Top 35 mẫu Viết bài văn đóng vai nhân vật kể lại một truyện cổ tích
Sinx.edu.vn xin giới thiệu tới các em 35 mẫu viết bài văn đóng vai nhân vật kể lại một truyện cổ tích giúp các em làm bài văn có nhiều cách viết bài văn đóng vai nhân vật kể lại một truyện cổ tíchđa dạng hơn được điểm tốt trong môn Ngữ văn.
Viết bài văn đóng vai nhân vật kể lại một truyện cổ tích
I) Dàn ý Viết bài văn đóng vai nhân vật kể lại một truyện cổ tích
Dàn ý Viết bài văn đóng vai nhân vật kể lại một truyện cổ tích (Mẫu 1)
1. Mở bài
Đóng vai nhân vật để tự giới thiệu sơ lược về mình và câu chuyện định kể.
2. Thân bài: Kể lại diễn biến câu chuyện
- Xuất thân của các nhân vật.
- Hoàn cảnh diễn ra câu chuyện.
- Diễn biến chính:
- Sự việc 1: …
- Sự việc 2: …
- Sự việc 3: ...
3. Kết bài
Kết thúc câu chuyện và nêu bài học được rút ra từ câu chuyện.
Dàn ý Viết bài văn đóng vai nhân vật kể lại một truyện cổ tích (Mẫu 2)
1. Mở bài
- Đóng vai nhân vật để tự giới thiệu sơ lược về mình và câu chuyện định kể.
2. Thân bài: Kể lại diễn biến câu chuyện
- Xuất thân của các nhân vật.
- Hoàn cảnh diễn ra câu chuyện.
- Các diễn biến chính của câu chuyện (kể theo trình tự thời gian)
3. Kết bài
- Kết thúc câu chuyện và nêu bài học được rút ra từ câu chuyện.
II) Các bài văn mẫu viết bài văn đóng vai nhân vật kể lại một truyện cổ tích
Viết bài văn đóng vai nhân vật kể lại một truyện cổ tích (Mẫu 1)
Tôi là một chú chim sống ở biển khơi xa xôi. Tôi cai quản một hòn đảo chứa đầy vàng bạc và châu báu.
Một ngày nọ, khi bay vào đất liền dạo chơi, tôi bị thu hút bởi một cây khế với nhiều trái chín vàng ươm. Trái nào ăn cũng ngọt lịm, nhiều nước. Vì vậy, liên tục ngày nào tôi cũng ghé ăn khế. Thế nhưng, tôi lại bị người chủ cây khế than thở vì tôi đã ăn quá nhiều, khiến anh ta chẳng còn mấy khế để bán. Thế là tôi liền dặn anh ta may túi ba gang theo tôi ra đảo vàng để lấy tiền vàng đổi khế. Sau hôm đó, nhà anh ta trở nên giàu có, còn tôi thì được ăn khế thoải mái. Ít lâu sau, chủ của cây khế đổi thành người anh trai. Anh ta lại ra kể lể với tôi về hoàn cảnh khó khăn của mình. Thế là tôi lại dặn dò anh ta y như với người em trai. Nhưng ngờ đâu, hắn may cái túi lớn gấp bốn lần rồi còn nhét đầy vàng vào túi áo. Trên đường về, cánh của tôi run rẩy vì sức nặng của hắn. Một cơn bão lớn ập đến đẩy ngã tôi xuống biển. Tôi thì may mắn vùng vẫy bay lên được, còn tên tham lam kia thì vì quá nặng nên bị nước nhấn chìm.
Đúng là kết cục xứng đáng cho kẻ dối trá lại tham lam như hắn ta.
Viết bài văn đóng vai nhân vật kể lại một truyện cổ tích (Mẫu 2)
Tôi tên Thạch Sanh. Tôi vốn là con trai của Ngọc Hoàng, được phái xuống trần làm con trong một gia đình người nông dân hiền lành. Từ lúc mới sinh ra, cha tôi đã qua đời. Vài năm sau, mẹ tôi cũng mất. Kể từ đó, tôi sống một mình dưới gốc đa. Tài sản lớn nhất của tôi là lưỡi rìu mà cha để lại. Tôi còn được thiên thần dạy cho đủ loại võ nghệ cao cường.
Một hôm, tôi đang ngồi dưới gốc đa thì có người đến hỏi. Anh ta xưng là Lí Thông, làm nghề bán rượu. Anh ta còn đề nghị kết nghĩa huynh đệ với tôi. Mồ côi cha mẹ, lại thiếu thốn tình thương từ nhỏ, tôi liền đồng ý ngay. Tôi dọn đến nhà sống cùng với mẹ con Lí Thông. Hằng ngày, tôi lên rừng kiếm củi, còn Lí Thông đi bán rượu. Tôi thường tự nguyện làm giúp việc nhà.
Bỗng lần nọ, tôi đi kiếm củi trở về thì thấy trong nhà đã bày sẵn rượu thịt. Hai anh em tôi vừa ăn, vừa trò chuyện. Anh Lí Thông nói với tôi:
- Đêm nay đến lượt anh đi canh miếu thờ, nhưng còn mẻ rượu chưa xong. Vậy em chịu khó đi thay cho anh một đêm, đến sáng lại về.
Tôi nghe vậy liền đồng ý. Đêm đó, tôi đang nằm lim dim ngủ. Bỗng nhiên, một con chằn tinh lao đến định ăn thịt tôi. Tôi cầm lấy rìu đánh nhau với con quái vật. Chẳng bao lâu, lưỡi rìu của tôi đã xé xác con chằn tinh làm đôi. Con quái vật hiện nguyên hình là một con trăn khổng lồ. Tôi chặt đầu con quái vật đem về.
Khi về đến nhà, tôi gọi anh Lí Thông. Nhưng chẳng có ai ra mở cửa. Tôi chỉ nghe thấy tiếng mẹ con anh Lí Thông van xin tha mạng. Tôi lấy làm lạ, liền nói:
- Anh Lí Thông ơi, em là Thạch Sanh đây. Mau mở cửa cho em!
Lúc này, Lí Thông liền ra mở cửa. Tôi kể lại rõ mọi sự tình. Sau đó, anh ta nói với tôi:
- Đó là con vật nuôi của vua, giết nó là mang tội. Nhân lúc trời còn chưa sáng, em hãy trốn đi. Mọi việc để anh giải quyết.
Tôi từ biệt Lí Thông rồi trốn về gốc đa cũ. Một hôm, tôi đang ngồi dưới gốc đa thì nhìn thấy con đại bàng rất to đang quắp một cô gái. Tôi liền lấy cung tên bắn nó bị thương, rồi lần theo vết máu thì tìm ra hang của đại bàng.
Mấy ngày sau, dân làng mở hội rất đông vui. Tôi đến xem thì tình cờ gặp được Lí Thông. Anh ta kể cho tôi nghe việc đang tìm đại bàng để cứu công chúa. Tôi đã kể lại mọi việc cho Lí Thông nghe. Đến hang, tôi xin xuống trước. Tôi đánh nhau với đại bàng, cứu được công chúa. Nhưng Lí Thông đã ra lệnh cho quân sĩ vần đá lớn lấp kín cửa hang lại, rồi kéo nhau về.
Tôi nhận ra mình đã bị Lí Thông lừa, đành đi khắp hang để tìm lối ra. Đến cuối hang thì thấy một chàng trai bị nhốt trong cũi sắt. Tôi lấy dùng cung tên bắn tan cũi sắt cứu chàng trai. Hỏi ra mới biết chàng là con trai của vua Thủy tề. Sau đó, tôi được mời xuống Thủy cung chơi. Trước khi trở về, vua Thủy Tề còn tặng cho tôi một một cây đàn thần.
Về đến nơi, chưa rõ sự tình ra sao, tôi đã bị đám lính canh bắt vào ngục với tội ăn cắp rồi bị bắt giam vào ngục. Ở trong ngục, tôi lấy cây đàn được vua Thủy Tề tặng ra đánh. Có lẽ nhà vua nghe được tiếng đàn nên đã cho người giải tôi đến. Lí Thông cũng có mặt. Tôi đem hết mọi chuyện xảy ra kể cho vua nghe. Nhà vua giao Lí Thông cho tôi trừng trị và hứa sẽ gả công chúa cho tôi. Nể tình xưa, tôi tha cho Lí Thông được trở về quê cũ.
Lễ cưới được tổ chức linh đình thì hoàng tử các nước chư hầu trước kia bị công chúa từ hôn đem quân sang đánh. Tôi đem đàn ra gảy, tiếng đàn của tôi vừa cất lên đã khiến quân sĩ mười tám nước bủn rủn chân tay xin hàng. Tôi sai người nấu cơm thiết đãi binh sĩ. Thấy niêu cơm bé xíu, họ tỏ ý coi thường. Nhưng họ cứ ăn mãi vẫn không hết niêu cơm, mới phục rồi kéo nhau về nước. Sau này, nhà vua không có con trai nên đã truyền ngôi cho tôi.
Viết bài văn đóng vai nhân vật kể lại một truyện cổ tích (Mẫu 3)
Ta là ông Bụt - một vị thần có nhiều phép thần thông. Trong bao năm qua, ta đã giúp đỡ rất nhiều người, nhưng người làm ta nhớ nhất là một anh nông dân nghèo.
Anh ta là một người nông dân nghèo nhưng rất khỏe mạnh và chăm chỉ. Không chỉ vậy, anh ta còn rất tốt bụng và hiền lành. Khi lớn lên, anh ta đem lòng yêu con gái phú ông. Phát hiện chuyện này, phú ông bảo rằng nếu anh ta làm cho hắn ba năm không lấy tiền công thì sẽ gả con gái cho hắn. Nghe vậy, anh ta bằng lòng ngay. Sau ba năm, nhà lão phú ông có thêm biết bao là của cải do anh nông dân làm ra. Nhưng hắn ta lại muốn lật lọng. Hắn lừa anh nông dân đi tìm một cây tre trăm đốt để làm sính lễ. Rồi nhân lúc anh rời đi, tổ chức đám cưới cho con gái mình với con trai của một phú ông khác. Nhìn anh nông dân bất lực, đau khổ, ta liền hiện ra, dạy cho anh hai câu thần chú để ghép và tách rời một trăm đốt tre. Nhờ câu thần chú ấy, anh ta đã cưới được vợ và đòi lại lẽ công bằng cho mình. Cũng như trừng phạt những kẻ giả dối, tham lam.
Cuối cùng, người hiền lành được hưởng phúc báo, kẻ tham lam phải trả giá cho hành động của mình. Kết cục ấy khiến ta vô cùng vui sướng.
Viết bài văn đóng vai nhân vật kể lại một truyện cổ tích (Mẫu 4)
Tôi là Lí Thông, làm nghề bán rượu. Một lần nọ, trên đường đi bán rượu về thì tôi thấy có một anh chàng trông rất cao to, khoẻ mạnh vô cùng. Tôi liền đến hỏi chuyện làm quen.
Tên của anh ta là Thạch Sanh. Tính tình hiền lành, thật thà. Tôi liền đề nghị được kết nghĩa anh em. Thạch Sanh thì vốn thiếu thốn tình cảm từ nhỏ, nên nghe tôi mở lời, cậu ta đồng ý ngày. Thạch Sanh bảo:
- Anh không chê em nghèo khó mà kết nghĩa anh em, em vui lắm, em hứa sẽ nghe anh và giúp đỡ anh thật nhiều.
Nói rồi hai chúng tôi lên đường về nhà. Từ ngày có Thạch Sanh, tôi và mẹ đỡ vất vả hẳn ra, những việc nặng nhọc. Mẹ con tôi vui mừng ra mặt. Lúc bấy giờ, trong làng tôi có một con chằn tinh rất lớn. Mỗi năm dân làng phải nộp cho nó một mạng người, nếu không nó sẽ quấy phá, không để làng yên ổn. Năm đó đến lượt nhà tôi, không muốn giao mạng mình cho chằn tinh, tôi đành âm mưu nhờ Thạch Sanh đi giúp. Tối hôm đó, sau khi cả nhà ăn uống no say, tôi liền bảo cậu ta:
- Tối này anh có mẻ rượu lớn, phải đem cất không thể ra trông miếu được, em bằng lòng đi thay anh được không?
Nghe vậy, Thạch Sanh chẳng chút nghi ngờ gì mà vui vẻ nhận lời tôi. Tôi và mẹ vui mừng, cuối cùng cũng thoát được nạn lớn này. Vậy mà đương lúc nửa đêm, khi hai mẹ con đang ngủ thì tôi nghe tiếng Thạch Sanh gọi:
- Anh Thông ơi, em về rồi này, anh ra mở cửa cho em với.
Tôi tưởng là hồn Thạch Sanh về đòi báo thù mình nên sợ hãi vô cùng. Bèn ra bàn thờ khóc lóc, van xin tổ tiên, rồi sau đó ra một cửa. Nhưng thật ngạc nhiên, tôi lại nghe tiếc Thạch Sanh gọi. Tôi liền ra mở cửa thì thấy cậu ta đang cầm cái đầu to tướng của chằn tinh. Nghe Thạch Sanh kể lại câu chuyện giết chằn tình tôi mới hoàn hồn, vừa khâm phục nhưng cũng không muốn Thạch Sanh giành phần thưởng vua ban, bèn bảo:
- Đây là vật nuôi của vua, sao em lại giết nó. Bây giờ nếu vừa biết chắc chắn bị tội tày đình rồi. Em phải nhanh chóng trốn đi, còn mọi việc ở đây hãy để anh xử lý.
Thạch Sanh nghe vậy, liền tin ngay, gói ghém quần áo rồi trở về gốc đa cũ. Còn tôi, sáng hôm sau liền mang đầu chằn tinh lên triều đình nhận thưởng, nhà vua bày tỏ sự hài lòng và khen ngợi rồi phong tôi làm Đô Đốc tại triều đình.
Nhà vua có một người con gái đã đến tuổi lấy chồng. Hoàng tử nhiều nước đến cầu hôn nhưng nàng không ưng ý. Nhà vua mở hội ném cầu kén rể. Những năm thành trong cả nước đến dự lễ, người nào bắt được cầu sẽ làm rể nhà vua. Nhưng trong buổi lễ, khi công chúa chuẩn bị lên ném cầu thì bị một con đại bàng bay ngang qua, sà xuống cắp đi mất. Nhà vua lo lắng, tức tốc sai tôi đi tìm công chúa, nếu tìm được, hứa sẽ gả và truyền ngôi cho.
Tôi rối trí vô cùng, vì chẳng biết tìm công chúa ở đâu. Nghĩ đến năm xưa, lúc mình đường cùng thì Thạch Sanh là người giúp mình lập công, tôi bèn tìm cách để gặp lại anh ta. Tôi mở một hội lớn, Thách Sanh cũng tới hội để xem. Tôi kể câu chuyện công chúa bị đại bàng bắt cho cậu ta nghe, cậu ấy bèn nói:
- Hôm qua, khi em đang ngồi chẻ củi dưới gốc đa, ngước mặt lên lầu mồ hôi thì thấy con đại bàng cắp một cô gái. Em dùng tên bắn trúng, vết thương có lẽ không quá sâu nên nó vẫn cố bay đi. Lần theo vết máu, em thấy được hang động của nó.
Tôi mừng rỡ, bèn đem theo quân bảo hắn dẫn đi. Tới hang, Thạch Sanh mang theo cung tên, tình nguyện xuống hạng để cứu đại bàng. Tôi buộc dây vào lưng rồi Thạch Sanh để cậu ta theo dây đi xuống. Khi công chúa được cứu lên, tôi đã cùng công chúa trở về, để mặc Thạch Sanh dưới hang động.
Từ lúc công chúa về, người chẳng nói chẳng cười, ai làm gì cũng mặc. Cả nhà vua và tôi đều tìm mọi cách, mời thầy ý giỏi nhất về để chữa trị những không khỏi. Một hôm, trong ngục tù có tiếng đàn thánh thót vàng lên khiến cả hoàng cũng như bừng tỉnh. Nàng công chúa nghe được tiếng đàn ấy thì vui cười trong hạnh phúc, bảo vừa cha cho gọi người đánh đàn vào cùng. Điều bất ngờ là người đánh đàn ấy chính là Thạch Sanh, trước mặt quần thần trong triều, tôi hổ thẹn vô cùng khi bị Thạch Sanh vạch mặt, tố cáo những tội lỗi bấy lâu của tôi. Sau khi nghe mọi chuyện, nhà vua đã gả con gái cho Thạch Sanh và để cậu ta quyết định hình phạt cho hai mẹ con tôi. Thạch Sanh đã bao dung thứ tha cho gia đình tôi, nhưng trên đường trở về, mẹ con tôi bị sét đánh, biến thành bọ hung.
Giờ đây, khi sống trong hình dạng của một con bọ hung, tôi mới đau khổ đến cùng cực. Đó là cái giá mà tôi phải trả cho sự ác độc và tham lam của mình. Tôi chỉ khuyên các bạn rằng, đừng sống như tôi, điều tốt đẹp nhất trên đời là hãy sống thật lương thiện.
Viết bài văn đóng vai nhân vật kể lại một truyện cổ tích (Mẫu 5)
Xin chào mọi người, ta là Thạch Sanh, vị vua mới lên ngôi của nước ta. Để có ngày hôm nay, ta đã trải qua rất nhiều thăng trầm, biến cố.
