục giữa sa mạc. Xe chạy chậm chậm”. Phải thật sâu, thật tinh tế thì tác giả mới có thể liên tưởng phong phú và đúng đắn như vậy. Có lẽ vì đợi chờ yêu thương quá lâu, quá nhiều nên cái lầm lẫn phút chốc có thể khiến cho người ta rơi vào tuyệt vọng.

Khoảnh khắc bé Hồng được ôm vào lòng mẹ thật cảm động. Tác giả đã dùng những lời lẽ đẹp nhất, ngọt ngào nhất để diễn tả lại khoảnh khắc hiếm hoi, cảm động đó “Phải bé lại và lăn vào lòng một người mẹ, áp mặt vào bầu sữa nóng của người miệng, để bàn tay người mẹ vuốt ve từ trên trán xuống cằm, và gãi rôm ở sống lưng cho, mới thấy người mẹ có một êm dịu vô cùng”. Câu văn này đã khiến không ít người run rẩy vì thương yêu vô bờ bến của tình mẫu tử.

Cuộc gặp gỡ định mệnh, và tình cảm cũng trở nên sâu và nặng hơn. Có thể nói người đọc đến đây đã thở phào nhẹ nhõm vì tình mẫu tử cuối cùng cũng được đền đáp. Không có sức mạnh nào hơn sức mạnh của tình mẫu tử, không có ai ngăn cản được mẹ và con đoàn tụ.

Bằng cách viết nhẹ nhàng và sâu lắng, cách diễn tả tâm lý cực kỳ sâu sắc và hơn hết bằng tình yêu thương vô bờ bến Nguyên Hồng đã khiến người đọc “ôm tim mình” mà khóc. “Trong lòng mẹ” luôn để lại trong lòng người những rung động ngọt ngào và chân thành nhất.

Phân tích trong lòng mẹ (Mẫu 22)

Nguyên Hồng sinh năm 1918, mất năm 1982, quê gốc ở thành phố Nam Định. Trước Cách mạng tháng Tám 1945, ông sống chủ yếu ở Hải Phòng, trong một xóm lao động nhỏ nên được tận mắt chứng kiến những cảnh đời cơ cực. Nguyên Hồng là nhà văn của lớp người “dưới đáy” xã hội. Viết về thế giới nhân vật ấy, ông thường bày tỏ niềm yêu thương sâu sắc và thái độ trân trọng những nét đáng quý trong phẩm chất của họ. Văn xuôi Nguyên Hồng giàu chất trữ tình. Đó là tiếng nói chân thành của một trái tim nhạy cảm trước nỗi đau và niềm hạnh phúc bình dị của con người.

Những ngày thơ ấu là tập hồi ký viết về tuổi thơ bất hạnh của chính nhà văn. Tác phẩm gồm 9 chương, lần lượt đăng trên báo từ năm 1938 và được in thành sách năm 1940. Trong lòng mẹ là chương 4. Bằng lời văn chân thực và giàu cảm xúc, tác giả đã kể lại nỗi cay đắng tủi cực về tình yêu thương cháy bỏng đối với mẹ của đứa con sớm mồ côi cha. Thông qua cảnh ngộ éo le và tâm sự đau khổ của chú bé Hồng, tác giả còn cho ta thấy bộ mặt vô cảm lạnh lùng của loài người nhỏ nhen, đố kị đến mức độc ác trong xã hội phong kiến tư sản chỉ trọng đồng tiền. Những thành kiến cổ hủ của dân tiểu tư sản đã cố tình cắt đứt tình mẫu tử thiêng liêng.

Đoạn trích này có thể chia làm hai phần. Phần 1 là cuộc đối thoại giữa bà cô cay độc và chú bé Hồng. Ý nghĩ, cảm xúc của chú bé về người mẹ đáng thương. Phần 2 là cuộc gặp gỡ bất ngờ với mẹ và cảm giác vui sướng cực điểm của chú bé Hồng khi được ngồi trong lòng mẹ.

