Top 35 mẫu Phân tích tác phẩm Lão Hạc

Sinx.edu.vn xin giới thiệu tới các em 35 mẫu Phân tích tác phẩm Lão Hạc giúp các em làm bài văn có nhiều cách phân tích tác phẩm Lão Hạc đa dạng hơn được điểm tốt trong môn Ngữ văn.

1 70 lượt xem


Nội dung bài viết

Phân tích tác phẩm Lão Hạc

I) Sơ đồ tư duy phân tích tác phẩm Lão Hạc

Sơ đồ tư duy phân tích tác phẩm Lão Hạc (Mẫu 1)

Sơ đồ tư duy truyện Lão Hạc

Sơ đồ tư duy phân tích tác phẩm Lão Hạc (Mẫu 2)

Sơ đồ tư duy phân tích nhân vật lão Hạc

II) Dàn ý phân tích tác phẩm Lão Hạc

Dàn ý phân tích tác phẩm Lão Hạc (Mẫu 1)

 

1. Mở bài:

- Giới thiệu đôi nét về tác giả, tác phẩm

+ Nam Cao (1917 - 1951) là nhà văn xuất sắc trong nền văn học hiện thực 1930 - 1945 với những tác phẩm gắn liền với hình ảnh người nông dân Việt Nam trước và sau cách mạng tháng Tám.

+ Truyện ngắn “Lão Hạc” là một truyện ngắn hay của Nam Cao viết về người nông dân qua đó tố cáo tội ác của chế độ phong kiến.

- Giới thiệu chung về nhân vật lão Hạc:

+ Lão Hạc là nhân vật điển hình đại diện cho tầng lớp nông dân nghèo khổ, đáng thương trước Cách mạng tháng Tám.

2. Thân bài: Phân tích nhân vật lão Hạc

* Luận điểm 1: Lão Hạc - một người nông dân nghèo khổ, lam lũ, bất hạnh.

- Lão Hạc một người đàn ông hơn 60 tuổi cũng như bao người đàn ông nông dân Việt Nam

- Hoàn cảnh gia đình:

+ Vợ chết sớm, phải nuôi con một mình.

+ Tài sản trong nhà chỉ có ba sào vườn, một túp lều và một con chó.

+ Không có tiền cưới vợ cho con, con trai ông bỏ đi làm đồn điền cao su.

- Tai họa dồn dập:

+ Ốm hơn 2 tháng

+ Trận bão phá tan cây cối, hoa lợi trong vườn.

+ Làng thì mất mùa sợi -> giá gạo ngày một cao.

+ Lão không có việc làm -> cuộc sống càng túng thiếu, cùng quẫn.

+ Phải bán con chó yêu quý nhất vì không có tiền nuôi nó.

+ Cuộc sống đói khổ, ăn hết khoai lão ăn củ chuối cái gì có thể ăn mà không chết thì lão ăn, nhưng cuối cùng lại ăn bả chó để tự vẫn.

* Luận điểm 2: Lão Hạc - một lão nông chất phác, hiền lành, nhân hậu

- Lão rất yêu con:

+ Thương con, đau khổ vì không lấy được vợ cho con

+ Không muốn con phải khổ, không muốn tiêu vào tiền dành dụm cho con.

+ Dù có nghèo khó đến mấy, nhưng vẫn ko chịu bán đi mảnh vườn mà ông đã kiên quyết giữ cho con trai.

+ Luôn nhớ tới con nơi phương xa qua những lá thư con gửi về

+ Tiền bán hoa lợi và mảnh vườn đều giữ lại cho con

=> Hình ảnh người cha điển hình trong văn học Việt Nam.

- Lão yêu con chó Vàng:

+ Yêu quý cậu Vàng như người đàn bà hiếm hoi quý đứa con cầu tự

+ Lão gọi con chó bằng những tình cảm thương mến như cha đối với con.

+ Cho nó ăn trong bát sứ như nhà giàu

+ Bắt rận và tắm cho nó

+ Vừa uống rượu vừa tâm sự yêu thương

+ Khi phải bán nó đi thì lão đau khổ, cảm thấy tội lỗi : vuốt ve, tâm sự với nó trước khi bán nó đi, để ý ánh mắt nó nhìn mình...

+ Xấu hổ vì đã già rồi “còn đánh lừa một con chó'…

-> Con người nhân hậu ấy đã đau lòng biết bao khi phải bán đi người bạn thân duy nhất.

=> Lão Hạc là mẫu người chuẩn mực về đạo đức trong xã hội lúc bấy giờ, một xã hội tha hóa về đạo đức và lối sống, thờ ơ với nỗi đau của người xung quanh mình.

* Luận điểm 3: Lão Hạc nghèo nhưng sống trong sạch, giàu lòng tự trọng

- Ông giáo mời ăn khoai, lão khước từ

- Quá lúng quẫn, chỉ ăn củ chuối, sung luộc…, nhưng lại từ chối “một cách gần như hách dịch” những gì ông giáo ngầm cho lão.

- Lão thà chết chứ không bán đi một sào.

- Dành dụm tiền bán chó, giấy tờ nhà để gửi nhờ ông giáo giữ giúp, chờ dịp trao lại cho đứa con trai.

- Gửi lại ông giáo 30 đồng bạc để lỡ lão có chết thì “gọi là của lão có tí chút, còn bao nhiêu đành nhờ hàng xóm cả”.

- Tìm đến Binh Tư - một tên chuyên trộm cắp vặt của người khác, để xin bả chó tự giải thoát mình

-> Lão không muốn cái chết dữ dội của mình ảnh hưởng đến hàng xóm láng giềng => Tấm lòng cao cả của một người nông dân bé nhỏ trong xã hội.

=> Tố cáo tội ác của chế độ xã hội xô đẩy lão đến bước đường cùng.

=> Lối viết chân thành, mộc mạc, giản dị của Nam Cao đã góp phần xây dựng hình tượng Lão Hạc vừa gần gũi người dân vừa không kém phần bi tráng.

* Đặc sắc nghệ thuật

- Nghệ thuật xây dựng nhân vật bằng phương pháp đối lập

- Cách dựng truyện chân thực và sinh động

- Ngôn ngữ truyện cô đọng

- Ngôn ngữ đối thoại và độc thoại đầy chất trữ tình

- Kể theo ngôi thứ nhất tự nhiên, linh hoạt

- Miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật hợp lí.

3. Kết bài

- Khái quát cuộc đời và phẩm chất của lão Hạc

- Cảm nhận của em về nhân vật.

Dàn ý phân tích tác phẩm Lão Hạc (Mẫu 2)

 

1. Mở bài

Giới thiệu tác giả Nam Cao, truyện ngắn Lão Hạc và dẫn dắt vào nhân vật nhân vật lão Hạc.

Lưu ý: học sinh tự lựa chọn cách dẫn mở bài trực tiếp hoặc gián tiếp tùy thuộc vào năng lực của mình.

2. Thân bài

Lão Hạc là người cha yêu thương con: khi con đi làm đồn điền cao su luôn nhớ về con, luôn cố gắng chắt chiu cuộc sống để sau này con có nền móng an cư lạc nghiệp.

Lão Hạc là một người nông dân nghèo khổ, bất hạnh: gia đình nghèo khiến người con trai phải đi làm đồn điền cao su vì không đủ tiền lấy vợ, lão ở một mình với con chó, rau cháo sống qua ngày, cuối đời vẫn sống trong cảnh cô quạnh vô cùng đáng thương.

Lão Hạc là một người có lòng nhân hậu, sống tình nghĩa: lão đối xử với con chó Vàng của lão rất tốt, coi nó như một người bạn tâm giao, lão ăn gì cho nó ăn nấy, cùng nhau bầu bạn trong cuộc sống. Đến khi túng quẫn vào bước đường cùng phải bán chó đi để lấy tiền, lão đã vô cùng đau khổ, day dứt, thậm chí đã chảy nước mắt vì đã lừa một con chó đã gắn bó với mình. Lão đau xót trước cảnh người ta trói con chó mang đi.

Lão Hạc là người giàu lòng tự trọng: dù là một người bạn thân của ông giáo nhưng lão không nhận bất kỳ sự giúp đỡ nào của ông giáo. Vì xấu hổ khi đã lừa một con chó, lão quyết định tự tử bằng cách ăn bả chó để chuộc lỗi với nó, trước khi tự tử đã gửi lại ông giáo chút tiền để lo ma chay và nhờ ông giáo giúp đỡ trông coi mảnh vườn để cho cậu con trai khi về có cái làm ăn.

→ Lão Hạc là một người dân nghèo nhưng tốt bụng, có lòng nhân hậu, tự trọng và yêu thương con. Thế nhưng cuộc đời của lão Hạc vô cùng đau khổ, bế tắc, không có lối thoát, cuối cùng phải chọn 1 kết thúc đau khổ.

→ Số phận của lão hạc cũng là số phận của biết bao người nông dân khác trong xã hội phong kiến đương thời. Thông qua đó tác giả muốn tố cáo xã hội phong kiến bất công, thối nán, vì tiền

3. Kết bài

Khẳng định lại vấn đề, nêu cảm nghĩ của bản thân về nhân vật lão Hạc.

 

Dàn ý phân tích tác phẩm Lão Hạc (Mẫu 3)

1. Mở bài

Dẫn dắt, giới thiệu về truyện ngắn Lão Hạc của Nam Cao/

2. Thân bài

a) Câu chuyện Lão Hạc bán chó và sự day dứt của lão

*) Một ông nông dân già yếu, không nơi nương tựa: sống một mình, tự kiếm ăn nuôi thân, con trai bỏ đi đồn điền cao su.

- Sau một trận ốm, trong nhà không còn gì để ăn, lão quyết định bán cậu Vàng - kỉ vật mà anh con trai để lại, không chỉ là một con vật mà còn giống như một người bạn.

=> Hoàn cảnh vô cùng khó khăn, khổ cực.

*) Diễn biến tâm trạng của Lão Hạc xoay quanh việc bán cậu Vàng:

- Tình cảm đối với cậu Vàng:

  • Cho ăn bằng một cái bát lớn như của nhà giàu, có gì ăn cũng gắp cho nó cùng ăn.
  • Khi rảnh rỗi còn đem nó ra tẳm rửa, bắt giận.
  • Mỗi khi lão uống rượu có đồ nhắm ngon lại gắp cho nó một miếng như người ta gắp thức ăn cho con cháu trong nhà.
  • Thường xuyên tâm sự với nó, vỗ về ôm ấp.

=> Đối xử giống như với một con người. Từ tượng hình, từ tượng thanh

- Quyết định bán cậu Vàng: vô cùng khó khăn, trăn trở giống như phải quyết định một việc trọng đại trong đời.

- Diễn biến tâm trạng sau khi bán chó: Sáng hôm sau, lão Hạc sang nhà ông giáo kể lại toàn bộ sự việc.

  • Cố làm ra vẻ vui mừng: “Cậu Vàng đi đời rồi ông giáo ạ”, nhưng thực ra lão cười như mếu và đôi mắt ầng ậc nước.
  • “Mặt lão đột nhiên co rúm lại, những nếp nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra”
  • Lão hu hu khóc…
  • Tự trách bản thân mình đã già rồi còn đi lừa một con chó: “Khốn nạn... Ông giáo ơi!... như thế này à?”
  • Chua chát bảo với ông giáo: “Kiếp con chó là kiếp khổ thì ta phải hóa kiếp cho nó…”
  • Lão cười và ho sòng sọc, Lão nói xong lại cười đưa đà… Nụ cười dường như để nén đi nỗi đau đơn khi mất đi “người bạn” duy nhất.

=> Nam Cao đã khắc họa chân thực nỗi đau khổ, day dứt của Lão Hạc sau khi bán cậu Vàng.

b) Cái chết đầy bất ngờ của Lão Hạc

- Lão Hạc nhờ cậy ông giáo hai việc:

  • Trong nom hộ mảnh vườn, khi thằng con trai về sẽ giao lại cho nó.
  • Mang hết tiền dành dụm được nhờ ông giáo giữ hộ để khi mình chết thì nhờ ông giáo và bà con lo liệu ma chay cho mình.

=> Chuẩn bị trước cho cái chết của bản thân.

- Diễn biến:

  • Lão đến xin Binh Tư một ý bả chó và nói dối rằng dạo này có con chó hay đến vườn nhà lão nên muốn đánh bả nó. Nếu được lão sẽ mời hắn uống rượu.
  • Nhưng thực ra lão Hạc dùng số bả chó ấy để tự tử.

- Hình ảnh lão Hạc khi chết đầy ám ảnh: “Lão Hạc đang vật vã trên giường, đầu tóc rũ rượi, quần áo xộc xệch, hai mắt long sòng sọc. Lão tru tréo, bọt mép sùi ra, khắp người lão chốc chốc lại bị giật mạnh một cái. Lão vật vã đến hai giờ đồng hồ mới chết.”

=> Cái chết dữ dội, đau đớn và thê thảm của một con người lương thiện.

3. Kết bài

Khẳng định giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm Lão Hạc.

Lão Hạc | NHÀ XUẤT BẢN VĂN HỌC

III) Các bài văn mẫu phân tích tác phẩm Lão Hạc

Phân tích tác phẩm Lão Hạc (Mẫu 1)

Lão Hạc là một nhân vật trong truyện ngắn cùng tên của nhà văn Nam Cao. Lão Hạc, một nông dân nghèo khổ, cùng quẫn, nhưng không bị biến chất như Chí Phèo, mà trái lại có một tâm hồn đẹp, một nhân cách cao thượng.

Đã nghèo, lại góa vợ, lão Hạc lầm vào cảnh một thân gà trống nuôi con.

Không có ruộng cầy, toàn bộ gia tài của lão chỉ là một con chó và một mảnh vườn. Mảnh vườn ấy có được là do vợ lão cố thắt lưng buộc bụng, dè sẻn mãi mới để ra được năm mươi đồng bạc tậu. Đó là mảnh vườn còm cõi, hoa màu của nó cũng chỉ đủ để lão bòn mót. Cho nên lão phải làm thuê làm mướn, đem sức mình đổi lấy miếng ăn.

Chính cái nghèo đã kiến cho lão Hạc trở thành người cha phải bó tay trước hạnh phúc không thành của người con trai độc nhất. Cái nghèo không cho lão dựng vợ cho con để trọn cái đạo làm cha.

Anh con trai đi biền biệt, lão sống thui thủi, trơ trợ một mình trong nỗi bất hạnh ngày thêm chồng chất. Chỉ có con chó là bầu bạn sớm tối, con chó thành «cậu Vàng», thành một người trong nhà lão. «Con chó là của cháu nó mua đấy chứ». Lão vẫn không quên con chó là kỉ vật thiêng liêng, là tài sản của đứa con trai. Có một mối dây liên lạc rất lạ lùng giữa lão Hạc, con chó và đứa con trai vắng mặt. Cho nên, có bao nhiêu niềm thương, nỗi nhớ chất chứa trong lòng, lão dồn hết vào con chó. Lão yêu quý «cậu vàng » như con, như cháu tưởng như không thể nào có thể rời xa nó, tưởng như cuộc đời lão không thể thiếu nó. Vậy mà, tình cảnh đói nghèo khốn quẫn đã buộc lão phải chia tay với nó.

Và khi buộc lòng phải bán nó lão vô cùng đau đớn. Bán nó xong, lão Hạc bị đẩy sâu xuống đáy vực bi thảm. Lão cảm thấy mình là một kẻ «tệ lắm», đã già mà còn đánh lừa một con chó ». Cuộc đời lão Hạc là một dòng nước mắt chảy dài của những nỗi đau bất lực. Nước mắt lão khi thì « rân rấn », lúc « ầng ậng », cả khi « cười cũng như mếu ». Nước mắt ấy dường như đã cạn kiệt trong cuộc đời khổ đau, tủi cực của lão.

Chính trong cảnh đời thê thảm ấy, ta lại thấy bừng sáng lên một vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách cao cả của lão Hạc. Nó được thể hiện qua tấm lòng của lão đối với con trai, đối với «cậu Vàng», qua việc gửi gắm vườn tược, tiền bạc cho ông giáo và nhất là qua cái chết thảm khốc mà lão đã lựa chọn cho chính mình.

Nhân vật Lão Hạc đã để lại trong lòng ta bao ám ảnh khi nghĩ về số phận con người, số phận người nông dân Việt Nam trong xã hội cũ. Có biết bao nhiêu người nông dân đã sống nghèo khổ, cơ cực và cùng quẫn như lão Hạc. Xin cảm ơn nhà văn Nam Cao, ông đã giúp ta nhìn thấy vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách cao cả của họ, đem đến cho ta một niềm tin sâu sắc vào con người.

Phân tích tác phẩm Lão Hạc (Mẫu 2)

Nam Cao là nhà văn hiện thực xuất sắc trước cách mạng. Tác phẩm của ông thường gắn liền với hình ảnh nông thôn đói khổ. Trong hoàn cảnh đó, ông vẫn nhìn thấy được những phẩm chất tốt đẹp của người nông dân nghèo đang âm thầm tỏa sáng. Truyện ngắn Lão Hạc là một tác phẩm như vậy. Nhân vật chính là một lão nông nghèo khổ, bất hạnh nhưng vẫn mang những phẩm chất cao quý đáng trân trọng.

  Truyện được kể qua lời ông giáo – người hàng xóm thân thiết của lão Hạc – đã tạo cho câu chuyện thêm phần chân thực, sinh động. Qua ông giáo, ta được biết gia cảnh buồn của lão Hạc: vợ mất sớm, đứa con trai duy nhất lại phẫn chí do bị phụ tình vì quá nghèo nên bỏ vào Nam làm phu đồn điền cao su, biền biệt một năm nay chẳng tin tức gì. Kỷ vật duy nhất con trai lão để lại là con chó mà lão vẫn hay trìu mến gọi là cậu Vàng. Mỗi lần nhớ con, lão lại ngồi nói chuyện với nó cho khuây khỏa. Vì thế, có thể nói nó là một người bạn tri kỉ của lão. Nhưng rồi, cảnh đói kém bủa vây. Một trận ốm đã làm cho số tiền tích cóp của lão cạn dần. Còn mảnh vườn nhưng lão không thể bán được vì lão muốn để dành nó cho con trai. Vì vậy, sau nhiều lần định bán con Vàng, lần này lão dứt khoát chia tay nó. Lão không muốn tiêu phạm vào những đồng tiền ít ỏi mà lão để dành cho con trai.

Cảnh lão bán cậu Vàng thật xót xa. Cả đời lão chưa dám lừa một ai. Vậy mà lần này lão lại đi lừa một con chó – điều này làm lão đau lòng và tội lỗi: 'Lão cố làm ra vẻ vui vẻ. Nhưng trông lão cười như mếu và đôi mắt lão ầng ậng nước... Mặt lão đột nhiên co rúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít. Lão hu hu khóc...'

Lão tìm đến ông giáo để giãi bày lòng mình. Lão muốn nhờ ông giáo trông coi hộ lão cái vườn đến khi con trai lão trở về. Rồi lão cũng nhờ ông giáo lo liệu ma chay cho mình nếu sau này già yếu. Những suy nghĩ, tính toán của lão thật đơn giản, thật thà. Nhưng mọi thứ đều được lão sắp xếp một cách cẩn thận, chi tiết. Lão vừa lo cho con trai mình, rồi lại lo đến cái chết của mình làm ảnh hưởng tới làng xóm. Điều này như một dự báo sẽ có một biến cố lớn xảy đến với lão.

Từ ngày bán cậu Vàng, và cũng từ khi nói chuyện, nhờ cậy ông giáo xong, nếp sống sinh hoạt của lão cũng có sự thay đổi: 'Lão Hạc chỉ ăn khoai. Rồi thì khoai cũng hết. Bắt đầu từ đấy, lão chế được món gì, ăn món ấy. Hôm thì lão ăn củ chuối, hôm thì lão ăn sung luộc, hôm thì rau má, với thỉnh thoảng một vài củ ráy hay bữa trai, bữa ốc.' Mặc dù vẫn còn ba mươi đồng bạc đó, nhưng lão không muốn là ảnh hưởng tới cái 'gia tài' của con. Xuất phát từ tình thương của một người cha đã khiến cho lão phải chịu cảnh sống đói khổ. Nhưng không phải vì thế mà lão nảy sinh thói hư tật xấu. Lão vẫn giữ cho mình nếp sống 'đói cho sạch, rách cho thơm'.

Cuộc sống bế tắc đã đẩy lão Hạc tìm đến cái chết như một sự giải thoát. Trước hết, lão sang nhà Binh Tư xin ít bả chó. Biết tin, ông giáo thấy vô cùng đau lòng: 'Hỡi ơi lão Hạc! Con người đáng kính ấy bây giờ cũng theo gót Binh Tư để có ăn ư?' Ai cũng cứ ngỡ rằng rồi đây, lão sẽ sa chân vào con đường tội lỗi khi nghe những lời Binh Tư kể lại: 'Lão làm bộ đấy! Thật ra thì lão chỉ tẩm ngẩm thế, nhưng cũng ra phết chứ chả vừa đâu. Lão vừa xin tôi một ít bả chó. Lão bảo có con chó nhà nào cứ đến vườn nhà lão...

Lão định cho nó xơi một bữa. Nếu trúng, lão với tôi uống rượu.' Nhưng rồi cái chết của lão đã làm đảo lộn suy nghĩ của tất cả mọi người: 'Lão Hạc đang vật vã ở trên giường, đầu tóc rũ rượi, quần áo xộc xệch, hai mắt long sòng sọc. Lão tru tréo, bọt mép sùi ra, khắp người chốc chốc lại bị giật mạnh một cái, nảy lên. Hai người đàn ông lực lưỡng phải đè lên người lão. Lão vật vã đến hai giờ đồng hồ rồi mới chết. Cái chết thật là dữ dội. Chẳng ai hiểu lão chết vì bệnh gì mà đau đớn và bất thình lình như vậy. Chỉ có tôi với Binh Tư là hiểu.' Lão vẫn giữ cho bản thân mình trong sạch, nhưng cái chết của lão thật đau đớn, bi thảm.

'Lão Hạc' đã cho chúng ta thấu hiểu được hoàn cảnh khổ đau, khốn cùng, bế tắc của người nông dân nghèo có tâm hồn cao đẹp trong chế độ thực dân phong kiến tàn ác đương thời. Đồng thời, truyện cũng là lời nhắc nhở cho chúng ta phải biết quan tâm, giúp đỡ những con người có số phận éo le hơn mình.

Phân tích tác phẩm Lão Hạc (Mẫu 3)

Nam Cao là nhà văn hiện thực xuất sắc với những sáng tác để lại trong long người đọc nhiều day dứt và ám ảnh. Mỗi câu chuyện của ông đều mang dáng dấp của một đời người, một kiếp người lầm than trong xã hội. Nam Cao tập trung khai thác số phận người nông dân trước cách mạng tháng Tám, bế tắc, cùng cực đã khiến cho cuộc đời họ chìm vào nước mắt. Truyện ngắn “Lão Hạc” là một trong những câu chuyện cảm động về hình ảnh nghèo khó của người nông dân, đồng thời toát lên được vẻ đẹp tinh thần đáng quý của họ. Đây mới chính là giá trị nhân văn của tác phẩm này.

Nam Cao lấy bối cảnh lịch sử là thời kỳ đất nước đang chìm trong cảnh nước mất, nhà tan, nhân dân lầm than, đói khổ, xơ xác. Ông đã xây dựng nên nhân vật nông dân điển hình trong một xã hội điển hình. Qua nhân vật này tác giả muốn lột tả chế độ thực dân phong kiến và cuộc sống bần hàn của người nông dân.

Tác giả lựa chọn ngôi kể độc đáo, theo ngôi thứ ba, theo lời của ông Giáo, hang xóm của lão Hạc. Bơi vậy câu chuyện thêm sinh động, chân thực và mang tính khách quan hơn. Người đọc có thể quan sát, theo dõi cuộc đời của một con người phải trải qua bao nhiêu thăng trầm và biến cố.

Những câu văn giản dị cứ thế đi vào long người đọc một cách chân thật và hiền hòa nhất. Từng mảnh đời cứ chấp chới hiện lên dật dờ, nghèo đói nhưng trong họ ánh lên sự nhân hậu, vị tha và lòng yêu thương tha thiết.

Cuộc đời của lão Hạc thật là buồn, buồn đến thê thảm. Vợ lão mất sớm, lão ở với đứa con trai. Nhưng từ khi đứa con trai đi làm điền cao su thì lão không còn biết tin tức gì về con nữa. Lão thương con, rồi lão thương cho chính cuộc đời của mình chẳng làm được gì cho con.

Lão Hạc là hiện thân của người nông dân hiền lành, lương thiện, chất phác, chăm chỉ làm ăn. Ai thuê lão làm gì, lão đều làm. Nhưng cuộc đời khắc nghiệt, cuộc sống khắc nghiệt, sức khỏe của lão yếu đi, lão không muốn cậy nhờ con và hàng xóm. Túng quẫn, bế tắc, lão đã nghĩ đến việc bán cậu Vàng. Nhưng tình cảm của lão dành cho cậu Vàng quá thân thiết, nên lão không nỡ, bao nhiêu lần mà lão không bán nổi. Sự giằng xé trong tâm hồn đã khiến cho lão ngày càng bệnh tật, ốm đau.

Nhưng rồi vì cơm cũng chẳng có mà ăn, lấy gì nuôi cậu Vàng. Lão không muốn tiêu vào những đồng tiết tiết kiệm lão dành dụm cho đứa con trai từ việc bán hoa lợi và thu được từ mảnh vườn ba sào bé tý. Vậy là lão đứt ruột bán cậu vàng, nói đúng hơn là lão phải lừa để mới có thể bán cậu Vàng.

Cảnh bán chó thực sự là một cảnh tượng xúc động, đầy dằn vặt và đau đớn của lão Hạc. Lão đã tự thú nhận “già bằng này tuổi đầu còn đi lừa một con chó”. Ông giáo đã kể lại cảnh tượng đó “Mặt lão đột nhiên co rúm lại, những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra ngoài. Cái đầu lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít. Lão hu hu khóc”. Một đoạn văn tràn đầy tình cảm, một đoạn văn khiến người đọc không cầm nổi nước mắt.

Một người nông dân chất phác, ngay cả trong việc bán chó cũng vậy. Lão không muốn cậu Vàng đau lòng, muốn nó ra đi thanh thản nhất, nhưng thực ra lòng lão đang quá rối bời. Những tâm sự của lão Hạc khiến người đọc xúc động, cảm thông và rất đỗi khâm phục. Ông dù nghèo nhưng vẫn quyết dành tình cảm cho đứa con trai duy nhất.

Lão Hạc yêu thương con hết mực, quyết định hi sinh vì con. Bởi vậy lão mới quyết định kết liễu cuộc đời mình để không liên lụy đến con mình. Một người cha yêu thương con hết mực và là một ngươi suy nghĩ quá thấu đáo, chu toàn. Lão đã định sẵn cho mình một cái chết thanh thản, nhẹ nhàng nhất. Lão đã cậy nhờ chuyện ông giáo sau khi chết giao lại mảnh vườn cho con trai và để lại 30 đồng bạc lẻ.

Chi tiết ông Giáo kể với vợ về chuyện lão Hạc thì vợ ông đã nói “Cho lão chết! Ai bảo có tiền mà chịu khổ! Lão làm khổ lão chứ ai làm lão khổ. Nhà mình sung sướng gì mà giúp lão. Chính con mình cũng đói'. Bất lực ông giáo chỉ biết ngậm ngùi than thở: 'Chao ôi, đối với những người ở xung quanh ta, nếu ta không cố mà tìm hiểu họ, thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ối…toàn những cớ để ta tàn nhẫn, không bao giờ thương”. Thực sự đây là một đoạn hội thoại có giá trị nhân văn sâu sắc, khẳng định một thái độ sống về những con người ở xung quanh mình. Có lẽ Nam Cao ngầm thương xót cho những mảnh đời bất hạnh, sống hiền lương nhưng lại bị ruồng bỏ.

Cái chết của lão Hạc là một cái chết đầy bi kịch, thức tỉnh biết bao nhiêu con người. Cái chết đó đã phản ảnh hiện thực xã hội phong kiến nhiều bất công, đã đẩy người nông dân vào bước đường cùng. Sự bế tắc, túng quẫn đã dẫn đến cái chết bi thảm đó.

Ông giáo đã có suy nghĩ ai lầm thì nghe bảo lão Hạc sang xin bả chó. Nhưng thực sự là ông đang muốn kết liễu đời mình, không muốn làm gánh nặng cho con trai.

Tại sao lão lại chọn cái chết đau đớn, đầy thương tâm đó. Có lẽ đây là điều mà rất nhiều người hỏi, nhưng có lẽ có nguyên nhân của nó. Phản ánh sự bế tắc đến cùng cực xã hội phong kiến, đẩy con người vào chỗ chết. Có lẽ lão Hạc muốn trừng phạt chính bản thân mình vì đã đi “lừa một con chó”, đồng thời lão muốn yêu thương đứa con trai đến giây phút cuối cùng. Cái chết đó chỉ ông Giáo và Binh Tư mới hiểu.

Truyện ngắn “Lão Hạc” của Nam Cao thực sự ám ảnh đến người đọc vì hình ảnh người nông dân cùng cực trong xã hội phong kiến. Đồng thời khẳng định vẻ đẹp tinh thần lấp lánh trong con người họ.

Phân tích tác phẩm Lão Hạc (Mẫu 4)

Nhận xét về cách viết của Nam Cao trong những truyện ngắn, giáo sư Hà Minh Đức viết: 'Viết về những nhân vật này, ngòi bút Nam Cao không lạnh lùng khách quan mà tha thiết gắn bó; không châm biếm, mỉa mai mà chân thành, xúc động. Tác giả xem mình cũng là người trong cuộc'. Nhận xét về cách viết của Nam Cao trong những truyện ngắn về những người nông dân tột cùng thống khổ và đau thương, giáo sư Hà Minh Đức viết: 'Viết về những nhân vật này, ngòi bút Nam Cao không lạnh lùng khách quan mà tha thiết gắn bó; không châm biếm, mỉa mai mà chân thành, xúc động. Tác giả xem mình cũng là người trong cuộc'. Trong số những tập truyện ngắn của Nam Cao, truyện Lão Hạc là một điển hình về bút pháp như vậy của tác giả viết về những người nông dân đau khổ và lầm than vô hạn. Viết về lão Hạc – nhân vật chính trong truyện, một người nông dân tột cùng nghèo khổ và đau thương – ngòi bút của Nam Cao đã bộc lộ một tình cảm tha thiết gắn bó. Khi chưa hiểu rõ tâm tình của lão Hạc thì giọng điệu của ông giáo dưới ngòi bút của nhà văn tưởng chừng vẫn chỉ là viết về một loại Chí Phèo, Thị Nở, Lang Rận nào đó: 'Tôi nghe câu ấy đã nhàm rồi… Lão nói là nói để đấy thôi… Làm quái gì có một con chó mà lão có vẻ băn khoăn quá thế'. Đôi lúc, ông còn bộc lộ sự tự tôn mình, coi thường người nghèo khổ: 'Lão quý con chó vàng của lão đã thấm vào đâu so với tôi quý năm quyển sách của tôi'. Một sự lạnh lùng khách quan: Tôi 'dửng dưng' nhìn lão để rồi mộng tưởng về một cái thời 'say mê', đẹp đẽ, chăm chỉ và đầy 'cao vọng' của riêng mình.