Ta sinh ra trong gia đình nghèo khó. Cha mẹ mất sớm, ta sống một mình trong túp lều nhỏ dưới gốc đa. Tuy vậy, ta vẫn lớn lên vô cùng mạnh khỏe và chăm chỉ. Ngày ngày, ta tự mình lên rừng đốn củi nuôi sống bản thân.
Một hôm, ta gặp một người hàng rượu tên là Lý Thông, hắn rủ ta làm anh em kết nghĩa. Mà ngờ đâu, mọi sóng gió của cuộc đời ta đều từ hắn mà nên. Hắn lợi dụng sức khỏe của ta, để ta làm mọi việc trong cửa hàng rượu của hắn. Rồi lừa ta thay hắn đi nộp mạng cho trăn tinh. Khi ta giết được trăn tinh trừ hại cho dân, thì hắn lừa ta rằng đó là con vật do vua nuôi, để đẩy ta đi rồi cướp công trạng. Chưa dừng lại ở đó, khi ta một mình tiêu diệt đại bàng tinh để cứu công chúa, thì hắn đã ra lệnh lấp cửa hang để hại chết ta và cướp công cứu công chúa. Nhưng may mắn, ta đã thoát khỏi hang sâu và giải thoát cho con trai của vua Thủy Tề.
Trở về nhà, ta lại bị giam vào ngục oan do bị hồn trăn tinh và đại bàng tinh ám hại. Nhờ cây đàn thần vua Thủy Tề tặng, mà ta đã giúp công chúa khỏi bệnh và được gặp nhà vua. Lúc này, sự thật được sáng tỏ, Lý Thông và mẹ hắn ta mất hết tất cả, và được ta tha cho, đuổi về quê. Sau đó, ta trở thành phò mà và giúp vua xử lí việc nước. Bao sự dị nghị của triều thần đã bị xóa hết sau khi ta một mình đánh đuổi được đại quân của mười tám nước chư hầu.
Sau khi vua cha qua đời, ta nối ngai cha, trở thành một vị vua mới. Nay ngồi chiêm nghiệm lại, ta thấm thía một đạo lí rằng “ở hiền thì gặp lành”.
Viết bài văn đóng vai nhân vật kể lại một truyện cổ tích (Mẫu 6)
Sau khi cha mẹ mất, tôi và anh trai sống cùng nhau. Chúng tôi chăm chỉ làm lụng nên cũng đủ ăn. Từ ngày có vợ, anh của tôi đâm ra lười biếng. Vợ chồng tôi phải làm lụng vất vả mới có của ăn của để.
Một hôm, anh trai gọi tôi đến bàn bạc chuyện chia gia tài. Vì là phận em, tôi xin được nghe theo lời anh. Tôi nhận được một túp lều nhỏ, ở trước cửa có một cây khế. Dù khó khăn, nhưng tôi và vợ vẫn sống hạnh phúc, êm đềm. Hằng ngày, tôi và vợ vẫn thay nhau chăm sóc cây khế. Đến mùa, những chùm quả chín lúc lỉu trên cây. Tôi và vợ bàn nhau hái khế ra chợ bán. Sáng hôm đó, tôi ra vườn cây để hái khế thì nghe thấy trên ngọn cây có tiếng rung mạnh như có người. Tôi gọi vợ ra xem, thì nhìn thấy một con chim lớn đang ăn khế chín. Tôi lấy làm lạ lắm, chưa bao giờ thấy một con chim nào to như vậy. Tôi liền bảo vợ cứ đợi cho chim ăn xong mới ra hái. Suốt một tháng trời, hằng ngày chim cứ đến ăn vào lúc sáng sớm.
Vợ tôi xót ruột. Một hôm thấy chim đang ăn khế, liền chạy ra nói:
- Ông chim ơi, ông ăn như thế thì nhà cháu còn khế đâu mà bán! Cả nhà cháu chỉ nhờ vào cây khế thôi!
Chim nói:
- Ăn một quả trả một cục vàng, may túi ba gang mang đi mà đựng!
Nghĩ đây chắc hẳn là chim thần, tôi bảo vợ làm theo lời chim nói. Sáng sớm hôm sau, chim thần bay đến. Tôi xách túi ra, chim nằm rạp xuống đất cho tôi trèo lên. Tôi ngồi trên lưng chim mà lòng có chút lo lắng. Chim bay qua bao nhiêu là miền, hết đồng ruộng đến rừng xanh, hết rừng xanh đến biển cả. Ra tới giữa biển, chim rẽ vào một cái đảo, rồi đáp xuống cửa một cái hang.
Chim ra hiệu cho tôi bước vào. Ngay từ cửa đã có rất nhiều thứ đá trong như thủy tinh và hổ phách đủ thứ màu. Tôi thấy hang sâu và rộng nên không dám vào, chỉ dám nhặt ít vàng, kim cương ở ngoài rồi ra ngoài. Tôi bảo chim thần bay về. Chim lại cất cánh đưa tôi về nhà. Từ đó, cuộc sống của gia đình tôi trở nên khá giả hơn trước. Chúng tôi còn giúp đỡ được rất nhiều người dân nghèo khổ.
Một hôm, anh trai của tôi đến chơi. Tôi đoán biết anh nghe được chuyện nên đến hỏi thăm. Nghe anh hỏi chuyện, tôi liền kể cho anh nghe. Anh liền thương lượng để đổi tài sản của mình lấy túp lều và cây khế. Thầy anh nài nỉ mãi, tôi cũng ưng thuận.
Kể từ đó, anh trai và chị dâu của tôi dọn đến ở trong túp lều. Tôi nghe người trong làng kể lại. Hằng ngày, họ chỉ ngồi ăn rồi chờ chim đến. Một buổi sáng nọ, khi thấy luồng gió mạnh nổi lên, và ngọn cây khế rung chuyển. Họ biết là chim thần đến liền nói:
- Chim thần ơi, cả nhà tôi trông vào cây khế, bây giờ chim ăn thì tôi lấy gì mà sống?
Chim thần cũng nói y như với tôi:
- Ăn một quả trả một cục vàng, may túi ba gang mang đi mà đựng!
Anh trai và chị dâu của tôi cứ bàn qua tính lại. Rồi cuối cùng họ quyết định may cái túi to gấp ba lần, như một cái tay nải lớn. Sáng hôm sau, chim thần đến đưa anh tôi ra hòn đảo. Nhìn thấy vàng bạc, kim cương, anh trai tôi cố nhặt cho đầy túi. Không chỉ vậy, anh ta còn cho cả vào túi quần, túi ào. Trên đường về, vì quá nặng lại gặp gió lớn, chim đâm bổ xuống biển. Anh trai tôi bị sóng cuốn trôi, bao nhiêu của cải mất hết. Còn chim thần chỉ bị ướt lông, ướt cánh nên lại vùng lên trời bay đi. May có người dân đánh cá ngang qua mới cứu được. Anh trai tôi trở về, kể rõ sự tình cho tôi nghe và tỏ ra rất hối hận.
Viết bài văn đóng vai nhân vật kể lại một truyện cổ tích (Mẫu 7)
Ta là Tấm, ta được biết đến rất ngoan hiền nhưng phải chịu cuộc sống cực khổ.
Ta từ nhỏ đã phải làm lụng vất vả suốt ngày. Những ngày tháng sống với dì ghẻ, cuộc sống ta chẳng mấy dễ dàng. Một ngày, khi dì ghẻ treo chiếc yếm đỏ để người nào mò được nhiều tôm tép hơn, ta đã làm việc chăm chỉ suốt buổi. Nhưng đáng tiếc, ta lại bị Cám lừa và cướp mất công lao, chỉ để lại một con cá bống. Ta coi cá bống như một người bạn, nuôi nó dưới giếng, nhưng cuối cùng, nó cũng trở thành nạn nhân của mẹ con Cám. Nhờ sự giúp đỡ của ông Bụt, ta đã tìm được xương của cá bống và chôn nó vào hũ ở góc giường.
Trong ngày giỗ cha, khi ta cố tự hái quả trên cây cau, ta bị dì ghẻ chặt gốc cây và kết cục là cái chết. Ba lần hóa thân thành chim vàng anh, cây xoan, và khung cửi, nhưng mỗi lần đều bị Cám lợi dụng và hại chết.
May mắn thay, lần thứ tư, ta đã được tái sinh dưới hình hài con người trong quả thị. Nhờ một miếng trầu cánh phượng, ta đã được nhận ra bởi nhà vua và bước vào cuộc sống mới trong cung điện.
Cuộc đời ta có những biến cố khó lường, nhưng cuối cùng, ta đã tìm được hạnh phúc bên vị vua và được trừng phạt đúng đắn mẹ con Cám.
Viết bài văn đóng vai nhân vật kể lại một truyện cổ tích (Mẫu 8)
Cha mẹ mất sớm, tôi sống cùng với em trai. Hai anh em tôi chăm chỉ làm ăn. Rồi tôi và em trai cũng đến tuổi lấy vợ. Từ đó, tình cảm giữa hai chúng tôi không còn mặn mà như xưa nữa.
Hai vợ chồng tôi tính đến chuyện ở riêng cho hai vợ chồng người em. Tôi bàn với vợ, lấy tài sản và chia cho em trai căn nhà tranh lụp xụp trước nhà có một cây khế. Tuy vậy, hai vợ chồng cậu em không phàn nàn một lời, vẫn chịu khó làm ăn. Cho đến một hôm nghe người ta nói chuyện hiện nay vợ chồng người em đã rất giàu có thì tôi lấy làm tò mò liền sang gặp gỡ hỏi thăm. Em trai tôi thật thà nên đã kể lại mọi chuyện cho tôi nghe.
Hằng ngày, vợ chồng nó vẫn chăm sóc cho cây khế. Đến mùa, cây khế ra hoa kết trái và thu hoạch, em tôi mang ra chợ bán. Bỗng một hôm, có con chim lạ bay đến ăn khế của em. Nó ăn rất nhiều khế trên cây, ăn những quả thơm ngon nhất, cứ như thế suốt gần tháng trời.
Em tôi liền nói với chim, thì nó trả lời thế này:
- Ăn một quả, trả cục vàng, may túi ba gang, mang đi mà đựng.
Vợ chồng nó làm theo lời chim. Sáng hôm sau, như đã hẹn chim bay đến đưa em tôi đi lấy vàng. Đặt chân lên đảo, có biết bao thứ đá quý, bạc vàng. Nhưng đứa em dại dột của tôi chỉ lấy một ít vàng và kim cương rồi ra về. Từ đấy, cuộc sống của nó trở nên khá giả.
Biết rõ câu chuyện, tôi bàn mưu cùng vợ, gạ đổi hết tài sản của mình để lấy túp lều tranh và cây khế. Thế là từ đó, tôi chỉ có một việc là trông mong chim lạ bay đến ăn khế. Lâu dần, con chim cũng xuất hiện. Không thể kiên nhẫn ợi lâu hơn nữa, khi chim thần vừa ăn được vài quả tôi đã chạy ra hỏi như những gì em tôi đã nói. Và tôi cũng được chim lạ trả lời y hệt. Chỉ chờ có thế, vợ chồng tôi hí hửng, vội vàng may túi. Nhưng không phải túi ba gang như cậu em ngốc nghếch, tôi may hẳn một túi sáu gang.
Sáng hôm sau, chim thần cũng bay đến đưa tôi đến đảo vàng. Vừa đặt chân lên đảo tôi đã hoa mắt trước bao nhiêu vàng và đá quý. Càng vào sâu bên trong, tôi càng choáng ngợp. Quên hết mọi mệt nhọc, tôi ra sức nhét thật nhiều vàng vào cái túi sáu gang đã chuẩn bị. Dường như thấy vẫn chưa đủ, tôi còn cố nhét thêm vào ông tay áo và ống quần, rồi buộc chặt lại. Chim thần đợi tôi lâu quá nên thúc giục ra về. Nằm trên lưng chim, tôi vui mừng, tưởng tượng về cuộc sống giàu sang sắp tới của mình. Đang mơ màng sung sướng, bỗng một cơn gió thổi mạnh. Thì ra chim thần đã bay tới biển. Rồi bỗng nhiên, chim thần đâm bổ xuống biển. Sóng cuốn hết tất cả vàng bạc tôi vừa lấy được. Tôi kêu cứu, nhưng chim thần đã bay lên trời. Tôi vùng vẫy giữa nước biển mênh mông, hối hận vì lòng tham của mình.
Viết bài văn đóng vai nhân vật kể lại một truyện cổ tích (Mẫu 9)
Tôi là Sọ Dừa. Khi mẹ sinh ra, tôi không có chân tay, mình mẩy cứ tròn lông lốc như quả dừa. Bà buồn quá, định vứt tôi đi, thì tôi liền nói:
- Mẹ ơi! Con là người đấy! Mẹ đừng vứt con mà tội nghiệp.
Vì thương tôi nên mẹ đã để lại nuôi, đặt cho tôi cái tên là Sọ Dừa. Lớn lên, tôi vẫn như lúc nhỏ, lăn lông lốc trong nhà. Mẹ liền nói với tôi:
- Con nhà người ta báy tám tuổi đã đi ở chăn bò, còn mày chẳng được tích sự gì.
Tôi liền bảo với mẹ:
- Chuyện gì chứ chăn bò con cũng làm được. Mẹ cứ xin phú ông cho con đi chăn bò.
Nghe vậy, mẹ tôi liền đến hỏi phú ông. Từ đó tôi đến ở nhà phú ông. Ngày ngày, tôi lăn sau đàn bò ra đồng, tối đến lại lăn sau đàn bò về nhà, đàn bò béo tốt hẳn ra. Tôi thấy phú ông mừng ra mặt.
Ngày mùa, tôi tớ ra đồng làm hết cả, phú ông bèn sai ba cô con gái thay phiên nhau đem cơm cho tôi. Hai cô chị độc ác nên thường hắt hủi tôi. Chỉ có cô út hiền lành, đối xử với với tôi.
Một hôm, tôi biến thành người, ngồi thổi sáo trên lưng trâu thì tiếng động, biết có người nên tôi lại hóa về hình dáng cũ. Từ đó, cô út càng chăm sóc tôi nhiều hơn, có thức ăn ngon lại giấu đem cho tôi.
Cuối mùa ở, tôi liền về giục mẹ đến hỏi con gái phú ông làm vợ. Mẹ tôi ửng sốt lắm, nhưng thấy tôi năn nỉ mãi nên cũng sang hỏi phú ông. Khi trở về, bà nói rằng phú ông yêu cầu phải sắm đủ một chĩnh vàng cốm, mười tấm lụa đào, mười con lợn béo, mười vò rượu tăm mới đồng ý gả con gái. Tôi nói với mẹ cứ yên tâm.
Đến ngày hẹn, mẹ tôi vô cùng ngạc nhiên khi trong nhà bỗng có đủ những lễ vật mà phú ông yêu cầu. Không chỉ vậy, còn có chục giai nhân khiêng sính lễ sang nhà phú ông. Phú ông liền hỏi ba cô con gái xem có ai đồng ý, thì chỉ có cô út.
Trong ngày cưới, tôi cho bày cỗ thật linh đình, gia nhân chạy ra chạy vào tấp nập. Lúc rước dâu, tôi biến thành một chàng trai khôi ngô tuấn tú sang đón cô út về làm vợ. Hai vợ chồng tôi sống hạnh phúc. Tôi ngày đêm miệt mài đèn sách và thi đỗ trạng nguyên. Chẳng bao lâu, nhà vua cử tôi đi sứ. Trước khi đi, tôi đưa cho vợ một hòn đá lửa, một con dao và hai quả trứng gà, dặn phải giữ luôn các thứ ấy bên mình để có lúc cần dùng đến.
Một hôm có chiếc thuyền đi qua đảo, tôi nghe thấy tiếng con gà trống gáy vang ba lần:
- Ò… ó… o… Phải thuyền quan trạng rước cô tôi về.
Tôi hạ lệnh cho thuyền vào xem, thì gặp lại vợ mình. Vợ chồng đoàn tụ hạnh phúc. Tôi đưa vợ về nhà, mở tiệc mừng, mời bà con đến chia vui, nhưng lại giấu vợ trong nhà không cho ai biết. Hai người chị của vợ tôi tranh nhau kể chuyện nàng gặp phải rủi ro, tỏ vẻ thương tiếc lắm. Tôi không nói gì, tiệc xong mới cho gọi vợ ra. Nhìn thấy em mình đã trở về bình an, họ xấu hổ bỏ về.
Viết bài văn đóng vai nhân vật kể lại một truyện cổ tích (Mẫu 10)
Ta là Thánh Gióng. Ta là người đã có công đánh đuổi giặc Ân xâm lược và được vua phong Phù Đổng Thiên Vương.
Sự ra đời của ta là một điều kỳ diệu. Khi bà lão đi ra đồng, bà đã thấy bàn chân to lạ thường và đặt bàn chân ướm vào, từ đó bà mang thai và sinh ra ta sau 12 tháng. Đến tuổi ba, ta không nói, không cười và không đi đứng gì, chỉ nằm im ở đâu đặt thì ở đó. Nhưng khi gặp sứ giả, ta bắt đầu lớn nhanh hơn, ăn mãi không no, và áo giáp sắt mặc vào đã căng đứt chỉ.
Cuộc đời của ta đầy những trận chiến hùng hậu. Ta đánh giặc Ân đến từng lớp, làm cho giặc nào đi qua đều nằm chết như ngả rạ. Với sức mạnh phi thường và lòng dũng cảm, ta đã hoàn thành sứ mệnh của mình. Sau khi gặp sứ giả, ta một mình cùng ngựa đứng trên đỉnh núi Sóc, cởi bỏ áo giáp sắt rồi từ từ bay về trời.