Chú bé Hồng là kết quả của một cuộc hôn nhân gượng ép, không có tình yêu. Người cha lớn tuổi và ốm yếu quanh năm lặng lẽ u uất bên bàn đèn thuốc phiện. Người mẹ trẻ trung, xinh đẹp luôn khao khát yêu thương song đành phải chôn vùi tuổi xuân bên ông chồng nghiện ngập. Gia đình bé Hồng lúc đầu sung túc, đầy đủ về vật chất nhưng lạnh lẽo, thiếu vắng tiếng nói, tiếng cười.

Rồi người cha chết vì bệnh. Người mẹ không chịu nổi sự o ép khắc nghiệt của nhà chồng nên đành bỏ lại con thơ, dứt áo ra đi. Để Hồng phải sống với bà cô nghiệt ngã, thâm hiểm. Như mọi đứa trẻ khác, bé yêu mẹ, thèm được ở bên mẹ nhưng cố giấu kín điều đó trong lòng, chỉ thỉnh thoảng mới hé lộ ra. Vì thế, lòng thương yêu mẹ của bé Hồng lại càng da diết.

Mở đầu đoạn trích, qua giọng kể mộc mạc, tự nhiên, tác giả giúp người đọc hình dung ra cảnh ngộ thương tâm của bé Hồng: Tôi đã bỏ cái khăn tang bằng vải màn ở trên đầu đi rồi. Không phải đoạn tang thầy tôi mà vì tôi mới mua được cái mũ trắng và quấn băng đen. Tiếp theo, nhà văn kể về thời gian xảy ra câu chuyện và hoàn cảnh sống của người mẹ tội nghiệp:

Gần đến ngày giỗ đầu thầy tôi, mẹ tôi ở Thanh Hóa vẫn chưa về. Trong đó nghe đâu mẹ tôi đi bán bóng đèn và những phiên chợ tỉnh còn bán cả vàng hương nữa. Tôi nói “nghe đâu” vì tôi thấy người ta bắn tin rằng mẹ và em tôi xoay ra sống bằng cách đó.

Câu chuyện đã được khơi nguồn. Nhân vật bà cô xuất hiện và tâm địa độc ác của bà ta càng về sau càng lộ rõ. Bà ta cố tình nói cho bé Hồng biết cảnh ngộ thảm thương của mẹ cậu để rồi cười cợt, nhạo báng, thoả mãn trên nỗi đau của người khác:

Một hôm, cô tôi gọi tôi đến bên cười hỏi:

- Hồng! Mày có muốn vào Thanh Hóa chơi với mẹ mày không?

Nụ cười giả tạo của bà cô chứa đựng ác ý rõ ràng. Nó như một mũi dao nhọn cố tình xoáy vào trái tim non nớt đang rớm máu của đứa cháu vừa mới mồ côi cha, lại phải chịu cảnh xa lìa mẹ. Lẽ ra, bé Hồng sẽ trả lời rằng muốn vì bé đang thiếu thốn tình mẫu tử, nhưng vốn nhạy cảm, bé lập tức nhận ra những ý nghĩa cay độc trong giọng nói và trên nét mặt khi cười rất kịch của người cô. Vì thế, bé cúi đầu không đáp.

Phân tích trong lòng mẹ (Mẫu 23)

Nguyên Hồng là một trong những nhà văn hiện thực xuất sắc của văn học Việt Nam. Ông để lại số lượng tác phẩm tương đối phong phú và giàu giá trị. Ông là nhà văn của những người cùng khổ, đồng cảm và có tình yêu thương tha thiết với họ, bênh vực và bảo vệ những phẩm chất tốt đẹp trong họ. Những ngày thơ ấu là tập hồi kí tiêu biểu cho phong cách Nguyên Hồng: giản dị, chân thành, đậm chất trữ tình. Trong lòng mẹ thuộc chương thứ IV của tác phẩm, thể hiện tình yêu thương sâu sắc của bé Hồng với mẹ.

Bé Hồng là kết quả của cuộc hôn nhân không hạnh phúc, cha mất sớm, mẹ vì cùng túng phải đi tha phương cầu thực. Hồng sống trong sự ghẻ lạnh, cay nghiệt của bà cô. Dù xa mẹ nhưng cậu luôn nhớ và yêu thương mẹ, khao khát có ngày được gặp lại mẹ. Tình yêu thương đó được thể hiện trong cuộc đối thoại với bà cô và khi bất ngờ được gặp lại mẹ.