Ta bắt đầu cảm thấy một bóng dáng đơn điệu của làng quê ông giáo Thứ trong truyện Sống mòn: con người lạnh nhạt, bới móc nhau… Nhưng tác giả không dừng lại ở đó, ông đưa những trang viết về tình cảm của ông giáo đối với lão Hạc tiến triển một cách chậm rãi lần theo những lời kể của ông lão, khiến người đọc ngày càng thấy sự rung động, sâu xa của cõi lòng tác giả: Người con trai lão thất tình, bỏ đi phu cao su, để lại cho người cha vài đồng bạc để 'ăn quà', một con chó và mảnh vườn nho nhỏ, biệt tích, để cho lão cứ ngóng trông, dành dụm, chắt chiu mà nào biết bao giờ nó về! Vợ mất, con biệt xứ, lão cô đơn giữa tuổi già và cái chết đang dần đến. Ngòi bút của nhà văn lại bùi ngùi, xúc động: 'Già rồi mà ngày cũng như đêm, chỉ thui thủi một mình thì ai mà chả phải buồn'. Vì vậy mà 'những lúc buồn, có con chó làm bạn thì cũng đỡ bồn một chút', nhắc đến con 'lão rân rấn nước mắt'. Đến đây thì ông giáo đã thốt lên: 'Bây giờ thì tôi không xót xa năm quyển sách của tôi quá như trước nữa'.

Trước những đe dọa rình rập, những mất mát chồng chéo lên nhau, ông giáo đành an ủi lão Hạc mà ta nghe thấy biết bao đau xót, thương cảm: 'Lão Hạc ơi ! ta có quyền giữ cho ta một tí gì đâu?'. Thì ra tác giả đâu có thờ ơ, ông thấu hiểu con người tốt đẹp ấy, mỗi lời kể như đượm nỗi xúc động: Thương con, lão không muốn bán đi con chó – kỉ vật của con. Nhưng nuôi nó thì tốn mà lão không muốn phải tiêu vào tiền lão đã dành dụm cho con. Nhưng cái nghèo khổ cứ đến: 'làng mất vé sợi', 'Lão Hạc không có việc'… Sự điêu đứng cứ dồn dập đến. Ngòi bút nhà văn trở nên xót xa cho lão Hạc. Trước cảnh lão khóc vì để con chó bị bắt, ngòi bút Nam Cao bỗng như trào lên nước mắt. Ông giáo hỏi như để che giấu nỗi đau: 'Thế nó cho bắt à', rồi đau đớn và phủ nhận, ông kết luận: 'Kiếp ai cũng thế thôi, cụ ạ !', đều khổ, đều cơ cực, kiếp người không khác kiếp con chó. Số phận một con chó chấm dứt bằng một cái chết bi thảm thì con người cũng không hơn, còn dữ dội gấp trăm lần.

Nhà văn cảm thông tha thiết với 'những người cùng khổ ấy', muốn san sẻ nỗi cực nhục với họ, bởi 'một chút âu yếm, một chút tình thương cũng đủ để nâng đỡ họ' (Thạch Lam). Nhưng Nam Cao còn sâu sắc hơn, ông giận cuộc đời gian ác đã cướp đi bao người lương thiện như lão Hạc, nên ông cầm bút khóc cho những con người đang quằn quại sống và quằn quại chết đó.

Nam Cao hay nhất ...

Phân tích tác phẩm Lão Hạc (Mẫu 5)

Trong đội ngũ nhà văn hiện đại Việt Nam, Nam Cao được coi là một nhà văn hiện thực xuất sắc trước Cách mạng. Ông hi sinh năm 1951 trong cuộc kháng chiến chống Pháp, lúc đó, ông mới 36 tuổi. Tuy cuộc đời ngắn ngủi nhưng Nam Cao đã để lại cho đời nhiều áng văn có sức sống lâu bền. Tác phẩm của Nam Cao - những truyện ngắn, truyện dài - thấm đẫm giá trị hiện thực và nhân đạo. Đó là những trang viết chân thực, vô cùng sâu sắc về người nông dân nghèo đói bị vùi dập và người trí thức cùng phẫn phải sống mòn mỏi, bế tắc trong xã hội cũ. Đọc truyện ngắn Lão Hạc của Nam Cao, chúng ta bắt gặp cả hai kiểu nhân vật đó: lão Hạc và ông giáo. Ông giáo là người kể chuyện, lão Hạc là nhân vật chính của câu chuyện. Cả hai người đó đều đáng cảm thông và đáng trân trọng, nhất là lão Hạc. Lão Hạc - ông cụ lão nông ấy - đã phải trải qua hai cái chết trong cuộc đời mòn mỏi bế tắc, nhưng có một tấm lòng thương con vô cùng sâu nặng.

Đọc phần trước đoạn trích trong sách Ngữ văn 8, chúng ta biết cảnh ngộ của lão Hạc thật bi thảm. Nhà nghèo, vợ chết, hai cha con lão Hạc sống lay lắt, rau cháo qua ngày. Một ngày nọ, người con trai của lão phẫn chí vì không có tiền cưới vợ, bỏ đi làm phu đồn điền cao su biền biệt, một năm nay chẳng có tin tức gì. Lão Hạc thui thủi sống cô quạnh một mình với con chó Vàng, kỉ vật người con trai để lại. Lão gọi con chó là 'cậu Vàng', coi con vật như người thân trong nhà. Vắng nhà đi kiếm ăn thì thôi, hễ về tới nhà là ông lão lại trò chuyện tâm tình, chia sẻ mọi nỗi vui buồn với 'cậu Vàng'.

Nhiều khi lão gọi Vàng là con, là... cháu, xưng ông cứ y như là hai ông cháu vậy. Đối với lão Hạc, con chó là niềm vui, là nguồn hạnh phúc đơn sơ mà thiết thực giúp lão sống trong đói nghèo để đợi người con trai trở về xây dựng hạnh phúc lứa đôi và hạnh phúc gia đình cho lão được sống bên con, bên cháu, vui vầy như bao người bình thường khác. Nhưng sự túng quẫn ngày càng đe dọạ lão. Sau trận ốm nặng kéo dài, lão yếu người đi ghê lắm. Đồng tiền bấy lâu nay dành dụm cạn dần. Lão không có việc làm. Rồi một cơn bão ập đến, phá sạch sành sanh hoa màu trong vườn. Giá gạo thì cứ cao mãi lên. Vì thế, lão Hạc lấy tiền đâu để nuôi 'cậu Vàng' ? Kể ra trong nhà cũng còn ít tiền để dành cho đứa con trai, nhưng lão không muốn tiêu lẹm vào đấy. Mà cho 'cậu Vàng' ăn ít, thì 'cậu' gầy đi, tội nghiệp. Ông lão nông nghèo khổ ấy cứ băn khoăn day dứt mãi, cuối cùng dằn lòng quyết định bán 'cậu Vàng', rồi đến nhà ông giáo cậy nhờ một việc quan trọng.

Đọc phần trích, cũng là phần đặc sắc nhất của thiên truyện, chúng ta cảm nhận rõ hai sự việc lớn của cuộc đời lão Hạc : việc bán 'cậu Vàng' và việc tìm đến cái chết. Hai sự việc ấy tuy khác nhau nhưng đều toát lên một ý nghĩa chung vé tấm lòng người cha thương con mênh mông, sâu nặng.

Bán con chó Vàng, lão Hạc đối mặt với cái chết thứ nhất. Vì sao lão Hạc phải bán 'cậu Vàng' ? Như phần trên ta đã biết, nếu để con chó lại nuôi thì lão Hạc phải tiêu lẹm vào số tiền dành dụm cho người con đang xa nhà. Điều đó lão không muốn, tuyệt đối không muốn. Đối với lão Hạc, số tiền và mảnh vườn dành cho con thiêng liêng như một báu vật mà hằng ngày lão chỉ biết hết lòng bảo vệ chứ không bao giờ dám xâm phạm. Việc quyết định bán con chó Vàng bắt nguồn từ tấm lòng thương con sâu sắc của một người cha nhân hậu và giàu lòng tự trọng.

Bán con chó Vàng vì thương con, nhưng rồi lão Hạc lại vô cùng ăn năn, day dứt. Lão sang nhà ông giáo giãi bày những nỗi đau thống thiết của mình. 'Mặt lão đột nhiên co rúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít. Lão hu hu khóc...'. Mấy câu văn ngắn ngủi đặc tả ngoại hình nhân vật thật ấn tượng. Tác giả đã sử dụng các từ tượng hình : 'co rúm lại', 'xô lại', 'ngoẹo về một bên'... và một từ tượng thanh 'hu hu' khiến cho nét mặt, thân hình và tâm trạng của lão Hạc hiện lên thật thê thảm. Làm một việc vì tình thương con, nhưng người cha ấy vẫn tự dằn vặt, đau khổ như vừa phạm lỗi lớn. Phải chăng lão Hạc cảm thấy mình có lỗi với 'cậu Vàng', con vật rất đỗi thân thương của lão ? Ta nghe lời lão kể với ông giáo trong truyện mà như nghe chính lão Hạc kể với ta : 'Này... cái giống nó cũng khôn ! Nó cứ làm in như nó trách tôi ; nó kêu ư ử, nhìn tôi, như muốn bảo,.tôi rằng : A ! Lão già tệ lắm ! Tôi ân ở với lão như thế mà lão xử với tôi như thế này à ?. Thì ra tôi già bằng này tuổi đầu rồi còn đánh lừa một con chó, nó không ngờ tôi nỡ tâm lừa nó !...'.

Đây là lời nói, hay chính là lời sám hối, lời tự than, tự trách mình quá phũ phàng, nhẫn tâm của một tấm lòng nhân hậu ! Từ những nét ngoại hình quằn quại đến những lời ăn năn, sám hối này, lão Hạc quả là một con người nặng tình nặng nghĩa, thuỷ chung, vô cùng trung thực. Từ ngày người con phẫn chí ra đi vì không có tiền cưới vợ, lão Hạc luôn mang tâm trạng 'mắc tội' bởi không lo liệu nổi hạnh phúc cho con. Lão cố dành tiền cho con, cố chăm sóc 'cậu Vàng' như chăm sóc kỉ vật của con. Vậy mà giờ đây lão phải bán 'cậu Vàng' cho người ta giết thịt, lão cảm thấy mình 'mắc tội' nặng hơn, tội với con người, tội với cả con vật. Tấm lòng người lão nông ấy bao la, sâu nặng biết nhường nào. Con chó Vàng sẽ bị người ta giết thịt. Lão Hạc dự cảm rõ điều đó. Đối với lão, dó là cái chết thứ nhất, một cái chết do chính lão gây ra. Nhưng, người đọc chúng ta ngày nay, suy ngẫm sâu xa một chút, sẽ thấu hiểu và xiết bao xót thương ông lão nông khốn khổ và nhân hậu ấy. Và chúng ta cũng hiểu rằng chính cái xã hội thực dân phong kiến bấy giờ đã đẩy lão Hạc và biết bao người nông dân khác vào bi kịch như lão Hạc. Vì hạnh phúc của một người con này, lão Hạc phải chứng kiến cái chết của một 'người... con' khác, phải tự huỷ diệt một niềm vui, một kỉ vật thân thương của đời mình. Nêu sự việc lão Hạc bán chó, rồi đau khổ vật vã tự trách mình, ngòi bút Nam Cao đã lay động tận nơi sâu thẳm tình cảm bạn đọc chúng ta.

Nhưng Nam Cao không dừng lại ở đó. Nhà văn tiếp tục lay động chúng ta bằng một sự việc tiếp sau dữ dội hơn, thống thiết hơn. Đó là việc lão Hạc tìm đến cái chết. Với cái chết lần thứ hai này, tấm lòng người lão nông thương con mênh mông, sâu nặng ấy mãi mãi toả sáng. Tìm hiểu về sự việc này, chúng ta thử hoá thân vào nhân vật ông giáo để lắng nghe lời lão Hạc nói và chứng kiến công việc ông lão làm. Sau những lời đắng cay về việc bán chó, lão Hạc rề rà, nhỏ nhẹ mà tha thiết, chân thành giãi bày hoàn cảnh của mình để nhờ ông giáo giúp cho hai việc. Việc thứ nhất: gửi ba sào vườn, khi anh con trai lão trở về thì ông giáo giao lại để anh có đất ở, có vốn mà sinh nhai. Việc thứ hai : gửi ba mươi đồng bạc (hai mươi nhăm đồng tích cóp tằn tiện hơn một năm trời và năm đồng vừa bán chó) để khi ông lão chết, nhờ hàng xóm chi tiêu cho việc ma chay... Những điều lão Hạc thu xếp, nhờ cậy ông giáo thật là chu đáo. Nghĩ đến con, ông cụ luôn mong ước con được sống yên ổn„ hạnh phúc. Nghĩ về mình cụ luôn luôn tự trọng, không muốn phiền luỵ ai. Khi nghe lão Hạc trình bày, ông giáo bật cười bảo : 'Sao cụ lo xa quá thế ? Cụ còn khoẻ lắm, chưa chết đâu mà sợ ! Cụ cứ để tiền ấy mà ăn..'. Ông giáo không thể biết được rõ ý nghĩa việc lão Hạc nhờ cậy. Còn chúng ta, đọc truyện, nhận rõ ổng cụ lão nông đó đã chuẩn bị cho cái chết của mình thật là bình tĩnh, chủ động, tự nguyện, tự giác. Thực ra lão đã âm thầm chuẩn bị cho cái chết của mình từ khi bán 'cậu Vàng', đúng như lời lão nói với ông giáo : 'Tôi đã liệu đâu vào đấy... Thế nào rồi cũng xong'.

Như vậy, trong tình cảnh đói khổ, túng quẫn, lão Hạc đã định liệu cho 'cậu Vàng' - con vật thân thương nhất - và bản thân mình một sự giải thoát. Với con chó thì hoá kiếp cho 'để thành kiếp người'. Còn với mình, lão chết để thành kiếp gì ? Thật mịt mờ, bế tắc. Nhà văn Nam Cao cứ nhẹ nhàng dẫn dắt câu chuyện theo lời kể của ông giáo, đưa người đọc chúng ta từ sự việc này sang sự việc khác đầy hấp dẫn, bất ngờ. Sau khi nghe lời lão Hạc nói rằng : 'Tôi đã liệu đâu vào đấy', ông giáo đã cảm động bởi cách lo toan chu đáo, tấm lòng thành thực, vừa thương con, vừa tự trọng của lão Hạc thì được nghe Binh Tư kể việc lão Hạc xin bả chó... Ông giáo đã thốt lên : 'Hỡi ôi ! Lão Hạc'. Người đọc cũng ngỡ ngàng, sửng sốt, tưởng rằng lão Hạc sẽ làm một việc xấu xa, đáng buồn như việc Binh Tư thường làm : đánh bả chó, rồi thịt chó uống rượu. Vẻ đẹp của hình tượng lão Hạc bỗng mờ đi, như cuộc sống lúc bấy giờ 'cứ mỗi ngày một thêm đáng buồn'. Câu chuyện tưởng chừng ngoặt sang hướng khác. Những dòng chữ lời văn như ngưng đọng lại, Căng thẳng, hồi hộp!

Nhưng rồi, đến phần cuối của câu chuyện, tất cả đã ùa ra. Lão Hạc đã chọn một cái chết dữ dội, bất ngờ. Chúng ta hãy vào nhà lão Hạc. Một cảnh tượng rùng rợn thảm thương.bày rạ trước mắt ta : 'Lão Hạc đang vật vã ở trên giường, đầu tóc rũ rượi, quần áo xộc xệch, hai mắt long sòng sọc. Lão tru tréo, bọt mép sùi ra, khắp người chốc chốc lại bị giật mạnh một cái, nảy lên. Hai người đàn ông lực lưỡng phải ngồi đè lên người lão. Lão vật vã đến hai giờ đồng hồ rồi mới chết...'. Dồn dập trong mấy câu miêu tả là các từ tượng hình 'vật vã', 'rũ rượi', 'xộc xệch', 'long sòng sọc', và các cụm động từ mạnh như 'sùi ra', 'giật mạnh', 'nảy lên', 'đè lên',... đã cực tả một cái chết thật dữ dội, đau đớn. Tại sao lão Hạc không chọn một cái chết khác êm dịu, lặng lẽ, âm thầm ? Đối chiếu với cái chết thứ nhất của 'cậu Vàng', nhìn thoáng bên ngoài, ta cảm thấy cái chết của. lão Hạc như có những nét tương tự. 'Cậu Vàng' bị lão Hạc đánh lừa, cho ăn cơm, rồi bị hai người ('thằng Mục' và 'thằng Xiên') đè xuống, trói lại. Lão Hạc cũng bị hai người đàn ông lực lưỡng 'đè lên người'. Biết là mình sẽ chết, 'cậu Vàng' kêu 'ư ử', lão Hạc thì 'tru tréo', 'vật vã',...

Phải chăng khi chọn cho mình cái chết dữ dội thảm thương này, người lão nông ấy như có ý tự trừng phạt mình, chia sẻ nỗi đau với con vật thân yêu như ruột thịt. Bởi vì, cả đời ông lão sống trung thực, chưa đánh lừa ai. Lần đầu tiên lão làm một việc xấu xa là đánh lừa 'cậu Vàng', người bạn thân thiết, niềm hạnh phúc, niềm vui của chính mình. Lão đã lừa để con chó bị chết thì giờ đây lão cũng phải chết theo kiểu con chó bị lừa. Điều này càng chứng tỏ lão Hạc có lòng tự trọng rất cao, ứng xử trung thực vô ngần. Và cũng chứng tỏ ngòi bút nhà văn Nam Cao sắc lạnh, tỉnh táo vô cùng. Nam Cao rất thương con người, tôn trọng con người, đồng thời luôn đòi hỏi cao ở con người. Ông đã đặt nhân vật lão Hạc vào những cuộc lựa chọn khắc nghiệt : chọn hai cái chết. Cái chết thứ nhất tuy không đau đớn về thể xác nhưng lại đau đớn, day dứt về tinh thần. Còn cái chết thứ hai, tuy đau đớn thể xác nhưng dường như ông lão đã được giải thoát và... thanh thản về tinh thần vì lão đã trả hết nợ đời, nợ với con chó Vàng, nợ với đứa con trai tội nghiệp phải bỏ nhà ra đi.

Có thể nói, đọc truyện Lão Hạc, chúng ta thấy nổi bật lên, ấn tượng mạnh mẽ nhất là câu chuyện về hai cái chết: cái chết của con chó Vàng do lão Hạc gây nên và cái chết của lão Hạc do tự lão lựa chọn. Cả hai cái chết này đều bắt nguồn từ tình cảm người cha thương con mênh mông, sâu nặng. Lão Hạc phải bán 'cậu Vàng' - cũng là cách tự huỷ một niềm vui, một khát vọng để không phải tiêu lẹm vào số tiền dành cho con. Lão Hạc tự tử cũng nhằm không muốn sống thừa, sống lay lắt, vô vị mà ăn lẹm vào số vốn liếng, mảnh đất đợi con về... Người cha ấy đã hi sinh cả cuộc đời mình cho hạnh phúc của con. Người lão nông ấy đã sống một cuộc đời đau khổ nhưng thật trong sáng, đáng cảm thương và trân trọng.

Cùng với nhân vật lão Hạc, chúng ta bắt gặp nhân vật ông giáo (có thể coi là tác giả). Nhờ ông giáo, nhờ nhà văn kể chuyện, chúng ta càng thấm thía hơn cuộc đời đau khổ của lão Hạc. Khi ông giáo nghĩ 'Cuộc đời đáng buồn, nhưng lại đáng buồn theo một nghĩa khác', chúng la hiểu rằng Nam Cao rất xót xa, căm giận cái xã hội tối tăm ngột ngạt bấy giờ. Xã hội ấy đã đẩy những người có nhân cách cao đẹp như lão Hạc vào tình cảnh đói nghèo, bế tắc, phải chết thảm thương. Khi ông giáo than thở : 'Chao ôi ! Đối với những người ở quanh ta, nếu ta không cố tìm mà hiểu họ, thì ta chỉ thấy họ gàn dở... toàn những cớ để cho ta tàn nhẫn ;... không bao giờ ta thương...', chúng ta càng thấu hiểu suy nghĩ sâu sắc, mang tính triết lí và tình thương bao la đậm chất nhân văn của Nam Cao. Và chúng ta cũng rút ra được bài học thiết thực về cách nhìn, cách ứng xử mà các nhà nghiên cứu gọi là 'vấn đề đôi mắt'...

Tóm lại, truyện ngắn Lão Hạc đã thể hiện một cách chân thực, cảm động số phận đau thương và phẩm chất cao quý của người nông dân cùng khổ trong cuộc đời cũ. Cuộc đời ấy là xã hội thực dân nửa phong kiến ở nước ta, giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 mà 'hạnh phúc chỉ là một cái chăn quá hẹp. Người này co thì người kia bị hở'. Lão Hạc, vì tình thương con sâu nặng đã chấp nhận những giá lạnh cuộc đời để nhường chút hơi ấm của tấm chăn hạnh phúc cho người con xa nhà. Cũng qua câu chuyện về lão Hạc, nhà văn Nam Cao thể hiện lòng thương yêu, thái độ trân trọng đối với những con người bất hạnh mà biết sống cao thượng. Tác phẩm này cho thấy tài năng của nhà văn qua nghệ thuật xây dựng tình huống truyện ; kể các sự việc, khắc hoạ nhân vật sinh động, có chiều sâu tâm lí, cách kể linh hoạt, hấp dẫn, ngôn ngữ giản dị, tự nhiên mà trĩu nặng những cảm xúc và suy nghĩ lắng sâu.

Phân tích tác phẩm Lão Hạc (Mẫu 6)

Nam Cao là một trong những tác gia lớn của nền văn học Việt Nam. Một trong những tác phẩm tiêu biểu của ông phải kể đến truyện ngắn Lão Hạc.

Như nhiều tác phẩm khác của Nam Cao, nhân vật chính trong truyện lúc nào cũng có một cuộc đời khốn khó, hoặc bất ngờ cái sự khốn khó bỗng đổ ập lên đầu người vô tội vì nhiều nguyên do khác nhau. Lão Hạc cũng là một kiếp người như thế, đời một người nông dân thì chẳng bao giờ biết đến cái giàu sang sung sướng, mà chỉ cốt cố làm, cố ăn sao cho sống hết được cái đời dài đằng đẵng. Lão Hạc cũng có vợ, nhưng vợ lão mất sớm, chỉ để lại cho lão một thằng con trai, từ ấy trở đi lão cứ ở vậy làm lụng, bòn vườn nuôi con khôn lớn. Đến khi con lớn rồi thì bậc làm cha như lão lại phải đau đầu chuyện cưới vợ cho con, thế nhưng khốn nỗi nhà lão nghèo quá, miệng ăn kiếm chưa đủ thì kiếm đâu ra cả trăm bạc nhà gái thách cưới. Thằng con lão không cưới được vợ đâm ra buồn chán, bất đắc chí, rồi dứt áo ra đi bỏ vào Nam làm đồn điền cao su với hy vọng kiếm được tiền. Lão Hạc thấy con đi thì cũng xót xa đau đớn lắm, lão chỉ trách tại cái thân mình nghèo rồi hại đến đời con, để nó phải bỏ xứ mà tha phương cầu thực. Mà những kẻ bỏ quê đi thì cũng có được sung sướng gì, ai biết được làm đồn điền trong ấy nó có sung sướng gì không, hay lại bị người ta chèn ép, bóc lột. Thằng con đi chỉ để lại cho lão một con chó vàng mà lão vẫn thường âu yếm gọi là 'cậu Vàng' lão chăm bẵm xem nó như con, có đồ ngon gì cũng dành phần cho nó, có con chó lão đỡ buồn và vơi đi nỗi nhớ đứa con trai biết bao nhiêu. Lão Hạc sống lương thiện, chưa từng chôm chỉa của ai bao giờ, lão bòn vườn, rồi lại đi cày thuê cuốc mướn cho người ta để lấy cái ăn, còn tiền thu được ở vườn thì lão để dành, đợi con trai về rồi sẽ góp thêm vào kiếm cho nó một tấm vợ. Nhưng có lẽ rằng hiện thực tàn khốc, và đặc biệt là truyện ngắn của Nam Cao thì cho dù con người ta có hiền lành, chăm chỉ đến đâu, nhưng vẫn cứ bị những biến cố khốn nạn vồ lấy dồn dập, ép họ vào đường cùng, vào cái sự đau đớn, dằn vặt. Lão Hạc đang khỏe bỗng nhiên đổ bệnh, một trận ốm hai tháng 18 ngày đã tiêu tốn sạch cái mớ tiền lão tích cóp bấy lâu, lại thêm việc không đi làm thuê được ngày nào khiến lão gần như khánh kiệt. Nhưng trời nào có thương cho phận lão, việc năm nay vốn đã kém đi nhiều, thế mà bão lại còn quét một trận qua khu vườn của lão, thành thử ra có bao nhiêu hoa màu thì gãy dập hết, mất hết. Lão với con chó vàng ngày ăn 3 hào gạo nhưng vẫn cứ đói, thậm chí con chó còn ăn nhiều hơn cả lão, mà cụ lại không dám cho nó ăn ít đi bởi ăn ít thì 'cậu ấy gầy đi, bán hụt tiền'. Mà lão thì lại càng không muốn bán mảnh vườn của con trai. Lão thương con trai lão, người cha nhân hậu ấy không muốn để cuộc đời gần tàn của lão liên lụy đến cái đời còn trẻ của con.

Cái đói kém, khốn khổ đã hành hạ người cha già thương con ấy rất lâu, cuối cùng lão cũng ra một quyết định hệ trọng và đau đớn. Trong buổi nói chuyện với ông giáo, người rất thân với lão, lão Hạc đã nói trong sự tần ngần và nghiêm túc 'Có lẽ tôi bán con chó đấy, ông giáo ạ', nhưng ông giáo chẳng lấy làm tin cho lắm, bởi lẽ trước đây ông lão cũng từng nhiều lần nói vậy nhưng chưa lần nào ông làm thật. Điều ấy đã chứng tỏ một điều rằng lão Hạc luyến tiếc và yêu thương cậu Vàng lắm, lão không nỡ bán nó cho người ta giết thịt, bởi nó là kỷ vật là người bạn đã theo lão suốt 3 năm trời đằng đẵng, bán nó sao đành. Nhưng khốn lắm, trời hành cái thân lão, khiến lão đói kém quá, mà suy cho cùng lão vẫn phải nghĩ đến con, thế nên đành tàn nhẫn bán con chó đi sau nhiều lần đắn đo, suy nghĩ. Tội nghiệp cho một người già đến cuối đời vẫn phải trăn trở nhiều khổ đau như vậy. Ngày bán cậu Vàng, lão đã vội chạy sang báo với ông giáo, người đàn ông khốn khổ ấy cố làm ra vẻ vui mừng thế nhưng cái 'nụ cười như mếu và đôi mắt ầng ậng nước' kia của lão thì làm sao giấu nổi những đớn đau, dằn vặt trong lòng lão. Một câu hỏi của ông giáo 'Thế nó cho bắt à?' đã đập tan tất cả phòng tuyến cuối cùng của ông lão tội nghiệp ''Mặt lão đột nhiên co rúm lại . Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão nghẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít. Lão hu hu khóc...'. Lão Hạc phải gánh chịu nỗi thống khổ của bi kịch làm người, lão thế mà lại đi lừa một con chó, con chó đã theo lão suốt ba năm trời trung thành, con chó mà lão yêu quý và coi như con. Ôi chao cái đời lão sao nó khốn nạn và độc ác quá, lão ăn ở thất đức với cả một con chó không biết gì. Lão Hạc vẫn ám ảnh và nhớ như in ánh mắt và tiếng kêu ư ử của cậu Vàng lúc bị người ta bắt đi, lão thấy ân hận và xót xa lắm. Đúng trời bắt tội con người, lão lương thiện cả đời, chăm chỉ, dè sẻn vì con, vì cháu cuối cùng lại trở thành người tráo trở, đến con chó chung sống bấy lâu cũng không tha. Thế rồi lão nói hóa kiếp cho con chó, nhưng trở thành kiếp gì cho sung sướng, chứ kiếp người như lão thì chi bằng đừng hóa kiếp cho xong. Những nỗi đớn đau và suy nghĩ của lão Hạc khi nhắc về chuyện bán con chó đã cho ta thấy tấm lòng của một con người hết mực lương thiện, sống thủy chung, giàu lòng nhân hậu, dẫu chỉ là một con chó nhưng lão cũng dành cho nó những tình cảm sâu sắc, gắn bó, thấy tội lỗi khi lỡ lừa bán nó. Đối với con trai lão Hạc lại là một người cha có tấm lòng yêu thương hết mực, con trai đi làm ăn thì ở nhà lão cũng lo tích cóp dành dụm đợi con về, lão luôn mang trong mình những mặc cảm là người cha 'có tội' khi không lo được cho con cưới vợ, để con phải tha phương cầu thực. Mà khốn khổ thay cái tội nghèo thì nó đã quanh quẩn với biết bao kiếp người chứ phải riêng gì lão, ấy thế mà lão vẫn thấy mình có tội, thấy mình chưa làm tròn trách nhiệm, chứ lão chẳng bao giờ than trời trách đất. Vì thế lão lại càng không được ăn phạm vào mảnh vườn mà vợ lão dè sẻn chắt bóp cả đời để cho con, lão buộc phải bán cậu Vàng, phải lo liệu thật chu toàn để con lão trở về không phải khổ. Chao ôi tấm lòng cha mẹ đời nào cũng thế, cả đời chỉ vì con cái, vì con cái mà cắn rơm cắn cỏ, hy sinh, chịu đựng tất cả.