Nhìn lại quãng đời đã qua, ta cảm thấy hạnh phúc và tự hào vì đã giúp nhân dân sống trong yên bình, hạnh phúc và ấm no.
Viết bài văn đóng vai nhân vật kể lại một truyện cổ tích (Mẫu 11)
Một hôm, trời nắng to. Tôi đi vào rừng hái củi cho chủ, nhưng khát nước quá mà không tìm thấy suối. Thấy cái sọ dừa bên gốc cây to đựng đầy nước mưa, tôi bưng lên uống.
Không ngờ, về nhà thì mang thai. Tôi sinh ra một đứa trẻ không chân, không tay, tròn như một quả dừa. Tôi buồn lắm, toan vứt đi đứa con bảo:
- Mẹ ơi, con là người đấy. Mẹ đừng vứt con đi mà tội nghiệp.
Nghĩ lại, thấy thương con, tôi đành để con lại nuôi và đặt tên cho nó là Sọ Dừa. Lớn lên, Sọ Dừa vẫn không khác lúc nhỏ, cứ lăn lông lốc trong nhà, chẳng làm được tích sự gì. Tôi cứ than phiền:
- Con nhà người ta bảy, tám tuổi đã đi chăn bò, chăn trâu. Họ giúp bố mẹ được nhiều việc. Còn mày thì chẳng làm được việc gì cả.
Nghe lời tôi nói như vậy, Sọ Dừa nói:
- Gì chứ chăn bò thì con chăn cũng được. Mẹ cứ nói với phú ông cho con ở chăn bò.
Nghe con nói như vậy, tôi liền đến hỏi phú ông. Phú ông đồng ý. Sọ Dừa chăn bò rất giỏi, con nào con nấy bụng no căng. Phú ông mừng lắm. Đến mùa, tôi tớ trong nhà ra đồng hết nên ba cô con gái phải thay phiên nhau đi đưa cơm cho Sọ Dừa. Nghe Sọ Dừa kể lại thì hai cô chị rất ác nghiệt, kiêu căng luôn hắt hủi nó. Còn cô út rất hiền lành, tính hay thương người nên đối đãi với nó rất tử tế. Có của ngon vật lạ cô út thường giấu đem cho Sọ Dừa.
Tôi vô cùng ngạc nhiên khi cuối năm ấy, Sọ Dừa giục tôi đến hỏi con gái nhà phú ông làm vợ. Tôi nghĩ một người ở như Sọ Dừa làm sao sánh được với con gái nhà phú ông nhưng vì thương con nên cũng nghe theo. Tôi sắm một buồng cau rồi đến nhà phú ông thưa chuyện. Thấy tôi đặt vấn đề hỏi con gái phú ông cho Sọ Dừa. Ông ta cười mỉa và nói vẻ thách thức:
- Ừ, được! Muốn hỏi con gái ta, hãy về sắm đủ một chĩnh vàng cốm, mười tấm lụa đào, mười con lợn béo, mười vò rượu tăm đem sang đây.
Nghe ông ta nói vậy tôi bàng hoàng và nghĩ rằng chẳng bao giờ có đủ các thứ đó. Về nhà tôi nói với Sọ Dừa và khuyên nó đừng bao giờ nghĩ đến việc lấy vợ nữa. Không ngờ Sọ Dừa nói với tôi một cách quả quyết:
- Mẹ đừng lo con sẽ lo đủ các thứ đó.
Đúng hẹn, tự nhiên tôi thấy trong nhà có bao nhiêu đồ sính lễ, lại có cả chục gia nhân ở dưới nhà chạy lên khiêng lễ vật sang nhà phú ông. Lúc đó tôi nghĩ rằng Sọ Dừa không phải là người trần. Phú ông nhìn thấy lễ vật, hoa cả mắt, lúng túng nói với tôi:
- Để ta hỏi con gái ta xem, có đứa nào ưng lấy thằng Sọ Dừa.
Lão gọi ba đứa con gái ra rồi lần lượt hỏi. Hai cô chị bĩu môi chê bai. Còn cô út cúi mặt xuống, tỏ ý bằng lòng. Phú ông đành phải nhận lễ và gả cô con gái cho Sọ Dừa.
Lúc gần rước dâu, tôi chẳng thấy Sọ Dừa đâu mà chỉ thấy một chàng trai khôi ngô tuấn tú cùng cô út của phú ông từ phòng cô dâu đi ra. Mọi người đều sửng sốt, mừng rỡ. Hai vợ chồng Sọ Dừa sống với nhau rất hạnh phúc. Thấy cô út là đứa con dâu hiền lại hiếu thảo nên tôi cũng mừng thầm.
Ngày ngày Sọ Dừa thì mải mê đèn sách chờ khoa thi, còn cô út thì se tơ dệt vải. Ngày thi đã đến Sọ Dừa đã đỗ Trạng nguyên không bao lâu nhà vua ban chiếu quan trạng đi sứ. Hai vợ chồng Sọ Dừa chia tay nhau nhưng vô cùng quyến luyến, khiến tôi không khỏi động lòng. Trước khi lên đường Sọ Dừa còn gọi vợ vào nhà và dặn dò kĩ lắm.
Một hôm hai cô chị đến xin phép tôi cho cô út đi chơi. Nghĩ bụng con dâu phải xa chồng nên buồn bực, tôi liền đồng ý cho cô út đi chơi cùng cho khuây khoả. Thế rồi từ hôm đó, chẳng thấy cô út về, tôi lo lắng chạy sang nhà hỏi phú ông thì hai cô chị kể rằng: Khi chèo thuyền ra biển cô út đã sảy chân ngã xuống biển chết. Nghe tin đó tôi vô cùng đau lòng, thương xót cho cô con dâu hiền lành xấu số. Hết hạn đi sứ Sọ Dừa đã trở về, tôi không ngờ nó lại cùng đi với vợ nữa. Nghe con kể lại, tôi mới biết rõ sự tình.
Viết bài văn đóng vai nhân vật kể lại một truyện cổ tích (Mẫu 12)
Tôi là người em trong gia đình, và câu chuyện về “Cây khế” đã trở thành một phần không thể thiếu trong ký ức của tôi. Nó là một bài học sâu sắc về lòng tham và hậu quả của nó.
Cuộc đời của chúng tôi bắt đầu bằng những nỗi đau khi mẹ và cha qua đời sớm. Một ngày, anh trai quyết định chia tài sản mà cha mẹ để lại. Anh chia cho tôi một căn nhà nhỏ và một cây khế xanh trước căn nhà. Vợ chồng tôi quyết định chăm sóc cây khế và hái trái để bán, nhưng một con chim lớn liên tục đến để ăn trái khế. Chim kỳ lạ này sau đó tiết lộ rằng nếu ăn một trái khế, sẽ trả lại một cục vàng.
Tin vào lời của chim, vợ chồng tôi đã được dẫn đến một hang đá chứa đầy vàng và kim cương. Cuộc sống của chúng tôi từ đó đã khá giả hơn. Tuy nhiên, khi anh trai tôi nghe về câu chuyện, anh đã quyết định đổi tài sản với tôi để có được cây khế.
Sau đó, tôi nghe dân làng kể về số phận của vợ chồng anh trai. Họ chỉ sống trong một túp lều và chờ đợi chim đến ăn khế hàng ngày. Tôi cảm thấy tiếc nuối cho họ, nhưng đồng thời cũng hối hận vì sự tham lam của mình.
Thật may mắn, tôi đã học được bài học quý báu từ câu chuyện về lòng tham luôn dẫn đến hậu quả không may.
Viết bài văn đóng vai nhân vật kể lại một truyện cổ tích (Mẫu 13)
Ta là một công chúa, sống trong cung điện với nhiều người hầu hạ. Vua cha chỉ có một đứa con là ta nên rất cưng chiều. Bởi vậy, ta luôn tỏ ra kiêu ngạo.
Nhiều hoàng tử ở các vương quốc láng giềng đến cầu hôn. Nhưng ta đều từ chối. Một lần, nhà vua mở tiệc kén rể, cho mời các chàng trai từ xa gần tới tham dự. Họ đứng theo ngôi thứ, đứng trên cùng là vua các nước rồi các công tước, các ông hoàng, các bá tước, các nam tước, cuối cùng là những người dòng dõi quý tộc.
Ta theo vua cha đi xem mắt từng người. Người nào cũng bị ta chê bai: người thì quá mập; người quá mảnh khảnh; người thì lại lùn; người thì mặt mày xanh xao… Người cuối cùng khiến ta đặc biệt ấn tượng. Hắn có cằm hơi cong như mỏ chim chích chòe, ta liền nói anh ta trông giống như chim chích choè có mỏ.
Tất cả khách mời đều bị ta chế giễu, chê bai. Điều này khiến vua cha vô cùng tức giận, liền nói rằng nếu có người ăn mày nào đi qua hoàng cung, sẽ gả ta cho người ấy.
Mấy hôm sau, một người hát rong đi ngang qua hoàng cung, đứng ngây dưới cửa sổ cất tiếng hát. Hắn được vua cha gọi vào cung. Ta cảm thấy lo lắng lắm.
Vua cha yêu cầu hắn hát. Hát xong, hắn liền xin một ít tiền thưởng. Nhưng vua cha nói rằng:
- Ta rất thích tiếng hát của ngươi, vì vậy ta gả con gái ta cho ngươi.
Nghe vậy, ta liền nài nỉ van xin, nhưng vua cha vẫn cương quyết:
- Cha đã thề rằng sẽ gả con cho người ăn mày đầu tiên đi qua cung vua, cha muốn giữ lời thề đó.
Thế rồi, linh mục được mời ngay tới để làm hôn lễ của ta lấy người hát rong. Hôn lễ cử hành xong, vua cha nói với ta:
- Theo tục lệ, vợ một người hát rong không được ở lâu lại trong cung vua, giờ thì con phải theo chồng ra khỏi cung.
Ta đành chấp nhận, đi theo người chồng của mình. Tới một khu rừng lớn, ta hỏi:
- Rừng đẹp này của ai?
Người hát rong nói:
- Rừng của Vua chích choè, nếu nàng lấy ông ta thì hẳn rừng đã là của nàng.
Ta than rằng:
- Tôi là cô gái thật đáng thương, đáng ra nên lấy Vua chích chòe.
Một lúc sau tới một thảo nguyên, ta lại hỏi:
- Thảo nguyên xanh đẹp của ai?
- Thảo nguyên của Vua chích choè.
- Tôi thật đáng thương, đáng ra nên đồng ý lấy Vua chích chòe.
Đi mãi thì tới một thành phố lớn, ta lại hỏi:
- Thành phố mỹ lệ này của ai?
- Thành phố mỹ lệ của Vua chích choè.
- Tôi thật đáng thương, đáng lẽ ra tôi nên đồng ý lấy Vua chích chòe.
Chồng tôi tỏ vẻ không hài lòng. Cả hai im lặng bước đi cho tới khi về nhà. Đó là một túp lều rách nát. Ta than phiền:
- Trời ơi, nhà ai mà nhỏ, thảm thương thế này?
Chồng ta đáp:
- Nhà của chúng ta đó!
Ta cúi người bước vào trong, rồi hỏi:
- Người hầu của anh đâu?
Anh ta trả lời:
- Người hầu nào? Muốn làm gì thì tự mình làm lấy. Giờ em hãy nhóm bếp nấu ăn đi, anh mệt lắm rồi.
Từ nhỏ đến lớn, bất kể là việc gì, ta đều có người phục vụ. Nào có biết nấu nướng. Người hát rong thấy vậy đành phải nhúng tay vào làm công việc mới xong. Sau bữa ăn, ta mệt mỏi ngủ thiếp đi. Hôm sau, ta bị anh ta đánh thức dậy để làm việc nhà. Cứ như vậy mấy ngày thì lương ăn dự trữ hết. Người hát rong liền bảo:
- Mình ạ, chỉ ngồi ăn không kiếm được thêm gì cả cứ như thế này mãi chắc không được lâu, hay là em đan sọt bán.
Anh ta vào rừng lấy tre nứa về, còn ta phải chẻ lạt đan sọt. Đôi bàn tay mềm mại bị cạnh sắc của tre nứa cửa rỉ máu. Chồng ta nói:
- Thế thì không được, có lẽ dệt vải hợp với em hơn.
Ta lại ngồi tập quay sợi, nhưng rồi những ngón tay lại bị sợi cứa chảy máu. Chồng ta nói:
- Em chẳng thể làm được việc gì, sống với em thật khổ. Giờ thì chắc ta phải xoay ra đi buôn nồi và bát đĩa. Em ngồi ở chợ và bán hàng.
Ta nghe vậy, thì nghĩ bụng:
- Nếu như dân nước mình họ tới đây mua bán, nhìn thấy mình họ sẽ cười nhạo mình mất.
Dù vậy, ta vẫn phải nghe theo lời chồng của mình. Lúc đầu, khách đến mua khá đông, họ trả tiền hàng mà không hề mặc cả, thậm chí có người trả tiền nhưng không lấy hàng. Cuộc sống của chúng ta khá sung túc. Một lần nọ, ta đang ngồi coi hàng thì có một chàng hiệp sĩ từ xa phi ngựa lao thẳng vào chợ làm cho đống hàng sành sứ của ta đổ vỡ hết cả ra thành hàng nghìn mảnh lớn nhỏ ngổn ngang ở chợ. Ta lo lắng lắm, không biết làm sao nên chỉ ngồi ôm mặt khóc.
Về nhà, ta kể cho chồng nghe chuyện chẳng may ấy. Nghe xong chuyện, anh ta trách móc. Mấy hôm sau, anh ta về nhà rồi nói rằng đã hỏi được công việc phụ bếp trong cung cho ta. Công việc cũng không nặng nhọc nên ta có thể làm được. Một hôm, trong cung tổ chức chức hôn lễ cho nhà vua. Đã lâu rồi ta mới được nhìn thấy cung điện nguy nga như vậy. Ta buồn bã và hối hận vô cùng. Bỗng nhiên nhà vua bước vào, lụa là châu báu đầy người, cổ đeo dây chuyền vàng. Nhà vua nhìn thấy ta, bước tới tỏ ý muốn ta nhảy cùng. Ta sợ hãi lùi lại, rồi chạy ra ngoài.
Thì ra, người đó chính là Vua chích chòe từng bị ta chế giễu. Ta vội vàng giật tay lại nhưng chẳng ăn thua, vẫn bị người kéo vào tới giữa phòng làm dây buộc nồi đứt, hai cái nồi rơi xuống đất, súp và bánh mì vung ra khắp nền nhà. Khách khứa và những người đứng đó thấy cảnh tượng ấy đều bật cười và chêm pha những lời nhạo báng. Ta xấu hổ vô cùng, lao thẳng ra phía cửa để chạy trốn, nhưng mới tới được cầu thang lại bị một người đàn ông lôi lại. Ta nghe thấy người đó nói:
- Em đừng có sợ hãi, người hát rong sống chung với em trong căn lều lụp xụp chính là anh. Chính anh cũng là kỵ sĩ cho ngựa chạy đổ vỡ hết hàng sành sứ của em. Tất cả những việc đó chỉ nhằm uốn nắn tính kiêu ngạo của em.
Nghe xong, ta liền bật khóc:
- Em đã làm những điều sai trái, không xứng đáng là vợ của anh.
Nhưng chàng đã nói với ta
- Em đừng buồn nữa, những ngày cay đắng đã qua, giờ chúng ta hãy làm đám cưới.
Ta nghe theo lời Vua chích chòe, vào thay quần áo. Toàn thể triều đình đều có mặt để chúc mừng.
Viết bài văn đóng vai nhân vật kể lại một truyện cổ tích (Mẫu 14)
Ta là Thạch Sanh, người đã trải qua những chông gai, từ cuộc đấu tranh với kẻ ác đến trở thành một vị vua.
Một hôm, ta nhận lời mời kết nghĩa huynh đệ từ Lý Thông, một người bán rượu. Nhưng đằng sau sự tử tế đó là ý đồ lợi dụng của Lý Thông. Anh ta lừa tôi thay mặt đi nộp mạng cho Trăn Tinh, sau đó lừa tôi rằng đó là trăn vua nuôi để dụ tôi bỏ trốn, trong khi anh ta tự lấy công trạng. Lần thứ hai, tôi hợp tác với anh ta để giải cứu công chúa, nhưng anh ta lại phản bội. May mắn tôi trốn thoát và cứu được con trai của vua Thủy Tề. Nhờ sự giúp đỡ đó, tôi được tặng nhiều châu báu, nhưng tôi chỉ chọn một cây đàn thần. Tuy nhiên, sự hạnh phúc không kéo dài khi tôi bị hãm hại và bị nhốt oan. Trong tù, tôi thổi đàn để giải sầu, và đàn thần lại mang lại điều kỳ diệu khi bay vào cung và chữa lành cho công chúa. Nhờ sự kiện này, tôi được nhà vua triệu kiến và có cơ hội trình bày toàn bộ sự thật. Cuối cùng Lý Thông bị trừng phạt.
Cuối cùng sau cuộc đời biến cố, tôi được vua cha tin tưởng và lên làm vua.