Trong tác phẩm gồm hai nhân vật: bà cô, bé Hồng. Qua ngôn ngữ, cử chỉ và tâm trạng của mỗi nhân vật ta thấy được những nét tính cách tiêu biểu, cảm xúc của các nhân vật.

Trước hết bà cô là một người thâm hiểm, độc ác. Trước tình cảnh của Hồng, bà ta “Cười hỏi: Hồng! Mày có muốn vào Thanh Hóa chơi với mẹ mày không?”. Là cười hỏi chứ không phải vì lo lắng, quan tâm mà hỏi, bà ta là kẻ bên ngoài ngọt ngào, yêu thương mà bên trong thực chất là kẻ độc ác, thâm hiểm. Không chỉ vậy từng hành động, lời nói của bà ta còn mang ý xúc phạm đến mẹ bé Hồng, đặc biệt hai chữ “em bé” kéo dài thể hiện rõ sự độc ác, tính toán của bà ta. Trước sự kháng cự yếu ớt của bé Hồng, bà cô tiếp tục cười rồi kể chuyện mẹ Hồng gầy gò, ốm yếu, chật vật với cuộc sống ra sao. Những lời lẽ thâm độc này nhằm làm bé Hồng tổn thương, khiến Hồng oán hận mẹ. Bé Hồng càng đau đớn bao nhiêu thì bà cô càng sung sướng thỏa mãn bấy nhiêu. Bà ta là kẻ độc ác, tàn nhẫn, thích thú khi nhìn người khác đau khổ. Với hình thức đối thoại theo trình tự tăng tiến, người đọc ngày càng thấy rõ sự độc ác của bà cô. Khi nỗi đau của bé Hồng bị đẩy lên cùng cực, bà cô mới “ngậm ngùi”: “Mấy lại rằm tháng tám này là giỗ đầu cậu mày, mợ mày về dù sao cũng đỡ tủi cho cậu mày, và mày cũng còn phải có họ, có hàng, người ta hỏi đến chứ”, sự ngậm ngùi lại càng cho thấy rõ hơn bản chất trơ trẽn, xảo trá của mụ. Bà cô là kẻ độc ác, thâm hiểm, đại diện cho những định kiến hẹp hòi, tàn nhẫn với người phụ nữ trong xã hội cũ.

Bé Hồng là nhân vật chính của đoạn trích, thể hiện tình yêu thương mẹ mãnh liệt. Trước hết là trong cuộc đối thoại với bà cô. Khi nghe bà cô hỏi, là một đứa bé nhạy cảm Hồng nhận ra ngay ý cay độc sau giọng nói và nét mặt “rất kịch” của bà cô. Cậu thầm nghĩ về mẹ và không đáp lại lời bà cô, trong lòng cậu vẫn có một niềm tin mãnh liệt chắc chắn thế nào mẹ cũng về, cậu trả lời bà cô mà lòng thắt lại, khóe mắt đã bắt đầu cay cay. Rồi liên tiếp bị những lời lẽ bà cô dồn ép, nước mắt cậu chảy ròng ròng, vì thương mẹ, cũng vì đau đớn khi mẹ đã giấu mình sinh em bé. Hai chữ “em bé” như bóp nghẹt trái tim nhỏ bé, non nớt của cậu. Bé Hồng cười dài trong tiếng khóc. Giận dữ vì những hủ tục đã đầy đọa mẹ mình và ước chúng là những vật hữu hình như đầu mẩu gỗ, hay cục thủy tinh mà nhai, mà cắn cho nát vụn mới thôi. Cậu bé đau đớn, xót xa trước những lời gièm pha, xúc xiểm với người mẹ bất hạnh của bà cô. Hồng là một người mang trái tim nhân hậu, có niềm tin và tình yêu thương mẹ sâu sắc.