Bán con chó Vàng là một phần trong kế hoạch 'chu toàn' của lão Hạc. Phần tiếp theo nữa ấy là việc nhờ ông giáo chăm nom vườn tược cho con, rồi gửi ông giáo số tiền ba chục bạc để ông giáo lo liệu hậu sự sau này cho mình. Như vậy đến lúc này đây ta lại thấy ở lão Hạc không chỉ là tấm lòng yêu thương con tha thiết mà còn là lòng tự trọng sâu sắc. Lão gửi ông giáo tiền hậu sự, vì không muốn phiền bà con chòm xóm lúc chết, lão muốn được chết đi trong trong sạch, không nợ nần với ai, và cũng là để con lão có trở về thì không bị mang tiếng chôn cha nhưng phải phiền lụy xóm giềng. Lão Hạc ấy đã suy nghĩ thật chu toàn, chuẩn bị sẵn cho chuyến đi xa của mình, chứ quyết không chịu sống lay lắt, tội lỗi, liên lụy con cái, láng giềng thêm nữa. Mà quả thực, cái thời buổi đói kém này, có lẽ cái chết là cách giải thoát duy nhất cho những con người đau yếu, già nua, không nơi nương tựa, chứ sống ngày nào thì càng khốn khổ thêm ngày đó. Lão Hạc cũng nghĩ vậy. Nhưng nhìn xem lão đã chọn cái chết thật kinh hoàng, thật ám ảnh. Đến cả chết mà lão cũng không dám cho mình một cái chết êm ái, lão chọn ăn bả chó, rồi nhận lấy một cái chết dữ dội, vật vã suốt 2 giờ đồng hồ rồi mới nhắm mắt xuôi tay. Sao Lão Hạc phải khổ vậy? Đành rằng lão chấp nhận chết để dành lại vườn và tiền cho thằng con trai của lão, nhưng thêm một thứ nữa có lẽ lão đang tự trừng phạt mình vì những tội lỗi lão đã gây ra cho cậu Vàng chăng? Hoặc chỉ đơn giản rằng, bả chó không mất tiền mua, lão xin được của Binh Tư, thôi thì cũng không phạm vào tiền của con trai, lão chết thế nào chẳng là chết. Thật tội nghiệp và đớn đau cho một kiếp người như thế.

Lão Hạc là một truyện ngắn hay và xuất sắc nhất của Nam Cao giai đoạn trước cách mạng tháng tám, để lại cho người đọc nhiều ấn tượng sâu sắc. Không chỉ là cái chết đầy ám ảnh của một kiếp người tàn mà ở đó ta thấy được nhiều vẻ đẹp đáng quý của một con người giữa cái thời đói khổ khốn nạn. Đó là tấm lòng thương yêu con sâu sắc, chịu chết để giữ vườn cho con, là lối sống ân nghĩa, thủy chung với cả con chó, là sự lương thiện, thật thà của một con người dù đói chứ cũng không bao giờ táy máy của ai, là tấm lòng tự trọng, chu toàn không muốn phiền lụy đến một ai sau khi chết. Một đời người lắm hy sinh, lắm tốt đẹp như thế

Phân tích tác phẩm Lão Hạc (Mẫu 7)

Nam Cao là một trong những cây bút hiện thực xuất sắc nhất của văn học hiện thực trước cách mạng. Các tác phẩm của ông sáng tác trên hai đề tài lớn là người trí thức và người nông dân, nhưng thành công hơn cả là khi ông viết về đề tài người nông dân. Viết về người nông dân, nhà văn có khuynh hướng khám phá, phát hiện những vẻ đẹp phẩm chất ẩn sâu trong con người họ. Truyện ngắn Lão Hạc là một tác phẩm như vậy.

Trước hết về nhân vật lão Hạc, lão có số phận bi thảm nhưng ẩn sau đó là những phẩm chất cao đẹp, đại diện cho người nông dân. Số phận lão Hạc cũng là số phận chung của biết bao người nông dân trước cách mạng. Vợ lão chết sớm, lão ở vậy gà trống nuôi con. Đứa con lớn lên vì không lấy được người mình yêu nên phẫn chí bỏ nhà ra đi. Lão ở vậy một mình với cậu Vàng – kỉ vật người con trai để lại. Nhưng cuộc đời lão càng ngày lại càng bi đát hơn, lão bị ốm, lão tiêu tốn nhiều tiền dành dụm cho con, bởi vậy lão đành bán cậu Vàng – người bạn đã ở bên giúp lão vơi bớt nỗi buồn khi phải xa con. Khi bán cậu Vàng lão vô cùng đau đớn, ân hận. Nỗi ân hận đó được thể hiện qua đoạn văn miêu tả đặc sắc: cười như mếu, đôi mắt ầng ậng nước, mặt đột nhiên co rúm lại, cái đầu ngoẹo về một bên, cái miệng móm mém mếu như con nít, hu hu khóc. Tình cảnh của lão thật đáng thương, lão luôn sống trong sự day dứt, dằn vặt bản thân.

Nhưng ẩn đằng đó chính là những phẩm chất cao đẹp của người nông dân lương thiện. Lão là một người giàu tình yêu thương, tình yêu thương đó được thể hiện ngay cả với một con vật: lão gọi chó là cậu Vàng, gọi nịnh như gọi một đứa trẻ, ông chăm sóc cậu Vàng chu đáo: cho ăn cơm trong bát như một nhà giàu, không chỉ vậy ông còn trò chuyện, mắng yêu cậu vàng, cậu Vàng làm lão bớt cô đơn, vơi đi nỗi nhớ con. Tình cảm sâu nặng của ông với cậu Vàng có nguồn gốc sâu xa từ tình yêu thương con của lão Hạc, con chó là kỉ vật thiêng liêng mà người con để lại cho ông trước khi đi đến đồn điền cao su.

Tình phụ tử ở lão Hạc cũng vô cùng sâu sắc, thiêng liêng. Vì cảnh nghèo không cưới được vợ cho con, lão vô cùng đau đớn, bởi vậy bao nhiêu tiền của làm được lão đều dành dụm cho con, lão chịu kham khổ, để người đời chửi mắng chứ nhất định không chịu tiêu lạm vào tiền của con. Sau khi bị bệnh nặng, lão chỉ ăn khoai, hết khoai lão ăn củ chuối, rồi ăn sung luộc, rau má, củ ráy, nghĩa là vớ được thứ gì lão ăn thứ ấy,… Và cuối cùng lão lo lắng sẽ tiêu hết tiền cho con nên lão đành chọn cái chết để bảo toàn tài sản cho con trai mình. Cái chết đau đớn của lão Hạc xuất phát từ lòng thương con âm thầm mà lớn lao.

Mặc dù nghèo khổ nhưng lão luôn giữ lòng tự trọng. Lão không nhận bất cứ sự giúp đỡ của ai, ngay cả khi ông giáo đề nghị giúp, lão từ chối một cách hách dịch, bởi lão hiểu hoàn cảnh gia đình ông giáo cũng nghèo túng chẳng khác gì gia đình mình. Lòng tự trọng đó còn được thể hiện trong cách thức tìm đến cái chết của ông. Trước khi chết ông để lại tiền nhờ bà con lo ma chay, không muốn phiền hà đến hàng xóm. Lão chết bằng cách ăn bả chó, cái chết đau đớn, dữ dội như một lời tạ tội với cậu Vàng. Cái chết của lão Hạc chính là sự khẳng định cho sức sống bất diệt của nhân cách trong ông.

Ngoài nhân vật lão Hạc trong tác phẩm ta còn thấy nổi bật lên hình ảnh của một ông giáo nghèo, người bạn thân thiết của lão Hạc. Ông giáo có sự đồng cảm sâu sắc với cảnh ngộ đáng thương của lão Hạc: an ủi, động viên khi lão bán chó, chia sẻ nỗi buồn với lão Hạc, luôn tìm mọi cách làm cho lão khuây khỏa, lạc quan. Ông còn là người am hiểu tường tận nhất vẻ đẹp nhân cách của lão hạc: “Không cuộc đời chưa hẳn đã đáng buồn, hay vẫn đáng buồn nhưng lại đáng buồn theo một nghĩa khác”. Nghĩa khác ấy chính là con người có nhân cách cao đẹp nhưng lại phải chết vật vã, đau đớn và cái chết ấy lại càng làm sáng hơn nhân cách cao đẹp của lão.

Nghệ thuật kể chuyện xuất sắc: câu chuyện được kể bởi nhân vật tôi (ông giáo) người luôn bên cạnh lão Hạc, bởi vậy khiến câu chuyện trở nên chân thực, gần gũi, ngoài ra khiến mạch kể trở nên tự nhiên, linh hoạt, tạo điều kiện kết hợp tả, kể với bình luận một cách tự nhiên, sinh động. Giọng văn đa dạng, thay đổi linh hoạt. Nghệ thuật xây dựng tình huống truyện bất ngờ, hợp lí, những bước ngoặt của truyện giúp bộc lộ rõ tính cách, phẩm chất của nhân vật. Nghệ thuật xây dựng nhân vật cũng là một điểm nhấn của văn bản: nhân vật được khắc họa qua diện mạo, ngôn ngữ đối thoại, diễn biến tâm trạng và qua lời nhận xét, bình luận của các nhân vật khác, bởi vậy chân dung nhân vật hiện lên chân thực, sinh động hơn.

Với nghệ thuật kể chuyện đặc sắc, ngôn ngữ giản dị, lôi cuốn Nam Cao đã cho người đọc thấy chân dung số phận bất hạnh của người nông dân trước cách mạng, họ bị đẩy đến bước đường cùng phải tìm đến cái chết. Nhưng đằng sau đó còn là chân dung tinh thần đẹp đẽ: giàu tình yêu thương và nhân cách cao đẹp.

Phân tích tác phẩm Lão Hạc (Mẫu 8)

Viết về đề tài nông dân trước cách mạng, ''Lão Hạc' là một truyện ngắn độc đáo, đặc sắc của nhà văn Nam Cao. Một truyện ngắn chứa chan tình người, lay động bao nỗi xót thương khi tác giả kể về cuộc đời cô đơn bất hạnh và cái chết đau đớn của một lão nông nghèo khổ. Nhân vật lão Hạc đã để lại trong lòng ta bao ám ảnh khi nghĩ về số phận con người, số phận người nông dân Việt Nam trong xã hội cũ.

Lão Hạc, một con người nghèo khổ, bất hạnh. Ba sào vườn, một túp lều, một con chó vàng... đó là tài sản, vốn liếng của lão. Vợ chết đã lâu, cảnh gà trống nuôi con, lão lần hồi làm thuê kiếm sống. Đứa con trai độc nhất không có trăm bạc để cưới vợ, cảm thấy 'nhục lắm' đã 'phẫn chí' đi phu đồn điền cao su Nam Kỳ, biền biệt năm, sáu năm chưa về. Tuổi già, sống cô quạnh, nỗi bất hạnh ngày thêm chồng chất. Lão Hạc chỉ còn biết làm bạn với con chó vàng. Lão bị ốm một trận kéo dài 2 tháng 18 ngày. Không một người thân bên cạnh đỡ đần, săn sóc cho một bát cháo, một chén thuốc! Tình cảnh ấy thật đáng thương! Tiếp theo một trận bão to, cây trái hoa màu trong vườn bị phá sạch sành sanh. Làng mất nghề sợi. Đàn bà con gái trong làng đi làm thuê rất nhiều, giành hết mọi việc. Sau trận ốm, lão Hạc yếu hẳn đi, chẳng ai thuê lão đi làm nữa. Thất nghiệp! Giá gạo mỗi ngày một cao. Lão và cậu Vàng, mỗi ngày ăn hết ba hào gạo mà vẫn 'đói'. Bao nhiêu tiền bán hoa lợi trong vườn dành dụm được bấy lâu nay, lão đã chi tiêu gần hết trong trận ốm!

''Nhưng đời người ta không chỉ khổ một lần (...). Lão Hạc ơi! Ta có quyền giữ cho ta một tí gì đâu?'. Nhân vật ông giáo đã nghĩ như thế khi nghe lão Hạc nói về ý định phải bán con chó. Cậu Vàng 'ăn khỏe', mỗi ngày cậu ấy ăn 'bỏ rẻ cũng mất hào rưỡi, hai hào'. Lão Hạc rất yêu cậu Vàng, nhưng 'lấy tiền đâu mà nuôi được?' Lão Hạc phải bán cậu Vàng cho thằng Xiên, thằng Mục. Bán cậu Vàng xong, lão Hạc bị đẩy sâu xuống đáy vực bi thảm. Lão cảm thấy mình là một kẻ 'tệ lắm', đã già mà còn 'đánh lừa một con chó'. Đói khổ, cô đơn ngày một thêm nặng nề lão Hạc chỉ ăn khoai, ăn củ chuối, ăn sung luộc, ăn rau má, thỉnh thoảng một vài củ ráy, hay bữa trai bữa ốc. Lão từ chối mọi sự giúp đỡ của ông giáo một cách 'gần như là hách dịch'. Lão xem ông giáo là chỗ dựa tinh thần của lão bấy lâu nay. Lão Hạc đã ăn bả chó để tự tử. Lão chết đau đớn thê thảm: đầu tóc rũ rượi, mắt long sòng sọc, tru tréo, bọt mép sùi ra vật vã đến hai giờ đồng hồ rồi mới chết! Cái chết thật là dữ dội!

Số phận một con người, một kiếp người như lão Hạc thật đáng thương. Với chủ nghĩa nhân đạo thống thiết, Nam Cao đã nói lên bao tình thương xót đối với những con người đau khổ, bế tắc phải tìm đến cái chết thê thảm. Chí Phèo tự sát bằng mũi dao, Lang Rận thắt cổ chết... Và lão Hạc đã quyên sinh bằng cái bả chó! Lão Hạc đã từng hỏi ông giáo: ''... nếu kiếp người cũng khổ nốt thì ta nên làm kiếp gì cho thật sướng?'. Câu hỏi ấy đã thể hiện nỗi đau khổ tột cùng của một kiếp người.

Lão Hạc, một con người chất phác, hiền lành, nhân hậu. Lão rất yêu con. Biết con buồn vì không có tiền để cưới vợ lão thương con lắm.... Lão đau đớn khi con sắp đi làm phu đồn điền cao su. Lão chỉ biết khóc: 'Thẻ của nó, người ta giữ. Hình của nó, người ta đã chụp rồi (...). Nó là người của người ta rồi, chứ đâu còn là con tôi ?'. 'Cao su đi dễ khó về' (Ca dao). Con trai lão Hạc đã đi 'bằn bặt' năm, sáu năm chưa về. Hoa lợi trong vườn, bán được bao nhiêu lão dành dụm cho con, hi vọng khi con trở về 'có chút vốn mà làm ăn'. Lão tự bảo: 'Mảnh vườn là của con ta. Của mẹ nó tậu thì nó hưởng...'. Đói khổ quá, nhưng lão Hạc đã giữ trọn vẹn ba sào vườn cho con. Lão đã tìm đến cái chết, thà chết chứ không chịu bán đi một sào. Tất cả vì con, một sự hi sinh thầm lặng cực kì to lớn!

Lòng nhân hậu của lão Hạc được thể hiện sâu sắc đối với con chó vàng, mà người con trai để lại. Lão quý nó, đặt tên nó là 'cận Vàng'. Cho nó ăn cơm trong bát sứ như nhà giàu. Bắt rận hoặc đem nó ra cầu ao tắm. Lão ăn gì cũng chia cho cậu Vàng cùng ăn. Lão ngồi uống rượu, cậu Vàng ngồi dưới chân, lão nhắm một miếng lại gắp cho nó một miếng như người ta gắp thức ăn cho con trẻ. Lão tâm sự với cậu Vàng như tâm sự với một người thân yêu ruột rà: 'Cậu Vàng của ỏng ngoan lắm! Ông không cho giết... Ông để cậu Vàng ông nuôi...'. Có thể nói, cậu Vàng được lão Hạc chăm sóc, nuôi nấng như con, như cháu; nó là nguồn vui, chỗ dựa tinh thần, nơi san sẻ tình thương, giúp lão Hạc vơi đi ít nhiều nỗi buồn cô đơn, cay đắng. Cậu Vàng là một phần cuộc đời lão Hạc. Nó đã tỏa sáng tâm hồn và làm ánh lên bản tính tốt đẹp của ông lão nông đau khổ, bất hạnh này. Vì thế, sau khi bán cậu Vàng đi, từ túng quẫn, lão Hạc chìm xuống đáy bể bi kịch, dẫn đến cái chết vô cùng thảm thương.

Lão Hạc là một nông dân nghèo khổ mà trong sạch, giàu lòng tự trọng. Trong đói khổ cùng cực phải ăn củ chuối, củ ráy... ông giáo mời lão ăn khoai, uống nước chè, lão cười hồn hậu và khất 'ông giáo cho để khi khác'. Ông giáo ngấm ngầm giúp đỡ, lão từ chối 'một cách gần như hách dịch'. Bất đắc đĩ phải bán con chó; bán xong rồi, lão đau đớn, lương tâm dằn vặt: 'thì ra tôi già bằng này tuổi đầu rồi còn đánh lừa một con chó'. Ba sào vườn gửi lại nguyên vẹn cho con trai, như một lời nguyền đinh ninh: 'Cái vườn là của con ta (...). của mẹ nó tậu thì nó hưởng'. Trước khi chết, lão gửi lại ông giáo mảnh vườn cho con, và gửi lại 30 đồng bạc để 'lỡ có chết gọi là của lão có tí chút...', vì lão không muốn làm phiền đến hàng xóm. Nam Cao đã tinh tế đưa nhân vật Binh Tư, một kẻ 'làm nghề ăn trộm' ở phần cuối truyện, tạo nên một sự đối sánh đặc sắc, làm nổi bật tấm lòng trong sạch, tự trọng của lão Hạc, một lão nông chân quê đáng trọng.

Tóm lại, cuộc đời của lão Hạc đầy nước mắt, nhiều đau khổ và bất hạnh. Sống thì âm thầm, nghèo đói, cô đơn; chết thì quằn quại, đau đớn. Tuy thế, lão Hạc lại có bao phẩm chất tốt đẹp như hiền lành, chất phác, vị tha, nhân hậu, trong sạch và tự trọng... Lão Hạc là một điển hình về người nông dân Việt Nam trong xã hội cũ được Nam Cao miêu tả chân thực, với bao trân trọng xót thương, thấm đượm một tinh thần nhân đạo thống thiết.

Nam Cao ...

Phân tích tác phẩm Lão Hạc (Mẫu 9)

Nam Cao là một nhà văn lớn của người nông dân Việt Nam, đặc biệt là người nông dân trước Cách mạng tháng Tám 1945. Ông vẫn cảm nhận được những vẻ đẹp cao quý trong tâm hồn của họ trước bờ vực của cái đói, cái nghèo. Truyện ngắn 'Lão Hạc' của nhà văn là một tác phẩm như thế. Nhân vật chính của tác phẩm - nhân vật lão Hạc - dù có một hoàn cảnh bất hạnh, đau đớn nhưng lão vẫn giữ được tình yêu thương đối với những người thân yêu và đặc biệt là một lòng tự trọng cao cả. Qua nhân vật này, nhà văn đã thể hiện tư tưởng nhân đạo tiến bộ và sâu sắc.

Lão Hạc cũng như bao người nông dân Việt Nam khác phải đối mặt với cái nghèo, cái đói của cuộc sống cơ cực, tăm tối trước Cách mạng. Nhưng lão còn có những hoàn cảnh riêng vô cùng bất hạnh. Vợ lão chết sớm. Con trai lão phẫn chí vì nghèo không lấy được người mình yêu nên bỏ đi đồn điền cao su. Lão chỉ có con Vàng là kỷ vật của con để làm bạn. Vậy là cùng một lúc lão phải đối mặt với bao đau khổ: cái đói, sự cô đơn và tuổi già với ôm đau, bệnh tật. Rồi cuộc đời cực khổ, dồn lão đến mức hết đường sinh sống. Lão phải dứt ruột bán đi con chó Vàng mà lão yêu thương nhất. Lão bán con chó trong niềm khổ đau tột cùng: 'Mặt co rúm lại, những nếp nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra, cái đầu ngoẹo về một bên, cái miệng móm mém mếu như con nít', 'lão hu hu khóc'.

Ban đầu là 'luôn mấy hôm lão chỉ ăn khoai', 'khoai cũng hết, lão chế tạo được món gì, ăn món ấy. Hôm thì lão ăn củ chuối, hôm thì lão ăn sung luộc, hôm thì ăn rau má, với thỉnh thoảng một vài củ ráy hay bữa trai, bữa ốc'. Rồi đến mức chẳng còn gì để ăn, để sống. Rồi điều gì đến sẽ phải đến. Không còn đường sinh sống, lão Hạc chỉ còn đường chết. Và đó là một cái chết thật đau đớn, thật tủi nhục: chết 'nhờ' ăn bả chó tự tử! Cái chết của lão dữ dội vô cùng: lão sùi bọt mép, lão co giật phải hai người đàn ông lực lưỡng đè lên. Cái chết ấy khiến người đọc liên tưởng đến cái chết của con chó Vàng để rồi rùng mình nhận ra rằng cái chết của lão đâu khác gì cái chết của một con chó. Đói nghèo như thế, khổ đau như thế nhưng lão không vì vậy mà tha hóa về nhân phẩm. Binh Tư đã tưởng lão xin bả chó để ăn trộm. Ông giáo cũng nghi ngờ lão. Nhưng không, Lão Hạc vẫn giữ được vẹn nguyên tâm hồn dào dạt yêu thương đáng quý, đáng trọng của người nông dân và cả sự tự trọng cao đẹp của mình.

Lão yêu thương con rất mực. Văn học Việt Nam đã có những 'Cha con nghĩa nặng' của Hồ Biểu Chánh, 'Chiếc lược ngà' của Nguyễn Quang Sáng, ngợi ca tình phụ tử. Và trong đó cũng cần nhắc đến 'Lão Hạc' của Nam Cao. Vì thương con, lão chấp nhận đối mặt với cô đơn, với tuổi già để con ra đi cho thỏa chí. Con đi rồi, lão dồn cả yêu thương vào con chó Vàng. Đừng nghĩ đơn giản rằng lão cưng chiều 'cậu' Vàng vì đó là con chó khôn, chó đẹp. Điều quan trọng nhất khiến lão yêu quý con Vàng đến mức chia với nó từng cái ăn, cho nó ăn vào bát như người, rồi đến lúc nó chết lão quằn quại, đau đớn là bởi con chó là kỉ vật duy nhất mà con trai lão để lại. Nhìn con chó, lão tưởng như được thấy con mình.

Không chỉ vậy, lão thương con đến độ chấp nhận cái đói, rồi cả cái chết chứ không chịu bán đi mảnh vườn của con. Nếu lão bán mảnh vườn, ắt lão sẽ đủ ăn tiêu để vượt qua thời khốn khó. Nhưng lão lại lo khi con trai về không có đất sinh sống làm ăn. Vậy là lão đã nhận lấy cái chết rồi nhờ ông giáo giữ đất cho con. Chao ôi! Tình yêu thương con của lão thật cảm động biết mấy! Yêu thương những người thân yêu ruột thịt, lão Hạc còn là một người sống đầy tự trọng trước cuộc đời nhiều cám dỗ và tội lỗi. Vào hoàn cảnh như lão, người ta đã có thể ăn trộm, ăn cắp hay thậm chí ăn bám vào người khác (như Binh Tư chẳng hạn, hay người đàn bà trong 'Một bữa no' của Nam Cao..) nhưng lão Hạc thì không.

Với sự giúp đỡ của ông giáo (mà cũng có gì đâu, đó chỉ là củ khoai, củ sắn) lão 'từ chối gần như hách dịch' khiến ông giáo nhiều khi cũng chạnh lòng. Binh Tư ngỡ rằng lão xin bả để ăn trộm chó 'lão cũng ra phết đấy chứ chẳng vừa đâu'. Đến lượt ông giáo cũng nghi ngờ: 'con người đáng kính ấy bây giờ cũng theo gót Binh Tư để có ăn ư? cuộc đời quả thật cứ mỗi ngày một thêm đáng buồn'. Nhưng cuối cùng tất cả đều ngỡ ngàng, sửng sốt trước cái chết đột ngột của lão. Hay còn cách khác: lão có thể bán quách mảnh vườn đi. Nhưng lão lại nghĩ rằng đó là mảnh vườn của con lão. Và lão đã thà chết chứ không ăn của con!

Lòng tự trọng của lão Hạc rực sáng nhất ngay khi thân xác lão đau đớn nhất. Lão đã chọn cái chết, một cái chết khốc liệt để tâm hồn mình được trong sạch, được trọn vẹn tình nghĩa với tất thảy mọi người - kể cả với con chó Vàng tội nghiệp. Nhưng còn một chi tiết khác cũng cảm động vô cùng. Lão đã tính toán để ngay cả khi chết đi rồi cũng không làm phiền đến mọi người: lão đã gửi ông giáo mấy chục đồng bạc, định khi mình nằm xuống thì nhờ ông giáo lo liệu ma chay khỏi làm phiền hàng xóm! Hỡi ôi lão Hạc! Xây dựng nhân vật lão Hạc, Nam Cao đã sử dụng nghệ thuật khắc họa nhân vật tài tình. Điều đó được thể hiện trong đoạn văn miêu tả bộ dạng, cử chỉ của lão Hạc khi kể cho ông giáo chuyện lừa bán cậu Vàng, trong đoạn miêu tả sự vật vã đau đớn dữ dội của lão Hạc trước lúc chết. Ngôn ngữ nhà văn sử dụng trong tác phẩm sinh động, ấn tượng, giàu tính tạo hình và hết sức gợi cảm.

Qua nhân vật lão Hạc, nhà văn đã thể hiện tinh thần nhân đạo tiến bộ sâu sắc. Nam Cao đã đồng cảm đến tận cùng với cái nghèo, cái đói của người nông dân Việt Nam trong nạn đói 1945. Thời cuộc đã dồn họ đến đường cùng và lối thoát nhanh chóng nhất là cái chết nghiệt ngã. Nhưng trên hết, nhà văn đã biết nâng niu trân trọng vẻ đẹp tâm hồn cao khiết của người nông dân ngay cả khi họ bước vào đường cùng. Không chỉ giàu tình yêu thương, người nông dân còn sống đầy tự trọng. Trong cái đói, tự trọng là thứ gì đó xa xỉ vô cùng. Vì miếng ăn, người ta có thể tàn nhẫn, dã man, thậm chí mất hết nhân tính. Nhưng đáng trọng thay lão Hạc, lão không chỉ giữ được tình thương tươi mát mà còn giữ được lòng tự trọng vàng đá của mình.

Và chính nhờ vẻ đẹp tươi sáng ấy của lão Hạc mà Nam Cao đã chiêm nghiệm: 'Cuộc đời chưa hẳn đáng buồn'. Chưa đáng buồn bởi còn có những con người cao quý như Lão Hạc. Viết câu văn ấy, nhà văn đã bày tỏ thái độ tin tưởng đối phẩm cách tốt đẹp của người nông dân Việt Nam trước Cách mạng. Điều ấy đáng quý vô cùng bởi trước Cách mạng, người nông dân bị coi rẻ như cỏ rác, thậm chí có nhà văn còn nhận định người nông dân 'như những con lợn không tư tưởng'. Và bởi thế, tư tưởng của Nam Cao đáng ca ngợi biết bao!

Nhân vật lão Hạc của nhà văn Nam Cao là một nhân vật có nhiều đặc điểm đáng quý, đáng trân trọng. Từ lão Hạc, người nông dân Việt Nam có quyền tự hào về tâm hồn và phẩm cách của mình. Dựng lên nhân vật này, nhà văn Nam cao đã khẳng định một quan điểm giàu tính nhân đạo sâu sắc.

Phân tích tác phẩm Lão Hạc (Mẫu 10)

“Chao ôi ! Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật có thể chỉ là những tiếng đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than” (Giăng sáng). Quan niệm nghệ thuật vị nhân sinh đó đã chi phối sáng tác cả đời của nhà văn Nam Cao.

Những trang văn của ông được viết lên bởi tấm lòng nhân đạo cao cả, bởi trái tim không thôi trăn trở về số kiếp khổ đau của con người. Những Chí Phèo, Lão Hạc, Lang Rận, những Thứ, Điền, Hộ,… đang ngụp lặn trong dòng đời nhiều cay đắng. Họ ám ảnh ta bằng chính cuộc đời của họ. Trong đó hình ảnh Lão Hạc cứ mãi chập chờn.

Cũng giống như biết bao nhân vật của văn học hiện thực phê phán 1930 – 1945, lão Hạc là một cố nông nghèo khổ. Cùng với nhân vật người trí thức, người nông dân là đối tượng mà tác giả dành nhiều sự ưu tâm nhất. Trong sáng tác của Nam Cao, môi trường, hoàn cảnh sống thường hiện hình qua cái đói, cái nghèo, miếng ăn và các định kiến xã hội. Lão Hạc sống suốt đời trong sự bủa vây của cái nghèo, cái đói.

Đã nghèo, lại goá vợ, lão sống một mình trong cảnh “gà trống nuôi con”. Cũng như bao nhiêu cố nông nghèo khổ ở nông thôn, lão Hạc không có ruộng cày. Toàn bộ gia tài của lão chỉ có vẻn vẹn một con chó và một mảnh vườn. Mảnh vườn ấy có được là do vợ lão “cố thắt lưng buộc bụng, dè sẻn mãi, mới để ra được năm mươi đồng bạc tậu”.

Đó là mảnh vườn còm cõi, hoa màu của nó cũng chỉ đủ để lão bòn mót. Cho nên, lão phải đi làm thuê, làm mướn, đem sức mình đổi lấy miếng ăn. Miếng ăn, cái đói, cái nghèo đã tạo nên gia cảnh, tạo nên cái số kiếp của lão. Lão rất thấm thìa cái cảnh tủi nhục của mình. Có lần lão chua xót nói với ông giáo kiếp người như lão chỉ nhỉnh hơn kiếp của một con chó.

Cũng vì nghèo đói, lão Hạc trở thành người cha phải bó tay trước hạnh phúc của người con trai độc nhất. Vì không có tiền cưới vợ nên con trai lão không lấy được người mình yêu. Anh tính bán mảnh vườn lo cưới vợ nhưng nghe lời bố lại thôi. “Lão thương con lắm. Nhưng biết làm sao được.

Đó là tình thương đầy bất lực của người cha. Rồi cũng chính cái đói, cái nghèo đã cướp đi mất đứa con trai duy nhất. Không chịu nổi cái nhục của kiếp nghèo, anh con trai lão phẫn chí bỏ làng, bỏ cha, “kí giấy xin đi làm đồn điền cao su…”. Ta không cầm nổi nước mắt khi nghe lão kể lại việc con đi : “Tôi chỉ còn biết khóc chứ còn biết làm sao được nữa ? Thẻ của nó, người ta giữ. Hình của nó, người ta đã chụp rồi. Nó lại đã lấy tiền của người ta. Nó là người của người ta rồi, chứ đâu có còn là con tôi.