Viết bài văn đóng vai nhân vật kể lại một truyện cổ tích (Mẫu 15)
Tại một vương quốc có một cô công chúa xinh đẹp tuyệt trần, nhưng tính tình lại kiêu ngạo. Một lần, nhà vua cho mời các chàng trai ở khắp các nước xa gần tới mở tiệc linh đình để chọn phò mã. Các vị khách đứng theo thứ bậc, trên cùng là vua các nước rồi các công tước, các ông hoàng, các bá tước, các nam tước, cuối cùng là những người dòng dõi quý tộc. Ta vốn là quốc vương nước láng giềng nên cũng được mời tới.
Công chúa được dẫn đi xem mắt. Người nào nàng cũng tìm ra điểm để giễu cợt họ. Đến lượt ta, nàng liền chế giễu ta có cái cằm chẳng khác gì chim chích choè có mỏ. Từ đó trở đi, mọi người bắt đầu gọi ta là Vua chích choè. Sau khi bị nàng châm chọc, ta cảm thấy rất tức giận, và quyết định sẽ trị thói kiêu căng của nàng.
Nghe tin vua cha của nàng nổi cơn thịnh nộ và ban truyền, nếu có người ăn mày nào đi qua hoàng cung, ông sẽ gả công chúa cho người đấy. Ta liền cải trang thành một người hát rong, đi đến trước hoàng cung và cất tiếng hát. Một lúc sau, nhà vua cho gọi ta vào, hát cho vua và công chúa nghe. Xong, nhà vua bảo với ta:
- Ta rất thích tiếng hát của ngươi, vì vậy ta gả con gái ta cho ngươi.
Ta thấy công chúa van xin, nhưng vẫn không thể lay chuyển được nhà vua. Ông nói:
- Cha đã thề rằng sẽ gả con cho người ăn mày đầu tiên đi qua cung vua, cha muốn giữ lời thề đó.
Một vị linh mục được mời ngay tới để làm hôn lễ của công chúa và ta. Hôn lễ cử hành xong, vua cha nói với công chúa:
- Theo tục lệ, vợ một người hát rong không được ở lâu lại trong cung vua, giờ thì con phải theo chồng ra khỏi cung.
Công chúa dù rất buồn bã, nhưng vẫn phải đi theo ta. Tới một khu rừng lớn, công chúa liền hỏi:
- Rừng đẹp này của ai?
Ta trả lời:
- Rừng của Vua chích choè, nếu nàng lấy ông ta thì hẳn rừng đã là của nàng.
Công chúa tiếc nuối thốt lên:
- Tôi là cô gái thật đáng thương, đáng ra tôi nên lấy Vua chích chòe.
Một lúc sau tới một thảo nguyên, nàng lại hỏi:
- Thảo nguyên xanh đẹp của ai?
Ta đáp:
- Thảo nguyên của Vua chích choè.
Công chúa lại than thở:
- Tôi là cô gái thật đáng thương, đáng ra tôi nên lấy Vua chích chòe.
Rồi họ tới một thành phố lớn, công chúa hỏi tiếp:
- Thành phố mỹ lệ này của ai?
Ta đáp:
- Thành phố mỹ lệ của Vua chích choè.
Nàng bật khóc, than rằng:
- Tôi thật đáng thương, đáng lẽ ra tôi nên đồng ý lấy Vua chích chòe.
Ta nói:
- Tôi không hài lòng một chút nào, tại sao nàng lại cứ luôn luôn mong có người chồng khác, thế tôi không xứng đáng hay sao?
Công chúa không nói được gì nữa, mà chỉ lặng lẽ đi theo sau. Tới một túp lều, nàng hỏi ta:
- Trời ơi, nhà ai mà nhỏ, thảm thương thế này?
Ta liền trả lời:
- Nhà của chúng ta đó!
Nàng phải cúi người xuống mới bước vào trong được, rồi hỏi:
- Người hầu của anh đâu?
Ta nói với nàng:
- Người hầu nào? Muốn làm gì thì tự mình làm lấy. Giờ em hãy nhóm bếp nấu ăn đi, anh mệt lắm rồi.
Ta biết ngay rằng công chúa nào có biết nhóm bếp và nấu ăn, cuối cùng phải tự nhúng tay vào làm công việc mới xong. Sau bữa ăn, hai vợ chồng ta mệt mỏi ngủ thiếp đi. Ngày hôm sau, ta liền đánh thức dậy làm việc nhà. Cứ như vậy mấy ngày thì lương ăn dự trữ hết. Ta nói với công chúa:
- Mình ạ, chỉ ngồi ăn không kiếm được thêm gì cả cứ như thế này mãi chắc không được lâu, hay là em đan sọt bán.
Sau đó, ta vào rừng lấy tre nứa về, còn công chúa phải chẻ lạt đan sọt. Nhưng bàn tay của nàng bị cạnh sắc của tre nứa cửa rỉ máu. Ta thấy vậy, dù rất đau lòng, nhưng vẫn nói với nàng:
- Thế thì không được, có lẽ dệt vải hợp với em hơn.
Nàng ngồi tập quay sợi, nhưng rồi những ngón tay lại bị sợi cứa chảy máu. Ta lại bảo với công chúa:
articleads
- Em chẳng thể làm được việc gì, sống với em thật khổ. Giờ thì chắc ta phải xoay ra đi buôn nồi và bát đĩa. Em ngồi ở chợ và bán hàng.
Công chúa không mấy vui vẻ, nhưng vẫn phải đồng ý. Lúc đầu, công việc diễn ra khá suôn sẻ. Nhưng một hôm, nàng chạy về khóc lóc kể cho ra nghe chuyện nồi niêu, bát đĩa đã bị vỡ hết. Nghe xong chuyện, ta liền trách móc nàng:
- Đời thuở nhà ai bán sành sứ mà lại ngồi ngay đầu chợ chỗ người ta qua lại, khóc làm chi nữa. Anh thấy em chẳng làm gì cho đến đầu đến cuối. Lúc nãy, anh có đến cung vua hỏi xem nhà bếp có cần người phụ không, họ hứa sẽ nhận em vào làm và nuôi cơm.
Công chúa giờ đây đã là một chị phụ đầu bếp. Nàng đã bớt đi thói kiêu ngạo, và chịu khó làm ăn. Ta quyết định sẽ nói rõ mọi chuyện với nàng. Ta cho tổ chức tiệc linh đình. Khi nhìn thấy công chúa, ta bước tới tỏ ý muốn nàng nhảy cùng. Nàng liền giật tay lại tỏ ý từ chối, nhưng chẳng ăn thua gì cả, vẫn bị ta kéo vào tới giữa phòng làm dây buộc nồi đứt, hai cái nồi rơi xuống đất, súp và bánh mì vung ra khắp nền nhà. Khách khứa và những người đứng đó thấy cảnh tượng ấy đều bật cười và chêm pha những lời nhạo báng. Công chúa vô cùng xấu hổ, giật mạnh một cái khỏi tay ta, rồi lao thẳng ra phía cửa để chạy trốn. Ta chạy theo và nói với công chúa:
- Em đừng có sợ hãi, người hát rong sống chung với em trong căn lều lụp xụp chính là anh. Chính anh cũng là kỵ sĩ cho ngựa chạy đổ vỡ hết hàng sành sứ của em. Tất cả những việc đó chỉ nhằm uốn nắn tính kiêu ngạo của em.
Nàng nói:
- Em đã làm những điều sai trái, không xứng đáng là vợ của anh.
Ta liền an ủi nàng:
- Em đừng buồn nữa, những ngày cay đắng đã qua, giờ chúng ta hãy làm đám cưới.
Công chúa nghe theo lời ta, vào thay quần áo. Toàn thể triều đình đều có mặt để chúc mừng.
Viết bài văn đóng vai nhân vật kể lại một truyện cổ tích (Mẫu 16)
Tôi là Sọ Dừa - một vị Trạng Nguyên tài giỏi của nước ta.
Mẹ của tôi đã mang thai tôi nhờ uống nước mưa đọng lại trong một cái gáo dừa. Khi vừa sinh ra, tôi không có chân cũng chẳng có tay, tròn lông lốc như một cái gáo dừa nên được mẹ đặt tên là Sọ Dừa. Lớn hơn một chút, tôi nhờ mẹ xin cho đi chăn bò của nhà Phú Ông. Tôi chăn bò rất giỏi nên Phú Ông hài lòng lắm. Hằng ngày, cô con gái Út của ông thường mang cơm đến cho tôi. Tôi rất thương cô nên nhờ mẹ đến hỏi cưới cô về làm vợ. Được cô Út đồng ý, tôi sung sướng lắm, quyết rũ bỏ hình dáng xấu xí này để trở về hình dạng con người. Tôi còn biến ra rất nhiều của cải để sửa lại nhà và thuê người hầu tổ chức tiệc cưới linh đình. Điều ấy làm vợ tôi hạnh phúc lắm. Sau đám cưới, tôi ra sức dùi mài kinh sử và đỗ làm Trạng Nguyên. Ít lâu sau, tôi được nhà vua cử đi Sứ. Trước khi đi, tôi dự tính vợ ở nhà sẽ gặp chuyện chẳng lành, nên dặn nàng luôn mang theo ít đồ vật để phòng thân. Nhờ vậy mà vợ tôi đã sóng ót được trên đảo hoang sau khi bị hai chị gái độc ác hãm hại. Chúng tôi gặp lại nhau khi tàu của tôi đang trở về sau chuyến đi sứ. Hai vợ chồng mừng mừng tủi tủi ôm nhau trong hạnh phúc.
Sau lần đó, hai cô chị xấu xa kia bỏ đi biệt xứ. Còn vợ chồng tôi thì chung sống hạnh phúc và hòa thuận mãi về sau.
Viết bài văn đóng vai nhân vật kể lại một truyện cổ tích (Mẫu 17)
Tôi tên là Sọ Dừa. Cuộc sống của tôi đầy những biến cố đáng nhớ, nhưng cũng chứa đựng những niềm vui và hạnh phúc.
Bắt đầu từ khi mẹ tôi mang thai sau khi uống nước trong một cái gáo dừa, cuộc sống của tôi đã đầy gian nan. Tôi sinh ra khi bố mất, tôi được mẹ nuôi nấng và lớn lên. Tôi trở thành người đắc lực trong gia đình, giúp mẹ tôi làm việc cho phú ông. Tôi có khả năng biến hình và thổi sáo, giúp đàn bò ngoan ngoãn ăn cỏ, giúp gia đình có được nguồn thu nhập ổn định.
Khi quyết định cưới vợ, tôi đã nhận ra người con gái tốt bụng và hiền lành, là cô út của phú ông. Sau khi tổ chức đám cưới, tôi quyết định trở về hình dáng thật và tổ chức hôn lễ. Sau đó, tôi dốc sức vào việc học hành, trở thành trạng nguyên và được vua ban cho chức tước, phủ đệ. Tôi được cử đi sứ và trước khi đi, tôi đã dặn vợ mang theo những vật dụng để bảo vệ bản thân. Đúng như dự đoán, vợ tôi đã gặp nguy hiểm nhưng may mắn đã thoát chết.
Cuối cùng, hai người chị xấu xa kia đã bỏ đi xa, còn tôi và vợ sống hạnh phúc. Cuộc sống của tôi đã trở nên đầy ý nghĩa và hạnh phúc hơn từ khi có vợ và gia đình.
Viết bài văn đóng vai nhân vật kể lại một truyện cổ tích (Mẫu 18)
Một buổi trưa nọ, tôi và cha đang phải cày ruộng. Bất chợt, tôi thấy một người đàn ông ăn mặc sang trọng cưỡi ngựa đến, có lẽ là quan của nhà vua, ông bèn hỏi cha tôi:
- Này ông kia, trâu này một ngày cày được bao nhiêu đường?
Cha tôi nghe xong thì ngớ người. Tôi nghĩ bụng, ai đời lại đi hỏi câu kì lạ như vậy, chắc chắn là muốn trêu người khác rồi, tôi liền hỏi lại:
- Vậy xin quan trả lời con ngựa kia một ngày đi được bao nhiêu bước,thì tôi sẽ nói cho quan biết con trâu đi được bao nhiêu đường?
Quan lúng túng không biết trả lời, rồi quan bỗng hỏi tên hai cha con, tôi cũng không nghĩ nhiều mà khai báo.
Mấy tuần sau, làng tôi nhận được chiếu vua, vua ban cho làng ba thúng gạo nếp và ba con trâu đực, năm sau làng phải nuôi cho ba con trâu ấy đẻ thành chín con, thiếu con nào thì sẽ bị phạt. Mọi người đều biết chuyến này lành ít dữ nhiều, được vua quan tâm thì tốt nhưng ai lại làm được trâu đực đẻ con? Cái khó ló cái khôn, tôi chợt nảy ra một kế. Tôi nói với cha:
- Cha cứ bảo cả làng lấy hai con trâu và hai thúng gạo mà ăn, còn lại thì bán đi để hai cha con ta lên kinh thành.
Cha và mọi người lúc đầu còn lo lắng nhưng nghe tôi trấn an, còn làm giấy cam đoan với làng thì yên tâm hơn.
Lên đến kinh vua, nhân lúc lính canh không để ý, tôi lẻn vào sân rồng khóc ầm lên làm nhà vua đang chầu triều phải dừng lại, điệu tôi vào trong. Vua hỏi:
- Thằng bé kia, tại sao lại đến đây mà khóc?
Tôi mới ấm ức phân bua:
- Mẹ con chết sớm mà cha không chịu đẻ em bé cho con chơi, con buồn lắm. Kính vua ra lệnh bắt cha con phải đẻ em bé cho con…
Cả triều đình cười rộ lên, vua tủm tỉm giải thích:
- Cha mày là giống đực, làm sao mà đẻ con được?
Tôi nhanh nhảu đáp lại:
- Vậy sao vua lại bắt làng con làm trâu đực đẻ con?
Vua nhớ ra, cười nói:
- Cái đấy là thử, làng ngươi phải biết thịt trâu mà ăn chứ!
- Làng chúng con nhận được trâu và gạo liền biết đó là lộc vua ban đã làm cỗ ăn mừng rồi.
Hôm sau, tôi và cha đang ăn cơm, bỗng có người của vua mang một con chim sẻ bắt tôi phải dọn ba mâm cỗ, tôi biết ngài là vua lại thử mình liền đưa cho anh lính cây kim nhờ vua rèn thành một con dao để xẻ thịt chim. Cha con tôi được ban thưởng hậu hĩnh.
Một hôm, tôi đang ở nhà chơi với bạn, có sứ thần mang một cái vỏ ốc rất dài bị rỗng hai đầu, ông nhờ tôi dùng sợi chỉ mảnh xuyên qua vỏ ốc. Tôi liền hát:
“Tang tính tang! Tính tình tang!
Bắt con kiến càng buộc chỉ ngang lưng
Bên thời lấy giấy mà bưng,
Bên thời bôi mỡ, kiến mừng kiến sang
Tang tình tang…”
Mãi về sau khi đã thành trạng nguyên, tôi mới hiểu được, sự nhanh trí lần đó của mình đã cứu nước khỏi giặc ngoại xâm.
Viết bài văn đóng vai nhân vật kể lại một truyện cổ tích (Mẫu 19)
Tôi là con gái của phú ông, và chồng của tôi là một chàng trai hiền lành và chăm chỉ. Mặc dù chúng tôi đã phải đối mặt với nhiều khó khăn, nhưng cuối cùng, chúng tôi vẫn được sống hạnh phúc bên nhau.
Ban đầu, chồng tôi là một anh chàng nông dân nghèo hiền lành, luôn tốt bụng và chăm chỉ. Khi anh đến làm công ở nhà tôi, cha tôi đã hứa gả tôi cho anh với điều kiện anh làm việc cho nhà suốt ba năm mà không nhận tiền công. Anh đã đồng ý ngay, chỉ vì anh thật sự yêu tôi. Suốt ba năm đó, anh làm việc vất vả, không ngại thời gian và đem về cho gia đình rất nhiều của cải.
Nhưng đến ngày hẹn, cha tôi lại đột ngột thay đổi. Ông lừa anh lên rừng kiếm một thanh tre trăm đốt để làm sính lễ, rồi ép gả tôi cho con trai của phú ông láng giềng. Tuy tôi đau lòng nhưng không thể làm gì khác. May mắn thay, anh đã trở về kịp thời với cây tre thần kỳ và sử dụng phép thuật để giải thoát tôi khỏi cuộc hôn nhân không mong muốn.
Cuối cùng, vợ chồng tôi đã được kết hôn và sống hạnh phúc bên nhau. Giờ đây, cả gia đình tôi đều hòa thuận và hạnh phúc.
Viết bài văn đóng vai nhân vật kể lại một truyện cổ tích (Mẫu 20)
Xin chào tất cả mọi người, ta là công chúa Mị Nương, vợ của Sơn Tinh. Ngày hôm nay, ta muốn kể cho mọi người cùng nghe về cuộc đời của mình.
Ta là con gái của Vua Hùng, từ nhỏ đã được mọi người ngợi khen là xinh đẹp, hiền dịu. Đến tuổi cập kê, vua cha quyết định tìm cho ta một tấm chồng thật tốt, nên đã tổ chức hội kén rể. Nhiều chàng trai từ khắp nơi kéo đến để thử vận may. Tuy nhiên, qua nhiều lần thử thách của cha ta, thì chỉ còn lại hai chàng trai là Sơn Tinh và Thủy Tinh. Cả hai chàng đều khôi ngô, vạm vỡ, lại có tài phép thần thông. Người thì có thể dời non lấp bể, người thì có thể hô mưa gọi gió. Cả hai ngang sức ngang tài khiến vua cha không biết phải làm sao. Thế là, ngài tổ chức họp bàn với các quan đại thần. Và đưa ra thử thách cuối cùng là giao nộp sính lễ theo yêu cầu “Một trăm ván cơm nếp, một trăm nệp bánh chưng, voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao”. Nghe xong, cả hai chàng trai đều ngay lập tức lui về chuẩn bị.