Tình yêu đó được thể hiện rõ hơn khi Hồng bất ngờ gặp lại mẹ. Bỗng thấy bóng dáng quen thuộc, cậu vội vàng chạy theo: gọi bối rối, thở hồng hộc, trán đẫm mồ hôi, ríu cả chân lại. Hàng loạt động từ đã cho thấy khao khát gặp mẹ mãnh liệt của Hồng. Khi biết đó chính là mẹ, cậu bé òa khóc nức nở. Đây là những giọt nước mắt bị dồn nén bấy lâu nay, là những giọt nước mắt hạnh phúc chứ không phải những giọt nước mắt phẫn uất, đau đớn tủi hổ: “Mẹ tôi vừa kéo tay tôi, xoa đầu tôi, thì tôi òa lên khóc rồi cứ thế nức nở”. Cậu nằm trong lòng mẹ và cảm nhận hơi ấm từ mẹ sang mình.

Hình ảnh mẹ trong cảm nhận của Hồng thật gần gũi, thân quen lại vừa có gì đó mới mẻ, lạ lẫm: “vạt áo nâu”, “gương mặt tươi sáng với đôi mắt trong” vẫn thật ấm áp, quen thuộc. Nhưng từ hơi quần áo đến hơi thở của mẹ đều “thơm tho lạ thường”. Những cảm giác của tình mẫu tử bao lâu nay mất đi thì bỗng lại mơn man khắp da thịt: “để bàn tay người mẹ vuốt ve từ trán xuống cằm, và gãi rôm ở sống lưng cho, mới thấy người mẹ có một êm dịu vô cùng”. Lúc này chỉ còn tình mẹ con, tình mẫu tử thiêng liêng tồn tại còn bao nhiêu lời nói, ý nghĩ cay độc của bà cô đều tan biến hết thảy.

Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật tài tình qua việc xây dựng tình huống, ngôn ngữ và cử chỉ của nhân vật. Nghệ thuật tăng tiến độc đáo, sự độc ác của bà cô ngày càng tăng lên thì cùng với đó tình yêu thương, sự bảo vệ của bé Hồng với mẹ cũng ngày một nhiều hơn. Những hình ảnh so sánh độc đáo, thể hiện được cung bậc cảm xúc, tình yêu thương mẹ mãnh liệt của bé Hồng. Câu chuyện đậm chất trữ tình được thể hiện rõ qua tình huống, nội dung và ngôn ngữ kể chuyện giàu cảm xúc, đầy chất thơ.

Chỉ với một phần trích ngắn ngủi nhưng cũng đủ để người đọc cảm nhận được tình cảm mẫu tử thiêng liêng, sâu sắc mà bé Hồng dành cho mẹ. Không chỉ vậy tác phẩm còn thể hiện niềm cảm thông, lên án những hủ tục phong kiến đã đẩy người phụ nữ vào con đường bất hạnh, cùng cực.

Phân tích trong lòng mẹ (Mẫu 24)

Nhẹ nhàng mà sâu lắng, văn Nguyên Hồng từ từ rót vào trái tim người đọc như dòng nước sống mát lành. Nguyên Hồng là thế, tự kể về cuộc đời của mình, để từ đó cảm xúc được đẩy lên một cách chân thực nhất. Ta sẽ tìm được dấu ấn ấy trong đoạn trích “Trong lòng mẹ” Tập hồi kí “Những ngày thơ ấu” được viết năm 1938, và xuất bản năm 1940. Đó là câu chuyện về cậu bé Hồng, hay cũng của chính nhà văn.

Hồng là cậu bé phải chịu cảnh éo le, đáng thương: là kết quả của một cuộc hôn nhân tan vỡ, bố mất, mẹ bỏ đi nơi xứ người, Hồng sống trong cảnh lạnh lùng của gia đình bên nội. Em bị tiêm vào đầu những hủ tục, định kiến về chính người mẹ của em, để em đạp đổ đi tình yêu thương của mình. Ở chương IV- “Trong lòng mẹ”, ta có thể thấy sự cay nghiệt ấy qua lời nói của bà cô. Hoàn cảnh ấy làm em vừa đáng thương lại vừa đáng quý, vì em vẫn giữ vẹn nguyên tình thương dành cho mẹ.