Câu chuyện lão kể lại như đang xảy ra. Lão đã khóc, lão đang khóc, đang đau nỗi đau xé ruột của một người cha hoàn toàn bất lực trước cuộc sống của người con. Vì nghèo đói, lão cũng phải bán nốt cậu Vàng – người bạn duy nhất, điểm tựa tinh thần, sợi dây duy nhất gắn lão với thằng con trai. Và cũng vì nghèo đói, vì biết bao gánh nặng ở đời, lão đã phải lựa chọn, một sự lựa chọn đầy nghiệt ngã, bi đát: cách chết của một con chó.

Cả cuộc đời của lão không có lấy một bữa no. Nghèo khổ cứ dần dần lấy đi của lão tất cả, đẩy lão vào bước đường cùng không có lấy một lối thoát. Số phận, cuộc đời của lão cũng là một điển hình cho số phận bi đát của người nông dân Việt Nam trước Cách mạng.

Nếu chỉ dừng lại ở đây, Nam Cao cũng chỉ là một nhà văn tả thực bình thường. Chủ nghĩa nhân đạo của Nam Cao luôn làm ấm nóng trái tim người đọc, luôn làm cho người ta tin vào cuộc đời dù cuộc đời còn nhiều cay đắng, bất hạnh. Ở Lão Hạc là một niềm tin bất diệt vào con người. Dù trong hoàn cảnh nào thì các nhân vật của Nam Cao đều cố gắng vươn lên ánh sáng, đều khao khát được sống đúng là con người. Lão Hạc dù nghèo khổ, bất hạnh nhưng ta nhận ra ở người cha già ấy những nét nhân cách thật đáng trọng.

Trước hết, đó là một người cha giàu tự trọng, ở đời, nhiều khi nghèo đi với hèn. Cái nghèo đôi lúc làm méo mó nhân cách con người, làm họ bị tha hoá, biến chất. Những ngày tháng gần cuối cuộc đời, khi đã “có đồng nào, cụ nhặt nhạnh” đưa cả cho ông giáo, lão chỉ bòn củ khoai, củ chuối cho qua ngày. Ông giáo “giấu giếm vợ thỉnh thoảng giúp đỡ ngấm ngầm lão”. Nhưng lão từ chối sự giúp đỡ đó “một cách hách dịch”.

Cũng vì tự trọng, vì thương con lão quyết không ăn vào một đồng của con. Cũng vì tự trọng mà trước khi chết, lão nhịn ăn để lại tiền làm ma vì không muốn liên lụy đến hàng xóm, láng giềng. Sự tự trọng đó là nét nhân cách đẹp, đáng trân trọng của một lão bần cố nông. “Đói cho sạch, rách cho thơm” thật đúng với trường hợp của lão Hạc.

Nhưng điều quan trọng nhất làm cho nhân vật lão Hạc của nhà văn Nam Cao để lại niềm cảm động và cảm phục khôn nguôi nơi bạn đọc chính là tấm lòng yêu thương con hết mực của lão. Cả cuộc đời đói khổ chính là sự thử thách tình phụ tử của lão và cũng chính là cả cuộc đời lão dành trọn tình yêu thương cho con. Vì thương con, yêu con nên lão luôn bòn mót, dành dụm tất cả cho con.

Trong từng nếp nghĩ của lão Hạc bao giờ cũng thấm đẫm đức hi sinh cao cả. Trước khi đi phu, anh con trai biếu lão ba đồng bạc, để lại cho lão con chó, dặn lão “bòn vườn đất với làm thuê làm mướn cho người ta thế nào cũng đủ ăn”. Nhưng lão đã tự xoá đi cái quyền sở hữu của mình đối với mảnh vườn ấy. Sau khi con đi, lão tự nhủ không động đến những gì là của con. Lão dành dụm tất cả với hi vọng gom góp để con lão khi trở về sẽ đủ tiền cưới vợ.

Vì không đủ tiền cưới vợ, nên con lão phẫn chí bỏ đi làm đồn điền cao su. Vì vậy, lão Hạc rất thương con. Nhưng lão không thể làm gì cho con nên lão chỉ biết khóc. Những giọt nước mắt của một người đàn ông đau khổ, của một người bố giàu lòng thương yêu con nhưng bất lực trước đói nghèo khiến người đọc thấy xót xa, quặn thắt.

Tinh yêu thương con lão gửi cả vào cậu Vàng hay yêu thương, chăm sóc cậu Vàng cũng chính là biểu hiện của tình yêu thương con vô hạn. “Lão gọi nó là cậu Vàng như một bà hiếm hoi gọi đứa con cầu tự. Thỉnh thoảng không có việc gì làm, lão lại bắt rận cho nó hay đem nó ra ao tắm. Lão cho nó ăn cơm trong một cái bát như một người giàu. Lão ăn gì lão cũng chia cho nó cùng ăn…, lão nói với nó như nói với một đứa cháu bé về bố nó”.

Với lão Hạc, cậu Vàng không những là một người bạn chia sẻ những vui buồn của cuộc sống mà quan trọng hơn, cậu Vàng chính là sợi dây duy nhất nối cha con lão gần nhau, nuôi dưỡng hình ảnh người con trai trong trái tim của lão. Tình cảm với cậu Vàng không chỉ là biểu hiện của tấm lòng nhân ái, yêu thương loài vật mà còn là biểu hiện xúc động của tình phụ tử cao đẹp.

Vì thế ta càng thấu hiểu hơn nỗi đau khổ và những giọt nước mắt ân hận của lão sau khi bán cậu Vàng : “Lão cố làm ra vui vẻ. Nhưng trông lão cười như mếu và đôi mắt lão ầng ậng nước”. Lão nhận mình là kẻ bất nhân, tên lừa đảo đối với một con chó vốn tin yêu mình. Nếu không phải là người yêu thương cậu Vàng hết mực thì lão Hạc không thể có những tâm trạng dằn vặt như thế sau khi bán con chó.

Biểu hiện cao nhất của tình yêu thương con của lão Hạc là cái chết bi phẫn ở cuối thiên truyện. Đó là một cái chết không hề bình thường. Lão chọn cái chết tức tưởi, quằn quại trong đau đớn như cái chết của một con chó: “Lão Hạc đang vật vã ở trên giường, đầu tóc rũ rượi, quần áo xộc xệch, hai mắt long sòng sọc. Lão tru tréo, bọt mép sùi ra, khắp người chốc chốc lại bị giật mạnh một cái, nảy lên,… Lão vật vã đến hai giờ đồng hồ rồi mới chết. Cái chết thật là dữ dội”. Phải chăng, lão Hạc chọn cách chết đó như muốn trừng phạt chính bản thân mình khi đã bán cậu Vàng ?

Phân tích tác phẩm Lão Hạc (Mẫu 11)

Nam Cao là nhà văn hiện thực xuất sắc trong giai đoạn văn học 1930 - 1945. Qua nhiều tác phẩm, tác giả đã vẽ nên khung cảnh tiêu điều, xơ xác của nông thôn Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám. Sự đói khổ ám ảnh nhà văn bởi nó ảnh hưởng không ít tới nhân cách, nhưng trong cảnh nghèo đói thê thảm, phẩm chất tốt đẹp của người nông dân vẫn tồn tại và âm thầm tỏa sáng. Truyện ngắn Lão Hạc thể hiện cái nhìn nhân đạo sâu sắc của Nam Cao. Trong đó, nhân vật chính là một nông dân gặp nhiều nỗi bất hạnh vì nghèo đói nhưng chất phác, đôn hậu, thương con và có lòng tự trọng.

Vợ mất sớm, lão Hạc dồn tất cả tình yêu thương cho đứa con trai duy nhất. Lão sẽ sung sướng biết dường nào nếu con trai lão được hạnh phúc, nhưng con trai lão đã bị phụ tình chỉ vì quá nghèo, không đủ tiền cưới vợ. Thương con, lão thấu hiểu nỗi đau của con khi anh nghe lời cha, không bán mảnh vườn để lấy tiền cưới vợ mà chấp nhận sự tan vỡ của tình yêu. Càng thương con, lão càng xót xa đau đớn vì không giúp được con thỏa nguyện, đến nỗi phẫn chí bỏ nhà đi phu đồn điền đất đỏ mãi tận Nam Kì. Mỗi khi nhắc đến con, lão Hạc lại rơi nước mắt. Lão Hạc rất quý con chó vì nó là kỉ vật duy nhất của đứa con trai. Lão trìu mến gọi là cậu Vàng và cho nó ăn cơm bằng chiếc bát lành lặn. Suốt ngày, lão thầm thì to nhỏ với con Vàng. Với lão, con Vàng là hình bóng của đứa con trai yêu quý, là người bạn chia sẻ cô đơn với lão. Vì thế nên bao lần định bán con Vàng mà lão vẫn không bán nổi.

Nhưng nếu vì nhớ con mà lão Hạc không muốn bán cậu Vàng thì cũng chính vì thương con mà lão phải dứt khoát chia tay với nó. Lão nghèo túng quá! Lão đã tính chi li mỗi ngày cậu ấy ăn thế bỏ rẻ cũng mất hai hào đấy. Cứ mãi thế này thì tôi lấy tiền đâu mà nuôi được... Thôi bán phắt đi, đỡ đồng nào hay đồng ấy. Bây giờ, tiêu một xu cũng là tiêu vào tiền của con. Tiêu lắm chỉ chết nó! Thế là vì lo tích cóp, giữ gìn cho con trai chút vốn mà lão Hạc đành chia tay với con chó yêu quý. Đã quyết như thế nhưng lão vẫn đau đớn, xót xa. Lão kể cho ông giáo nghe cảnh bán cậu Vàng với nỗi xúc động cực độ. Lão đau khổ dằn vặt vì cảm thấy mình đã đánh lừa một con chó. Nỗi khổ tâm của lão cứ chồng chất mãi lên. Trước đây, lão dằn vặt mãi về chuyện vì nghèo mà không cưới được vợ cho con, thì bây giờ cũng chỉ vì nghèo mà lão thêm day dứt là đã cư xử không đàng hoàng với một con chó. Lão cố chịu đựng những nỗi đau đớn ấy cũng chỉ nhằm một mục đích là giữ gìn chút vốn cho con.

Biểu hiện cao nhất của tình yêu thương con chính là cái chết của lão. Ông lão nông dân nghèo khổ ấy đã tính toán mọi đường: “Bây giờ lão chẳng làm gì được nữa... Cái vườn này là của mẹ nó chắt chiu dành dụm cho nó, ta không được ăn vào của nó... Ta không thể bán vườn để ăn…”. Chính vì thương con, muốn giữ cho con chút vốn giúp nó thoát khỏi cảnh nghèo mà lão Hạc đã chọn cho mình cái chết. Đó là một sự chọn lựa tự nguyện và dữ dội. Nghe những lời tâm sự của lão Hạc với ông giáo, không ai có thể kìm nổi lòng xót thương, thông cảm và khâm phục. Một con người vì nghèo đói mà bất hạnh đến thế là cùng! Một người cha thương con đến thế là cùng!

Không chỉ có vậy, qua từng trang truyện, chúng ta còn thấy lão Hạc là người đôn hậu, chất phác. Suốt đời, lão sống quanh quẩn trong lũy tre làng. Trong làng chỉ có ông giáo là người có học nên lão tìm đến ông giáo để chia sẻ tâm sự. Lời lẽ của lão Hạc đối với ông giáo lúc nào cũng lễ phép và cung kính. Đó là cách bày tỏ thái độ kính trọng người hiểu biết, nhiều chữ của một lão nông. Cảnh ngộ lão Hạc đã đến lúc túng quẫn nhưng lão tự lo liệu, xoay xở, cố giữ nếp sống trong sạch, tránh xa lối đói ăn vụng túng làm càn. Thậm chí, lão kiên quyết từ chối sự giúp đỡ chỉ vì lòng thương hại.

Lão đã chuẩn bị kĩ lưỡng mọi việc. Trước khi chết, lão nhờ ông giáo viết văn tự để giữ hộ con trai mình mảnh vườn và gửi ông giáo 30 đồng để lo chôn cất. Lão không muốn mọi người phải tốn kém vì lão. Rất có thể vì tốn kém mà người ta lại chẳng oán trách lão sao? Không phiền lụy đến mọi người, đó cũng là cách để giữ gìn phẩm giá. Thì ra ông lão có vẻ ngoài gàn dở ấy lại có phẩm chất đáng quý biết nhường nào!

Nhà văn Nam Cao đã giúp chúng ta hiểu được nỗi khổ tâm, bất hạnh vì nghèo đói cùng những vẻ đẹp cao quý trong tâm hồn người nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám. Từ những trang sách của Nam Cao, hình ảnh lão Hạc luôn nhắc chúng ta nhớ đến những con người nghèo khó mà trong sạch với một tình cảm trân trọng và yêu quý.

Phân tích tác phẩm Lão Hạc (Mẫu 12)

Lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc. Lão không chỉ đại diện cho số phận cùng cực, bất hạnh của người nông dân trong xã hội cũ mà lão còn là đại diện cho những phẩn chất cao quý, tiềm tàng trong họ.

Trước hết lão hạc là người có số phận bất hạnh. Lão góa vợ, sống một mình nuôi con, vì gia cảnh nghèo khó, số tiền thách cưới lại quá cao nên lão không thể lấy vợ cho con, bởi vậy trong lòng lão lúc nào cũng mang tâm trạng dằn vặt, đau đớn. Cũng bởi việc này mà con trai lão bỏ đi đồn điền cao su, bặt vô âm tín.

Về già những tưởng có người chăm sóc thì lão lại phải sống trong cảnh cô đơn. Lão không được sống cuộc đời an nhàn, thảnh thơi, dù già nhưng lão vẫn đi làm thuê, để tích cóp cho con. Nhưng số phận trêu đùa, một trận ốm nặng lấy hết tiền lão đã dành dụm, trận bão cướp hết hoa màu.

Càng trớ trêu hơn khi cậu Vàng – kỉ vật con trai lão để lại, lão yêu nó hơn cả bản thân nhưng nay lão lại phải bán nó đi. Lão rơi vào bi kịch: bán hay không bán cậu Vàng. Nhưng thực tế khốn khó, dù vô cùng đau đớn lão cũng đành phải bán cậu Vàng. Sau khi bán cậu Vàng, lão rơi vào khủng hoảng tâm lí trầm trọng: “Lão cố làm ra vui vẻ. Nhưng trông lão cười như mếu và đôi mắt lão ầng ậng nước”, “mặt lão đột nhiên co dúm lại.

Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít. Lão hu hu khóc…”. Lão ân hận, day dứt khi đã bán cậu Vàng. Lão tự kết tội mình là đã đánh lừa một con chó. Trong cuộc đời đầy những vất vả, đổi trắng thay đen, người ta lừa lọc nhau để sống nhưng lão Hạc lại ăn năn vì đã bán một con chó. Điều này cho thấy sự ngay thẳng và nhân cách cao đẹp trong con người lão Hạc.

Dù đã bán cậu Vàng những cuộc sống vẫn lão ngày một nghèo khó, lão vớ được thứ gì ăn thứ đó và cuối cùng lão đã tìm đến cái chết như một cách tạ tội với cậu Vàng và giải thoát chính mình. Tuy nhiên, cách giải thoát của lão hết sức bi thảm: tự tử bằng việc ăn bả chó. Việc một con người giàu lòng yêu thương, trung thực phải tìm đến cái chết đau đớn vật vã như vậy tự bản thân nó đã bao hàm ý nghĩa lên án, tố cáo xã hội phi nhân tính.

Không chỉ vậy, lão còn là một người cha hết mực thương con và có trách nhiệm. Khi con bỏ đi đồn điền cao su, lão luôn cảm thấy đau đớn, xót xa vì đã không làm tròn vai trò của một người cha. Bao nhiêu tình yêu thương con lão dồn hết vào việc chăm sóc cậu vàng: lão âu yếm trò chuyện với nó, cho nó ăn cơm trong bát như nhà giàu,…

Lão không ngừng lao động, chắt chiu, tằn tiện để dành dụm cho con. Lão quyết tâm tìm mọi cách để giữ lại mảnh vườn cho con. Những ngày đau ốm, cùng trận bão đã cướp sạch đi tiền của và hoa màu của lão, những ngày sau đó lão sống lay lắt, tằn tiện cuối cùng lão quyết định tìm đến cái chết.

Trước khi chết lão sang nhà ông giáo gửi gắm lại mảnh vườn, để sau này đứa con trở về vẫn có nơi làm ăn sinh sống. Lão chu toàn trong tất cả mọi việc, không chỉ suy nghĩ trong hiện tại, mà còn bảo vệ tài sản cho con cả ở tương lai. Ông quả là có tình yêu thương con sâu sắc, tha thiết.

Lão Hạc còn là người có lòng tự trọng sâu sắc. Lão luôn sống bằng sức lao động của mình. Dù ông giáo có thiện ý giúp đỡ nhưng lão vẫn từ chối: “Luôn mấy hôm, tôi thấy lão Hạc chỉ ăn khoai. Rồi thì khoai cũng hết. Bắt đầu từ đấy, lão chế tạo được món gì, ăn món ấy. Hôm thì lão ăn củ chuối, hôm thì ăn sung luộc, hôm thì ăn rau má, với thỉnh thoảng ăn một vài củ ráy hay bữa ốc”.

Nhân cách trong sáng của lão còn thể hiện trong dòng nước mắt, trong lời nói đầy ân hận khi lão đã chót lừa cậu vàng, và lão đã lấy cái chết đau đớn, vật vã như một con chó để tạ lỗi với cậu Vàng. Trước khi chết lão chuẩn bị hết sức chu đáo, lão gửi lại tiền ma chay cho ông giáo để sau này khi chết đi không làm phiền đến hàng xóm. Lão quả thật là một con người có nhân cách cao đẹp đáng trân trọng.

Để miêu tả toàn bộ cuộc đời nhân vật, tác giả đã lựa chọn hình thức trần thuật hết sức phù hợp. Lấy người kể chuyện là ông giáo sẽ đem đến nhiều hiệu quả: là người gần gũi chứng kiến toàn bộ cảnh đời lão Hạc nên câu chuyện được thuật lại tự nhiên, chân thật, khách quan.

Việc trần thuật từ ngôi thứ nhất khiến cho mạch kể linh hoạt, kết hợp giữa kể, tả và bình luận. Nghệ thuật xây dựng nhân vật đặc sắc: tính cách, phẩm chất của nhân vật được thể hiện qua ngôn ngữ, hành động và sự đánh giá của các nhân vật khác. Ngôn ngữ nhân vật mang tính cá thể hóa cao độ.

Nhân vật lão Hạc đại diện cho người nông dân Việt Nam mang trong mình những phẩm chất tốt đẹp: tình yêu thương và lòng tự trọng, nhân cách cao đẹp. Qua nhân vật này tác giả vừa bộc lộ thái độ yêu thương, trân trọng đồng thời thể hiện sự cảm thông sâu sắc cho số phận bất hạnh của những người nông dân trước cách mạng.

Trailer 'Cậu Vàng' tái hiện cuộc sống ...

Phân tích tác phẩm Lão Hạc (Mẫu 13)

Từ xưa đến nay nói đến tình người, ta nói ngay đến 'Lão Hạc'. Tác phẩm này được coi là truyện ngắn xuất sắc của văn học hiện thực phê phán thời kỳ 1930 - 1945. Đó là một truyện ngắn chứa chan tình người, lay động bao nỗi xót thương khi tác giả kể về cuộc đời cô đơn, bất hạnh và cái chết đau đớn của một lão nông dân nghèo khổ. Nhân vật Lão Hạc đã khắc họa vào lòng người đọc một cách sâu đậm về hình ảnh một lão nông dân đáng kính với phẩm chất của con người đôn hậu, giàu lòng tự trọng và rất mực thương con.

Cuộc đời Lão Hạc là một chuỗi những đau khổ bất hạnh, một kiếp người chua chát và cay đắng từ khi sinh ra cho đến khi ra đi về cõi vĩnh hằng. Góa vợ từ khi còn trẻ, một mình lão gà trống nuôi con trong cảnh đói nghèo, lam lũ những mong con khôn lớn, trưởng thành làm chỗ nương tựa lúc ốm đau, khi tuổi già. Nhưng niềm hạnh phúc ấy đã không đến với lão. Vì không đủ tiền cưới vợ, anh con trai phẫn chí đăng tên đi phu làm đồn điền cao su. Cảnh chia lìa của cha con Lão Hạc không hẹn ngày sum họp. Lão Hạc mất vợ nay lại thêm nỗi đau mất con.

Cảnh khốn khó về vật chất hòa trong nỗi đau về tinh thần thành dòng lệ chảy trong trái tim chờ đợi khắc khoải của người cha. Nhưng cuộc đời dường như vẫn chưa buông tha lão. Bất hạnh rồi bất hạnh cứ liên tiếp giáng xuống đầu người cha khốn khổ ấy. Kiệt sức vì lam lũ lầm than, vì mòn mỏi chờ đợi.

Lão ốm nặng. Sau trận ốm đó lão ốm đi rất nhiều, không thể làm được những việc nặng. Làng mất nghề sợi, đàn bà rỗi rãi nhiều, có việc gì nhẹ họ đều tranh hết. Lão Hạc rơi vào cảnh bần cùng hóa hoàn toàn. Lão sống vật vờ với con ốc, con trai, củ khoai, củ ráy, sung luộc .... Những thứ cũng chẳng dễ gì kiếm được với một lão già đã cạn kiệt sức lực.

Cùng đường sống, Lão Hạc tìm đường đến cái chết, lấy cái chết để tự giải thoát cho mình. Lão đã ăn bả chó để tự tử. Lão chết đau đớn thê thảm 'đầu tóc rũ rượi, mắt long sòng sọc, mồm tru tréo bọt mép sùi ra. Vật vã đến 2 giờ đồng hồ rồi mới chết'. Cái chết thật dữ dội! Số phận một con người, một kiếp người như Lão Hạc thật đau thương.

Với ngòi bút nhân đạo tha thiết, Nam Cao đã nói lên bao tình thương nỗi xót xa con người đau khổ, bế tắc phải tìm đến cái chết như lão. Chí Phèo tự sát bằng lưỡi dao, Lang Rận thắt cổ chết và Lão Hạc cũng quyên sinh bằng bả chó! Lão Hạc từng hỏi ông giáo: 'nếu kiếp người cũng khổ nốt thì ta nên làm kiếp gì cho sướng?'. Câu hỏi ấy thể hiện nỗi đau khổ tột cùng của một con người sống nghèo khổ về vật chất nhưng rất giàu tình cảm.

Tình yêu thương con nồng nàn sâu sắc của lão là câu chuyện cảm động về tình cha con. Nhìn con đau khổ vì không có tiền cưới vợ, Lão Hạc khổ tâm vô cùng. Lão thấy mình như có lỗi với con và day dứt mãi. Khi con phẫn chí đăng trốn đi làm đồn điền cao su; trái tim người cha thật sự tan nát. Nỗi thương nhớ con thường trực trong người cha đã biến thành sự khắc khoải ngóng trông: 'Thằng cháu nhà tôi dễ đến hơn một năm nay chẳng có giấy má gì ông giáo ạ'.

Ta đọc được trong câu nói tình cảm ấm áp của người cha. Thương nhớ con lão dồn tình cảm âu yếm cậu vàng – kỉ vật của người con để lại. Cái tên cậu vàng đã chứa đựng tất cả tình cảm quý mến và thân thiết đối với một con vật – một kỉ vật. Không phải bất cứ người nào cũng có thể yêu thương con vật như vậy. Những cơn mưa bão liên miên, hoa màu trong vườn đều bị phá sạch, việc làm chẳng còn, nếu cứ tiếp tục như vậy thì sẽ ăn vào số tiền chắt chiu dành dụm cho con.

Đặt lên bàn cân mà tính, suất ăn của con chó cũng bằng lão, vậy thì tốn quá. Giữa số tiền dành dụm cho con và con chó – người bạn tâm tình, lão sẽ chọn ai đây? Để đi đến quyết định, lão đã phải dằn vặt đau khổ, lão suy nghĩ nhiều, nhiều lắm mới dũng cảm bán con chó.

Cuộc lựa chọn khó khăn tàn khốc diễn ra trong nước mắt. Nhưng nếu không bán con chó, lão sẽ chết và số tiền dành dụm cho con cũng chẳng còn. Lão bán chó đâu phải để ăn mà để lo tương lai cho đứa con. Hình ảnh Lão Hạc 'miệng méo xệch, khóc hu hu' khi nghĩ rằng mình đã lừa một con chó là hiện thân của tấm lòng cao cả''.

Bao nhiêu tình yêu thương con lão dồn cả vào việc quyết giữ bằng được mảnh vườn cho con. Khi đã hết đường sinh nhai, lão có thể bán vườn đi, nhưng lão không làm thế, lão thà chết chứ nhất định không chịu bán đi một sào. Thậm chí trước lúc chết lão còn tìm nơi nhờ cậy gửi gắm mảnh vườn ấy...

Cuộc đời Lão Hạc thật bi thương. Nhưng giữa cuộc đời khốn khó, Lão Hạc vẫn ý thức được nhân phẩm của mình. Lòng tự trọng của một người không cho phép lão nhận sự giúp đỡ của ông giáo mà lão biết chẳng sung sướng gì hơn lão, càng không cho phép lão phiền lụy đến bà con lối xóm. Ý thức được điều đó một cách sâu sắc, Lão Hạc đã nhịn ăn để dành tiền làm ma chay cho mình. Ta nhận thấy ở lão một triết lí sống cao đẹp biết dường nào.

Dưới một xã hội đen tối ngột ngạt, không ít người đã đánh mất nhân phẩm, hoặc tha hóa biến chất. Ta cũng dễ dàng tìm thấy họ qua một loạt sáng tác của Nam Cao. Nhưng khác với họ, dù nghèo đến đâu, Lão Hạc vẫn sống trong sạch và lương thiện. Chính nhân vật ông giáo đã nhận xét về lão: 'Binh Tư là một người láng giềng khác của tôi. Hắn là nghề ăn trộm nên vốn không ưa gì Lão Hạc bởi vì lão lương thiện quá'.

Hết kế sinh nhai lão có thể chọn con đường theo Binh Tư nhưng lão không làm như thế. Lão thà chết chứ nhất định không bán linh hồn cho quỷ sứ. Một cách sống và xử thế thật đáng trân trọng, phù hợp với đạo lý 'thác trong hơn sống đục' của nhân dân ta.

Cuộc đời của Lão Hạc đầy nước mắt, nhiều đau khổ và bất lực; sống thì âm thầm nghèo đói cô đơn; chết thì quằn quại đau đớn. Tuy thế, Lão Hạc lại có phẩm chất tốt đẹp như hiền lành chất phác, vị tha, nhân hậu, trong sạch và tự trọng .... Lão Hạc là một điển hình và người nông dân Việt Nam trong xã hội cũ, được Nam Cao miêu tả chân thực với biết bao trân trọng, xót thương, thấm đượm một tinh thần nhân đạo thống thiết.

Phân tích tác phẩm Lão Hạc (Mẫu 14)

Nam Cao, một nhà văn hiện thực xuất sắc trước cách mạng, đã để lại những tác phẩm đặc sắc về đời sống khó khăn của người nông dân. Trong truyện ngắn 'Lão Hạc', ông tinh tế thể hiện những phẩm chất cao quý của người nông dân nghèo. Lão Hạc, nhân vật chính, là một lão nông bất hạnh, nhưng vẫn giữ được những phẩm chất đáng trân trọng.

Câu chuyện được kể qua lời của ông giáo, người hàng xóm thân thiết với lão Hạc, tạo thêm tính chân thực và sinh động. Thông qua những mảnh đời buồn của lão, chúng ta cảm nhận được sự đoàn kết, tình cảm giữa con người và động vật, nhất là tình cảm đặc biệt giữa lão Hạc và chú chó cậu Vàng.

Cảnh lão bán cậu Vàng để có tiền nuôi sống mình và để dành cho con trai khiến người đọc cảm nhận được sự hy sinh và đau khổ. Lão không muốn tiêu pha vào những đồng tiền ít ỏi mà lão để dành cho con. Cảnh lão chia tay với cậu chó tri kỉ càng làm tăng thêm nỗi đau trong câu chuyện.

Điều đặc biệt là sự chuẩn bị cẩn thận của lão cho tương lai. Lão tìm đến ông giáo, nhờ ông giáo trông coi vườn và lo liệu ma chay nếu lão qua đời. Những suy nghĩ đơn giản nhưng chân thành và thấu hiểu của lão làm nổi bật tâm hồn lương thiện và tự trọng.

Cuộc sống khó khăn đã thúc đẩy lão Hạc tìm đến sự giải thoát trong cái chết. Câu chuyện không chỉ là hình ảnh sống động về cuộc sống nông thôn, mà còn là lời nhắc nhở về tình cảm, sự hy sinh và lòng trắc ẩn đằng sau cuộc sống bế tắc.

'Lão Hạc' là tác phẩm đầy tình cảm, nhẹ nhàng nhưng sâu sắc, khắc họa một góc đẹp của con người giữa bối cảnh khó khăn. Cuộc sống bế tắc của lão là một tấm gương cho chúng ta biết quý trọng những điều giản dị, những phẩm chất tốt đẹp nhất của con người.

Phân tích tác phẩm Lão Hạc (Mẫu 15)

Lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên là một trong những nhân vật 'để đời' của Nam Cao. Lão Hạc, một nông dân nghèo khổ, cùng quẫn, nhưng không bị biến chất như Chí Phèo, mà trái lại có một tâm hồn đẹp, một nhân cách cao thượng. Lão sống một thân một mình trong cô đơn, vất vả. Lão chỉ có đứa con trai duy nhất để nương tựa tuổi già thì anh ta lại phẫn chí bỏ đi phu đồn điền cao su- 'cao su đi dễ khó về'. Lão Hạc đành thui thủi làm thuê, làm mướn kiếm ăn, đồng thời cố nhặt nhạnh, dành dụm cho con.