Tối hôm đó, ta thao thức mãi không ngủ được vì không biết mình sẽ được gả cho ai. Đến tờ mờ sáng hôm sau, khi gà còn chưa gáy, ngoài cổng thành đã có tiếng reo hò rộn ràng. Thì ra Sơn Tinh đã mang đầy đủ sính lễ đến để hỏi cưới ta. Vậy là theo như ước định, ta trở thành vợ của Sơn Tinh. Nhìn chàng khôi ngô tuấn tú, ta cũng rất vui lòng. Sau khi hôn lễ diễn ra, ta từ biệt vua cha, theo chồng về núi Tản Viên.
Nào ngờ, vừa đi được nửa đường, thì có một cơn lũ lớn lao mạnh về phía chúng ta. Cơn lũ ấy đem theo gió lốc, mưa bão càn quét qua thành trì, nhấn chìm cả thành Phong Châu. Mà kẻ gây ra cơn đại họa ấy chính là Thủy Tinh - kẻ đến sau nên không thể cưới được ta. Nhìn quê hương đang oằn mình trong gió bão, ta đau khổ và sợ hãi vô cùng. May sao, chồng của ta đã đứng ra để ngăn cản tất cả. Chàng dời núi đắp đê, nâng đất lên cao chống lại mưa gió. Cuộc đấu dằng co liên tục mấy ngày đêm, cuối cùng Thủy Tinh đuối sức đành phải rút quân. Còn vợ chồng ta thì trở về quê nhà trong sự hân hoan chào đón của bà con.
Từ đó về sau, năm nào Thủy Tinh cũng dâng nước tấn công chúng ta, nhưng lần nào cũng thất bại trước sức mạnh và sự đoàn kết của tất cả mọi người. Còn ta thì vẫn sống vui vẻ, hạnh phúc bên người chồng Sơn Tinh của mình.
Viết bài văn đóng vai nhân vật kể lại một truyện cổ tích (Mẫu 21)
Tôi là một người nông dân hiền lành. Vợ mất sớm, một mình nuôi con. Hai cha con sống cùng nhau bình yên ở một ngôi làng nọ. Một hôm, cha con tôi đang cày bừa cho vụ mùa mới thì thấy có một viên quan từ đâu tới. Khi đến gần, viên quan ấy mới cất tiếng hỏi:
- Này, lão kia! Trâu của lão cày một ngày được mấy đường?
Tôi lúng túng, chưa biết trả lời sao thì thằng bé đã nhanh miệng hỏi lại:
- Thế xin hỏi ông câu này đã. Nếu ông trả lời được ngựa của ông đi một ngày được mấy bước tôi sẽ cho ông biết trâu của cha tôi cày một ngày được mấy đường.
Viên quan nghe hỏi lại như thế thì lộ ra vẻ sửng sốt. Một thời gian sau, nhà vua sai ban cho làng tôi ba thúng gạo nếp với ba con trâu đực, ra lệnh phải nuôi làm sao cho ba con trâu ấy đẻ thành chín con, hẹn năm sau phải đem nộp đủ, nếu không thì cả làng phải tội.
Nhận lệnh vua, cả làng đều lo lắng. Khi trở về nhà, thằng bé liền nói với tôi:
- Chả mấy khi được lộc vua ban, bố cứ thưa với làng làm thịt hai trâu và đồ hai thúng gạo nếp để mọi người ăn một bữa cho sướng miệng. Còn một trâu và một thúng gạo, ta sẽ xin làng làm phí tổn cho bố con ta trẩy kinh lo việc đó.
Tôi tỏ ý nghi ngờ, nói với thằng bé:
- Lệnh vua ban như thế, sao dân làng dám cãi lại. Con đừng nghĩ như vậy mà rồi gặp họa.
Thằng bé vẫn kiên quyết, nói đã nghĩ ra cách rồi. Hôm sau, tôi dậy sớm, đi ra đình để nói với dân làng. Cả làng nghe nói ban đầu vô cùng ngờ vực, bắt cha con tôi phải làm giấy cam đoan, mới dám ngả trâu đánh chén.
Còn tôi và thằng bé khăn gói tìm đường tiến kinh. Đến hoàng cung, thằng bé bảo tôi đứng ở ngoài, còn nó thì lẻn vào sân rồng khóc um lên. Tôi lấy làm lo lắng lắm, nhưng chỉ biết đứng chờ bên ngoài. Sau khi ra ngoài, nghe thằng bé kể lại tôi mới rõ mọi chuyện. Sau khi vào trong, nhà vua đã hỏi thằng bé:
- Thằng bé kia, ngươi có việc gì oan ức, sao phải tới đây mà khóc làm ầm ĩ cả hoàng cũng vậy?
Nó bình tĩnh trả lời:
- Tâu đức vua con đá mẹ con chết sớm mà cha con thì không chịu đẻ em bé để chơi với con cho có bạn, cho nên con khóc. Dám mong đức vua phán bảo cha con cho con được nhờ.
Nghe nói, vua và các triều thần đều bật cười. Vua phán:
- Muốn có em thì phải kiếm vợ khác cho bố, chứ bố ngươi là giống đực, làm sao mà đẻ được!
Nó nói tiếp:
- Thế sao vua lại bắt làng chúng con lại có lệnh trên bắt nuôi ba con trâu đực cho đẻ thành chín con để nộp lên vua? Giống đực thì làm sao mà đẻ được kia chứ!
Vua cười bảo:
- Ta thử đấy thôi mà! Thế làng chúng mày không biết đem trâu ấy ra thịt mà ăn với nhau à?
Thằng bé hớn hở đáp:
- Tâu đức vua, làng chúng con sau khi nhận được trâu và gạo nếp, biết là lộc của đức vua, cho nên đã làm cỗ ăn mừng với nhau rồi.
Nhà vua tỏ ra hài lòng lắm, liền ban thưởng cho thằng bé, rồi cho người đưa hai cha con tôi về quán trọ. Hôm sau, hai cha con tôi đang ngồi ăn ở quán trọ. Bỗng có sứ nhà vua mang tới cho một con chim sẻ, với lệnh bắt họ phải dọn thành ba cỗ thức ăn. Nhanh chóng suy nghĩ, thằng bé liền bảo tôi lấy cho mình một cái kim may rồi đưa cho sứ giả, bảo:
- Phiền ông cầm lấy cái này về tâu đức vua xin rèn cho tôi thành một con dao để xẻ thịt chim.
Lập tức, vua cho gọi cả hai cha con tôi vào, ban thưởng rất hậu. Bấy giờ, có nước láng giềng lúc nào cũng lăm le xâm lược đất nước ta. Họ cử viên viên sứ giả sang thăm dò xem nước ta có nhân tài nào không. Viên sứ giả đến mang theo một con ốc vặn dài, rỗng hai đầu và một sợi chỉ mảnh, đố các quan trong triều làm thế nào để xâu được sợi chỉ qua ruột ốc. Các quan làm đủ mọi cách: người thì dùng miệng hút, người bôi sáp vào sợi chỉ cho cứng để dễ xâu. Nhưng tất cả đều vô hiệu. Vua bèn mời sứ giả ở lại cùng nghỉ ngơi vài ngày, kéo dài thời gian cho người đi hỏi ý kiến con trai tôi. Lúc đó, tôi đang cặm cụi trong bếp. Còn thằng bé thì đang chơi ngoài sân cùng lũ bạn. Nghe chuyện, nó chỉ liền hát một câu:
“Tang tính tang! Tính tình tang
Bắt con kiến càng, buộc chỉ ngang lưng
Bên thời lấy giấy mà bưng,
Bên thời bôi mỡ kiến mừng kiến sang.
Tang tình tang! Tính tình tang!”
Viên quan hiểu ra, mừng rỡ quay về bẩm báo lên nhà vua. Sau đó, nhà vua liền cho người đến đón hai cha con tôi vào cung. Thằng bé được phong làm trạng nguyên, còn sai người xây dinh thự ngay trong hoàng cung để tiện hỏi thăm.
Viết bài văn đóng vai nhân vật kể lại một truyện cổ tích (Mẫu 22)
Ta là công chúa nên được sống trong sự xa hoa và sự chiều chuộng của vua cha. Được nuông chiều từ nhỏ, ta có tính cách tự cao.
Cuộc sống của ta bắt đầu thay đổi khi vua cha quyết định mở tiệc kén rể để tìm chồng cho ta. Ta theo vua cha đi xem mắt từng người, và không một ai thoát khỏi sự chê bai của ta. Vua cha đã thề rằng sẽ gả ta cho người ăn mày đầu tiên đi qua cung vua. Một ngày, một người hát rong đi qua cung điệu và hát vang. Vua cha mời hắn vào cung và quyết định gả ta cho hắn. Ta lo lắng và nản lòng, nhưng vua cha kiên quyết giữ lời thề.
Cuộc sống mới của ta bên cạnh người hát rong không giống như cuộc sống xa hoa ở cung điện. Chồng ta không có người hầu, và ta phải tự lo mọi việc. Ban đầu, ta không biết làm gì ngoài việc đắn sợi và nhóm sọt. Nhưng dần dần, ta học được cách làm việc và tự mình tồn tại. Cuối cùng, ta đã thay đổi và nhận lời cầu hôn của Vua chích chòe.
Cuộc sống mới của ta không còn xa hoa và kiêu ngạo như trước, nhưng ta đã học được giá trị của sự khiêm nhường và tôn trọng trong tình yêu và cuộc sống
Viết bài văn đóng vai nhân vật kể lại một truyện cổ tích (Mẫu 23)
Chào mọi người, ta là một chú chim phượng hoàng sinh sống ở vùng đảo xa trên biển. Ngày hôm nay, ta sẽ kể cho mọi người nghe một câu chuyện thú vị mà ta gặp được khi đến đất liền dạo chơi.
Hồi đó, ta vừa trưởng thành nên quyết định vào đất liền dạo chơi. Khi đang bay lượn, ta chợt phát hiện một cây khế vô cùng sai trái. Quả nào cũng to tròn, mọng nước, thơm lừng. Thế là, ta liền sà xuống và ăn quả. Ăn một quả, ta lại càng muốn ăn quả thứ hai. Cứ thế, suốt mấy hôm liền, cứ lúc nào khát nước thì ta sẽ ghé thăm cây khế này. Bỗng một hôm, khi đang vui vẻ ăn khế, ta lại nhìn thấy một bóng người thập thò đằng sau lưng. Thì ra đó là người đã trồng cây khế. Trông anh ta có vẻ như muốn nói điều gì, thế là ta đã dừng lại để chăm chú lắng nghe.
Nghe kể mới biết, người đàn ông này có số phận rất tội nghiệp. Anh ta có một người anh trai rất lười biếng và tham lam. Sau khi cha mất, anh trai đoạt hết gia sản, đất đai, chỉ cho anh ta một túp lều cũ và cây khế ngọt này thôi. Quanh năm, vợ chồng anh ta đi làm thuê kiếm tiền sinh sống và chăm bẵm cây khế. Nay thấy cây ra trái nhiều, thì hái mang ra chợ bán. Nào ngờ ta hôm nào cũng đến ăn, khiến trái thiếu đi rất nhiều. Nghe anh ta giãi bày, ta xấu hổ lắm. Thế là ta quyết định sẽ mang anh ta ra nhà của mình để lấy vàng về trang trải cuộc sống. Sau lần đó, hai vợ chồng anh ta trở nên giàu có, mà ta cũng thoải mái ăn khế ngon.
Ít lâu sau, khi ta đến thăm, thì chủ của cây khế đổi thành người anh tham lam, lười biếng kia. Lúc đầu, ta không để ý đến hắn. Nhưng thấy hắn ngày nào cũng kể lể về hoàn cảnh, ta cũng đành dặn hắn may túi ba gang để đi lấy vàng như người em. Ngờ đâu, hắn may một cái túi những mười hai gang. Đã thế, hắn còn cố nhét thêm vàng vào túi áo, túi quần. Thế là, hắn trở nên nặng như một ngọn núi nhỏ. Ta cố mãi mới bay lên trời được. Giữa đường thì gặp cơn mưa dông kéo qua, khiến ta chao đảo, rớt xuống biển rộng. May sao, ta vùng dậy kịp, bay trở lại bầu trời, còn tên tham lam kia thì bị sóng cuốn đi đâu mất. Thật xứng đáng cho một kẻ như hắn!
Viết bài văn đóng vai nhân vật kể lại một truyện cổ tích (Mẫu 24)
Ta là Sơn Tinh, chúa tể của vùng núi cao. Ta nghe đồn về vẻ đẹp hiền dịu của Mị Nương – con gái của vua Hùng tại Phong Châu, ta đã từ lâu ngưỡng mộ. Vua Hùng, yêu thương con gái mình, muốn tìm cho nàng một chồng phù hợp. Vì thế, ta và Thủy Tinh đã cùng đến cầu hồn.
Nhưng trước sự khó xử của vua, chúng ta phải vượt qua thử thách khác. Vua quyết định rằng ai mang sính lễ đến trước sẽ được rước dâu về. Sính lễ bao gồm một loạt đồ đắt tiền và quý giá. Thật may, sính lễ đều có ở vùng núi. Sáng sớm hôm sau, ta đến trước và chờ đợi Thủy Tinh. Nhưng khi vẫn không thấy hắn xuất hiện, ta đã được vua chấp nhận làm chồng của Mị Nương.
Trên đường trở về, ta bỗng cảm nhận trời tối sầm lại, gió nổi cuồn cuộn. Rõ ràng là Thủy Tinh đang tiến quân đến. Hắn hô mưa, gọi gió làm thành dông bão rung chuyển cả đất trời. Dân làng và đồng ruộng bị ngập lụt. Ta không thể ngồi yên khi nhân dân khốn khổ, và đã sử dụng sức mạnh của mình để bảo vệ. Cuộc chiến giữa ta và Thủy Tinh kéo dài suốt nhiều tháng, nhưng cuối cùng, hắn phải rút lui.
Với sự cương quyết, ta kết thúc câu chuyện, để lại một thông điệp về sức mạnh của lòng kiên nhẫn và lòng dũng cảm.
Viết bài văn đóng vai nhân vật kể lại một truyện cổ tích (Mẫu 25)
Ta là Sơn Tinh, một người đến từ vùng núi Tản Viên xa xôi. Ta từ nhỏ đã vô cùng mạnh mẽ, lại có tài phép dời non lấp bể nên được mọi người tôn sùng.
Đến tuổi cập kê, ta đem lòng thương mến nàng Mị Nương xinh đẹp, hiền dịu. Vậy nên khi cha nàng tổ chức kén rể, ta đã đến ngay. Bao nhiêu đối thủ ngày hôm ấy, ta đều vượt qua một cách dễ dàng. Duy chỉ có một người duy nhất là khiến ta phải e dè chính là Thủy Tinh. Hắn đến từ biển sâu, có tài năng hô mưa gọi gió. Cả hai chúng ta đều ngang sức ngang tài khiến Vua Hùng vô cùng khó chọn. Cuối cùng, sau một hồi bàn bạc với mọi người, ngài ấy quyết định đưa ra thử thách cuối cùng là yêu cầu giao nộp sính lễ. Danh sách gồm “một trăm ván cơm nếp, một trăm nệp bánh chưng, voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao”. Ai mang đến trước sẽ thắng cuộc.
Ngay sau khi thử thách đưa ra, ta đã tức tốc đi tìm. Sáng sớm hôm sau, ta mang tất cả sính lễ đến, và cưới được Mị Nương. Giây phút đó thật vô cùng hạnh phúc. Sau hôn lễ, vợ chồng ta tạm biệt vua cha và trở về núi Tản Viên. Ngờ đâu, vừa mới đi được một đoạn đường, chúng ta đã gặp mưa to gió lớn. Nước từ đâu không biết ồ ạt dâng lên, nhấn chìm cả thành Phong Châu. Nhìn lại thì chính là Thủy Tinh đang đem quân đánh ta. Vì thua cuộc, nên hắn đem lòng căm hận, trở mặt thành thù dâng nước tấn công cả những người dân lành. Thấy vợ sợ hãi, ta an ủi nàng rồi nhảy ra ngăn cản Thủy Tinh. Hắn dâng nước đến đâu, ta dâng núi cao đến đấy. Rồi ta dựng cả tường thành, đắp đê chống lại dòng nước xiết. Hai bên cứ giằng co như thế hằng tháng trời, cuối cùng chiến thắng đã thuộc về ta.
Từ đó về sau, năm nào, Thủy Tinh cũng dâng nước đòi trả thù ta cả. Nhưng dĩ nhiên, hắn chẳng thể chiến thắng dù chỉ một lần. Còn ta thì vẫn chung sống hạnh phúc cùng Mị Nương và được muôn dân yêu mến, kính trọng.
Viết bài văn đóng vai nhân vật kể lại một truyện cổ tích (Mẫu 26)
Tôi sinh ra trong một gia đình nông dân. Vì chăm chỉ làm lụng nên bố mẹ tội cũng có bát ăn bát để, hi vọng sau này cho anh em tôi làm vốn sinh nhai. Nhưng rồi cha mẹ tôi mất đột ngột. Anh trai tôi đã không làm như lời cha mẹ dặn trước lúc lâm chung là chia đều tài sản cho hai anh em mà chiếm hết gia tài, chỉ để lại cho tôi một túp lều nhỏ và cây khế còi cọc ở góc vườn.