Ở đoạn trích “Trong lòng mẹ”, ta nhận ra được nhiều điều: sự cay nghiệt của những định kiến một thời, sự tội nghiệp của những em bé, của những người phụ nữ sống trong thời đó. Trên hết, là một tình yêu thương của tâm hồn trẻ thơ trong trẻo. Một đoạn trích thật giàu giá trị biết chừng nào!Trước hết, ta tìm hiểu về cuộc nói chuyện giữa Hồng và người cô ruột. Không khó để ta nhận ra rằng, bà cô ấy luôn là người giữ thế chủ động, để liên tục tiêm nhiễm vào đầu đứa cháu những định kiến về mẹ nó.

Mở đầu bằng câu nói: - Hồng! Mày có muốn vào Thanh Hóa chơi với mợ mày không? Tưởng như là ý tốt đấy, nhưng trong câu nói lại chứa đầy giọng nham hiểm, và trên khuôn mặt là nụ cười rất kịch. Người cô ấy như muốn đào sâu thêm vào nỗi đau còn đang hở vết của Hồng, để đứa cháu phải đau khổ, phải dằn vặt. Nguyên Hồng gọi đó là “những rắp tâm tanh bẩn” của xã hội phong kiến một thời. Bà cô ấy luôn cố tình nhắc đến những chứ như “phát tài”, “em bé” để Hồng căm ghét mẹ nó, thấy mẹ nó là kẻ đáng khinh. Miệng lưỡi ấy, thật thâm độc, thật đáng khinh biết nhường nào. Bà cô chính là đại diện cho một xã hội phong kiến cổ hũ, bóp nghẹt lấy thứ hạnh phúc ít ỏi của con người ta mà Nguyên Hồng viết về tuổi thơ của mình, cũng là để lên án một chế độ.

Nhưng trong cuộc nói chuyện ấy, ta vẫn thấy một bé Hồng luôn giữ trọn một tín ngưỡng về người mẹ trong tâm hồn mình. Hồng nhanh chóng nhận ra ý định thâm độc của người cô, nên chỉ cúi đầu không đáp. Em căm ghét cái xã hội, cái hủ túc ấy đến nỗi: “Giá những cổ tục đã đày đọa mẹ tôi là một vật như hòn đá hay cục thủy tinh, đầu mẩu gỗ, tôi quyết vồ lấy ngay mà cắn, mà nhai, mà nghiến cho kỳ nát vụn mới thôi.” Vì yêu thương mẹ, vì tủi hờn mà trong tâm hồn em đã nuôi sẵn sự căm túc, hận thù về xã hội đã thối nát này. Những giọt nước mắt của Hồng rơi, khiến ta cũng không khỏi rơi lệ trước nỗi đau của em. Nghe những từ “em bé”, “phát tài”, hay về hoàn cảnh thực tại của mẹ, em không hề mảy may ý định trách mẹ. Em thương mẹ vì phải chạy trốn, vì phải xa con, xa quê hương để sống một cuộc đời khác.

Tình yêu ấy thật lớn quá, nó giúp em đứng vững trước những định kiến cay nghiệt của người cô. Ở phần thứ hai của đoạn trích, là cảnh Hồng gặp lại mẹ, ta mới chợt nhận ra tình mẫu tử thiêng liêng đến chừng nào. Thoáng thấy bóng mẹ, em vội vã đuổi theo, như một người bộ hành trên sa mạc gặp được nguồn nước. Hình ảnh so sánh đã cho thấy rằng, người mẹ quan trọng với em đến nhường nào. Khi đã được sà vào lòng mẹ, những cảm xúc nguyên thuỷ nhất, trong trẻo nhất nổi dậy giữa hai mẹ con. Nước mắt em rơi lã chã, là nước mắt của tủi nhục, của nhớ nhung, và của cả niềm hạnh phúc. Em dịu đầu vào lòng mẹ, để mẹ xoa tóc xoa đầu, âu yếm vuốt ve. Em nhớ về những ngày xưa được áp mặt vào bầu sữa nóng, được mẹ đưa tay gãi rôm,...