Nhưng một trận ốm đã làm lão trở nên tay trắng. Sức yếu dần 'những công việc nặng không làm được nữa', việc nhẹ thì 'đàn bà tranh hết'. Lão Hạc không có việc. Rồi lại bão. Hoa màu trên mảnh vườn bị phá sạch sành sanh. Gạo cứ kém dần. 'Một lão với một con chó, mỗi ngày ba hào gạo mà gia sự còn đói gieo đói dắt. Cuối cùng lão phải ăn khoai. Khoai cũng hết. Bắt đầu từ đây, lão chế tạo được món gì, ăn món ấy. Hôm thì lão ăn củ chuối, hôm thì lão ăn sung luộc, hôm thì ăn rau má, với thỉnh thoảng một vài củ ráy, hay bữa trai, bữa ốc.

Thực ra tình cảnh lão Hạc đã làm gì bế tắc đến thế. Lão còn mảnh vườn đó, con chó vàng đó, có thể bán đi mà tiêu. Nhưng lão sống vì con chứ đâu vì mình. Điều này mấy ai hiểu cho lão. Người ta chỉ thấy lão lẩm cẩm. Có ông giáo hàng xóm là người có lòng ái ngại, nhưng vừa bày tỏ với vợ đã bị thị gạt phắt ngay: 'Cho lão chết! Ai bão lão có tiền mà chịu khổ! Nhà mình sung sướng gì mà giúp lão? Con mình cũng đói. Còn Binh Tư, một gã lưu manh chuyên đánh bả chó thì lại lấy làm khoái chí khi thấy lão đến xin mình một ít bả. Hắn tưởng đâu lão Hạc 'đói quá hoá liều' cũng quay sang trộm cắp như hắn. Hắn bĩu môi: 'Lão làm bộ đấy! Thật ra thì lão chỉ tẩm ngẩm thế, nhưng cũng ra phết chứ chẳng vừa đâu'. Ngay đến ông giáo tuy hiểu lão Hạc hơn cả mà cũng đâm ra nghi ngờ.

Người ta chỉ hiểu lão khi lão đã chết rồi. Lão tự tử bằng nắm bả chó của Binh Tư. Lão chết đi nhưng sẽ còn sống mãi trong lòng người như một tấm gương đạo đức hiếm có. Hiếm có người cha nào thương con như lão Hạc. Nghèo khó nhưng lúc nào cũng nghĩ đến bổn phận làm cha, lo làm tròn bổn phận ấy, dẫu có phải chịu khổ, chịu đói và chết bi thảm. Hình ảnh đứa con trái, nỗi lo chu tất cho con luôn ám ảnh, dằn vặt tâm trí lão. Hồi anh ta còn ở nhà, lão không cho anh ta bán vườn để cưới vợ cũng là xuất phát từ sự tính toán điều hơn lẽ thiệt của bậc làm cha. Thực ra lão dằn lòng lắm. Bởi đạo làm cha phải lo cho con một người vợ, một căn nhà - một tổ ấm gia đình. Song tình cảnh lão thì lo chưa chu toàn được. Anh con trai phẫn chí ra đi, ngày về khó hẹn, lão lại đã già.

Đã bao lần, lão ngỏ tâm sự này với ông giáo: tiền hoa lợi trong vườn, tiền bán con chó vàng, mảnh vườn, lão không dám đụng đến, vì đây là tiền của con, là tiền mà người làm cha phải để lại cho con. Nếu không, không phải 'đạo'. Đã bao lần lão tính tiền bòn vườn sủa con, 'không cho bán là ta chỉ có ý giữ cho nó, chứ có phải giữ để ta ăn đâu!... Ta bòn vườn của nó, cũng nên để ra cho nó, đến lúc nó về, nếu nó không đủ tiền cưới vợ thì ta thêm vào cho nó, nếu nó có đủ tiền cưới vợ thì ta cho vợ chồng nó để có chút vốn mà làm ăn'. Lão đã làm y như thế. Thà ăn khoai, ăn củ chuối, củ ráy chứ lão không ăn vào tiền của con, không chịu bán mảnh vườn của con.

Bao nhiêu tiền nhặt nhạnh được từ mảnh vườn, lão gửi tất cả nhờ ông giáo giữ hộ. Rồi lão chết để không bao giờ phải đụng đến. ôi, lão Hạc, con người bề ngoài thì có vẻ tiều tuỵ và gàn dở như vậy mà thật giàu tình nặng nghĩa. Mà đâu chỉ đối với đứa con. Tấm lòng nhân hậu của lão còn thể hiện ở cái tình rất nặng với con chó vàng mà lão gọi là 'cậu vàng' như một bà hiếm hoi gọi đứa con cầu tự. Cứ xem cái cách lão nựng con chó: 'À không! À không! Cậu vàng của ông ngoan lắm! ông không cho giết... ông để cậu vàng ông nuôi'..., hay cái vẻ mặt vô cùng đau khổ của lão khi kể cho ông giáo nghe lão đã bán con chó. 'Mặt lão tự nhiên co rúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít', đủ thấy lão thương xót con chó và cảm thấy mình có tội như thế nào khi phải bán nó đi.

Chân thật, chất phác, đôn hậu, tràn đầy tình thương và trách nhiệm, lão Hạc cũng thật giàu lòng tự trọng. Đối với ông giáo, người lão tin tưởng và quý trọng đến thế, lão cũng vẫn giữ ý để khỏi bị coi thường. Lão đói đấy, lão phàn nàn 'kiếp người như lão cũng khổ như kiếp chó' đấy, nhưng khi ông giáo mời lão ăn khoai, uống nước chè tươi, lão đã từ chối. Lão dứt khoát 'từ chối tất cả'. Khi ông giáo giấu vợ, thỉnh thoảng muốn ngấm ngầm giúp đỡ lão một chút gì, lão từ chối 'một cách gần như hách dịch'. Rồi lão cứ cố ý xa ông giáo dần dần.

Cuối cùng thì lão Hạc chết. Chủ động tìm đến cái chết, một cái chết bi thảm, khốc liệt như là cái chết của một con người cao quý. Bởi qua cái chết này, tất cả những phẩm giá cao đẹp của lão ánh lên, chiếu sáng thăm thẳm vào lòng người. Gần đây người ta đã dựng phim về các nhân vật của Nam Cao - phim Làng Vũ Đại ngày ấy. Nhà văn Kim Lân được mời đóng vai lão Hạc. Kim Lân đã nghiền ngẫm kĩ về nhân vật của mình, ông nói: 'Lão Hạc không chỉ là một người nghèo, đó là một con người có nhân cách, tự trọng và bất khuất'.

Chúng ta cũng hoàn toàn đồng ý với Kim Lân. Ta còn thấy rằng những phẩm chất ấy của lão Hạc đã cho ta những suy nghĩ sâu sắc. Cái chết của lão Hạc đã để lại cho chúng ta, cùng với nỗi xót thương vô hạn là nhiều bài học quý. Bài học sâu sắc nhất là trong bất kì thân phận nào, hoàn cảnh nào cũng phải giữ danh hiệu con người cao quý. Giữa người với người phải có trách nhiệm với nhau hơn, phải hiểu biết để đánh giá đúng và cảm thông với người khác hơn, phải tin tưởng hơn ở con người và cuộc đời. Và phải biết căm ghét xã hội bất công, những thế lực độc ác vùi dập, đày đọa những con người như lão Hạc.

Vợ ông giáo từng nói về lão Hạc: 'Cho lão chết! Ai bảo lão có tiền mà chịu khổ. Lão làm lão khổ chứ ai làm lão khổ!'. Nhưng thực ra sống làm người, có những điều dù khổ, dù phải tự làm khổ mình cũng phải giữ. Chết cũng giữ! Đó là những điều thuộc về đạo lí, nhân cách làm người như lão Hạc đã giữ.

Vì thế, đã hơn 60 năm (truyện Lão Hạc ra đời năm 1943), lão Hạc vẫn sống cùng chúng ta,sẽ còn sống cùng chúng ta. Và dẫu cho cuộc đời này còn nhiều nỗi đáng buồn nhưng có những con người như lão Hạc thì cuộc đời 'chưa hẳn đã đáng buồn'.

Phân tích tác phẩm Lão Hạc (Mẫu 16)

Nam Cao, một tác giả với những tác phẩm gây ấn tượng sâu sắc, đặ lại nhiều cảm xúc và tâm trạng cho độc giả. Mỗi tác phẩm của ông mang đậm dấu ấn của cuộc sống, khắc họa hình ảnh sống động về những con người bình dân, những khổ cực trong xã hội. Trong số đó, truyện ngắn “Lão Hạc” là một tác phẩm cảm động, nói lên về số phận đau buồn của người nông dân trước cách mạng tháng Tám. Tác phẩm là một minh chứng cho sự quý báu của tâm hồn con người trong những hoàn cảnh khó khăn nhất.

Nam Cao đặt nền tảng cho câu chuyện trong bối cảnh lịch sử khó khăn, nước mất, nhà tan, và nhân dân chìm đắm trong nghèo đói. Ông xây dựng nhân vật chính là một nông dân, tượng trưng cho số phận của người nông dân nghèo khó trong xã hội. Người kể chuyện là ông Giáo, người hàng xóm thân thiết của lão Hạc, tạo thêm sự chân thực và sinh động cho câu chuyện. Đọc giả sẽ theo dõi cuộc sống, những khó khăn và biến cố trong đời của một con người qua lời kể của ông Giáo.

Câu văn đơn giản nhưng chân thành, làm cho tâm hồn độc giả rung động trước mảnh đời cảm động. Mỗi đoạn văn khắc họa một phần của cuộc sống, nói về nghèo đói nhưng cũng toát lên vẻ nhân văn, lòng tốt và sự yêu thương chan chứa trong họ. Lão Hạc, nhân vật chính, là biểu tượng của người nông dân hiền lành, chất phác, sống chăm chỉ. Dù cuộc sống đầy thách thức, sức khỏe yếu đuối, lão vẫn giữ vững phẩm chất và lòng yêu thương cho con trai.

Lão Hạc đã phải đối mặt với sự bế tắc và túng quẫn, thậm chí nghĩ đến việc bán chó cậu Vàng để kiếm sống. Tuy nhiên, tình cảm quá mạnh mẽ giữa lão và cậu Vàng khiến lão không thể thực hiện quyết định đó. Sự đau lòng, giằng xé trong tâm hồn lão khiến sức khỏe của ông ngày càng suy giảm. Cuối cùng, để nuôi sống cậu Vàng, lão đã đưa ra quyết định khó khăn, phải lừa để bán chó. Đoạn mô tả cảnh bán chó không chỉ là một khảo cứu về tình cảm giữa người và thú cưng, mà còn là biểu tượng cho sự hy sinh và đau khổ của lão Hạc.

Cảnh chó Vàng ra đi đã làm cho tâm trạng người đọc trở nên xúc động. Lão Hạc, người nông dân chất phác, ngay cả khi đối mặt với cái chết cũng không quên giữ cho bản thân mình trong sạch. Tình yêu thương đối với con trai và sự quyết định kết liễu cuộc đời mình để không làm gánh nặng cho con, đều là những nét đẹp tâm hồn, làm đậm thêm giá trị nhân văn của tác phẩm.

Đoạn hội thoại giữa ông Giáo và vợ về việc lão Hạc bán chó cũng là một phần rất đặc sắc của tác phẩm. Sự bất lực, thất thường của ông Giáo khi nghe vợ nói về sự khó khăn và đói nghèo của gia đình lão Hạc, một lời nhắc nhở về lòng nhân ái và sự quan tâm đối với những người xung quanh. Tác giả gián tiếp truyền đạt thông điệp về sự nhạy cảm và hiểu biết đối với những hoàn cảnh khó khăn.

Cuối cùng, cái chết của lão Hạc không chỉ là một cái chết thể xác mà còn là một tình huống bi thảm, làm thức tỉnh nhận thức xã hội. Tác phẩm là một tác phẩm về sự bất công trong xã hội phong kiến, đưa người đọc suy ngẫm về sự túng quẫn và khốn khổ của người nông dân. Cái chết của lão Hạc không chỉ do bệnh tật, mà còn là hậu quả của một cuộc sống bế tắc và không lối thoát.

Truyện ngắn “Lão Hạc” của Nam Cao không chỉ là một tác phẩm văn học đầy tình cảm mà còn là gương mặt của những mảnh đời bất hạnh trong xã hội. Tác phẩm nhấn mạnh giá trị tâm hồn và lòng nhân ái, tạo nên một tác phẩm đặc sắc, khiến người đọc không thể quên.

Lão Hạc bán chó, chuyện gì xảy ra sau đó?

Phân tích tác phẩm Lão Hạc (Mẫu 17)

Nam Cao (1915 – 1951), tên thật là Trần Hữu Tri, quê ở làng Đại Hoàng, huyện Lí Nhân, tinh Hà Nam. Ông được đánh giá là nhà văn hiện thực xuất sắc trước cách mạng, là bậc thầy của truyện ngắn Việt Nam. Hình ảnh nông thôn bùn lầy nước đọng, tiêu điều xơ xác vì đói khổ hiện lên thường xuyên trong tác phẩm của ông như một nỗi ám ảnh không nguôi. Nam Cao viết nhiều về nạn đói. Cái đói ảnh hưởng không ít tới nhân cách nhưng trong cảnh đói khát thê thảm, phẩm chất tốt đẹp của người nông dân nghèo vẫn tồn tại và âm thầm tỏa sáng. Một trong những tác phẩm thể hiện cái nhìn nhân đạo sâu sắc của Nam Cao là truyện ngắn Lão Hạc. Nhân vật chính là một lão nông nghèo khổ, cuộc đời gặp nhiều bất hạnh. Tuy vậy, lão vẫn giữ được bản chất thật thà, đôn hậu, tình thương yêu con tha thiết, đức hi sinh cao cả và lòng tự trọng đáng kính phục.

Qua nhân vật này, Nam Cao giúp người đọc thấy rõ tình cảnh khốn cùng và số phận đáng thương của nông dân Việt Nam trong chế độ thực dân phong kiến tàn ác đương thời. Nhân vật đứng ra kể chuyện là ông giáo, người hàng xóm thân thiết của lão Hạc. Nhờ vậy mà câu chuyện trở nên gần gũi, chân thực. Tác giả dẫn dắt người đọc vào cuộc, cùng sống, cùng chia sẻ vui buồn với nhân vật. Do đó mà người đọc có cảm giác như mình đang được chứng kiến tận mắt diễn biến của câu chuyện bi thảm này.

Tác giả kết hợp giữa kể với tả, đan xen hiện tại và quá khứ, hiện thực với trữ tình. Giọng kể biến đổi linh hoạt tuỳ theo tình huống. Cảm xúc phần lớn được thể hiện gián tiếp suốt chiều dài truyện nhưng cũng có lúc bộc lộ trực tiếp qua những câu cảm thán đầy xót xa, ái ngại, ẩn chứa triết lí sâu sắc về cuộc sống, về thân phận con người. Gia cảnh của lão Hạc thật đáng buồn, vợ lão mất sớm, đứa con trai duy nhất lại phẫn chí bỏ vào Nam làm phu đồn điền cao su, biền biệt một năm nay chẳng tin tức gì. Lão Hạc dồn tất cả tình yêu thương cho con. Lão sẽ sung sướng biết bao nếu con trai lão được hạnh phúc, nhưng con trai lão đã bị phụ tình chỉ vì quá nghèo.

Thương con, lão thấu hiểu nỗi đau đớn của con. Con trai lão đã vâng lời bố, không bán mảnh vườn để lấy tiền cưới vợ mà chấp nhận sự tan vỡ của tình yêu. Càng thương con, lão càng xót xa đau đớn vì đã không giúp được con thoả nguyện. Lão Hạc mỏi mòn chờ con về, ngày ngày quanh quẩn làm thuê, làm mướn kiếm ăn. Dù đói, lão nhất quyết giữ mảnh vườn và không ăn vào số tiền dành dụm cho con. Sau trận ốm kéo dài, lão thấy người yếu đi ghê lắm. số tiền tích cóp bấy lâu nay đã cạn kiệt. Rồi trận bão vừa qua đã phá sạch sành sanh hoa màu trong vườn. Giá gạo thì cứ cao mãi lên mà lão Hạc thì chẳng còn được ai thuê mướn. Thế là lão lặng lẽ đi đến một quyết định quan trọng. Sau khi dằn lòng bán con chó Vàng thân thiết, lão sang nhờ cậy ông giáo một việc…

Trước tiên, lão kể chuyện bán con chó Vàng cho ông giáo nghe. Lão Hạc rất quý con chó vì nó là kỉ vật duy nhất của đứa con trai. Lão trìu mến gọi nó là cậu Vàng và cho nó ăn cơm bằng chiếc bát lành lặn. Với lão, con Vàng là bầu bạn sớm hôm. Mỗi lần nhớ con trai, lão lại thì thầm trò chuyện với nó cho khuây khỏa. Vì gắn bó như thế nên đã mấy lần định bán con Vàng mà lão vẫn không bán nổi. Cuối cùng, cũng vì thương con mà lão phải dứt khoát chia tay với nó. Lão nghèo túng quá! Đến Cơm cũng chẳng có mà ăn, lấy gì để nuôi cậu Vàng? Lão không muốn tiêu phạm vào những đồng tiền ít ỏi mà lão để dành cho con trai từ việc bán hoa lợi thu được từ mảnh vườn ba sào bé tí.

Lão Hạc tính đi tính lại và đành bán cậu Vàng để khỏi tốn kém, nhưng lòng lão thì đau đớn, xót xa. Lão đã kể cho ông giáo nghe cảnh bán cậu Vàng với nỗi xúc động cực độ. Lão đau khổ, đằn vặt, cứ tự trách mình vì cảm thấy mình có lỗi: già bằng này tuổi đầu rồi còn đánh lừa một con chó. Cả đời, ông lão nhân hậu này nào đã nỡ lừa ai! Thái độ và cử chỉ của lão Hạc mới đáng thương làm sao: Lão cố làm ra vẻ vui vẻ. Nhưng trông lão cười như mếu và đôi mắt lão ầng ậng nước… Mặt lão đột nhiên co rúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít. Lão hu hu khóc… Nỗi khổ tâm của lão cứ chồng chất mãi. Trước đây, chỉ vì nghèo mà lão không cưới được vợ cho con thì bây giờ cũng chỉ vì nghèo mà lão phải buộc lòng cư xử không đàng hoàng với một con chó.

Nhưng không chỉ có vậy. Qua từng trang truyện, chúng ta còn hiểu thêm về một lão Hạc đôn hậu, chất phác. Suốt đời lão sống quanh quẩn trong lũy tre làng nên những suy nghĩ, tính toán của lão rất đơn giản, thật thà. Lão tìm đến ông giáo để chia sẻ tâm sự và quan trọng hơn là tìm một chỗ dựa tinh thần: … Và lão kể. Lão kể nhỏ nhẻ và dài dòng thật. Nhưng đại khái có thể rút vào hai việc. Việc thứ nhất: lão thì già, con đi vắng, vả lại nó cũng còn dại lắm, nếu không có người trông nom thì khó mà giữ được vườn đất để làm ăn ở cái làng này; tôi là người nhiều chữ nghĩa, nhiều lí luận, người ta kiêng nể, vậy lão muốn nhờ tôi cho lão gửi ba sào vườn của thằng con lão; lão viết văn tự nhượng lại cho tôi để không ai còn tơ tưởng dòm ngó đến; khi nào con lão về thì nó sẽ nhận vườn làm, nhưng văn tự cứ để tên tôi cũng được, để thế để tôi trông coi cho nó… Việc thứ hai: lão già yếu lắm rồi, không biết sống chết lúc nào, con không có nhà, lỡ chết không ai đứng ra lo cho được; để phiền cho hàng xóm thì chết không nhắm mắt; lão còn được hăm nhăm đổng bạc với năm đồng bạc vừa bán chó là ba mươi đồng bạc, muốn gửi tôi, để lỡ có chết thì tôi đem ra, nói với hàng xóm giúp, gọi là của lão có tí chút, còn bao nhiêu đành nhờ hàng xóm cả…

Nghe những lời tâm sự của lão Hạc, không ai có thể kìm nổi xót thương, thông cảm và khâm phục một con người bất hạnh vì nghèo đói nhưng không hề nghĩ đến mình mà dồn tất cả tình yêu thương cho đứa con trai duy nhất. Lão đã chuẩn bị kĩ lưỡng mọi việc. Trước khi chết, lão nhờ ông giáo giữ hộ mảnh vườn và gửi ông giáo ba mươi đồng để lo chôn cất. Lão không muốn làng xóm phải tốn kém vì lão. Rất có thể vì tốn kém mà người ta lại chẳng oán trách lão sao? Không để phiền lụy đến mọi người, đó cũng là một cách giữ gìn phẩm giá. Ông lão bề ngoài có vẻ gàn dở nhưng bên trong lại có phẩm chất đáng quý nhường nào!

Xét về tuổi tác, lão Hạc còn có thể sống lâu, nhưng lão chỉ còn vẻn vẹn ba mươi đồng bạc, nếu tiếp tục sống thì phải ăn vào chút vốn liếng ít ỏi, cho nên lão đã chọn cái chết để bảo toàn căn nhà và mảnh vườn cho con trai. Cái chết tự nguyện này xuất phát từ lòng thương con âm thầm mà sâu nặng, từ lòng tự trọng đáng kính của lão Hạc. Lão Hạc trò chuyện với ông giáo bằng giọng lễ phép, cung kính có phần quá mức. Đó là cách bày tỏ thái độ kính trọng đối với người hiểu biết và nhiều chữ: Đã đành rằng thế, nhưng tôi bòn vườn của nó bao nhiêu, tiêu hết cả. Nó vợ con chưa có. Ngộ nó không lấy gì lo được, lại bán vườn thì sao?… Tôi cắn rơm, cắn cỏ tôi lạy ông giáo! Ông giáo có nghĩ cái tình tôi già nua tuổi tác mà thương thì ông giáo cứ cho tôi gửi.

Cảnh ngộ đã đến lúc bế tắc, nhưng lão vẫn giữ nếp sống trong sạch, tránh xa lối đói ăn vụng, túng làm càn: Luôn mấy hôm tồi thấy lão Hạc chỉ ăn khoai. Rồi thì khoai cũng hết Bắt đầu từ đấy, lão chế được món gì, ăn món ấy. Hôm thì lão ăn củ chuối, hôm thì lão ăn sung luộc, hôm thì rau má, với thinh thoảng một vài củ rảy hay bữa trai, bữa ốc. Khi ông giáo kể cho vợ nghe tình cảnh đáng thương của lão Hạc thì bà gạt phắt đi: - Cho lão chết! Ai bảo lão có tiền mà chịu khổ! Lão làm khổ lão chứ ai làm lão khổ! Nhà mình sung sướng gì mà giúp lão? Chính con mình cũng đói… Bất lực, ông giáo chi biết ngậm ngùi than thở: Chao ôi! Đối với những người ở quanh ta, nếu ta không cố tìm mà hiểu họ, thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi… toàn những cớ để ta tàn nhẫn; không bao giờ ta thương…

Đây là triết lí thấm đượm cảm xúc xót xa chân thành của Nam Cao trước những số phận bất hạnh trong cuộc đời. Nam Cao khẳng định một thái độ sống, một cách ứng xử nhân đạo: Cần phải quan tâm, suy nghĩ đúng đắn về những con người sống quanh mình, nhìn nhận và đánh giá họ bằng sự đồng cảm, bằng đôi ,mắt của tình thương, vấn đề này đã trở thành chủ đề sâu sắc trong một truyện ngắn cùng tên của Nam Cao. Ông cho rằng con người chỉ xứng đáng với danh nghĩa con người khi biết đồng cảm, trân trọng, nâng niu những điều đáng thương, đáng quý ở người khác.

Cái chết bi thảm của lão Hạc là biểu hiện cao nhất của đức hi sinh. Chính vì thương con, muốn giữ cho con chút vốn giúp nó thoát cảnh đói nghèo mà lão Hạc đã chọn cho mình cái chết. Đó là một sự lựa chọn tự nguyện và dữ dội, đầy bi kịch. Tình cảnh đói khổ, túng quẫn đã đẩy lão Hạc đến việc coi cái chết như một hành động giải thoát. Chi tiết này phản ánh số phận bi thảm, bế tắc của nông dân nghèo trong xã hội thực dân phong kiến đầy áp bức bất công. Thực ra, lão Hạc âm thầm chuẩn bị cho cái chết của mình từ sau khi bán cậu Vàng. Khi nghe Binh Tư cho biết lão Hạc hôm qua sang xin bả chó, ông giáo trố to đôi mắt, ngạc nhiên: Hỡi ơi lão Hạc!… Con người đáng kính ấy bây giờ cũng theo gót Binh Tư để có ăn ư? Cuộc đời quả thật cứ mỗi ngày một thêm đáng buồn.

Đây là một chi tiết nghệ thuật quan trọng có tác dụng đánh lạc hướng để gây bất ngờ, đảo ngược những ý nghĩ tốt đẹp về lão Hạc của ông giáo và mọi người. Cuộc đời quả thật cứ mỗi ngày một thêm đáng buồn vì nó đã đẩy con người lương thiện như lão Hạc vào cảnh dám làm liều như ai hết. Nghĩa là con người vốn nhân hậu, giàu lòng tự trọng đến thế mà giờ đây cũng bị tha hoá bởi miếng ăn. Câu nói mập mờ đầy mỉa mai của Binh Tư đã đẩy tình huống truyện lên đến đỉnh điểm: Lão làm bộ đấy! Thật ra thì lão chỉ tâm ngẩm thế, nhưng cũng ra phết chứ chả vừa đâu. Lão vừa xin tôi một ít bả chó… Lão bảo có con chó nhà nào cứ đến vườn nhà lão… Lão định cho nó xơi một bữa. Nếu trúng, lão với tôi uống rượu. Chứng kiến cái chết vật vã đau đớn vì ăn bả chó của lão Hạc; mọi nghi ngờ trong lòng ông giáo tan biến: Không! Cuộc đời chưa hẳn đáng buồn, hay vẫn đáng buồn nhưng lại đáng buồn theo một nghĩa khác.

Cuộc đời chưa hẳn đáng buồn bởi còn có những con người trong sạch như lão Hạc, nhưng lại đáng buồn ở chỗ những con người có nhân cách cao đẹp như lão Hạc mà lại không được sống. Tại sao ông lão đáng thương, đáng kính như vậy mà phải chịu cái chết bi thảm đến thế này?! Người đọc không khỏi băn khoăn về cách chọn cái chết của lão Hạc là tự tử bằng bả chó. Sao lão không chọn cái chết lặng lẽ, êm dịu hơn? Ông lão nhân hậu trung thực này suốt đời chưa đánh lừa một ai. Lần đầu tiên trong đời lão bắt buộc phải lừa một con chó vô tội – người bạn thân thiết của mình. Dường như cách lựa chọn này chứa đựng ý muốn tự trừng phạt. Nó càng chứng tỏ đức tính trung thực, lòng tự trọng đáng kính phục của lão Hạc. Vì thế cái chết dữ dội này càng gây ấn tượng mạnh ở người đọc.

Cái chết vật vã, đau đớn của lão Hạc được Nam Cao miêu tả với lòng xót thương vô hạn: Tôi xồng xộc chạy vào. Lão Hạc đang vật vã ở trên giường, đầu tóc rũ rượi, quần áo xộc xệch, hai mắt long sòng sọc. Lão tru tréo, bọt mép sùi ra, khắp người chốc chốc lại bị giật mạnh một cái, nảy lên. Hai người đàn ông lực lưỡng phải đè lên người lão. Lão vật vã đến hai giờ đồng hồ rồi mới chết. Cái chết thật là dữ dội. Chẳng ai hiểu lão chết vì bệnh gì mà đau đớn và bất thình lình như vậy. Chỉ có tôi với Binh Tư là hiểu.

Nhà văn Nam Cao đã giúp chúng ta hiểu được nỗi khổ tâm, bất hạnh vì nghèo đói cùng những vẻ đẹp cao quý trong tâm hồn người nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám. Từ những trang sách của Nam Cao, hình ảnh lão Hạc luôn nhắc nhở chúng ta nhớ đến những con người nghèo khổ mà trong sạch với một tình cảm xót thương và trân trọng.

Phân tích tác phẩm Lão Hạc (Mẫu 18)

Nam Cao là nhà văn hiện thực xuất sắc với những sáng tác để lại trong long người đọc nhiều day dứt và ám ảnh. Mỗi câu chuyện của ông đều mang dáng dấp của một đời người, một kiếp người lầm than trong xã hội. Nam Cao tập trung khai thác số phận người nông dân trước cách mạng tháng Tám, bế tắc, cùng cực đã khiến cho cuộc đời họ chìm vào nước mắt. Truyện ngắn “Lão Hạc” là một trong những câu chuyện cảm động về hình ảnh nghèo khó của người nông dân, đồng thời toát lên được vẻ đẹp tinh thần đáng quý của họ. Đây mới chính là giá trị nhân văn của tác phẩm này.

Nam Cao lấy bối cảnh lịch sử là thời kỳ đất nước đang chìm trong cảnh nước mất, nhà tan, nhân dân lầm than, đói khổ, xơ xác. Ông đã xây dựng nên nhân vật nông dân điển hình trong một xã hội điển hình. Qua nhân vật này tác giả muốn lột tả chế độ thực dân phong kiến và cuộc sống bần hàn của người nông dân. Tác giả lựa chọn ngôi kể độc đáo, theo ngôi thứ ba, theo lời của ông Giáo, hang xóm của lão Hạc. Bơi vậy câu chuyện thêm sinh động, chân thực và mang tính khách quan hơn. Người đọc có thể quan sát, theo dõi cuộc đời của một con người phải trải qua bao nhiêu thăng trầm và biến cố.

Những câu văn giản dị cứ thế đi vào long người đọc một cách chân thật và hiền hòa nhất. Từng mảnh đời cứ chấp chới hiện lên dật dờ, nghèo đói nhưng trong họ ánh lên sự nhân hậu, vị tha và lòng yêu thương tha thiết. Cuộc đời của lão Hạc thật là buồn, buồn đến thê thảm. Vợ lão mất sớm, lão ở với đứa con trai. Nhưng từ khi đứa con trai đi làm điền cao su thì lão không còn biết tin tức gì về con nữa. Lão thương con, rồi lão thương cho chính cuộc đời của mình chẳng làm được gì cho con. Lão Hạc là hiện thân của người nông dân hiền lành, lương thiện, chất phác, chăm chỉ làm ăn. Ai thuê lão làm gì, lão đều làm. Nhưng cuộc đời khắc nghiệt, cuộc sống khắc nghiệt, sức khỏe của lão yếu đi, lão không muốn cậy nhờ con và hàng xóm.