Tôi chấp nhận mà không hề kêu ca, than phiền gì. Hằng ngày, tôi phải mò cua bắt ốc, cày thuê, cuốc mướn để sống. Cây khế trở thành tài sản quý giá nhất và là người bạn thân thiết của tôi. Tôi chăm sóc nó chu đáo, tận tình như người bạn. Vì vậy mà cây khế lớn rất nhanh và chẳng bao lâu đã ra hoa kết quả. Đến mùa khế chín, những chùm khế chín vàng óng, thơm lừng báo hiệu một mùa khế bội thu. Không thể nào nói hết được niềm hạnh phúc của mọi người trong gia đình tôi. Tôi đã đan những chiếc sọt để ngày mai đem khế ra chợ đổi lấy gạo. Sáng hôm đó, khi vừa thức dậy, tôi đã nhìn thấy trên cây khế có một con chim to với bộ lông sặc sỡ đang ăn những quả khế chín. Lòng tôi đau như cắt. Tôi chạy đến dưới gốc cây và nói: “Chim ơi! Ngươi ăn khế của ta thì gia đình ta biết lấy gì để sống?”. Chim bỗng ngừng ăn và cất tiếng trả lời: “Ăn một quả trả một cục vàng, may túi ba gang mang đi và đựng”. Nói rồi chim bay đi. Tôi không tin lắm vào chuyện lạ lùng đó nhưng vẫn bảo vợ may cho mình một chiếc túi ba gang. Sáng hôm sau, chim đến từ sớm và đưa tôi ra một hòn đảo nhỏ giữa biển. Tôi không thể tin vào những gì hiện ra trước mắt. Cả hòn đảo toàn vàng bạc châu báu chất đống. Cả hòn đảo ánh lên màu vàng làm tôi bị lóa mắt. Không hề có một bóng người. Tôi cảm thấy lo sợ, cứ đứng yên một chỗ. Nhưng rồi chim vỗ cánh và giục giã: “Anh hãy lấy vàng bạc, châu báu vào túi, rồi tôi đưa về.”. Lúc đó tôi mới dám nhặt vàng cho vào đầy túi ba gang rồi lên lưng chim để trở về đất liền.
Từ đó, gia đình tôi không còn phải ăn đói mặc rách nữa. Tôi dựng một căn nhà khang trang ngay trong khu vườn, nhưng vẫn giữ lại túp lều và cây khế.
Tôi dùng số của cải đó chia cho những người dân nghèo khổ trong làng. Cũng không hiểu sao từ bữa đó, chim không còn đến ăn khế nữa. Cây khế bây giờ đã to lớn, toả bóng mát xuống cả một góc vườn. Mùa khế nào tôi cũng chờ chim thần đến để bày tỏ lòng biết ơn.
Tiếng lành đồn xa, câu chuyện lan đến tai người anh trai tôi. Một sáng, anh đến nhà tôi rất sớm. Đây là lần đầu tiên anh tới thăm tôi kể từ ngày bố mẹ mất. Anh đòi tôi đổi toàn bộ gia sản của anh lấy túp lều và cây khế. Tôi rất buồn khi phải chia tay với căn nhà và cây khế. Nhưng trước lời cầu khẩn của anh, tôi đành bằng lòng. Cả gia đình anh chuyển về túp lều cũ của tôi. Ngày nào anh cũng ra dưới gốc khế chờ chim thần đến. Mùa khế chín, chim cũng trở về ăn khế. Vừa thấy chim, anh tôi đã khóc lóc, kêu gào thảm thiết và đòi chim phải trả vàng. Chim cũng hứa sáng mai sẽ đưa anh tôi ra đảo vàng và dặn may túi ba gang. Tối hôm đó, anh tôi thức cả đêm để may túi mười gang ngày mai đi lấy vàng. Sáng hôm sau, vừa ra tới đảo vàng, anh tôi đã hoa mắt bởi vàng bạc châu báu của hòn đảo. Anh tôi vội nhét vàng vào đầy túi mười gang, vào túi quần, túi áo và mồm cũng ngậm vàng nữa. Trên đường trở về nhà, chim nặng quá, kêu anh tôi vứt bớt vàng xuống biển cho đỡ nặng. Vốn tính tham lam, anh không những không vứt bớt xuống mà còn bắt chim bay nhanh hơn. Nặng quá, chim càng lúc càng mệt. Đôi cánh trở nên quá sức, yếu dần. Cuối cùng, không còn gắng được nữa, chim chao đảo rồi hất luôn người anh xuống biển cùng với số vàng.
Tôi trở lại sống ở nhà cũ, cùng túp lều và cây khế. Nhưng chim thần không bao giờ còn quay trở lại nữa… Anh trai tôi đã không thể quay trở về chỉ vì lòng tham vô đáy. Một nỗi buồn man mác dâng lên trong lòng tôi.
Viết bài văn đóng vai nhân vật kể lại một truyện cổ tích (Mẫu 27)
Ta là Thủy Tinh - một vị thần đến từ biển cả có tài năng hô mưa gọi gió. Cả đời ta tung hoành ngang dọc, nhưng không thể ngờ rằng lại gặp phải thất bại nặng nề khi tiến vào đất liền.
Năm đó, ta tiến vào đất liền dạo chơi, vừa hay đúng lúc Vua Hùng kén rể cho con gái. Nhìn thấy nàng Mị Nương xinh đẹp, hiền dịu, ta liền quý mến vô cùng. Thế là ta liền vào tham gia kén rể. Tất cả mọi người ở đó chẳng ái là đối thủ của ta. Cuối cùng, chỉ còn lại ta và một kẻ tên là Sơn Tinh là ngang sức ngang tài. Bởi vì hắn cũng biết phép lạ là dời núi lấp bể. Điều này khiến Vua Hùng hết sức băn khoăn. Sau cùng, ngài đã đưa ra một danh sách các sính lễ quý hiếm với số lượng lớn và bảo rằng, ai mang sính lễ đến trước sẽ là người chiến thắng.
Suốt cả đêm, ta không nghỉ ngơi ra sức tìm sính lễ. Ngờ đâu, khi mang sính lễ đến nơi thì hôn lễ của Mị Nương và Sơn Tinh đã hoàn thành xong rồi. Tức giận vô cùng, ta liền dâng nước để đuổi đánh Sơn Tinh. Ta kéo mây, tạo mưa to gió lớn, dâng nước nhấn chìm cả thành Phong Châu. Thế nhưng, tên Sơn Tinh kia lại không hề nao núng. Hắn nâng đất dựng thành kéo lũy chắn dòng nước lũ, dời núi lên cao để tránh bị nhấn chìm. Cứ thế, chúng ta đánh nhau cả mấy tháng trời. Cuối cùng ta đuối sức trước, đành rút quân đi trong sự căm phẫn khôn cùng.
Từ đó về sau, năm nào ta cũng kéo quân đánh Sơn Tinh cả. Dù chưa một lần chiến thắng, nhưng ta tin chắc rằng, một ngày nào đó, ta sẽ tiêu diệt được hắn.
Viết bài văn đóng vai nhân vật kể lại một truyện cổ tích (Mẫu 28)
Trong kho tàng cổ tích Việt Nam có rất nhiều câu chuyện vừa hay lại vừa giàu ý nghĩa. “Ba lưỡi rìu của thần sông” chính là một câu chuyện như thế.
Câu chuyện kể về một chàng tiều phu nổi tiếng trung thực, thật thà. Anh sống một mình trong túp lều cũ nát, cả gia sản chỉ có duy nhất một chiếc rìu cũ. Một ngày nọ, khi anh đang chặt củi cạnh bờ sông thì lưỡi rìu tuột ra, lăn xuống nước. Anh đang hoang mang chưa biết làm sao, thì một ông lão râu tóc bạc phơ xuất hiện, tự giới thiệu là thần ngụ ở sông này. Thần sông hứa sẽ giúp anh tìm lại lưỡi rìu sau đó biến mất trong làn nước. Một lát sau, ông xuất hiện với lưỡi rìu bằng bạc chói sáng trên tay, hỏi anh thanh niên xem có phải lưỡi rìu của anh không. Anh tiều phu nhìn qua liền lắc đầu nói rằng không phải. Thế là thần sông lại biến mất. Lần thứ hai xuất hiện, ông ấy mang theo lưỡi rìu bằng vàng còn to và sáng chói hơn cái trước. Nhưng anh tiều phu vẫn từ chối. Đến lần thứ ba, thần sông đưa ra một chiếc lưỡi rìu sắt cũ kĩ. Nhìn thấy nó, anh tiều phu mừng rỡ cầm lấy, cảm ơn ông lão rối rít. Xong rồi, anh vội chào ông để tiếp tục đi đốn củi. Thấy vậy, thần sông liền gọi anh lại, tặng cho anh hai lưỡi rìu kia để khen ngợi sự trung thực của anh. Anh tiều phu định từ chối, thì ông đã biến mất tăm sau làn khói trắng.
Từ câu chuyện cổ tích trên, em hiểu được rằng lòng trung thực là một phẩm chất đáng quý của con người. Chúng ta nên giữ vững phẩm chất đó, chớ để lòng tham làm lung lay.
Viết bài văn đóng vai nhân vật kể lại một truyện cổ tích (Mẫu 29)
Ta là vợ của Vua chích chòe. Người dân ai cũng khen ngợi ta là một vị hoàng hậu vừa xinh lại lại đoan trang, hiền thục. Nhưng để có được như ngày hôm nay, ta đã phải trải qua những bài học lớn.
Thuở ấy, ta còn là con gái cưng của vua cha. Vì được nuông chiều từ bé, lại xinh đẹp, nên ta rất hống hách và kiêu căng. Tính cách ấy của ta khiến người khác nhiều lần phải xấu hổ. Tuy nhiên, đỉnh điểm là khi ta đã thẳng thừng chê bai những vị vua, chàng hoàng tử đến cầu hôn mình. Gặp ai, ta cũng cố chỉ ra những khuyết điểm của họ rồi đem ra chế nhạo. Người thì vừa lùn vừa mập, người thì nhợt nhạt như chết đuối, người thì mặt đỏ như gấc, người thì dáng đứng cong cớn. Ai cũng trở thành trò cười trong lời nói của ta. Điều đó khiến vua cha tức giận lắm. Ngài đã ra quyết định sẽ gả ta cho tên ăn mày đầu tiên đến hoàng cung. Lúc đầu, ta nghĩ rằng đó chỉ là lời bâng quơ của cha nên chẳng chút nào để ý. Nhưng đến khi bị gả cho một tên hát rong và bị đưa ra khỏi hoàng cung, ta mới biết rằng tất cả đều là sự thật. Tiếc rằng, lúc ấy, ta chẳng thể thay đổi điều gì nữa rồi.
Sau khi trở thành vợ của người hát rong, ta phải nếm trải đủ những khổ cực, vất vả và cả sự xấu hổ mà trước giờ mình vẫn khinh thường và đổ cho người khác. Tôi phải sống trong một căn nhà nhỏ lụp xụp, tự mình xuống bếp nấu cơm. Và rồi, như bao người dân nghèo khác, tôi bắt đầu phải làm việc để kiếm sống. Đầu tiên là đan sọt để bán, rồi đến quay sợi. Nhưng ta chẳng làm được việc gì cả bởi bàn tay quá yếu đuối của mình. Sau đó, chồng đưa ta ra chợ bán chén đĩa. Thoạt đầu, công việc khá thuận lợi, nhưng ít lâu sau tất cả hàng hóa của ta đã bị một chàng hiệp sĩ làm đổ vỡ hết. Điều đó khiến ta vô cùng xấu hổ với chồng mình. Cuối cùng, ta được chồng xin cho làm một chị phụ bếp trong cung điện của Vua chích chòe - người ta từng từ chối và chế giễu. Ngài ấy và những khách mời vẫn ăn mặc lộng lẫy, xa hoa như thế. Nhưng còn ta thì đã trở nên thấp kém, nghèo hèn. Chỉ có một điều tốt là ta đã không còn kiêu căng hống hách như trước nữa, mà trở nên ngoan ngoãn, biết điều và chăm chỉ hơn. Tất cả là nhờ người chồng hát rong của ta. Ngờ đâu, vào tối Vua chích chòe mở hội, ta đã bị ngài kéo ra giữa sân khấu. Trước ánh mắt chế giễu của mọi người, ta vô cùng xấu hố. Nhưng chính lúc ấy, ta mới biết được rằng, ngài ấy chính là chồng của tả. Thì ra, để uốn nắn tính cách xấu xa của ta, ngài ấy đã đóng vai người hát rong, đóng vai cả hiệp sĩ. Tất cả cũng chỉ mong ta sớm thay đổi.
Nhờ chàng, ta đã trở thành một cô gái có tính cách tốt và được mọi người yêu quý. Giờ đây, ta đã trở thành một hoàng hậu đoan trang, hiền dịu. Và ta muốn nhắn nhủ tới mọi người rằng, không nên có tính kiêu căng, hống hách, mà phải biết yêu thương, tôn trọng mọi người.
Viết bài văn đóng vai nhân vật kể lại một truyện cổ tích (Mẫu 30)
Tôi tuy là một tảng đá vôi nhưng cuộc đời của tôi lại rất dài. Tôi không phải là một tảng đá vôi bình thường như bao tảng đá khác. Bỏi vì xưa kia tôi chính là một con người.
Hồi đó, nhà họ Cao chúng tôi có hai anh em. Tôi và anh của tôi. Chúng tôi giống nhau như đúc, đến nỗi người ngoài không thể phân biệt được ai là anh, ai là em. Hai anh em tôi hơn nhau một tuổi và rất thương yêu, quý trọng nhau. Những tháng năm được sống vui vầy bên cha mẹ, bên người anh ruột thịt là những ngày tháng hạnh phúc nhất trong đời tôi. Nhưng những ngày tháng êm đềm ấy không cùng tôi suốt cuộc đời. Khi hai anh em tôi mới mười bảy, mười tám tuổi thì cha mẹ chúng tôi đều lần lượt qua đời. Từ đó, chúng tôi lại càng yêu quý nhau hơn trước.
Không được cha mẹ dạy dỗ cho nữa, tôi và anh tôi đến xin học tại ông thầy họ Lưu. Chúng tôi đều cố gắng chăm chỉ học hành nên được thầy Lưu yêu như con. Thầy Lưu có một người con gái, tuổi chừng mười sáu, mười bảy rất xinh đẹp, dịu dàng, con gái trong vùng ít ai sánh kịp. Từ khi hai anh em tôi đến học, cô gái có vẻ quấn quýt với hai anh em chúng tôi lắm. Một hôm, nhà nấu cháo, cô gái múc một bát cháo và một đôi đũa mời chúng tôi ăn. Cầm bát cháo từ tay cô gái, tôi nghĩ: 'Anh mình lớn hơn mình, vì vậy mình phải nhường cho anh ăn trước mới phải.'. Nghĩ vậy, tôi bèn mời anh ăn trước. Sau đó, anh tôi đã lấy cô gái làm vợ. Việc mời ãn cháo chính là một cái cớ để cô gái phân biệt được chúng tôi ai là anh, ai là em. Cũng từ khi anh tôi lấy vợ, tôi cảm thấy rằng tình cảm anh em giữa chúng tôi hình như không được thắm thiết như trước nữa thì phải. Tôi buồn lắm nhưng anh tôi vẫn vô tình không để ý đến. Một buổi chiều nọ, anh và chị dâu đã đi vắng, tôi ngồi trước cửa và nhìn ra khu rừng xa xa. Càng nghĩ, tôi càng cảm thấy mình là đồ thừa trong cái gia đình nhỏ bé, hạnh phúc này.
Vừa tủi thân, lại cảm thấy thật cô đơn, tôi vùng đứng dậy ra đi. Tôi cứ đi mãi, đi mãi đến khi rừng già ở trước mắt. Theo con đường mòn, tôi đi thẳng vào rừng. Trời đã tối, trăng đã lên cao. Tôi đi mải miết cho tới khi gặp một con suối rộng, nước sâu và xanh biếc trong rừng. Không thể lội qua được, tôi đành ngồi nghỉ bên bờ. Tôi đã khóc, khóc nhiều lắm. Đêm đã khuya, sương lạnh rơi xuống mỗi lúc một nhiều. Những giọt sương cứ thấm dần, thấm dần vàò da thịt tôi. Cuối cùng tôi đã chết mà vẫn ngồi trơ trơ, biến thành tảng đá vôi như bây giờ. Tôi có ngờ đâu, anh tôi về nhà, không thây tôi đâu bèn vội vàng đi tìm nhưng không nói cho ai biết cả. Cũng theo con đường tôi đã đi. Anh cũng tới được con suối rộng, nước xanh biếc đang chảy cuồn cuộn dưới ánh trăng vàng. Không lội qua được nữa, anh tôi bèn ngồi xuống, tựa lưng vào tảng đá bên bờ suối. Anh có ngờ đâu tảng đá ấy chính là đứa em ruột thịt của mình. Anh cứ ngồi đấy gọi tên tôi, những giọt sương từ cành lá rơi lã chã xuỏng vai áo anh, thấm vào da thịt anh. Anh tôi đã ngất đi và chết cứng, biến thành một cái cây không cành mọc thẳng lên bên tảng đá. Cái cây cứ rì rào, rì rào, tán lá trên cao như nói lời xin lỗi muộn màng. Anh ơi, em sẵn sàng tha thứ cho anh bởi vì chúng ta là ruột thịt của nhau, chính em phải nói lời xin lỗi với anh. Tôi chỉ muốn hét thật to lên như vậy. Nhưng đâu còn thời gian nữa, giờ đây, tôi đã biến thành tảng đá. Đá thì làm sao nói được.