Người mẹ khi ấy cũng không khỏi xúc động, sụt sùi nước mắt, lấy vạt áo nâu thấm nước mắt cho em. Người đàn bà dám chạy trốn định kiến để tìm hạnh phúc cho riêng mình, dẫu phải chịu những khó khăn tủi nhục cũng không quay về chốn ấy. Nay gặp lại con, người mẹ vẫn xúc động không nói nên lời. Giữa mẹ và con giờ đây, không còn những lời nói của người cô, những định kiến cay nghiệt, chỉ còn tình mẫu tử trọn vẹn thiêng liêng.Qua đoạn trích ấy, ta hiểu thêm được nỗi lòng của Nguyên Hồng.

Một con người với tuổi thơ đầy bất hạnh khổ đau, đã gửi gắm nỗi đau ấy vào trong trang viết. Bởi vậy mà đoạn trích hiện lên thật chân thực, làm rơi nước mắt của độc giả. Để làm được điều ấy, còn phụ thuộc vào tài năng của nhà văn. Ông phân tích được tâm lí nhân vật một cách sắc sảo, nhân vật hiện lên sống động như con người thực. Chính điều ấy làm cho tác phẩm sống mãi đến ngày hôm nay.

“Trong lòng mẹ” nói riêng và “Những ngày thơ ấu” nói chung, sẽ mãi còn ngân lên với đời những khúc thánh ca về tình yêu thương, tình mẫu tử thiêng liêng bất diệt như vậy!

Phân tích trong lòng mẹ (Mẫu 25)

Nhẹ nhàng và sâu lắng, văn của Nguyên Hồng từ từ chảy vào trái tim của người đọc như dòng nước sống mát lành. Nguyên Hồng là một người như vậy, kể về cuộc đời của mình để cảm xúc có thể được truyền đạt một cách chân thực nhất. Điều này được thấy rõ trong đoạn trích “Trong lòng mẹ” từ tập hồi kí “Những ngày thơ ấu” viết năm 1938, xuất bản năm 1940. Câu chuyện về cậu bé Hồng, hay nói cách khác, về chính tác giả.

Hồng là đứa trẻ phải chịu nhiều khổ đau, đáng thương: là kết quả của một cuộc hôn nhân tan vỡ, cha mất, mẹ bỏ đi nước ngoài, Hồng lớn lên trong sự lạnh lùng của gia đình. Em bị tiếp xúc với những quan niệm cũ rích, định kiến về mẹ, làm cho em phải từ bỏ tình yêu của mình. Trong chương IV - “Trong lòng mẹ”, ta có thể cảm nhận được sự tàn nhẫn đó qua lời nói của người cô. Hoàn cảnh đó khiến em vừa đáng thương lại vừa đáng quý, bởi vì em vẫn giữ nguyên tình thương cho mẹ.

Trong đoạn trích “Trong lòng mẹ”, ta nhận ra nhiều điều: sự tàn nhẫn của những định kiến, sự bi kịch của trẻ em, của phụ nữ trong thời kỳ đó. Nhưng quan trọng nhất là tình yêu thương trong sáng của trái tim trẻ thơ. Một đoạn trích rất đáng quý! Trước hết, chúng ta nghiên cứu cuộc trò chuyện giữa Hồng và người cô ruột. Dễ dàng nhận ra rằng, người cô luôn nắm quyền kiểm soát, để tiếp tục truyền bá những niềm tin tiêu cực về mẹ của em.

Khi bắt đầu với câu: - Hồng! Mày muốn về Thanh Hóa thăm cô mày không? Dường như là một đề xuất tốt, nhưng trong câu nói ấy chứa đựng nhiều tinh khiết, và trên khuôn mặt là một nụ cười rất giả tạo. Người cô ấy như muốn làm sâu thêm vào nỗi đau vẫn còn của Hồng, để đứa trẻ phải đau khổ, phải đau đớn. Nguyên Hồng gọi đó là “những lời nói độc ác” của xã hội phong kiến một thời. Người cô luôn cố tình nhắc đến những từ như “phát tài”, “đứa bé” để Hồng ghét bỏ mẹ, coi mẹ là người đáng khinh. Lời lẽ ấy, thực sự độc ác và khinh biết nhường nào. Người cô chính là biểu tượng của một xã hội phong kiến lạc hậu, áp đặt lấy niềm vui ít ỏi của con người mà Nguyên Hồng viết về tuổi thơ của mình, cũng như là để lên án một thời kỳ.