Túng quẫn, bế tắc, lão đã nghĩ đến việc bán cậu Vàng. Nhưng tình cảm của lão dành cho cậu Vàng quá thân thiết, nên lão không nỡ, bao nhiêu lần mà lão không bán nổi. Sự giằng xé trong tâm hồn đã khiến cho lão ngày càng bệnh tật, ốm đau. Nhưng rồi vì cơm cũng chẳng có mà ăn, lấy gì nuôi cậu Vàng. Lão không muốn tiêu vào những đồng tiết tiết kiệm lão dành dụm cho đứa con trai từ việc bán hoa lợi và thu được từ mảnh vườn ba sào bé tý. Vậy là lão đứt ruột bán cậu vàng, nói đúng hơn là lão phải lừa để mới có thể bán cậu Vàng.

Cảnh bán chó thực sự là một cảnh tượng xúc động, đầy dằn vặt và đau đớn của lão Hạc. Lão đã tự thú nhận “già bằng này tuổi đầu còn đi lừa một con chó”. Ông giáo đã kể lại cảnh tượng đó “Mặt lão đột nhiên co rúm lại, những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra ngoài. Cái đầu lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít. Lão hu hu khóc”. Một đoạn văn tràn đầy tình cảm, một đoạn văn khiến người đọc không cầm nổi nước mắt.

Một người nông dân chất phác, ngay cả trong việc bán chó cũng vậy. Lão không muốn cậu Vàng đau lòng, muốn nó ra đi thanh thản nhất, nhưng thực ra lòng lão đang quá rối bời. Những tâm sự của lão Hạc khiến người đọc xúc động, cảm thông và rất đỗi khâm phục. Ông dù nghèo nhưng vẫn quyết dành tình cảm cho đứa con trai duy nhất. Lão Hạc yêu thương con hết mực, quyết định hi sinh vì con. Bởi vậy lão mới quyết định kết liễu cuộc đời mình để không liên lụy đến con mình. Một người cha yêu thương con hết mực và là một ngươi suy nghĩ quá thấu đáo, chu toàn. Lão đã định sẵn cho mình một cái chết thanh thản, nhẹ nhàng nhất. Lão đã cậy nhờ chuyện ông giáo sau khi chết giao lại mảnh vườn cho con trai và để lại 30 đồng bạc lẻ.

Chi tiết ông Giáo kể với vợ về chuyện lão Hạc thì vợ ông đã nói “Cho lão chết! Ai bảo có tiền mà chịu khổ! Lão làm khổ lão chứ ai làm lão khổ. Nhà mình sung sướng gì mà giúp lão. Chính con mình cũng đói'. Bất lực ông giáo chỉ biết ngậm ngùi than thở: 'Chao ôi, đối với những người ở xung quanh ta, nếu ta không cố mà tìm hiểu họ, thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ối…toàn những cớ để ta tàn nhẫn, không bao giờ thương”. Thực sự đây là một đoạn hội thoại có giá trị nhân văn sâu sắc, khẳng định một thái độ sống về những con người ở xung quanh mình. Có lẽ Nam Cao ngầm thương xót cho những mảnh đời bất hạnh, sống hiền lương nhưng lại bị ruồng bỏ.

Cái chết của lão Hạc là một cái chết đầy bi kịch, thức tỉnh biết bao nhiêu con người. Cái chết đó đã phản ảnh hiện thực xã hội phong kiến nhiều bất công, đã đẩy người nông dân vào bước đường cùng. Sự bế tắc, túng quẫn đã dẫn đến cái chết bi thảm đó. Ông giáo đã có suy nghĩ sai lầm thì nghe bảo lão Hạc sang xin bả chó. Nhưng thực sự là ông đang muốn kết liễu đời mình, không muốn làm gánh nặng cho con trai.

Tại sao lão lại chọn cái chết đau đớn, đầy thương tâm đó. Có lẽ đây là điều mà rất nhiều người hỏi, nhưng có lẽ có nguyên nhân của nó. Phản ánh sự bế tắc đến cùng cực xã hội phong kiến, đẩy con người vào chỗ chết. Có lẽ lão Hạc muốn trừng phạt chính bản thân mình vì đã đi “lừa một con chó”, đồng thời lão muốn yêu thương đứa con trai đến giây phút cuối cùng. Cái chết đó chỉ ông Giáo và Binh Tư mới hiểu.

Truyện ngắn “Lão Hạc” của Nam Cao thực sự ám ảnh đến người đọc vì hình ảnh người nông dân cùng cực trong xã hội phong kiến. Đồng thời khẳng định vẻ đẹp tinh thần lấp lánh trong con người họ.

Phân tích tác phẩm Lão Hạc (Mẫu 19)

Nam Cao (1915 – 1951), tên thật là Trần Hữu Tri, quê ở làng Đại Hoàng, huyện Lí Nhân, tinh Hà Nam. Là một nhà văn xuất sắc đặc biệt trong lĩnh vực truyện ngắn Việt Nam. Ảnh hưởng lớn từ cảnh nông thôn nước ta, tác phẩm của Nam Cao thường xuất hiện với hình ảnh nghèo đói, nhưng vẫn giữ nguyên phẩm chất tốt đẹp của con người. Một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là 'Lão Hạc', một câu chuyện bi thương về cuộc sống của một người nông dân chất phác, đầy tình yêu thương và sự hi sinh.

Truyện xoay quanh nhân vật chính là lão Hạc, một nông dân nghèo khổ, đối mặt với nhiều khó khăn và thử thách trong cuộc sống. Bức tranh về nghèo đói, cảnh đời khắc nghiệt hiện lên trong từng dòng văn của Nam Cao, làm cho người đọc cảm nhận được sự chân thành, xót xa và tôn trọng đối với những người sống trong cảnh nghèo đói. Lão Hạc không chỉ là biểu tượng của sự kiên trì và đức hi sinh, mà còn là hình ảnh sống động về tình yêu thương, lòng nhân ái giữa những khó khăn và bất công.

Tác phẩm 'Lão Hạc' của Nam Cao không chỉ là một câu chuyện truyền cảm hứng, mà còn là bức tranh chân thực về cuộc sống nông thôn Việt Nam trước Cách mạng. Nam Cao đã tài tình kể lại câu chuyện của lão Hạc, đưa người đọc đến gần hơn với thế giới của những người nông dân chất phác, giản dị nhưng tràn đầy nhân văn và tình người.

Truyện cũng đặt ra những câu hỏi đau đầu về bản chất con người, về giá trị của tình yêu thương và đức hi sinh. Lão Hạc là một biểu tượng của lòng trung hiếu, sự kiên nhẫn và lòng nhân ái trong xã hội đầy gian khổ và khó khăn. Tác phẩm là một mảnh ghép quý giá trong bức tranh văn hóa Việt Nam, là nguồn cảm hứng không ngừng cho độc giả suy ngẫm về ý nghĩa đậm sâu của cuộc sống và con người.

Phân tích tác phẩm Lão Hạc (Mẫu 20)

Lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên là một trong những nhân vật 'để đời' của Nam Cao. Lão Hạc, một nông dân nghèo khổ, cùng quẫn, nhưng không bị biến chất như Chí Phèo, mà trái lại có một tâm hồn đẹp, một nhân cách cao thượng. Lão sống một thân một mình trong cô đơn, vất vả. Lão chỉ có đứa con trai duy nhất để nương tựa tuổi già thì anh ta lại phẫn chí bỏ đi phu đồn điền cao su- 'cao su đi dễ khó về'. Lão Hạc đành thui thủi làm thuê, làm mướn kiếm ăn lân hồi, đồng thời cố nhặt nhạnh, dành dụm cho con.

Nhưng một trận ốm đã làm lão trở nên tay trắng. Sức yếu dần 'những công việc nặng không làm được nữa', việc nhẹ thì 'đàn bà tranh hết'. Lão Hạc không có việc. Rồi lại bão. Hoa màu trên mảnh vườn bị phá sạch sành sanh. Gạo cứ kém dần. 'Một lão với một con chó, mỗi ngày ba hào gạo mà gia sự còn đói deọ đói dắt. Cuối cùng lão phải ăn khoai. Khoai cũng hết. Bắt đầu từ đây, lão chế tạo được món gì, ăn món ấy. Hôm thì lão ăn củ chuối, hôm thì lão ăn sung luộc, hôm thì ăn rau má, với thỉnh thoảng một vài củ ráy, hay bữa trai, bữa ốc.

Thực ra tình cảnh lão Hạc đã làm gì bế tắc đến thế. Lão còn mảnh vườn đó, con chó vàng đó, có thể bán đi mà tiêu. Nhưng lão sống vì con chứ đâu vì mình. Điều này mấy ai hiểu cho lão. Người ta chỉ thấy lão lẩm cẩm. Có ông giáo hàng xóm là người có lòng ái ngại, nhưng vừa bày tỏ với vợ đã bị thị gạt phắt ngay: 'Cho lão chết! Ai bão lão có tiền mà chịu khổ! Nhà mình sung sướng gì mà giúp lão? Con mình cũng đóiCòn Binh Tư, một gã lưu manh chuyên đánh bả chó thì lại lấy làm khoái chí khi thấy lão đến xin mình một ít bả. Hắn tưởng đâu lão Hạc 'đói quá hoá liều' cũng quay sang trộm cắp như hắn. Hắn bĩu môi: 'Lão làm bộ đấy! Thật ra thì lão chỉ tẩm ngẩm thế, nhưng cũng ra phết chứ chẳng vừa đâu'. Ngay đến ông giáo tuy hiểu lão Hạc hơn cả mà cũng đâm ra nghi ngờ.

Người ta chỉ hiểu lão khi lão đã chết rồi. Lão tự tử bằng nắm bả chó của Binh Tư. Lão chết đi nhưng sẽ còn sống mãi trong lòng người như một tấm gương đạo đức hiếm có. Hiếm có người cha nào thương con như lão Hạc. Nghèo khó nhưng lúc nào cũng nghĩ đến bổn phận làm cha, lo làm tròn bổn phận ấy, dẫu có phải chịu khổ, chịu đói và chết bi thảm. Hình ảnh đứa con trái, nỗi lo chu tất cho con luôn ám ảnh, dằn vặt tâm trí lão. Hồi anh ta còn ở nhà, lão không cho anh ta bán vườn để cưới vợ cũng là xuất phát từ sự tính toán điều hơn lẽ thiệt của bậc làm cha. Thực ra lão dằn lòng lắm. Bởi đạo làm cha phải lo cho con một người vợ, một căn nhà - một tổ ấm gia đình. Song tình cảnh lão thì lo chưa chu toàn được. Anh con trai phẫn chí ra đi, ngày về khó hẹn, lão lại đã già.

Đã bao lần, lão ngỏ tâm sự này với ông giáo: tiền hoa lợi trong vườn, tiền bán con chó vàng, mảnh vườn, lão không giám đụng đến, vì đây là tiền của con, là tiền mà người làm cha phảiđể lại cho con. Nếu không, không phải 'đạo'. Đã bao lần lão tính tiền bòn vườn sủa con, 'không cho bán là ta chỉ có ý giữ cho nó, chứ có phải giữ để ta ăn đâu!... Ta bòn vườn của nó, cũng nên để ra cho nó, đến lúc nó về, nếu nó không đủ tiền cưới vợ thì ta thêm vào cho nó, nếu nó có đủ tiền cưới vợ thì ta cho vợ chồng nó để có chút vốn mà làm ăn'. Lão đã làm y như thế. Thà ăn khoai, ăn củ chuối, củ ráy... chứ lão không ăn vào tiền của con, không chịu bán mảnh vườn của con.

Bao nhiêu tiền nhặt nhạnh được từ mảnh vườn, lão gửi tất cả nhờ ông giáo giữ hộ. Rồi lão chết để không bao giờ phải đụng đến. ôi, lão Hạc, con người bề ngoài thì có vẻ tiều tuỵ và gàn dở như vậy mà thật giàu tình nặng nghĩa. Mà đâu chỉ đối với đứa con. Tấm lòng nhân hậu của lão còn thể hiện ở cái tình rất nặng với con chó vàng mà lão gọi là 'cậu vàng' như một bà hiếm hoi gọi đứa con cầu tự. Cứ xem cái cách lão nựng con chó: 'À không! À không! Cậu vàng của ông ngoan lắm! ông không cho giết... ông để cậu vàng ông nuôi'..., hay cái vẻ mặt vô cùng đau khổ của lão khi kể cho ông giáo nghe lão đã bán con chó. 'Mặt lão tự nhiên co dúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít', đủ thấy lão thương xót con chó và cảm thấy mình có tội như thế nào khi phải bán nó đi.

Chân thật, chất phác, đôn hậu, tràn đầy tình thương và trách nhiệm, lão Hạc cũng thật giàu lòng tự trọng. Đối với ông giáo, người lão tin tưởng và quý trọng đến thế, lão cũng vẫn giữ ý để khỏi bị coi thường. Lão đói đấy, lão phàn nàn 'kiếp người như lão cũng khổ như kiếp chó' đấy, nhưng khi ông giáo mời lão ăn khoai, uống nước chè tươi, lão đã từ chối. Lão dứt khoát 'từ chối tất cả'. Khi ông giáo giấu vợ, thỉnh thoảng muốn ngấm ngầm giúp đỡ lão một chút gì, lão từ chối 'một cách gần như hách dịch'. Rồi lão cứ cố ý xa ông giáo dần dần.

Cuối cùng thì lão Hạc chết. Chủ động tìm đến cái chết, một cái chết bi thảm, khốc liệt như là cái chết của một con người cao quý. Bởi qua cái chết này, tất cả những phẩm giá cao đẹp của lão ánh lên, chiếu sáng thăm thẳm vào lòng người. Gần đây người ta đã dựng phim về các nhân vật của Nam Cao - phim Làng Vũ Đại ngày ấy. Nhà văn Kim Lân được mời đóng vai lão Hạc. Kim Lân đã nghiền ngẫm kĩ về nhân vật của mình, ông nói: 'Lão Hạc không chỉ là một người nghèo, đó là một con người có nhân cách, tự trọng và bất khuất'.

Chúng ta cũng hoàn toàn đồng ý với Kim Lân. Ta còn thấy rằng những phẩm chất ấy của lão Hạc đã cho ta những suy nghĩ sâu sắc. Cái chết của lão Rạc đã để lại cho chúng ta, cùng với nỗi xót thương vô hạn là nhiều bài học quý. Bài học sâu sắc nhất là trong bất kì thân phận nào, hoàn cảnh nào cũng phải giữ danh hiệu con người cao quý. Giữa người với người phải có trách nhiệm với nhau hơn, phải hiểu biết để đánh giá đúng và cảm thông với người khác hơn, phải tin tưởng hơn ở con người và cuộc đời. Và phải biết căm ghét xã hội bất công, những thế lực độc ác vùi dập, đày đọa những con người như lão Hạc.

Vợ ông giáo từng nói về lão Hạc: 'Cho lão chết! Ai bảo lão có tiền mà chịu khổ. Lão làm lão khổ chứ ai làm lão khổ!'. Nhưng thực ra sống làm người, có những điều dù khổ, dù phải tự làm khổ mình cũng phải giữ. Chết cũng giữ! Đó là những điều thuộc vềđạo lí, nhân cách làm người như lão Hạc đã giữ.

Vì thế, đã hơn 60 năm (truyện Lão Hạc ra đời năm 1943), lão Hạc vẫn sống cùng chúng ta,sẽ còn sống cùng chúng ta. Và dẫu cho cuộc đời này còn nhiều nỗi đáng buồn nhưng có những con người như lão Hạc thì cuộc đời 'chưa hẳn đã đáng buồn'.

VTV.VN

Phân tích tác phẩm Lão Hạc (Mẫu 21)

Phê phán về phong cách viết của Nam Cao trong những câu chuyện ngắn, giáo sư Hà Minh Đức viết: 'Trong việc mô tả những nhân vật này, bút phép của Nam Cao không lạnh lùng và khách quan, mà là sự gắn bó và chân thành; không châm biếm hay mỉa mai, mà đầy xúc động. Tác giả tự nhìn nhận mình như một phần của cuộc sống'.

Nhận định về lối viết của Nam Cao trong những truyện ngắn về những người nông dân đau khổ, giáo sư Hà Minh Đức viết: 'Khi viết về những nhân vật này, bút của Nam Cao không chỉ lạnh lùng mà còn tha thiết và gắn bó; không chỉ châm biếm, mỉa mai mà còn chân thành và xúc động. Tác phẩm của ông về truyện Lão Hạc là một minh chứng điển hình cho phong cách viết như vậy, về những người nông dân đau khổ và lầm than'.

Viết về nhân vật lão Hạc - người chính trong truyện, một người nông dân cực kỳ nghèo khổ và đau thương - bút phép của Nam Cao đã thể hiện sự gắn bó đặc biệt. Trước khi hiểu rõ tâm tư của lão Hạc, giọng văn của tác giả thường chỉ là việc viết về một loại nhân vật như Chí Phèo, Thị Nở, Lang Rận: 'Tôi nghe câu ấy đã nhàm chán… Lão nói để đó mà thôi… Không có lý do gì mà lão phải quan tâm đến một con chó'. Đôi khi, ông còn tỏ ra kiêu ngạo và coi thường người nghèo: 'Lão trân trọng con chó vàng của mình hơn so với việc tôi trân trọng năm quyển sách của mình'. Một sự lạnh lùng khách quan: Tôi 'nhìn chằm chằm' lão, sau đó lại hoài niệm về một thời kỳ 'say mê', tươi đẹp, nhiệt huyết của mình.

Chúng ta bắt đầu cảm nhận được một hình ảnh đơn giản của làng quê dưới bàn tay văn của ông giáo Thứ trong truyện Sống mòn: con người lạnh lùng, xử sự với nhau như bới móc… Nhưng tác giả không dừng lại ở đó, ông mô tả sự tiến triển chậm rãi của tình cảm giữa ông giáo và lão Hạc theo những lời kể của ông lão, làm cho người đọc cảm nhận sự xúc động và sâu sắc trong tâm hồn tác giả: Con trai lão Hạc không may mắn trong tình yêu, rời bỏ nghề làm phu béo để lại cho cha một số tiền 'ăn quà', một con chó và một miếng đất nho nhỏ, kỷ niệm, để lão có thể ngóng trông, chăm sóc mà không biết đến khi nào con trở về! Vợ mất, con đi xa, lão ở lại một mình giữa tuổi già và sự dần dần gần kề của cái chết. Ngòi bút của nhà văn trở nên buồn bã, xúc động: 'Già rồi, ngày càng giống đêm, chỉ có một mình thôi và có lẽ cũng chẳng còn bao lâu nữa là cái chết sẽ đến'. Vì vậy, 'những lúc buồn, có một chú chó làm bạn cũng giảm đi một chút nỗi đau', nhưng làm đề cập đến 'lão vẫn rơi nước mắt'. Tại đây, ông giáo tỏ ra bất ngờ: 'Bây giờ, tôi không còn cảm giác buồn bã về những tác phẩm của mình như trước nữa'.

Trước những mối đe dọa đang rình rập, những mất mát liên tục, ông giáo phải an ủi lão Hạc, tạo ra những lời nói đau đớn và tràn đầy sự thương cảm: 'Lão Hạc ơi! Ta có thể giữ lại một chút gì cho mình đâu?'. Điều này cho thấy tác giả không phải là lạnh lùng, ông hiểu biết và chia sẻ nỗi cực khổ với họ, vì 'một chút ấm áp, một chút tình thương cũng đủ để họ vượt qua' (Thạch Lam). Tuy nhiên, Nam Cao điều đặc biệt hơn, ông tỏ ra tức giận với cuộc sống độc ác đã cướp đi những người tốt bụng như lão Hạc, và vì vậy, ông bày tỏ sự xót xa cho những con người đang trải qua cảnh đau đớn và cái chết quằn quại.

Phân tích tác phẩm Lão Hạc (Mẫu 22)

Cùng với Nguyễn Công Hoan và Ngô Tất Tố, Nam Cao là tác giả tiêu biểu của dòng văn học hiện thực phê phán, luôn hướng về người nông dân, phản ánh hiện thực đời sống của người nông dân trước Cách mạng. Truyện ngắn Lão Hạc là tác phẩm đặc sắc của Nam Cao, nó như một điểm son trong sự nghiệp sáng tác của ông.

Nam Cao luôn trăn trở về số phận của người nông dân lương thiện trong xã hội phong kiến. Lão Hạc trong tác phẩm cùng tên là chân dung của một lão nông Việt Nam đáng thương và đáng kính. Số phận của Lão Hạc thật đáng thương bởi cái nghèo nàn, túng thiếu. Vợ mất sớm, lão dồn tình thương nuôi con khôn lớn. Khi đứa con trai đến tuổi lấy vợ, lão tính chuyện cưới vợ cho con, nhưng vì nghèo túng mà người ta lại thách cưới nặng quá nên con trai không cưới được vợ. Thất vọng, đứa con bỏ nhà ra đi làm phu đồn điền ở Nam Kì. Khi con đi rồi, lão cô đơn, sống trong hiu quạnh. Bấy giờ, chỉ có con Vàng là nguồn vui của lão. Cậu Vàng được lão chăm sóc chu đáo. Lão xem cậu Vàng như một đứa trẻ cần sự chăm sóc, yêu thương.

Lão nhân hậu ngay cả với con chó của mình. Tội nghiệp cho số phận ông lão. Cuộc đời túng quẫn, nghèo khó cứ đeo đẳng bên ông. Vợ chết để lại mảnh vườn ba sào, nhưng lão nhất quyết không bán dù cho nghèo khó. Lão tự bảo: Cái vườn là của con ta ... của mẹ nó tậu thì nó được hưởng. Lão nghĩ vậy và làm đúng như vậy. Tất cả hoa lợi thu được lão bán để dành dụm riêng chờ ngày con về cưới vợ. Cảm thương cho ông lão đã vò võ trông con về làng, lão chắc mẩm thế nào đến lúc con lão về cũng có được trăm đồng bạc. Nhưng hy vọng chẳng có, thất vọng lại về, lão bị một trận ốm đúng hai tháng mười tám ngày, bao nhiêu vốn liếng dành dụm được đều sạch nhẵn. Sau trận ốm, người lão yếu quá, không làm được việc nặng, việc nhẹ thì người ta tranh hết, lão phải cầm hơi qua ngày bằng củ chuối, củ ráy, con ốc, con trai...

Vì không kiếm được tiền để sống, lại sợ tiêu lạm vào tiền của con nên lão quyết định tìm đến cái chết. Lão chết để con lão khỏi trắng tay. Thật cảm động biết bao về tấm lòng yêu thương bao la và đức hi sinh cao cả của một người cha khốn khổ! Số phận của lão thật bi thương. Nghèo đến nỗi phải bán đi con Vàng mà lão yêu thương, gắn bó. Kể lại việc bán chó với ông giáo, lão đau đớn xót xa: mặt lão đột nhiên rúm lại, những nép nhăn xô lại với nhau ép cho nước mắt chảy ra, cái đầu ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít, lão hu hu khóc... lão khóc vì thương chó, và cảm thấy mình là kẻ lừa dối khi bán cậu Vàng. Số phận của lão thật bi thương nhưng lão không đánh mất phẩm giá của mình. Đến bước đường cùng lão luôn nghĩ đến con mà chẳng nghĩ đến mình.

Lão đủ can đảm để nghĩ đến chuyện kết thúc cuộc đời để không làm phiền đến ai. Lão từ chối mọi sự thương hại của người khác, cho dù đó là sự cưu mang chân tình. Ngay cả ông giáo, người hàng xóm gần gũi nhất và tin tưởng nhất, ông cũng từ chối sự giúp đỡ. Lão Hạc còn nghĩ đến cái chết không làm phiền lòng người khác. Lão nhịn ăn, tích góp được hai lăm đồng cộng với năm đồng bán chó, lão gửi ông giáo nhờ làm đám ma cho lão. Trước khi chết, lão còn nghĩ đến hạnh phúc của con. Lão viết văn tự nhượng mảnh vườn cho ông giáo để không ai còn mơ tưởng, dòm ngó đến, khi nào con lão về thì sẽ nhận vườn làm. Tuy lão nghèo khó, lại bị xã hội bỏ rơi nhưng lão vẫn giàu đức hi sinh, giàu tình thương và giữ vững phẩm chất cao đẹp của mình.

Hình ảnh Lão Hạc chết thật thê thảm. Lão mượn miếng bả chó để tự kết liễu đời mình. Tội nghiệp cho lão quá! Lão vật vã trên giường, đầu tóc rũ rượi, quần áo xộc xệch, hai mắt long sòng sọc. Lão tru tréo, bọt mép sùi ra... Cái chết đau đớn của lão đã làm sáng tỏ thêm phẩm chất cao đẹp của người nông dân hướng thiện. Tuy sống trong cái xã hội đầy bóng tối, nhưng tâm trí lão vẫn sáng ngời, tính cách của lão thật cao quí. Cả đời lão nghèo đói nhưng không làm mất đi tấm lòng đôn hậu, trong sáng của mình.

Với bút pháp miêu tả tâm lí nhân vật, xen kẽ tự sự, Nam Cao đã gợi cho ta niềm cảm thương vô hạn đối với những người nông dân nghèo khổ. Ngòi viết của Nam Cao là tiếng nói cảnh tỉnh về một xã hội thiếu công bằng, không quan tâm đến người nghèo, chà đạp lên số phận của con người lương thiện.

Phân tích tác phẩm Lão Hạc (Mẫu 23)

Nam Cao là một trong những tác gia lớn của nền văn học Việt Nam, với dáng người bé nhỏ, khuôn mặt hiền lành, thế nhưng ở ông lại chứa đựng một sức sáng tác tác lớn, dồi dào và mạnh mẽ. Trước cách mạng tháng tám đề tài người nông dân và trí thức tiểu tư sản dưới chế độ thực dân nửa phong kiến, xoay đi xoay lại cũng chỉ là việc họ bị cái nghèo, cái đói giày vò đến khốn khổ. Thế nhưng bằng ngòi bút tài năng và giàu sức sáng tạo của mình Nam Cao đã biến nó thành những câu chuyện khác nhau, những mảnh đời khác nhau, tuy chung bi kịch, nhưng ở mỗi cuộc đời bất hạnh ta lại thấy những khía cạnh khác nhau, sự chua chát đắng cay và cả những vẻ đẹp tâm hồn được Nam Cao khai thác rất tinh tế tỉ mỉ. Đóng góp cho nền văn học hiện thực Việt Nam nhiều những tác phẩm có giá trị và ý nghĩa nhân văn sâu sắc ví như các truyện ngắn Chí Phèo, Đời thừa, Giăng sáng, Một bữa no, Tư cách mõ, Từ ngày mẹ chết,... Trong đó Lão Hạc cũng là một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất của Nam Cao, kể về nỗi đau đớn của một người cha nghèo vì thương con mà không dám ăn, dứt ruột bán đi con chó bấy lâu ông chăm bẵm, xem như con để dành dụm tiền lo hậu sự, giữ lại cho con mấy sào vườn, rồi ăn bả chuột chết, một cái chết đau đớn và ám ảnh, đúng với phong cách văn hiện thực của Nam Cao.

Như nhiều tác phẩm khác của Nam Cao, nhân vật chính trong truyện lúc nào cũng có một cuộc đời khốn khó, hoặc bất ngờ cái sự khốn khó bỗng đổ ập lên đầu người vô tội vì nhiều nguyên do khác nhau. Lão Hạc cũng là một kiếp người như thế, đời một người nông dân thì chẳng bao giờ biết đến cái giàu sang sung sướng, mà chỉ cốt cố làm, cố ăn sao cho sống hết được cái đời dài đằng đẵng. Lão Hạc cũng có vợ, nhưng vợ lão mất sớm, chỉ để lại cho lão một thằng con trai, từ ấy trở đi lão cứ ở vậy làm lụng, bòn vườn nuôi con khôn lớn. Đến khi con lớn rồi thì bậc làm cha như lão lại phải đau đầu chuyện cưới vợ cho con, thế nhưng khốn nỗi nhà lão nghèo quá, miệng ăn kiếm chưa đủ thì kiếm đâu ra cả trăm bạc nhà gái thách cưới. Thằng con lão không cưới được vợ đâm ra buồn chán, bất đắc chí, rồi dứt áo ra đi bỏ vào Nam làm đồn điền cao su với hy vọng kiếm được tiền. Lão Hạc thấy con đi thì cũng xót xa đau đớn lắm, lão chỉ trách tại cái thân mình nghèo rồi hại đến đời con, để nó phải bỏ xứ mà tha phương cầu thực. Mà những kẻ bỏ quê đi thì cũng có được sung sướng gì, ai biết được làm đồn điền trong ấy nó có sung sướng gì không, hay lại bị người ta chèn ép, bóc lột. Thằng con đi chỉ để lại cho lão một con chó vàng mà lão vẫn thường âu yếm gọi là 'cậu Vàng' lão chăm bẵm xem nó như con, có đồ ngon gì cũng dành phần cho nó, có con chó lão đỡ buồn và vơi đi nỗi nhớ đứa con trai biết bao nhiêu. Lão Hạc sống lương thiện, chưa từng chôm chỉa của ai bao giờ, lão bòn vườn, rồi lại đi cày thuê cuốc mướn cho người ta để lấy cái ăn, còn tiền thu được ở vườn thì lão để dành, đợi con trai về rồi sẽ góp thêm vào kiếm cho nó một tấm vợ. Nhưng có lẽ rằng hiện thực tàn khốc, và đặc biệt là truyện ngắn của Nam Cao thì cho dù con người ta có hiền lành, chăm chỉ đến đâu, nhưng vẫn cứ bị những biến cố khốn nạn vồ lấy dồn dập, ép họ vào đường cùng, vào cái sự đau đớn, dằn vặt. Lão Hạc đang khỏe bỗng nhiên đổ bệnh, một trận ốm 2 tháng 18 ngày đã tiêu tốn sạch cái mớ tiền lão tích cóp bấy lâu, lại thêm việc không đi làm thuê được ngày nào khiến lão gần như khánh kiệt. Nhưng trời nào có thương cho phận lão, việc năm nay vốn đã kém đi nhiều, thế mà bão lại còn quét một trận qua khu vườn của lão, thành thử ra có bao nhiêu hoa màu thì gãy dập hết, mất hết. Lão với con chó vàng ngày ăn 3 hào gạo nhưng vẫn cứ đói, thậm chí con chó còn ăn nhiều hơn cả lão, mà cụ lại không dám cho nó ăn ít đi bởi ăn ít thì 'cậu ấy gầy đi, bán hụt tiền'. Mà lão thì lại càng không muốn bán mảnh vườn của con trai. Lão thương con trai lão, người cha nhân hậu ấy không muốn để cuộc đời gần tàn của lão liên lụy đến cái đời còn trẻ của con.