Dân trong vùng gọi tôi là đá vôi, anh tôi là cây cau còn người chị dâu là cây trầu.
Ở nhà, chị dâu tôi chẳng thấy chồng đâu, cũng chẳng thấy em đâu bèn tất tả đi tìm. Bước thấp, bước cao. Cuối cùng chị cũng tới được con suối trong rừng. Cũng như anh em tôi, không lội qua được, chị đành ngồi lại bên bờ tựa lưng vào cái cây. Chị ơi, cái cây chị đang tựa vào chính là chồng của chị đấy. Tôi rất muốn nói cho chị biết điều đó. Chị dâu tôi cứ ngồi đấy, than khóc, vật vã. Chưa đầy nửa đêm, chị đã mình gầy xác ve, thân dài lêu nghêu biến thành cây leo cuốn chặt lấy cây không cành, về sau, chuyện chúng tôi đến tai mọi người, ai nấy đểu thương xót. Dân trong vùng gọi tôi là đá vôi, anh tôi là cây cau còn người chị dâu là cây trầu. Tôi cũng rất mong rằng bây giờ cũng sẽ có những tình cảm anh em vợ chồng gắn bó như chúng tôi đây.
Viết bài văn đóng vai nhân vật kể lại một truyện cổ tích (Mẫu 31)
Ở nhà Phú Ông có một người con rể vừa chăm chỉ lại tài giỏi. Đó chính là tôi.
Trước đây, tôi là một anh nông dân làm thuê cho nhà Phú Ông. Thấy tôi chăm chỉ lại tháo vát, ông rất ưng ý. Bèn gọi tôi ra và hứa rằng nếu tôi chịu làm việc ba năm không lấy tiền công cho ông, thì ông sẽ gả con gái cho. Nghe ông nói, tôi đồng ý ngay.
Suốt ba năm trời tôi làm việc chăm chỉ từ sớm đến tối mịt, giúp nhà Phú Ông có thêm bao nhiêu là ruộng và trâu bò. Đến ngày hẹn, ông ấy bảo tôi vào rừng tìm một cây tre trăm đốt làm sính lễ. Nghe xong, tôi cũng thật thà vác rìu đi tìm tre trăm đốt. Nhưng dù đi biết bao nhiêu rừng tre, xem biết bao nhiêu cây cũng chẳng có cây nào cao đến thế. Đúng lúc tôi buồn bã tột độ, thì ông Bụt xuất hiện, chỉ cho tôi câu thần chú để gắn 100 đốt tre lẻ lại thành một cây tre dài. Tôi vui sướng lắm, vội cảm ơn Bụt rồi chạy ào về nhà. Đến nơi, tôi bất ngờ khi thấy Phú Ông đang tổ chức lễ cưới cho con gái với con trai của một Phú Ông làng khác. Cơn tức giận bùng nổ trong đầu tôi. Thế là, tôi liền dùng câu thần chú vừa học được, gắn Phú Ông vào thân cây tre, trở thành đốt thứ 101. Tên Phú Ông làng kia hoảng sợ, định vào ứng cứu thì cũng bị mắc kẹt cùng. Cuối cùng, Phú Ông đành phải chấp nhận hủy đám cưới này và thực hiện lời hứa với tôi ba năm trước.
Sau khi trở thành con rể Phú Ông, tôi lại càng ra sức làm việc chăm chỉ hơn trước. Của cải nhà Phú Ông cũng ngày càng nhiều, nên ông ấy đã quý tôi như con cái trong nhà.
Viết bài văn đóng vai nhân vật kể lại một truyện cổ tích (Mẫu 32)
Tôi tên Thạch Sanh, một người mồ côi cha mẹ từ nhỏ, vốn là con trai của Ngọc Hoàng. Tôi được phái xuống trần để sống trong một gia đình nông dân hiền lành. Trong cuộc sống cơ cực, tài sản lớn nhất mà cha tôi để lại cho tôi là một chiếc lưỡi rìu. Dù vậy, tôi không những không gặp khó khăn trong cuộc sống mà còn được thiên thần dạy cho đủ loại võ nghệ cao cường, giúp tôi trở nên mạnh mẽ và thông minh.
Một hôm, trong lúc tôi đang ngồi dưới gốc đa, có một người đến hỏi. Anh ta tên là Lí Thông, một người bán rượu và anh ấy muốn kết nghĩa huynh đệ với tôi. Với sự thiếu thốn tình thương từ nhỏ, tôi ngay lập tức đồng ý với lời đề nghị của Lí Thông và chuyển đến sống cùng anh ấy và mẹ con anh. Tôi tự nguyện giúp việc nhà và hỗ trợ Lí Thông trong công việc kinh doanh rượu.
Một đêm, Lí Thông nhờ tôi canh miếu thờ trong khi anh đi bán rượu, và tôi đồng ý. Tuy nhiên, trong lúc tôi đang ngủ dưới nền, bất ngờ một con chằn tinh lao đến định ăn thịt tôi. Dùng lưỡi rìu, tôi dũng cảm đánh nhau với con quái vật và cuối cùng đã giết nó. Không lâu sau, tôi phát hiện rằng con quái vật kia thực chất là một con trăn khổng lồ. Tôi chặt đầu con quái vật và đem về cho Lí Thông.
Nhưng khi về đến nhà, tôi không thể gặp Lí Thông. Tôi chỉ nghe thấy tiếng van xin cầu cứu của mẹ con Lí Thông từ trong nhà. Lí Thông đã dối lòng và nói rằng con trăn là vật nuôi của vua và việc giết nó là tội lỗi nặng nề. Anh ta khuyên tôi nhanh chóng trốn đi và để anh lo mọi việc.
Tôi tin tưởng và rời đi về gốc đa cũ, nơi mà tôi từng sống. Một ngày nọ, tôi tình cờ nhìn thấy con đại bàng đang tấn công một cô gái. Tôi không thể ngồi yên và đã sử dụng cung tên để bắn đại bàng. Mặc dù con đại bàng bị thương, nhưng tôi đã cứu được cô gái. Cô là công chúa, con gái của vua Thủy Tề.
Sau đó, tôi được mời xuống Thủy cung chơi và trước khi trở về, vua Thủy Tề còn tặng cho tôi một cây đàn thần. Nhưng khi trở về đến nhà, không rõ sự tình, tôi đã bị đám lính canh bắt vào ngục với cáo buộc ăn cắp. Nhưng tôi không nản lòng và vẫn kiên quyết đánh đàn trong ngục. Tiếng đàn của tôi đã vang xa và vua nghe được. Vua cảm thấy ấn tượng với tài năng của tôi và nên lòng tôi. Tôi được giải phóng và được nhà vua trao một lời hứa kết hôn với công chúa. Tuy nhiên, cuộc lễ cưới đã gây ra một cuộc chiến và hoàng tử các nước chư hầu từ hôn công chúa. Họ đồng lòng đánh nhau và đem quân đến.
Tôi không ngại khó khăn và dùng cây đàn thần để đánh lừa quân địch. Âm nhạc của tôi khiến quân sĩ mười tám nước bị ám ảnh và xin hàng. Nhà vua rất ấn tượng và nhận ra tài năng của tôi. Anh quyết định truyền ngôi cho tôi khi không có con trai.
Từ đó, tôi trở thành vị vua của đất nước và được xưng là Thạch Sanh Vương. Nhờ tài năng và lòng dũng cảm, tôi đã vượt qua nhiều khó khăn, từ một đứa trẻ mồ côi lẻ loi, trở thành vua một nước và có cuộc sống hạnh phúc bên người mà tôi yêu thương.
Viết bài văn đóng vai nhân vật kể lại một truyện cổ tích (Mẫu 33)
Tên tôi là Khang, vốn làm nghề tiều phu. Bố mẹ mất sớm, tôi sống thui thủi một mình trong một căn lều dựng tạm nơi bìa rừng. Cuộc sống của tôi cứ êm đềm trôi qua cho đến một ngày tôi gặp một sự lạ kì.
Hôm ấy, cũng như mọi khi, tôi vác rìu vào rừng đốn củi. Không hiểu tay chân vụng về thế nào, tôi làm rơi rìu xuống con sông gần đó. Nước sâu, sông rộng, khó lòng lấy lại được rìu. Mà đó lại là kế sinh nhai duy nhất. Tôi buồn lắm! Ngày mai, ngày kia ... và những ngày sau nữa tôi lấy gì mà kiếm củi nuôi thân đây? Càng nghĩ nước mắt tôi càng tuôn nhiều, chảy dài trên khuôn mặt đen xạm của tôi. Đúng lúc đó, một cụ già râu tóc bạc phơ xuất hiện trước mặt tôi. Trông cụ thật hiền lành và phúc hậu với vầng trán cao, khuôn mặt hồng hào. Ôn tồn cụ hỏi:
- Có chuyện gì mà con khóc thảm thiết vậy?
Tôi bèn thật thà kể đầu đuôi mọi chuyện cho ông lão nghe. Nghe xong, ông lão cười và hứa sẽ tìm lại chiếc rìu cho tôi. Tôi vui lắm!
Nói rồi, ông lão lặn ngay xuống sông. Chỉ một lát sau ông đã ngoi lên, trên tay cầm một lưỡi rìu bằng vàng sáng lấp lánh. Ông giơ rìu lên hỏi tôi:
- Đây có phải rìu của cháu không?
Dù chiếc rìu đó rất đẹp và có giá trị nhưng không phải rìu của mình thì đừng có lấy. Tôi vội trả lời:
- Không! Đó không phải cây rìu của cháu đâu ông ạ!
Nghe tôi nói xong, ông cụ lại lặn xuống sông một lần nữa. Lần này khi ngoi lên ông cụ cầm trên tay cầm một lưỡi rìu bằng bạc trông rất thích mắt. Cụ vẫn hỏi như cũ:
- Đây có phải rìu của cháu không?
Tôi không ngần ngại mà từ chối ngay:
- Thưa ông, cái này cũng không phải rìu của cháu.
Không nản, ông cụ lại tiếp tục lặn xuống sông lần nữa. Một lát sau, ông ngoi lên khỏi mặt nước với chiếc rìu bằng sắt hết sức bình thường, cán rìu nhìn còn hơi cũ. Nhưng đó chính là chiếc rìu của tôi. Sung sướng tôi reo to:
- Đây mới chính là rìu của cháu ông ạ!
Nghe vậy, ông lão đưa lại rìu cho tôi và nói. Cháu quả là một chàng trai thật thà, nghèo nhưng không tham lam. Cháu xứng đáng được thưởng. Ta tặng cho cháu cả ba lưỡi rìu này. Nói xong, ông lão vụt biến mất. Tôi biết mình gặp tiên nên chắp tay cảm tạ rồi về nhà. Nhờ ba chiếc rìu đó, tôi có cuộc sống ấm no và hạnh phúc trọn đời.
Viết bài văn đóng vai nhân vật kể lại một truyện cổ tích (Mẫu 34)
Cuộc đời của Sọ Dừa là một hành trình đầy gian khổ và khắc nghiệt, nhưng cũng chứa đựng những cảm xúc và thành công đáng tự hào. Từ lúc mới sinh ra với hình dáng kỳ lạ như cái gáo dừa, Sọ Dừa đã không ngừng nỗ lực để vượt qua khó khăn và tìm kiếm hạnh phúc. Với tài năng xuất chúng trong việc chăn bò, Sọ Dừa đã gây ấn tượng và được lòng nhà Phú Ông. Hành trình tìm vợ của anh không dễ dàng, nhưng nhờ sự quyết tâm và tình cảm chân thành, cô Út đã đồng ý kết hôn với anh. Hạnh phúc gia đình là nguồn động lực cho Sọ Dừa tiến xa hơn trong cuộc sống.
Từ một người chăn bò giỏi, Sọ Dừa đã vượt qua các khó khăn, dùi mài kinh sử và trở thành một Trạng Nguyên tài giỏi của nước ta. Nhờ tài trí và năng lực, anh được nhà vua cử đi Sứ, trở thành đại diện của đất nước. Tuy nhiên, luôn lo lắng về vợ ở nhà, Sọ Dừa cẩn thận dặn nàng mang theo ít đồ vật để phòng thân. Điều đó đã cứu sống vợ anh khi bị hai chị gái độc ác hãm hại, và vợ chồng họ gặp lại nhau trong niềm hạnh phúc sau chuyến đi sứ.
Từ câu chuyện về Sọ Dừa, chúng ta rút ra được nhiều bài học quý giá. Sự kiên nhẫn và nỗ lực không ngừng nghỉ sẽ giúp chúng ta vượt qua mọi khó khăn trong cuộc sống. Tình yêu thương và sự quan tâm đến người thân, gia đình là nguồn động lực mạnh mẽ để ta tiến lên và đạt được thành công. Cuối cùng, câu chuyện của Sọ Dừa cũng nhấn mạnh rằng, hạnh phúc đích thực không chỉ là những thành công hay vinh quang cá nhân, mà còn là khát vọng chung của hai trái tim trong niềm vui và cảnh vui, cùng nhau vượt qua khó khăn để sống hạnh phúc.
Viết bài văn đóng vai nhân vật kể lại một truyện cổ tích (Mẫu 35)
Tôi là con gái của phú ông. Chồng của tôi là một chàng trai hiền lành và chăm chỉ. Tuy gặp nhiều biến cố, nhưng may mắn thay, cuối cùng vợ chồng tôi cũng được chung sống hạnh phúc.
Trước đây, chồng tôi là một anh nông dân nghèo hiền lành, tốt bụng lại chăm chỉ, khỏe mạnh lắm. Thế nên, khi anh đến nhà tôi làm công, cha tôi đã hứa gả tôi cho anh. Điều kiện chính là anh phải làm việc cho nhà tôi suốt ba năm mà không lấy tiền công. Bởi vì thích tôi, nên anh đã đồng ý ngay. Suốt ba năm trời, anh làm việc quần quật, không ngại sớm hôm và đem về cho nhà tôi rất nhiều của cải.
Ngày hẹn đến, những tưởng tôi sẽ sớm được gả cho anh, nhưng cha tôi lại trở mặt. Ông lừa anh lên rừng kiếm một thanh tre trăm đốt để làm sính lễ. Rồi nhân lúc anh đi, ép gả tôi cho con trai phú ông làng bên. Vô cùng đau khổ nhưng phận gái yếu đuối, tôi chẳng thể làm được gì. May sao, đúng lúc đang làm lễ cưới, anh ấy đã trở về cùng cây tre trăm đốt thần kì. Chỉ với một câu thần chú, anh đã biến một trăm đốt tre rời dính vào nhau thành cây tre cao lớn. Anh còn dùng thần chú ấy, dính liền cả cha tôi và tên địa chủ kia vào cây tre. Mãi đến khi cha tôi chịu giữ lời hứa mới dừng lại. Cũng may là cha tôi không bị thương gì cả, nên tôi mới không hề giận anh.
Sau đó, vợ chồng tôi được kết hôn với nhau và chung sống hạnh phúc. Cha tôi cũng đã xin lỗi anh vì lần lừa dối kia và anh cũng chấp nhận tha thứ. Và thế là cả gia đình tôi sống vui vẻ, hòa thuận bên nhau.
Viết bài văn đóng vai nhân vật kể lại một truyện cổ tích (Mẫu 36)
Tôi là một người nông dân hiền lành, sống tại một ngôi làng nhỏ, xa lánh xa xôi từ thị trấn. Gia đình tôi gồm ba người: tôi, vợ và đứa con trai 7 tuổi. Trước đây, cuộc sống của chúng tôi khá hạnh phúc và bình yên. Tôi và vợ làm việc cật lực trên cánh đồng để nuôi con. Vợ tôi rất yêu thương con trai và luôn dành thời gian chăm sóc, dạy dỗ cho cậu bé. Nhưng một ngày định mệnh, vợ tôi bị ốm nặng và không qua khỏi. Điều này là một cú sốc lớn với cả gia đình. Tôi phải đối diện với một cuộc sống mới, nuôi con một mình và làm việc cả nhà. Tôi và con trai cùng nhau hỗ trợ nhau vượt qua khó khăn.
Dù cuộc sống khó khăn, nhưng tôi luôn cố gắng dạy dỗ con trai tốt, truyền đạt cho cậu bé những giá trị đạo đức và lòng nhân ái. Con trai tôi thông minh và học hỏi nhanh chóng. Tôi thường kể cho cậu nghe những câu chuyện truyền thống và những bài học đời sống. Chúng tôi cùng nhau làm việc trên cánh đồng, chăm sóc những con vật nuôi, và cùng nhau nấu ăn mỗi ngày.
Cuộc sống tiếp tục trôi qua, và cậu bé lớn lên mạnh mẽ và trưởng thành. Anh ta là người luôn chăm sóc tôi, và giúp đỡ tôi trong công việc nông nghiệp. Tình thân thương giữa hai cha con càng ngày càng sâu đậm. Một hôm, khi chúng tôi đang làm việc trên cánh đồng, một viên quan từ hoàng cung tới thăm làng của chúng tôi. Viên quan hỏi chúng tôi đoán số đường trâu cày một ngày được bao nhiêu. Tôi lúng túng không biết trả lời, nhưng con trai tôi tỏ ra thông minh và đưa ra câu hỏi để thử viên quan. Viên quan không trả lời được và ngạc nhiên trước sự thông minh của cậu bé.