Tuy nhiên, trong cuộc trò chuyện ấy, ta vẫn thấy một Hồng trẻ con luôn giữ trong trái tim mình một niềm tin vững chắc về mẹ. Hồng nhanh chóng nhận ra ý đồ độc ác của người cô, nên chỉ im lặng không trả lời. Em căm ghét xã hội, cái định kiến ấy đến nỗi: “Giá những lễ nghi đã làm tổn thương mẹ tôi là một vật như đá hay thủy tinh, đầu gỗ, tôi sẽ cắn nát, nhai nát, nghiến nát cho kỳ vụng vỡ mới dứt.” Vì yêu thương mẹ, vì tiếc nuối mà trong lòng đã nuôi dưỡng sẵn sàng tức giận, căm hận về xã hội bị đảo lộn này. Những giọt nước mắt của Hồng rơi, khiến chúng ta cũng không thể nhịn được nước mắt trước nỗi đau của em. Nghe những từ “đứa bé”, “phát tài”, hoặc về hoàn cảnh thực tế của mẹ, em không hề dám suy nghĩ trách móc mẹ. Em yêu mẹ vì phải trốn chạy, phải xa con, xa quê hương để sống một cuộc sống mới.

Tình yêu đó quá lớn lao, nó giúp em vững bước trước những định kiến cay nghiệt của người cô. Trong phần thứ hai của đoạn trích, khi Hồng gặp lại mẹ, chúng ta mới thực sự nhận ra tình mẫu tử thiêng liêng đến đâu. Chợt thấy bóng dáng của mẹ, em vội vàng chạy theo, như một người đang đi kiếm nước giữa sa mạc. Hình ảnh so sánh đã chứng minh rằng, người mẹ đối với em quan trọng đến đâu. Khi được ôm vào lòng mẹ, những cảm xúc nguyên thủy nhất, trong sáng nhất bùng lên giữa hai mẹ con. Nước mắt em rơi lã chã, là nước mắt của tiếc nuối, nhớ nhung và hạnh phúc. Em chôn đầu vào lòng mẹ, để mẹ vuốt ve, xoa đầu. Em nhớ về những ngày xưa được bế vào lòng mẹ, được mẹ gãi rôm,...

Khi đó, người mẹ không thể nén nổi xúc động, nước mắt rơi lã chã, cô ấy dùng vạt áo nâu lau khô nước mắt cho con. Người phụ nữ dám rời bỏ những định kiến để tìm kiếm hạnh phúc cho bản thân, dù phải trải qua nhiều gian khổ và tổn thương, cũng không bao giờ quay lại với cái quê nhà ấy. Nay, khi gặp lại con, người mẹ vẫn cảm động đến nỗi không thể nói nên lời. Giữa mẹ và con bây giờ, không còn những lời của người cô, không còn những định kiến độc ác, chỉ còn tình mẫu tử thiêng liêng và trọn vẹn. Qua đoạn trích đó, ta hiểu thêm nỗi lòng của Nguyên Hồng.

Một con người đã trải qua tuổi thơ đầy khổ đau đã chôn vùi nỗi đau ấy vào trong từng trang sách. Chính vì vậy, đoạn trích hiện lên vô cùng chân thực, khiến cho nước mắt của người đọc rơi lã chã. Điều này chứng minh tài năng của nhà văn. Ông đã phân tích tâm lý nhân vật một cách sắc bén, khiến cho nhân vật hiện lên trước mắt như một con người thực sự. Đó chính là lý do tác phẩm vẫn sống mãi đến ngày nay.

“Trong lòng mẹ” và “Những ngày thơ ấu” sẽ luôn vang lên trong cuộc sống như những giai điệu ca ngợi về tình yêu thương, tình mẫu tử thiêng liêng bất diệt như vậy!

1 83 lượt xem