Cái đói kém, khốn khổ đã hành hạ người cha già thương con ấy rất lâu, cuối cùng lão cũng ra một quyết định hệ trọng và đau đớn. Trong buổi nói chuyện với ông giáo, người rất thân với lão, lão Hạc đã nói trong sự tần ngần và nghiêm túc 'Có lẽ tôi bán con chó đấy, ông giáo ạ', nhưng ông giáo chẳng lấy làm tin cho lắm, bởi lẽ trước đây ông lão cũng từng nhiều lần nói vậy nhưng chưa lần nào ông làm thật. Điều ấy đã chứng tỏ một điều rằng lão Hạc luyến tiếc và yêu thương cậu Vàng lắm, lão không nỡ bán nó cho người ta giết thịt, bởi nó là kỷ vật là người bạn đã theo lão suốt 3 năm trời đằng đẵng, bán nó sao đành. Nhưng khốn lắm, trời hành cái thân lão, khiến lão đói kém quá, mà suy cho cùng lão vẫn phải nghĩ đến con, thế nên đành tàn nhẫn bán con chó đi sau nhiều lần đắn đo, suy nghĩ. Tội nghiệp cho một người già đến cuối đời vẫn phải trăn trở nhiều khổ đau như vậy. Ngày bán cậu Vàng, lão đã vội chạy sang báo với ông giáo, người đàn ông khốn khổ ấy cố làm ra vẻ vui mừng thế nhưng cái 'nụ cười như mếu và đôi mắt ầng ậng nước' kia của lão thì làm sao giấu nổi những đớn đau, dằn vặt trong lòng lão. Một câu hỏi của ông giáo 'Thế nó cho bắt à?' đã đập tan tất cả phòng tuyến cuối cùng của ông lão tội nghiệp ''Mặt lão đột nhiên co rúm lại . Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão nghẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít. Lão hu hu khóc...'. Lão Hạc phải gánh chịu nỗi thống khổ của bi kịch làm người, lão thế mà lại đi lừa một con chó, con chó đã theo lão suốt ba năm trời trung thành, con chó mà lão yêu quý và coi như con. Ôi chao cái đời lão sao nó khốn nạn và độc ác quá, lão ăn ở thất đức với cả một con chó không biết gì. Lão Hạc vẫn ám ảnh và nhớ như in ánh mắt và tiếng kêu ư ử của cậu Vàng lúc bị người ta bắt đi, lão thấy ân hận và xót xa lắm. Đúng trời bắt tội con người, lão lương thiện cả đời, chăm chỉ, dè sẻn vì con, vì cháu cuối cùng lại trở thành người tráo trở, đến con chó chung sống bấy lâu cũng không tha. Thế rồi lão nói hóa kiếp cho con chó, nhưng trở thành kiếp gì cho sung sướng, chứ kiếp người như lão thì chi bằng đừng hóa kiếp cho xong. Những nỗi đớn đau và suy nghĩ của lão Hạc khi nhắc về chuyện bán con chó đã cho ta thấy tấm lòng của một con người hết mực lương thiện, sống thủy chung, giàu lòng nhân hậu, dẫu chỉ là một con chó nhưng lão cũng dành cho nó những tình cảm sâu sắc, gắn bó, thấy tội lỗi khi lỡ lừa bán nó. Đối với con trai lão Hạc lại là một người cha có tấm lòng yêu thương hết mực, con trai đi làm ăn thì ở nhà lão cũng lo tích cóp dành dụm đợi con về, lão luôn mang trong mình những mặc cảm là người cha 'có tội' khi không lo được cho con cưới vợ, để con phải tha phương cầu thực. Mà khốn khổ thay cái tội nghèo thì nó đã quanh quẩn với biết bao kiếp người chứ phải riêng gì lão, ấy thế mà lão vẫn thấy mình có tội, thấy mình chưa làm tròn trách nhiệm, chứ lão chẳng bao giờ than trời trách đất. Vì thế lão lại càng không được ăn phạm vào mảnh vườn mà vợ lão dè sẻn chắt bóp cả đời để cho con, lão buộc phải bán cậu Vàng, phải lo liệu thật chu toàn để con lão trở về không phải khổ. Chao ôi tấm lòng cha mẹ đời nào cũng thế, cả đời chỉ vì con cái, vì con cái mà cắn rơm cắn cỏ, hy sinh, chịu đựng tất cả.

Bán con chó Vàng là một phần trong kế hoạch 'chu toàn' của lão Hạc. Phần tiếp theo nữa ấy là việc nhờ ông giáo chăm nom vườn tược cho con, rồi gửi ông giáo số tiền 30 chục bạc để ông giáo lo liệu hậu sự sau này cho mình. Như vậy đến lúc này đây ta lại thấy ở lão Hạc không chỉ là tấm lòng yêu thương con tha thiết mà còn là lòng tự trọng sâu sắc. Lão gửi ông giáo tiền hậu sự, vì không muốn phiền bà con chòm xóm lúc chết, lão muốn được chết đi trong trong sạch, không nợ nần với ai, và cũng là để con lão có trở về thì không bị mang tiếng chôn cha nhưng phải phiền lụy xóm giềng. Lão Hạc ấy đã suy nghĩ thật chu toàn, chuẩn bị sẵn cho chuyến đi xa của mình, chứ quyết không chịu sống lay lắt, tội lỗi, liên lụy con cái, láng giềng thêm nữa. Mà quả thực, cái thời buổi đói kém này, có lẽ cái chết là cách giải thoát duy nhất cho những con người đau yếu, già nua, không nơi nương tựa, chứ sống ngày nào thì càng khốn khổ thêm ngày đó. Lão Hạc cũng nghĩ vậy. Nhưng nhìn xem lão đã chọn cái chết thật kinh hoàng, thật ám ảnh. Đến cả chết mà lão cũng không dám cho mình một cái chết êm ái, lão chọn ăn bả chó, rồi nhận lấy một cái chết dữ dội, vật vã suốt 2 giờ đồng hồ rồi mới nhắm mắt xuôi tay. Sao Lão Hạc phải khổ vậy? Đành rằng lão chấp nhận chết để dành lại vườn và tiền cho thằng con trai của lão, nhưng thêm một thứ nữa có lẽ lão đang tự trừng phạt mình vì những tội lỗi lão đã gây ra cho cậu Vàng chăng? Hoặc chỉ đơn giản rằng, bả chó không mất tiền mua, lão xin được của Binh Tư, thôi thì cũng không phạm vào tiền của con trai, lão chết thế nào chẳng là chết. Thật tội nghiệp và đớn đau cho một kiếp người như thế.

Lão Hạc là một truyện ngắn hay và xuất sắc nhất của Nam Cao giai đoạn trước cách mạng tháng tám, để lại cho người đọc nhiều ấn tượng sâu sắc. Không chỉ là cái chết đầy ám ảnh của một kiếp người tàn mà ở đó ta thấy được nhiều vẻ đẹp đáng quý của một con người giữa cái thời đói khổ khốn nạn. Đó là tấm lòng thương yêu con sâu sắc, chịu chết để giữ vườn cho con, là lối sống ân nghĩa, thủy chung với cả con chó, là sự lương thiện, thực thà của một con người dù đói chứ cũng không bao giờ táy máy của ai, là tấm lòng tự trọng, chu toàn không muốn phiền lụy đến một ai sau khi chết. Một đời người lắm hy sinh, lắm tốt đẹp như thế nhưng vẫn phải chịu nhiều nghiệt ngã đớn đau, vì trời bắt tội những kẻ nghèo, thật khiến người ta không khỏi bùi ngùi, xót xa.

Phân tích tác phẩm Lão Hạc (Mẫu 24)

Trong truyện ngắn 'Lão Hạc,' nhân vật Lão Hạc là một trong những tượng đài của Nam Cao. Lão Hạc, nông dân nghèo, sống trong cô đơn và khó khăn, nhưng không mất đi phẩm chất nhân văn, một tâm hồn cao thượng. Lão sống cô đơn, vất vả, chỉ có đứa con trai duy nhất để nương tựa. Nhưng khi con trai phẫn chí rời đi, lão đành thui thủi làm thuê, kiếm ăn lân hồi và dành dụm cho con.

Nhưng một trận ốm khiến lão trở nên yếu đuối. Sức yếu dần khiến lão không thể làm những công việc nặng. Lão không có việc, và những cơn bão lại làm hại mảnh vườn của lão. Gạo cứ kém đi. 'Một lão với một con chó, mỗi ngày ba hào gạo mà gia sự còn đói deọ đói dắt. Cuối cùng, lão phải ăn khoai. Khoai cũng hết. Từ đây, lão chỉ ăn những gì mà mình có thể tạo ra. Thương mảnh vườn và con chó, lão không muốn bán mất, vì đó là tài sản của con trai.

Lão sống vì con, không chịu đụng đến tài sản của con. Dù đói khổ, nhưng lão không bao giờ ăn vào tiền của con, không bao giờ bán mảnh vườn của con. Mỗi đồng lão nhặt nhạnh được, lão gửi ông giáo giữ, rồi chủ động tìm đến cái chết để không bao giờ phải chạm vào tài sản của con. Lão Hạc chết đi nhưng tâm hồn cao quý của ông sáng tỏ, chiếu sáng như một bức tranh tốt đẹp trong lòng mỗi người.

Chân thật, chất phác, đôn hậu, tràn đầy tình thương và trách nhiệm, lão Hạc là một người cha, một con người cao quý. Cốt cách này của lão Hạc để lại những bài học sâu sắc về phẩm giá con người. Cuộc đời có nhiều khổ người, nhưng giữ được phẩm giá của mình trong mọi hoàn cảnh là điều quan trọng nhất.

Đã hơn 60 năm kể từ khi truyện 'Lão Hạc' ra đời, nhưng những phẩm chất cao quý của lão Hạc vẫn sống mãi, là nguồn động viên và bài học cho chúng ta trong

Phân tích tác phẩm Lão Hạc (Mẫu 25)

Tác phẩm Lão Hạc được sáng tác vào năm 1943 là tác phẩm viết về đề tài người nông dân xuất sắc nhất của Nam. Nó xây quanh cuộc sống, số phận của người nông dân một cách khái quát mà độc đáo. Điển hình ở đây là nhân vậy Lão Hạc. Nam cao đã đưa tiếng nói của mình vào tác phẩm để nói lên cái sự cảm thương, sốt xa cho số phận của người nông dân.
Tác phẩm đã khái hóa xây quanh nhân vật Lão Hạc, qua tâm sự của Lão Hạc về tình thương của ông dành cho con trai của mình, tình thương dành cho những động vật nhỏ bé, về khối tài sản với mong muốn để lại cho con trai mình đó là mảnh vườn và cuối cùng là ông nói về cái chết về sự tồn tại của cuộc đời mình. Ông đã chọn sự giải thoát cho cuộc đời bằng cái chết vì tự trọng vì nhân tính của bản thân.
Nam cao đã khắc họa nhân vật Lão Hạc ở trong một tình cảnh rất đáng thương. Vợ thì mất sớm, ông phải nuôi con, khi con ông đến tuổi lấy vợ thì nhà gái thách cao con trai ông phải bỏ quê đi làm đồn điền cao su. Khi con của Lão đi thì lão không biết bầu bạn với ai chỉ có con chó mà con lão để lại cho lão để làm người bạn tri kỉ với lão. Trong cía tình cảnh khó khăn đó, vì k dữ được mảnh đát cho con trai nên lão bằng bán đi con chó mà lấy tiền giử mảnh đất cho con. Khi buồn bã thấu hiểu về cuộc đời lão đã tìm đến bã chó để tự tử.
Qua những chi tiết trên cho thấy Lão Hạc là một lão nông nghèo nhưng có nhiều phẩm chất tốt đẹp, đáng quý.Nhân vật Lão Hạc là nhân vật điển hình, đại diện cho mỗi tầng lớp người nông dân rơi vào hoàn cảnh trớ trêu nhưng toát lên những vẻ đẹp tâm hồn sáng trong. Nam Cao đã khắc họa được hình ảnh người nông dân suốt đời lao động cần cù ấy không thể sống, dù là sống trong nghèo khổ. Cuộc sống khốn cùng và cái chết bi thương của lão Hạc đã nói lên thấm thía số phận thê thảm của người nông dân trong cái xã hội tăn tối đương thời. Phải cảm thông sâu sắc với người nông dân, phải thấu hiểu nỗi đau của họ.
Tình thương của lão dành cho con chó cũng như tình thương của ông dnahf cho con trai mình vậy. Lão coi nó như một người bạn,ngày ngày lão tâm sự, trò chuyện với nó như thể nó cũng là con người.Tình thế cùng đường khiến lão phải bán nó thì trong lão diễn ra sự dằn vặt, đau khổ tột độ. Lão kể cho ông giáo nghe về việc bán cậu Vàng với tâm trạng vô cùng đau đớn. Vói chi tiết này lão Hạc muốn trách bản thân minh khi phải bán đi người bạn luôn tâm sự với lão vào những lúc buồn vắng có thể nói là người bạn tri kỉ. Và ông cảm thấy như mình bị dầy vò lương tâm có lỗi với cậu vàng.
Đối với con trai mình ông là người thương con vô bờ bến, lo nghĩ đến tương lai đến cuộc sống của con mình. Chỉ vì không cưới được vợ mà con trai lão đã bỏ đi làm đồn điền cao su. Bỏ lại một mình lão đơn độc, cô đơn trong căn nhà ấy. Lão hết mực thương con mình, dành dụm từng đồng để cho con nhưng vì một cơn ốm mà lão đã tiêu xài vào tiền của con mình nên lão thấy có lỗi với con nên lão đã quyết định đi đến cái chết. Cái chết của lão còn nói len cái lòng tự trọng của ông với cậu vàng với con trai và với hàng xóm. Qua những chi tiết đó cho thấy Lão Hạc là một người lương thiện có một tấm lòng đáng được tôn trọng.
Qua tác phẩm này Nam Cao đã khắc họa thành công một con người lao động chân chính lương thiện và cho thấy được cái xã hội phong kiến tàn bạo của ngày ấy. Không chỉ vậy Nam Cao còn đưa những hình ảnh ấn tượng nhưng chi tiết hấp dẫn gần gủi thiết thực với người nông dân.

Phân tích tác phẩm Lão Hạc (Mẫu 26)

Nam Cao nổi tiếng là một trong những tác giả hiện thực tài năng trong văn học tiền cách mạng. Tác phẩm nổi tiếng của ông thường khắc họa đời sống của người trí thức và người nông dân, và trong số đó, việc viết về người nông dân là mảng thành công nhất của ông. Trong số những tác phẩm nổi bật, truyện ngắn Lão Hạc là một ví dụ điển hình.

Về nhân vật chính là lão Hạc, ông ta có số phận đầy bi thảm, nhưng đằng sau đó là những phẩm chất cao quý, là biểu tượng của tâm hồn cao thượng trong người nông dân. Số phận của lão Hạc phản ánh số phận chung của biết bao người nông dân trước cách mạng. Vợ ông ta qua đời sớm, để lại ông nuôi con một mình. Đứa con trưởng thành, nhưng vì không cưới được người yêu, phẫn chí rời nhà. Lão sống một mình với chú Vàng, một kỉ vật quý giá mà con trai đã để lại. Nhưng cuộc sống của lão ngày càng khó khăn hơn, ông bị bệnh, chi phí điều trị ảnh hưởng lớn đến tài sản để dành cho con, khiến ông phải bán chú Vàng. Hành động này khiến lão đau đớn và hối hận. Cảnh lão cười như mếu, đôi mắt ướt nước, khuôn mặt co rúm, đầu nghiêng về một bên, miệng mếu như con nít, tất cả thể hiện sự day dứt và quẫn trí của lão.

Tuy nghèo khổ, nhưng lão luôn tràn đầy tình yêu thương. Tình cảm này được thể hiện rõ ngay cả đối với một con vật: ông gọi chú chó là Vàng, chăm sóc nó như chăm sóc một đứa trẻ. Chú Vàng giúp lão giảm bớt nỗi cô đơn và nhớ con. Tình cảm sâu sắc của ông với chú chó có nguồn gốc từ tình yêu thương con, vì chú chó là kỉ vật đặc biệt mà con đã để lại trước khi rời đi.

Tình cảm cha con của lão Hạc cũng rất sâu sắc và thiêng liêng. Do hoàn cảnh khó khăn, lão không thể cưới vợ cho con trai, điều này làm lão đau đớn. Vì vậy, ông ta dành hết tiền để nuôi nấng con trai, chấp nhận khổ cực và bị người ta chửi mắng, chỉ để bảo vệ tài sản cho con. Khi bị bệnh nặng, lão chỉ ăn khoai, sau đó là củ chuối, sung luộc, rau má, củ ráy, nghĩa là lão ăn bất cứ thứ gì có được, chỉ để tiết kiệm tiền cho con trai. Cuối cùng, lão quyết định chọn cái chết để bảo toàn tài sản cho con trai mình. Cái chết đau đớn của lão Hạc là biểu tượng cho sức sống không ngừng của nhân cách trong ông.

Mặc dù nghèo khổ, lão luôn giữ cho mình lòng tự trọng. Ông không chấp nhận sự giúp đỡ từ bất kỳ ai, thậm chí là khi ông giáo đề xuất giúp đỡ, lão từ chối một cách kiêu căng, vì ông hiểu rằng hoàn cảnh của gia đình ông giáo cũng không khác gì gia đình mình. Lòng tự trọng này còn được thể hiện trong cách lão quyết định đến cái chết. Trước khi qua đời, ông để lại tiền để mọi người giúp đỡ cử hành tang lễ, không muốn làm phiền hàng xóm. Ông chết bằng cách ăn bả chó, cái chết đau đớn như một hình phạt với chú Vàng. Cái chết của lão là một khẳng định cho sức sống vĩnh cửu của tâm hồn trong ông.

Ngoài nhân vật lão Hạc, có sự xuất hiện nổi bật của ông giáo, người bạn thân thiết của lão. Ông giáo thể hiện sự đồng cảm sâu sắc với hoàn cảnh đáng thương của lão Hạc: an ủi, động viên khi lão bán chó, chia sẻ nỗi buồn với lão Hạc, luôn cố gắng làm cho lão vui vẻ và lạc quan. Ông còn là người duy nhất nhìn thấu được vẻ đẹp tâm hồn của lão Hạc: 'Cuộc sống không nhất thiết phải buồn, hoặc có thể nói nó buồn theo một nghĩa khác'. Nghĩa khác ở đây chính là con người có thể đẹp đẽ, nhưng đôi khi phải chịu cảnh chết đau đớn, và cái chết ấy lại làm bừng sáng tâm hồn cao quý của lão.

Nghệ thuật kể chuyện xuất sắc được thể hiện trong câu chuyện, được kể qua góc nhìn của nhân vật tôi (ông giáo), người luôn đồng hành với lão Hạc. Điều này tạo ra sự chân thực và gần gũi, cũng như làm cho cấu trúc câu chuyện trở nên tự nhiên và linh hoạt, tạo điều kiện cho sự kết hợp giữa mô tả, kể và bình luận một cách tự nhiên và sinh động. Ngôn ngữ sử dụng đa dạng và thay đổi linh hoạt. Nghệ thuật xây dựng tình huống bất ngờ và hợp lý, những bước ngoặt trong câu chuyện giúp làm rõ tính cách và phẩm chất của các nhân vật. Nghệ thuật xây dựng nhân vật cũng là một điểm nổi bật của tác phẩm, với mô tả về diện mạo, ngôn ngữ đối thoại, biến động tâm trạng và nhận xét của các nhân vật khác nhau, tạo ra những hình ảnh sinh động và chân thực.

Với nghệ thuật kể chuyện xuất sắc, ngôn ngữ giản dị và lôi cuốn, Nam Cao đã thành công trong việc khắc họa cuộc sống khốn khổ của người nông dân trước cách mạng, những người bị đẩy vào bước đường cùng phải tìm đến cái chết. Tuy nhiên, qua đó, ông cũng vẽ nên bức tranh tinh thần tươi sáng: tình yêu thương và đức tính cao quý.

Phân tích tác phẩm Lão Hạc (Mẫu 27)

Nam Cao là một nhà văn xuất sắc trong nền văn học Việt Nam, các tác phẩm của ông thường về những truyện ngắn, truyện dài, tập trung chủ yếu về những người nông dân nghèo có mảnh đời bất hạnh, bị vùi dập cả về thể xác lẫn tinh thần, sống mòn mỏi trong xã hội phong kiến thối nát xưa. Trong đó, 'Lão Hạc' được coi là truyện ngắn tiêu biểu nhất cho những người nông dân nghèo khổ, nhân vật lão Hạc - nhân vật chính của tác phẩm chính là hiện thân của sự đau thương này.

Lão Hạc là một người nông dân vô cùng nghèo khổ, vợ ra đi từ rất sớm, một mình ông nuôi con lớn khôn. Tài sản của ông không có gì ngoài ba sào vườn, một túp lều nhỏ và một chú chó vàng. Lão còn nghèo đến nỗi không có đủ tiền để cho con trai cưới vợ. Chán nản, ông con trai bỏ đi đồn điền cao su, để lại người cha già sống một mình. Sau trận ốm bất đắc kỳ tử, trong nhà lão không còn gì để ăn, lão quyết định đi bán cậu vàng - người bạn đời của lão để không phải dựa dẫm vào con trai.

Tuy cuộc sống đầy sự gian khổ, khó khăn là vậy nhưng lão vẫn luôn giữ được phẩm chất đáng trân trọng của mình, một phẩm chất hiền lành, nhân hậu và đầy ắp những tình yêu thương. Lão vô cùng yêu thương đứa con trai của mình. Khi không còn sức để lo được cho người con trai cuộc sống ấm no, lão đã vô cùng đau khổ. Vì thương con trai, lão đã chấp nhận sống một cảnh nghèo khổ, một mình để cho con được thoải mái. Con đi rồi, lão lại dồn hết những tình cảm của mình cho cậu Vàng - là kỉ vật duy nhất mà đứa con trai để lại. Mỗi lần nhìn thấy con chó, lão lại nhớ đến người con trai nơi phương xa của mình. Không chỉ vậy, tình yêu thương con của lão còn đến nỗi mà dù đói đến đâu lão cũng không chịu bán đi mảnh vườn của mình, để dành của hồi môn cho con. Thậm chí lão còn quyết định lựa chọn đến cái chết để không phải ảnh hưởng đến con lão. Lão bán đi căn nhà, đem hết số tiền của mình có đến gửi cho ông Giáo hàng xóm và nhờ trông coi hộ mảnh vườn, nhỡ may đứa con trai lão có về thì nhờ ông Giáo gửi hộ. Không chỉ có tình yêu đối với con trai, lão còn hết lòng yêu thương cậu Vàng. Lão coi cậu Vàng như con người, cho nó ăn, ăn ngủ cùng nó. Mỗi khi rảnh là lại đem nó ra tắm rửa, bắt rận. Mỗi khi lão có đồ uống rượu ngon là lại cho cậu Vàng thưởng thức cùng như con cháu trong nhà. Cậu Vàng đối với lão như là một người bạn hơn là con chó. Để rồi đến khi bất đắc dĩ phải bán nó, lão đã vô cùng đau đớn và day dứt. Cái quyết định bán đi người bạn thân yêu nhất của mình thật sự khó khăn, trăn trở giống như phải quyết định một việc trọng đại trong cuộc đời. Khi kể lại sự việc bán cậu Vàng cho người hàng xóm nghe, ông đã đau đớn và dằn vặt mình vô cùng, tự trách bản thân mình phải lừa đến cả con chó.

Lão Hạc là một người sống trong sạch, giàu lòng thương yêu và tự trọng. Dù sống trong cảnh nghèo đói, túng quẫn như thế nào đi chăng nữa, lão cũng chấp nhận chỉ ăn củ chuối, sung luộc...sống qua ngày. Lão chỉ thật sự cần giúp đỡ ở 2 việc. Một là, nhờ ông giáo trông nom hộ mảnh vườn để khi con trai lão trở về sẽ giao lại cho nó. Hai là nhờ ông giáo giữ hộ một ít tiền để sau này khi lão chết lấy số tiền đó mà làm đám tang cho lão, không phải ảnh hưởng đến con trai. Sau đó, lão đi xin một ít bả chó và nói dối rằng cho con chó hay đến vườn nhà lão nên muốn cho nó chết, nếu được lão sẽ mời người đó nhậu một bữa. Nhưng thực ra, chỗ bả chó đó là để lão tự tử. Nhà văn đã khắc họa lại hình ảnh vô cùng ám ảnh trong cuộc đời của lão, vật vã trên giường, đầu rõ rũ rượi, hai mắt long sòng sọc,... Lão tru tréo lên, sùi bọt mép ra, khắp người lão bỗng chốc lại giật lên thật mạnh một cái. Lão vật vã đến một, hai giờ đồng hồ mới chết hẳn. Cái chết dữ dội, thê thảm của một con người sống lương thiện đầy thanh cao.

Nhà văn Nam Cao đã sử dụng những từ ngữ để miêu tả nhân vật trong câu chuyện vô cùng thành công. Cùng với đó là những ngôn ngữ giàu trí tưởng tượng, đầy tính tạo hình và sức gợi cảm kết hợp với ngòi bút tài hoa miêu tả nội tâm nhân vật để xây dựng thành công nhân vật lão Hạc để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc.

Như vậy, chỉ qua nhân vật lão Hạc mà Nam Cao đã gửi gắm thành công cuộc đời khốn khổ của người nông dân Việt Nam trước cách mạng và đó là những phẩm chất vô cùng đáng quý, trân trọng của họ. 

Xem thêm các bài Soạn văn 8 Cánh diều hay nhất, ngắn gọn khác:

Phân tích tác phẩm Lão Hạc (Mẫu 28)

Nam Cao, một tâm hồn nông dân Việt Nam kiệt xuất, đặc biệt là trong thời kỳ trước Cách mạng tháng Tám 1945. Trước bức tranh đói nghèo, ông vẫn hiểu rõ vẻ đẹp cao quý trong tâm hồn họ. Trong truyện ngắn 'Lão Hạc', nhà văn tài năng đã khắc họa một nhân vật sâu sắc. Lão Hạc, mặc dù đối mặt với số phận khó khăn, nhưng vẫn giữ được tình yêu thương và lòng tự trọng cao cả. Nhà văn đã truyền đạt tư tưởng nhân đạo tiến bộ và sâu sắc qua nhân vật này.

Lão Hạc, như nhiều người nông dân Việt Nam khác, phải đối mặt với đói nghèo trước Cách mạng. Nhưng lão còn phải đối mặt với những biến cố bất hạnh. Vợ lão qua đời sớm, con trai lão vì nghèo mà không có được tình yêu, buộc phải rời quê đi. Lão chỉ còn lại con chó Vàng là bạn đồng hành. Lão phải đối mặt với nhiều đau khổ: đói nghèo, cô đơn, tuổi già với nỗi đau và bệnh tật. Cuộc sống khó khăn dẫn lão đến bước đường cùng. Lão phải bán con chó Vàng, người bạn thân nhất của mình, trong nỗi đau tột cùng: 'Mặt co rúm lại, nước mắt chảy ra, cái đầu ngoẹo về một bên, lão hu hu khóc'...

'Luôn mấy hôm lão chỉ ăn khoai', 'khoai cũng hết, lão chế biến mọi thứ có thể ăn. Hôm nào lão ăn củ chuối, hôm sau ăn sung luộc, rồi ăn rau má, với thỉnh thoảng một vài củ ráy hay ốc. Rồi đến khi không còn gì để ăn, để sống. Rồi cái chết tới. Không còn đường sống, lão Hạc chỉ còn cách chết. Một cái chết đau đớn, thậm chí chết 'nhờ' ăn bả chó tự tử! Cái chết dữ dội: lão sùi bọt mép, co giật dưới áp lực của hai người đàn ông mạnh mẽ... Cái chết khiến đọc giả liên tưởng đến cái chết của con chó Vàng, nhận ra rằng cái chết của lão không khác gì cái chết của một con chó. Trong đói nghèo, khổ đau, lão vẫn giữ vững nhân phẩm. Binh Tư và ông giáo nghi ngờ lão, nhưng lão vẫn giữ vững lòng tự trọng và tình yêu thương của mình.

Lão yêu thương con mình rất nhiều. Văn học Việt Nam đã có những tác phẩm ca ngợi tình phụ tử như 'Cha con nghĩa nặng' của Hồ Biểu Chánh, 'Chiếc lược ngà' của Nguyễn Quang Sáng,... và cũng cần kể đến 'Lão Hạc' của Nam Cao. Vì yêu thương con, lão chấp nhận cô đơn và tuổi già để con đi theo đuổi ước mơ. Sau khi con đi, lão dồn hết yêu thương cho con chó Vàng. Lão không chỉ coi Vàng là một chú chó khôn, đẹp mà còn là kỉ vật duy nhất con trai để lại. Nhìn Vàng, lão như được gặp lại con mình.

Điều quan trọng là lão chấp nhận cả đói, cả cái chết mà không bán mảnh đất của con. Lão có thể bán mảnh đất để có đủ để sống qua thời kỳ khó khăn. Nhưng lão lo rằng con trai sẽ không có đất để ổn định cuộc sống. Vì vậy, lão chấp nhận cái chết và nhờ ông giáo giữ đất cho con. Tình yêu thương của lão làm người đọc xúc động. Lão chấp nhận cái chết thay vì ăn của con mình!

Lòng tự trọng của lão Hạc tỏa sáng nhất khi thân xác lão đau đớn. Lão chọn cái chết để tâm hồn được trong sạch, trọn vẹn tình nghĩa với mọi người, kể cả con chó Vàng. Đặc biệt, lão đã tính toán để ngay cả sau khi chết, không làm phiền đến người khác: lão gửi ông giáo một số tiền và nhờ ông giáo lo liệu ma chay để không làm phiền hàng xóm. Lão Hạc, một nhân vật tượng trưng cho tinh thần nhân đạo, tư tưởng sâu sắc của người nông dân Việt Nam trước Cách mạng. Nam Cao đã khéo léo vẽ nên hình ảnh này, truyền đạt thông điệp về lòng tự trọng của người nông dân giữa những khó khăn.

Qua nhân vật lão Hạc, nhà văn thể hiện tinh thần nhân đạo tiến bộ sâu sắc. Nam Cao đồng cảm với đau đớn, đói nghèo của người nông dân Việt Nam trong thời kỳ khó khăn. Cuộc sống đưa họ đến bước đường cùng, nhưng nhà văn đã tôn trọng vẻ đẹp tâm hồn và lòng tự trọng của họ. Trong nghèo đói, lòng tự trọng là điều quý giá. Lão Hạc, giữa đói khổ, vẫn giữ nguyên nhân phẩm của mình. Bạn đọc không chỉ cảm nhận tình yêu thương, mà còn thấy sự tự trọng quý báu của lão Hạc.

Và nhờ vẻ đẹp tâm hồn ấy, Nam Cao chia sẻ niềm tin: 'Cuộc đời không hẳn là đau buồn'. Chúng ta có những con người như lão Hạc, cao quý và tốt đẹp. Bằng cách này, nhà văn làm cho người đọc tin tưởng vào giá trị tốt đẹp của người nông dân Việt Nam trước Cách mạng. Điều đó là đáng trọng, khi mà người nông dân thường bị coi thường, thậm chí bị một số nhà văn coi như 'lợn không tư tưởng'. Tư tưởng của Nam Cao đáng khen ngợi, tôn vinh tình thương và lòng tự trọng sâu sắc.

Nhân vật lão Hạc là minh chứng cho sự cao quý và tinh tế trong tâm hồn của người nông dân Việt Nam trước Cách mạng. Nam Cao đã thể hiện không chỉ lòng nhân đạo, mà còn sự tự trọng đáng quý của họ giữa những khó khăn.

Phân tích tác phẩm Lão Hạc (Mẫu 29)

Nam Cao là một nhà văn hiện thực xuất sắc. Hai mảng đề tài chính trong các tác phẩm của ông là người nông dân và tri thức nghèo. Một trong những tác phẩm tiêu biểu viết về người nông dân là truyện ngắn Lão Hạc.

“Lão Hạc” được đăng báo lần đầu năm 1943. Truyện kể về Lão Hạc là một người nông dân nghèo khổ. Lão có một đứa con trai nhưng vì nhà nghèo, không có tiền lấy vợ nên bỏ đi đồn điền cao su. Cả gia tài của lão chỉ có mảnh vườn vốn là của hồi môn của con trai và con chó Vàng sống cùng để bầu bạn. Sau trận ốm thập tử nhất sinh, nhà lão không còn gì để ăn. Lão đành phải bán con Vàng đi. Số tiền bán chó và bán mảnh vườn, lão đem gửi ông giáo và nhờ khi nào anh con trai về sẽ trao lại cho anh. Còn bản thân thì đến xin Binh Tư một ít bả chó để tự tử.

Nhân vật chính trong truyện là lão Hạc, một người nông dân nghèo khổ nhưng sống tình cảm. Điều này được thể hiện rõ qua sự gắn bó, đau xót, tiếc thương của lão khi phải bán đi cậu Vàng. Bên cạnh đó, lão còn là một người cha yêu thương con hết mực, luôn nghĩ cho con và dành dụm cho con. Không chỉ vậy, Lão cũng là một người có lòng tự trọng. Dù sống trong hoàn cảnh thiếu thốn, khó khăn nhưng không có những suy nghĩ, việc làm trái với lương tâm và cũng không muốn ảnh hưởng, phiền hà đến bất cứ ai.

Nhân vật ông giáo xuất hiện với vai trò người kể chuyện, xưng “tôi”. Nhân vật này là hàng xóm cũng có thể coi là người bạn tâm giao của lão Hạc. Ông giáo là người được lão Hạc tin tưởng. Lão kể cho ông giáo nghe về việc bán con chó Vàng, lão nhờ ông giáo giữ hô số tiền bán mảnh vườn và con chó để khi con trai của lão trở về sẽ giao lại. Không chỉ vậy, qua nhân vật ông giáo, Nam Cao cũng gửi gắm một số triết lí về cuộc sống, tư tưởng sâu sắc.

Bên cạnh những thành công về nội dung, truyện ngắn còn gây ấn tượng với người đọc bởi nghệ thuật tác giả sử dụng vô cùng đặc sắc. Đầu tiên phải kể đến nghệ thuật xây dựng và khắc họa nhân vật vô cùng tiêu biểu, đậm nét. Lấy hình ảnh một con người để nói đến một bộ phận người. Tiếp đến là nghệ thuật miêu tả chân dung nhân vật vô cùng tài tình. Sự kết hợp giữa phương thức tự sự và trữ tình cũng tạo nên sự đa chiều của câu chuyện. Có lúc là giọng văn tự sự mẫu mực, có lúc lại khiến người đọc rưng rưng xúc động với những xúc cảm do tác giả thể hiện.

Lão Hạc của nhà văn Nam Cao xứng đáng là một tác phẩm hay. Truyện không chỉ thành công bởi những giá trị về nội dung mà còn cả bởi giá trị về nghệ thuật.

Phân tích tác phẩm Lão Hạc (Mẫu 30)

Bạn hãy viết về đề tài nông dân trước cách mạng, 'Lão Hạc' là một tác phẩm ngắn độc đáo của nhà văn Nam Cao. Truyện chứa đựng tình cảm sâu sắc, làm xúc động nhiều tâm hồn khi tác giả kể về cuộc đời cô đơn và bi kịch của một lão nông nghèo. Nhân vật lão Hạc để lại ấn tượng mạnh mẽ về số phận của con người, đặc biệt là người nông dân Việt Nam trong xã hội xưa.

Lão Hạc, người nghèo, bất hạnh, chỉ có ba sào đất, một túp lều, một chú chó vàng... đó là toàn bộ của lão. Vợ đã mất, con trai đi làm phu đồn điền cao su và lâu ngày không trở về. Lão sống cô đơn, đói khổ, chấp nhận mọi công việc để kiếm sống. Sau một thời gian ốm đau, lão thất nghiệp và cảnh gà trống nuôi con trở nên khó khăn hơn. Giá gạo tăng, làng mất nghề sợi, mọi người phải đi làm thuê xa. Lão Hạc và chú chó Vàng vẫn ăn hết ba hào gạo mỗi ngày mà vẫn đói khổ. Bao nhiêu tiền lão tiết kiệm được bán hoa lợi đã chi tiêu hết trong thời gian ốm đau.

''Nhưng cuộc sống không chỉ một lần khó khăn (...). Lão Hạc ơi! Người có quyền giữ lại điều gì cho chính mình chứ?'. Ông giáo, một nhân vật khác trong truyện, đã nghĩ như vậy khi lão Hạc nói về việc bán chú chó Vàng. Lão Hạc, dù yêu quý chú chó, nhưng với tình hình khó khăn, ông buộc phải bán nó cho một số người. Sau khi bán xong, lão Hạc cảm thấy tột cùng đau khổ và tự trách mình đã 'lừa dối một con chó'. Quằn quại, túng bấn, lão Hạc chỉ còn có chú chó và bản thân. Lão đã ăn bả chó để tự tử, và cái chết của ông trở nên thảm kịch và đau đớn.

Số phận của lão Hạc là bi kịch, đầy đau khổ và bất hạnh. Tuy nhiên, tác giả Nam Cao đã vẽ nên một hình ảnh lão Hạc là người hiền lành, nhân hậu và tự trọng. Dù trong cảnh khó khăn, lão vẫn giữ lại ba sào đất cho con trai và không bán nó. Lão yêu thương chú chó Vàng như con, chia sẻ mọi thứ với nó. Chú chó trở thành nguồn vui và niềm an ủi cho lão Hạc trong những thời điểm khó khăn. Tình cảm này khiến cái chết của chó trở nên đặc biệt thảm kịch đối với lão, đẩy ông vào tận cùng của đau đớn và cô đơn.

Lão Hạc là biểu tượng của người nông dân Việt Nam trong xã hội xưa, với lòng tự trọng, tình cảm nhân đạo và tình thương đặc biệt dành cho đồng loại và động vật. Tác phẩm của Nam Cao là một tấm gương cho sự hi sinh và lòng nhân ái, vẽ lên hình ảnh đậm chất nhân văn và xã hội.

Phân tích tác phẩm Lão Hạc (Mẫu 31)

Trong số những tác giả theo đuổi khuynh hướng văn học hiện thực, Nam Cao được biết đến là một cây bút xuất sắc. Trước Cách mạng, tác phẩm của ông chủ yếu viết về hai mảng đề tài là người nông dân và trí thức. Trong đó, mảng đề tài về người nông dân với truyện ngắn Lão Hạc đã rất nổi tiếng.

Về hoàn cảnh sáng tác, truyện ngắn Lão Hạc được đăng báo lần đầu năm 1943. Nhân vật chính trong truyện là lão Hạc - một người nông dân nghèo khổ. Vợ lão mất sớm, lão có một đứa con trai nhưng vì nhà nghèo, không có tiền lấy vợ nên đã bỏ đi đồn điền cao su. Cả gia tài của lão chỉ có mảnh vườn vốn là của hồi môn của con trai và con chó Vàng sống cùng để bầu bạn. Sau trận ốm thập tử nhất sinh, lão không còn đủ sức để đi làm thuê. Dần dần, của cải trong nhà cũng tiêu tốn hết. Lão đành phải bán con Vàng đi. Sau khi bán con Vàng, lão Hạc vô cùng buồn bã và đau đớn. Số tiền bán chó và bán mảnh vườn, lão đem gửi ông giáo và nhờ khi nào anh con trai về sẽ trao lại cho anh. Còn bản thân thì đến xin Binh Tư một ít bả chó, nói dối là để đánh bả con chó nhưng thực ra là để tự tử.

Truyện xoay quanh việc bán con chó Vàng của lão Hạc nhưng thực chất nhà văn muốn gửi gắm thông điệp sâu sắc. Trước Cách mạng, người nông dân có số phận bất hạnh, là nạn nhân của đói nghèo. Rõ ràng, vì cái nghèo, lão Hạc không có tiền lo cho con trai cứu vợ, dẫn đến việc anh con trai bỏ nhà đi đồn điền cao su. Khi lão Hạc bị bệnh, lão cũng chẳng dám ăn tiêu, phải bán đi con chó Vàng - người bạn tâm giao của lão. Sau khi bán chó, lão Hạc vô cùng đau đớn, day dứt vì mình đã trót lừa một con chó, lừa chính người bạn của mình. Lão nhất quyết không nhận sự giúp đỡ của ông giáo vì biết hoàn cảnh của ông giáo cũng chẳng khá hơn. Đỉnh điểm, lão Hạc còn lựa chọn cái chết để không phải tiêu đến số tiền, mảnh vườn để lại cho anh con trai. Ở lão Hạc nổi bật lên tình yêu thương, một người giàu lòng tự trọng.

Một nhân vật khác cũng khá nổi bật trong truyện là ông giáo. Ông giáo xuất hiện với vai trò người kể chuyện, xưng “tôi”. Ông giáo là hàng xóm của lão Hạc, cũng là người bạn tâm giao của lão Hạc. Ông giáo là người được lão Hạc tin tưởng, kể cho nghe mọi chuyện. Lão kể cho ông giáo nghe về việc bán con chó Vàng, lão nhờ ông giáo giữ hô số tiền bán mảnh vườn và con chó để khi con trai của lão trở về sẽ giao lại. Nhân vật ông giáo được Nam Cao cũng gửi gắm một số triết lí về cuộc sống, tư tưởng sâu sắc.

Truyện ngắn “Lão Hạc” gây ấn tượng với người đọc bởi nghệ thuật xây dựng và khắc họa nhân vật vô cùng tiêu biểu, đậm nét. Tiếp đến nhà văn rất thành công trong việc miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật, kết hợp giữa phương thức tự sự và trữ tình cũng tạo nên sự đa chiều của câu chuyện.

Truyện ngắn Lão Hạc của Nam Cao tiêu biểu khi viết về số phận người nông dân trước Cách mạng. Truyện không chỉ thành công bởi những giá trị về nội dung mà còn cả bởi giá trị về nghệ thuật.

Phân tích tác phẩm Lão Hạc (Mẫu 32)

Như Nguyễn Công Hoan và Ngô Tất Tố, Nam Cao là một trong những tác giả đại diện của văn học hiện thực phê phán, luôn chú trọng đến cuộc sống của người nông dân, phản ánh thực tế đời sống của họ trước Cách mạng. Trong số những tác phẩm của Nam Cao, truyện ngắn Lão Hạc nổi bật như một điểm đỉnh trong sự nghiệp sáng tác của ông.

Nam Cao luôn đau đáu với số phận của người nông dân hiền lành trong xã hội phong kiến. Nhân vật Lão Hạc trong tác phẩm cùng tên là biểu tượng của một lão nông Việt Nam đáng thương và đáng kính. Số phận của Lão Hạc thực sự là một câu chuyện bi đát với nghèo đói và túng thiếu. Sau cái chết của vợ, lão nỗ lực nuôi con trai một mình trong cảnh khó khăn. Khi con trai đến tuổi cưới vợ, lão muốn cưới cho con nhưng lại gặp khó khăn vì nghèo đói. Con trai cuối cùng rời bỏ nhà để làm phu đồn điền ở Nam Kỳ. Từ lúc này, chỉ có con chó Vàng làm niềm vui duy nhất trong cuộc sống của lão. Lão chăm sóc cậu Vàng như chính con người, thể hiện lòng nhân hậu của mình.

Lão thậm chí còn nhân hậu với con chó của mình. Số phận của Lão Hạc quá khốn khổ. Cuộc sống túng thiếu và nghèo đói luôn là bó shadow bám theo ông. Mặc dù có mảnh vườn ba sào để lại, nhưng lão quyết định không bán vì tình cảm với con. Lão tự nhủ rằng mảnh đất là của con trai và con sẽ được hưởng lợi từ nó. Mặc dù có những khó khăn về tài chính, Lão Hạc không bán mảnh vườn để giữ cho con trai về cưới vợ. Mọi hoa lợi từ vườn được bán để tiết kiệm cho ngày con trai trở về. Tuy nhiên, sau một cơn ốm dài, mọi tài sản mà lão tích góp được đều biến mất.

Do không có tiền để sống và lo sợ tiêu tiền của con trai, lão quyết định tìm đến cái chết. Lão hy sinh bản thân để bảo vệ tương lai cho con trai. Hành động này làm ta cảm động vô cùng về tình yêu thương và lòng hi sinh cao cả của một người cha đối với con cái! Số phận của lão quá bi đát. Nghèo đến mức phải bán đi chú chó Vàng mà lão yêu thương, gắn bó. Khi kể lại việc bán chó cho ông giáo, lão đau đớn và xót xa: khuôn mặt lão co lại, những nếp nhăn gấp lại, làm cho nước mắt chảy ra, đầu nghiêng về một bên và miệng móm mém của lão khóc... lão khóc vì thương chó và vì cảm giác lừa dối khi bán cậu Vàng. Số phận của lão rất bi đát, nhưng lão không bao giờ đánh mất phẩm giá cá nhân. Ngay cả trước khi đi đến cái chết, lão vẫn suy nghĩ về hạnh phúc của con trai. Lão viết văn bản để nhường lại mảnh vườn cho ông giáo, không muốn làm phiền ai. Tuy lão nghèo đói, bị xã hội bỏ rơi, nhưng lão vẫn giữ được lòng hi sinh, lòng yêu thương và tính cách lương thiện.

Hình ảnh cuối cùng của Lão Hạc khi chết thật đau lòng. Lão sử dụng miếng bả chó để tự kết thúc cuộc sống của mình. Lão vật vã trên giường, đầu tóc rối bời, quần áo xộc xệch, hai mắt long sòng sọc. Lão tru tréo, bọt mép sùi ra... Cái chết đau đớn của lão đã làm rõ thêm những phẩm chất lương thiện của người nông dân hướng thiện. Mặc dù sống trong một xã hội đen tối, tâm hồn của lão vẫn sáng lạng, và tính cách của ông luôn toả sáng qua những tình huống khó khăn.

Với cách mô tả tâm lý nhân vật và kết hợp với sự chia sẻ cá nhân, Nam Cao đã truyền đạt cho chúng ta niềm đồng cảm không ngừng đối với những người nông dân nghèo khổ. Bằng bút pháp của mình, ông đã làm nổi bật giọng nói cảnh báo về một xã hội không công bằng, một xã hội ít quan tâm đến người nghèo, và đánh đồng lên số phận của con người hiền lành.

Phân tích tác phẩm Lão Hạc (Mẫu 33)

Nguyễn Đình Thi từng nói 'Con người Nam Cao mảnh khảnh, thư sinh, ăn nói ôn tồn nhiều khi đến rụt rè, mỗi lúc lại đỏ mặt mà kì thực mang trong lòng một sự phản kháng mãnh liệt’’. Quả thật, mỗi tác phẩm đều ẩn chứa một tinh thần phản kháng của con người để phản ánh xã hội lúc bấy giờ vô cùng suy thoái. Tác phẩm tiêu biểu cho chủ đề ấy phải kể đến là truyện ngắn ‘’Lão Hạc’’.

Ông được biết đến với phong cách sáng tác truyện ngắn về người nông dân nghèo trước 1945. Nam Cao thông qua nghệ thuật viết của mình tạo nên một bức tranh đa chiều về cuộc sống, nối kết giữa hành động vật lý và tâm trạng của nhân vật, đồng thời thể hiện sự áp bức bối cảnh xã hội đầy biến động này.Tình yêu thương và lòng hy sinh của con trai được thể hiện qua việc gửi ba đồng bạc cho ông và những lời chia sẻ sâu sắc. Tuy nhiên, cảm xúc phức tạp của ông, khi phải đối mặt với việc con trai đi và những khó khăn trong cuộc sống, tạo nên một bức tranh cảm xúc đầy lòng nhân văn và hiểu biết về đời sống xã hội. Số phận Lão Hạc cũng như biết bao số phận của người nông dân Việt Nam trước Cách Mạng. Vợ mất sớm, lão một mình nuôi con khôn lớn. Nhưng khi đứa trẻ lớn lên, cậu chán nản và bỏ nhà ra đi vì không thể cưới được người mình yêu. Ông sống một mình với cậu Vàng - kỷ vật của con trai ông. Cuộc sống của ông ngày càng khốn khổ, ông lâm bệnh, tiêu tốn rất nhiều tiền dành dụm cho con cái và phải bán đi cậu vàng đã luôn bên cạnh ông những ngày tháng cô đơn này. Khi bán cậu Vàng, ông cảm thấy vô cùng đau buồn và hối hận. Hoàn cảnh của ông thật đáng thương, ông luôn sống trong đau khổ, dằn vặt chính mình. Hoàn cảnh đáng thương là như vậy nhưng ông luôn sáng lên bởi những phẩm chất cao đẹp của người nông dân lương thiện. Mặc dù cần tiền để mua thuốc, nhưng Lão Hạc không ngần ngại thể hiện sự khó chịu và phản đối khi được mời hút thuốc, có thể là do lòng tự trọng và không muốn chấp nhận sự giúp đỡ từ người khác. Ông là người giàu tình thương và yêu cả loài vật: ông gọi con chó là cậu Vàng và tâng bốc nó như một đứa trẻ, và ông chăm sóc rất chu đáo. Tình cảm sâu đậm của ông dành cho cậu Vàng bắt nguồn từ tình yêu thương con của ông, và chú chó là kỷ vật thiêng liêng được con trai ông để lại trước khi vào đồn điền cao su. Tình phụ tử của lão vô cùng sâu sắc và thiêng liêng. Vì nghèo khó, không tìm được vợ cho con, đau khổ vô cùng nên đã cố gắng dành dụm thật nhiều tiền cho con cái, chịu đựng gian khổ, để người khác mắng mỏ nhưng không chịu tiêu. Lão lo lắng sẽ tiêu hết tiền cho con nên lão đành chọn cái chết để bảo toàn tài sản cho con trai mình. Cái chết ấy xuất phát từ lòng yêu hương con vô bờ bến. Nam Cao đã thông qua những tình tiết nhỏ, khám phá sâu sắc những khía cạnh về tình cảm gia đình và những thách thức trong cuộc sống hàng ngày. Lão Hạc qua lời nói và hành động của mình, thể hiện sự rụt rè và lo lắng, nhưng cũng làm cho độc giả cảm nhận được tình cảm yêu thương sâu sắc. Cuộc trò chuyện với cậu Vàng, với những cử chỉ và lời nói, tạo nên một bức tranh động lòng về tình cảm gia đình. Sự hy sinh và niềm tin của lão được thể hiện qua việc giữ vững mảnh đất này cho đến khi con trai quay trở về. Mẹ nó đã dành công sức để tích lũy tiền và mua khu vườn, và lão giữ vững giữ nó như một di sản cho thế hệ sau. Cảm giác tự hào và lòng hi sinh vì con cái được thể hiện nổi bật trong câu chuyện. Câu chuyện cũng thể hiện niềm tin rằng khi con trở về và cần, gia đình sẽ luôn đứng sẵn lòng hỗ trợ. Mặc dù lão phải làm thuê kiếm sống, nhưng sự giữ gìn khu vườn là biểu tượng cho tình cảm lâu dài và hy sinh cho thế hệ kế tiếp.

Là một truyện ngắn của nhà văn Nam Cao được viết năm 1943. Lão Hạc được đánh giá là một trong những truyện ngắn tiêu biểu của dòng văn học hiện thực, nội dung truyện đã phần nào phản ánh được hiện trạng xã hội Việt Nam trong giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám.

Phân tích tác phẩm Lão Hạc (Mẫu 34)

Nam Cao là nhà văn hiện thực xuất sắc trước cách mạng. Tác phẩm của ông thường gắn liền với hình ảnh nông thôn đói khổ. Trong hoàn cảnh đó, ông vẫn nhìn thấy được những phẩm chất tốt đẹp của người nông dân nghèo đang âm thầm tỏa sáng. Truyện ngắn Lão Hạc là một tác phẩm như vậy. Nhân vật chính là một lão nông nghèo khổ, bất hạnh nhưng vẫn mang những phẩm chất cao quý đáng trân trọng.

Truyện được kể qua lời ông giáo – người hàng xóm thân thiết của lão Hạc – đã tạo cho câu chuyện thêm phần chân thực, sinh động. Qua ông giáo, ta được biết gia cảnh buồn của lão Hạc: vợ mất sớm, đứa con trai duy nhất lại phẫn chí do bị phụ tình vì quá nghèo nên bỏ vào Nam làm phu đồn điền cao su, biền biệt một năm nay chẳng tin tức gì. Kỉ vật duy nhất con trai lão để lại là con chó mà lão vẫn hay trìu mền gọi là cậu Vàng. Mỗi lần nhớ con, lão lại ngồi nói chuyện với nó cho khuây khỏa. Vì thế, có thể nói nó là một người bạn tri kỉ của lão. Nhưng rồi, cảnh đói kém bủa vây. Một trận ốm đã làm cho số tiền tích cóp của lão cạn dần. Còn mảnh vườn nhưng lão không thể bán được vì lão muốn để dành nó cho con trai. Vì vậy, sau nhiều lần định bán con Vàng, lần này lão dứt khoát chia tay nó. Lão không muốn tiêu phạm vào những đồng tiền ít ỏi mà lão để dành cho con trai.

Cảnh lão bán cậu Vàng thật xót xa. Cả đời lão chưa dám lừa một ai. Vậy mà lần này lão lại đi lừa một con chó – điều này làm lão đau lòng và tội lỗi: 'Lão cố làm ra vẻ vui vẻ. Nhưng trông lão cười như mếu và đôi mắt lão ầng ậng nước... Mặt lão đột nhiên co rúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít. Lão hu hu khóc...'

Lão tìm đến ông giáo để giãi bày lòng mình. Lão muốn nhờ ông giáo trông coi hộ lão cái vườn đến khi con trai lão trở về. Rồi lão cũng nhờ ông giáo lo liệu ma chay cho mình nếu sau này già yếu. Những suy nghĩ, tính toán của lão thật đơn giản, thật thà. Nhưng mọi thứ đều được lão sắp xếp một cách cẩn thận, chi tiết. Lão vừa lo cho con trai mình, rồi lại lo đến cái chết của mình làm ảnh hưởng tới làng xóm. Điều này như một dự báo sẽ có một biến cố lớn xảy đến với lão.

Từ ngày bán cậu Vàng, và cũng từ khi nói chuyện, nhờ cậy ông giáo xong, nếp sống sinh hoạt của lão cũng có sự thay đổi: 'Lão Hạc chỉ ăn khoai. Rồi thì khoai cũng hết. Bắt đầu từ đấy, lão chế được món gì, ăn món ấy. Hôm thì lão ăn củ chuối, hôm thì lão ăn sung luộc, hôm thì rau má, với thỉnh thoảng một vài củ ráy hay bữa trai, bữa ốc.' Mặc dù vẫn còn ba mươi đồng bạc đó, nhưng lão không muốn là ảnh hưởng tới cái 'gia tài' của con. Xuất phát từ tình thương của một người cha đã khiến cho lão phải chịu cảnh sống đói khổ. Nhưng không phải vì thế mà lão nảy sinh thói hư tật xấu. Lão vẫn giữ cho mình nếp sống 'đói cho sạch, rách cho thơm'.

Cuộc sống bế tắc đã đẩy lão Hạc tìm đến cái chết như một sự giải thoát. Trước hết, lão sang nhà Binh Tư xin ít bả chó. Biết tin, ông giáo thấy vô cùng đau lòng: 'Hỡi ơi lão Hạc!... Con người đáng kính ấy bây giờ cũng theo gót Binh Tư để có ăn ư?' Ai cũng cứ ngỡ rằng rồi đây, lão sẽ sa chân vào con đường tội lỗi khi nghe những lời Binh Tư kể lại: 'Lão làm bộ đấy! Thật ra thì lão chỉ tẩm ngẩm thế, nhưng cũng ra phết chứ chả vừa đâu. Lão vừa xin tôi một ít bả chó... Lão bảo có con chó nhà nào cứ đến vườn nhà lão...

Lão định cho nó xơi một bữa. Nếu trúng, lão với tôi uống rượu.' Nhưng rồi cái chết của lão đã làm đảo lộn suy nghĩ của tất cả mọi người: 'Lão Hạc đang vật vã ở trên giường, đầu tóc rũ rượi, quần áo xộc xệch, hai mắt long sòng sọc. Lão tru tréo, bọt mép sùi ra, khắp người chốc chốc lại bị giật mạnh một cái, nảy lên. Hai người đàn ông lực lưỡng phải đè lên người lão. Lão vật vã đến hai giờ đồng hồ rồi mới chết. Cái chết thật là dữ dội. Chẳng ai hiểu lão chết vì bệnh gì mà đau đớn và bất thình lình như vậy. Chỉ có tôi với Binh Tư là hiểu.' Lão vẫn giữ cho bản thân mình trong sạch, nhưng cái chết của lão thật đau đớn, bi thảm.

'Lão Hạc' đã cho chúng ta thấu hiểu được hoàn cảnh khổ đau, khốn cùng, bế tắc của người nông dân nghèo có tâm hồn cao đẹp trong chế độ thực dân phong kiến tàn ác đương thời. Đồng thời, truyện cũng là lời nhắc nhở cho chúng ta phải biết quan tâm, giúp đỡ nhưng con người có số phận éo le hơn mình.

Phân tích tác phẩm Lão Hạc (Mẫu 35)

Tác phẩm 'Lão Hạc' của Nam Cao, viết vào năm 1943, là một tác phẩm độc đáo về đề tài người nông dân miền Nam. Tác phẩm xoay quanh cuộc sống và số phận của người nông dân một cách rộng lớn và độc đáo, chủ yếu tập trung vào nhân vật Lão Hạc. Nam Cao đã sử dụng giọng điệu riêng để thể hiện lòng cảm thương, lòng sốt xa về số phận của người nông dân.

Lão Hạc, nhân vật chính, là biểu tượng cho sự khó khăn. Vợ mất sớm, con trai phải rời quê đi làm đồn điền, chỉ còn lại một mình Lão Hạc và chú chó Vàng. Tình cảnh đau thương này khiến lão phải bán chú chó để giữ mảnh đất cho con. Lão Hạc còn đối diện với sự cô đơn và đau khổ, nhưng tất cả đều thể hiện lòng yêu thương và lòng tự trọng.

Tác phẩm không chỉ là câu chuyện về nghèo đói và hy sinh mà còn là bức tranh đẹp về lòng nhân ái và tình thương. Lão Hạc không chỉ thương con trai mình mà còn thương chú chó Vàng như một người bạn tri kỷ. Sự hy sinh và lòng tự trọng của Lão Hạc khiến độc giả không thể không cảm thông và kính trọng.

Tác phẩm không chỉ là cái nhìn sâu sắc về cuộc sống của người nông dân miền Nam mà còn là bức tranh về những giá trị tốt đẹp trong con người. Nhân vật Lão Hạc đại diện cho hàng triệu người nông dân, mang đến cho độc giả sự thấu hiểu và lòng nhân ái sâu sắc.

Phân tích tác phẩm Lão Hạc (Mẫu 36)

Nam Cao, một tài năng văn học xuất sắc trong giai đoạn 1930 - 1945, đã mô tả chân thực về nông thôn Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám. Truyện ngắn Lão Hạc của ông là biểu tượng cho cái nhìn nhân văn sâu sắc. Nhân vật chính, lão nông Hạc, sống trong đau khổ của nghèo đói nhưng vẫn giữ nguyên phẩm chất tốt đẹp, lòng thương con và lòng tự trọng.

Sau khi vợ mất, lão Hạc dành tình yêu thương cho đứa con trai duy nhất. Dù con trai phải chia tay tình yêu vì nghèo đói, lão hiểu và chấp nhận. Lòng thương con khiến lão đau đớn, nhất là khi con rời nhà đi làm phu đồn ở Nam Kỳ. Con chó Vàng trở thành niềm vui duy nhất trong cuộc sống của lão. Lão thương con chó đến mức từ chối bán nó.

Nhưng vì nhớ con, lão Hạc không muốn bán cậu Vàng. Thế nhưng, vì thương con, lão buộc phải chấp nhận việc chia tay. Lão tính toán mọi chi phí để nuôi chó và quyết định bán nó để giữ vốn cho con trai. Hành động này gây đau đớn và xót xa cho lão, nhưng là sự hy sinh cho tương lai của con.

Sự hy sinh cao quý nhất của lão là cái chết. Lão tính toán kỹ lưỡng, không muốn tạo khó khăn cho người khác. Lão nhất quyết chọn cái chết để giữ cho con trai có một tương lai tốt hơn. Sự chọn lựa tự nguyện và kiên quyết của lão khiến người đọc không thể không xót xa và tôn trọng. Một người cha thực sự yêu thương con đến cùng!

Lão Hạc, mặc dù túng quẫn, vẫn sống đôn hậu và chất phác. Lão kiên quyết giữ gìn phẩm chất trong sạch, từ chối sự giúp đỡ để tránh làm phiền đến người khác. Trước cái chết, lão chuẩn bị mọi thứ cẩn thận, từ việc nhờ người viết văn tự để giữ hộ mảnh đất cho con trai đến việc gửi tiền để trang trải chi phí tang lễ.

1 70 lượt xem