Nhờ sự thông minh của con trai, làng được vua ban ba con trâu đực để nuôi. Tuy nhiên, việc đưa ba con trâu đẻ thành chín con trong một năm là một thách thức lớn với làng. Nhờ cách giải quyết thông minh của con trai, chúng tôi đã hoàn thành được lệnh vua một cách thành công. Tuy cuộc sống khó khăn, nhưng con trai tôi không từ bỏ và tiếp tục học hỏi. Anh ta tự học đọc, viết và thu thập kiến thức. Tôi luôn cổ vũ và khích lệ anh ta. Cả hai chúng tôi đồng lòng chăm chỉ làm việc, tiết kiệm và dành thời gian học tập để có một tương lai tốt đẹp.
Một ngày nọ, có sứ giả của vua đến thăm làng để tìm người thông minh. Cậu bé đề xuất giải quyết một câu đố khó và thành công khiến sứ giả thán phục. Nhờ sự thông minh của con trai, chúng tôi được vinh danh và ban thưởng từ vua. Anh ta cũng được phong làm trạng nguyên và sống trong cung hoàng đạo. Cuộc sống tiếp tục đưa ra những thử thách mới, nhưng chúng tôi luôn đồng lòng vượt qua khó khăn và hạnh phúc sống bên nhau. Tình thân thương giữa cha con không chỉ giúp chúng tôi vượt qua mọi gian khó, mà còn là nguồn động lực để chúng tôi tiến lên, hướng đến tương lai tươi sáng.
Viết bài văn đóng vai nhân vật kể lại một truyện cổ tích (Mẫu 37)
Ta là Tấm, sinh ra trong gia đình khá giả và hạnh phúc. Nhưng biến cố bất ngờ ập đến khi mẹ ta không qua khỏi trong một cơn bạo bệnh, cha lại đi bước nữa cưới dì ghẻ về. Không lâu sau, cha ta cũng qua đời. Mẹ kế liền độc chiếm căn nhà, tài sản cha để lại. Hai mẹ con mẹ kế giao hết công việc nhà cho ta, khiến ta phải làm việc quần quật cả ngày như đứa ở. Dù cuộc đời trải qua nhiều biến cố, nhưng lúc nào ta cũng kiên cường, cố gắng tìm kiếm hạnh phúc cho bản thân mình.
Hai mẹ dì ghẻ đã hãm hại ta hết lần này đến lần khác. Họ lừa gạt di giỏ tôm tép của ta để dành lấy chiếc yếm đào. Họ ăn thịt người bạn cá bống đáng yêu. Họ bắt ta nhặt từng hạt đậu bị trộn lẫn để không được đi chơi hội. Tuy nhiên, ta vẫn vượt qua tất cả và đến được vũ hội, may mắn trở thành vợ của vua, nhờ có ông Bụt tốt bụng giúp đỡ.
Nhưng đâu chỉ có thế. Khi ta đã là vợ của vua, họ lại càng thâm độc hơn. Họ chặt cây cau hại ta ngã xuống ao chết, rồi lấy áo của ta vào cung vua hòng thay thế vị trí của ta. Khi ta hóa thành chim vàng anh trở về, họ ăn thịt ta, vứt lông ra vườn. Ta hóa thân thành cây xoan, thì họ chặt thân đem làm khung cửi. Rồi khung cửi cũng bị họ đốt cháy, đem tro đổ đi xa. Lần này, từ đống tro tàn, ta trở về trong hình dáng con người nương nhờ quả thị thơm. Bà lão bán nước đã đem ta về nhà, nhận ta làm con nuôi. Ngày ngày, ta têm trầu giúp bà bày bán và dọn dẹp nhà cửa. Cũng nhờ miếng trầu ấy mà nhà vua nhận ra ta và đón ta về cung.
Cuối cùng, sau bao gian truân, vất vả, ta cũng được trở về nhà và chung sống hạnh phúc cùng chồng mình. Còn hai mẹ con xấu xa kia thì bị trừng phạt thích đáng.
Viết bài văn đóng vai nhân vật kể lại một truyện cổ tích (Mẫu 38)
Tôi là cô Tấm - vợ của vua. Hiện nay, tôi đang sống một cuộc sống hạnh phúc trong cung cấm. Tuy nhiên, để có được hạnh phúc như ngày hôm nay, tôi đã phải trải qua rất nhiều vất vả.
Tôi mất mẹ từ khi còn rất nhỏ. Cha cũng bất hạnh qua đời sớm, nên tôi sống cùng với dì ghẻ và con gái bà ta là Cám. Lúc nào tôi cũng phải làm việc quần quật từ sớm đến tối để phục vụ hai mẹ con bà ấy. Một hôm, dì ghẻ treo thưởng là chiếc yếm đào xinh xắn cho người bắt được giỏ tôm tép nhiều hơn. Vì đã lâu không có quần áo mới, nên tôi thích lắm. Cả chiều, tôi cặm cụi mò cua bắt ốc nên thu được cả rổ đầy, còn Cám thì mải chơi nên chẳng có gì. Nào ngờ, Cám gian xảo lừa tôi đi gội đầu rồi cướp công. Lúc phát hiện ra thì tôi chẳng thể làm gì được nữa, đành bất lực ngồi khóc. Nghe tiếng khóc, ông Bụt hiện lên và chỉ cho tôi về chú cá bống nhỏ vẫn còn sót lại trong rổ. Thế là, tôi đem cá về nuôi trong giếng. Ngày nào, tôi cũng đem cơm ra cho cá ăn. Dù phải bớt phần cơm của mình, tôi cũng không để cá phải đói ngày nào. Bởi tôi xem cá bống như người bạn của mình. Để đảm bảo cá bống không bị ai bắt mất, tôi đã dùng một câu hát riêng để làm tín hiệu gọi cá lên. Thế mà, mẹ con dì ghẻ đã rình và học lén câu hát ấy. Rồi lừa tôi đi chăn trâu ở đồng xa để ăn thịt cá bống. Lúc tôi trở về nhà, mang cơm ra giếng thì chỉ còn một cục máu đỏ mà thôi. Đau đớn vô cùng, tôi òa khóc nức nở. Đúng lúc ấy, ông Bụt lại hiện lên, chỉ cho tôi cách để nhờ chú gà tìm xương cá bống. Sau đó, theo lời ông dặn, tôi chia xương cá vào ba cái hũ rồi cất dưới chân giường.
Ít lâu sau, nhà vua tổ chức hội lớn để tìm vợ. Ai cũng náo nức đi xem hội, riêng tôi thì bị dì ghẻ bắt ở nhà nhặt thóc ra thóc, gạo ra gạo thì mới được đi. Mà nhặt xong thì hội cũng tàn mất. May sao, ông Bụt đã gọi một đàn chim sẻ tới giúp tôi nhặt nên loáng cái đã xong xuôi. Nhưng đến lúc này, tôi lại phát hiện mình chẳng có bộ trang phục nào để đi hội cả. Bộ nào cũng cũ, cũng vá chằng vá chịt. Tuy nhiên, mọi chuyện đã nhanh chóng được giải quyết, khi ông Bụt chỉ cho tôi lấy ra bộ váy xinh và đôi giày tuyệt đẹp từ các chiếc hũ dưới chân giường.
Có váy đẹp, tôi háo hức đi xem hội. Lúc chen lấn xô đẩy, tôi lỡ làm rơi đôi hài xuống nước. Vì quá đông nên tôi chẳng thể xuống mò được. Ngờ đâu, chiếc hài đã khiến cho voi của nhà vua đứng yên một chỗ, chẳng chịu đi tiếp. Thế là ngài đã cho lính xuống tìm và nhặt được chiếc hài lên. Ngắm chiếc hài, ngài quyết định ra lệnh, ai đi vừa thì sẽ là vợ của vua. Tôi đã trở thành vợ của vua như thế đó.
Tưởng hạnh phúc đã về, nhưng sóng gió cuộc đời tôi vẫn chưa dừng lại. Sau khi vào cung làm vợ vua, tôi vẫn đau đáu nhớ về quê nhà. Năm ấy, tôi xin vua về nhà để giỗ cha. Đến nơi, tôi đã tự mình trèo lên cây cau để hái quả thờ cha. Mà ngờ đâu bị dì ghẻ chặt cây hại chết. Bà ta lấy đồ của tôi cho Cám mặc rồi đưa cô ta vào cung thay chị hầu vua. Dù vậy, vua cũng chẳng đoái hoài gì đến cô ta cả. Còn tôi, sau khi chết, đã hóa thành chim vàng anh bay vào cung bầu bạn nhà vua. Vua thích tôi lắm, đi đâu cũng mang theo. Cám ghen tức lắm, nên đã lén lút bắt tôi giết thịt, rồi đổ lông ngoài vườn. Từ đám lông ấy, tôi lại hóa thân thành cây xoan cao lớn. Trưa nào vua cũng ra mắc võng trên thân cây để nghỉ ngơi. Ả Cám xấu xa lại lần nữa sinh lòng ghen ghét. Nhân lúc vua đi vắng, ả ta chặt cây, làm thành khung cửi. Mỗi lúc ả dệt, tôi lại tạo nên tiếng cót két chửi mắng kẻ có lòng dạ xấu xa này. Sợ quá, Cám đốt cháy khung cửi, đem tro đổ đi thật xa. Nhưng từ đám tro tàn, tôi lại hồi sinh lần nữa, và lần này, tô lại trở về trong hình hài con người trong quả thị. Được bà hàng nước yêu thương, tôi ở lại làm con gái nuôi của bà, phụ bà têm trầu nấu trà mời khách. Nhờ miếng trầu têm cánh phượng ấy, mà nhà vua đã phát hiện ra tôi. Thế là vợ chồng tôi được đoàn tụ hạnh phúc. Còn Cám và dì ghẻ thì bị đuổi đi biệt xứ, không bao giờ có thể làm chuyện ác được nữa.
Sau bao khổ cực, cuối cùng tôi cũng được hưởng cuộc sống bình yên hạnh phúc. Được như vậy, là nhờ tôi vẫn luôn chăm chỉ, hiền lành không sống gian đối, độc ác như mẹ con Cám đấy.
Viết bài văn đóng vai nhân vật kể lại một truyện cổ tích (Mẫu 39)
Mỗi lần nghĩ về những chuyện đã xảy ra, tôi thầm cảm ơn ông trời đã luôn công bằng, không phụ lòng người tốt. Mọi người có ai cảm thấy tò mò về quá khứ của tôi hay không? Hãy để tôi kể cho các bạn nghe nhé!
Mùa hè năm đó, cha mẹ tôi lần lượt từ giã cõi đời. Họ để lại tôi lẻ loi giữa thế gian rộng lớn. Dù rất đau buồn, khổ sở nhưng tôi vẫn phải hướng về phía trước, tiếp tục cuộc sống. Một ngày nọ, sau khi gánh củi trở về nhà, tôi đang nghỉ ngơi thì có người đến hỏi thăm. Anh ta ngỏ lời muốn kết nghĩa anh em. Vì đã sống trong tình cảnh bơ vơ lâu ngày nên lúc nghe những lời ấy, tôi cảm thấy hạnh phúc vô cùng. Tôi nghĩ cuối cùng bản thân cũng có chốn để nương tựa, thương yêu như gia đình.
Hôm sau, tôi chuyển đến ở cùng mẹ con Lý Thông trong một căn nhà khang trang. Vào buổi nọ, lúc đang ăn cơm tối, Lý Thông nhờ vả tôi chuyện đi ngủ thay ở miếu thờ. Tôi thấy anh mình đã mở lời nhờ vả mà mình là phận làm em nên gật đầu đồng ý. Câu chuyện chưa dừng lại tại đây. Cái đêm tôi ngủ ngoài miếu, một con trăn tinh đã trườn tới tấn công. Tôi nhanh chóng cầm búa, xẻ xác nó thành hai mảnh và thu được chiếc cung vàng. Trời gần sáng, tôi thu dọn gọn ghẽ mọi thứ rồi cầm hết đồ đạc trở về nhà. Thấy tôi, mẹ con Lý Thông vô cùng bất ngờ. Tôi chẳng mảy may nghi ngờ, thành thật kể lại mọi chuyện. Nghe vậy, họ giải thích con trăn này là do vua nuôi, khuyên tôi nên trốn ngay đi. Tôi thì luôn tin tưởng người anh kết nghĩa, thật thà nghe lời. Còn hắn lại bỉ ổi, tham lam, mang cái đầu con yêu quái đến gặp nhà vua để lĩnh thưởng.
Có đợt, tôi bắn trúng vào cánh chim đại bàng và tìm được nơi ở của con vật. Sau dịp này, Lý Thông bất ngờ đến gặp, muốn nhờ tôi việc tìm cứu công chúa. Lúc ấy, tôi vẫn thật lòng, thật dạ đối xử với hắn, thấy người gặp khó khăn thì giúp đỡ. Một mình tôi trèo xuống hang đá của đại bàng, cứu thành công công chúa. Khi chuẩn bị thoát ra bên ngoài, tôi bị hắn hãm hại. Những tảng đá to lớn đã lấp kín cửa hang. Song, trong cái rủi lại có cái may, tôi còn cứu được Thái tử con vua Thủy Tề. Ra khỏi hang, tôi được mời xuống Thủy phủ chơi. Trước lúc chia tay, vua Thủy Tề đã tặng tôi một cây đàn nhỏ.
Cuộc đời càng thêm bất hạnh khi tôi bị vu vạ tội ăn cắp của cải của nhà vua. Ngồi trong ngục tù tối tăm, lạnh lẽo, tôi tiện tay gảy lên những khúc nhạc. Nhờ đó, tôi có cơ hội tâu với đức vua hết thảy mọi chuyện, công chúa cũng khỏi bệnh, vui vẻ nói cười trở lại.
Cuối cùng, tôi được nhà vua gả công chúa cho, người anh kết nghĩa Lý Thông tuy được tha tội nhưng vẫn không tránh khỏi cái chết khi bị sét đánh. Ngày vui chẳng tày gang, sau lễ kết hôn, mười tám nước chư hầu kéo quân sang đánh do bực tức chuyện công chúa từ hôn trước đó. Tôi bàn bạc với nhà vua về việc không động binh. Thay vào đó, tôi dùng tiếng đàn và tấm lòng để hóa giải mâu thuẫn.
Giờ đây, đất nước thái bình, thịnh trị, tôi đã được vua cha truyền ngôi. Mong rằng, câu chuyện mà tôi kể đây sẽ giúp các bạn hiểu hơn về sức mạnh của lòng yêu thương, nhân ái, trung thực cùng đạo lí 'ở hiền gặp lành'.
Viết bài văn đóng vai nhân vật kể lại một truyện cổ tích (Mẫu 40)
Xin chào mọi người, ta là ông Bụt - một vị thần mang nhiều phép lạ. Ngày hôm nay, ta sẽ kể cho mọi người nghe về cô Tấm - một cô gái hiền lành, dịu dàng và kiên cường.
Sớm mồ côi cha mẹ, Tấm phải sống cùng dì ghẻ và con gái của bà ta là Cám. Vậy nên, bao nhiêu việc nhà cửa, đồng áng Tấm phải làm cả. Vất vả, lam lũ quanh năm, mà cô chẳng bao giờ có tấm áo mới. Tội nghiệp vô cùng. Một hôm, mụ dì ghẻ đã sai Tấm và Cám ra ruộng mò cua bắt ốc, và treo thưởng cho người bắt được nhiều hơn là một chiếc yếm đào. Có giải thưởng, cả hai chị em kéo nhau ra ruộng ngay. Tấm cần mẫn cả chiều bắt được một giỏ đầy, còn Cám thì lười biếng nên đến gần tối giỏ vẫn còn không. Nhưng nhờ sự gian xảo, Cám đã lừa Tấm đi gội đầu kẻo bị mẹ mắng, rồi trộm hết thành quả của Tấm mang về nhận thưởng. Lúc nhìn thấy chiếc giỏ trống không, Tấm buồn bã òa khóc nức nở. Thế là ta liền hiện lên, chỉ cho cô ấy chú cá bống nhỏ còn lại trong giỏ, để mang về nhà nuôi.
Từ khi nuôi cá bống trong giếng, Tấm có thêm người bầu bạn. Ngày ngày cô mang cơm ra cho cá ăn và hát gọi cá lên. Ngờ đâu, ngay cả một con cá bà dì ghẻ cũng không tha. Bà ta lừa cô Tấm đi chăn trâu ở đồng xa rồi ở nhà bắt cá ăn thịt. Chờ Tấm trở về thì còn lại một cục máu loãng mà thôi. Mất bạn, Tấm òa khóc nức nở. Thấy thương cô quá, ta liền hiện lên, chỉ cho cô ấy cách nhờ gà đi tìm xương cá. Rồi lại dạy cho cô chia xương cá thành ba phần, cho vào ba cái hũ rồi cất dưới chân giường. Xong xuôi ta trở về nhà.
Mấy hôm sau, lần nữa ta lại nghe được tiếng khóc của Tấm. Vừa hiện lên, ta đã thấy cô ấy vừa khóc vừa cố nhặt những hạt thóc và hạt gạo đã bị trộn lẫn. Nhìn qua là ta biết ngay lại là mụ dì ghẻ bày trò. Thế là ta liền gọi chim sẻ đến giúp cô nhặt nhạnh. Xong xuôi, cô Tấm liền sửa soạn đi hội. Nhưng lúc này cô ấy mới biết mình chẳng có bộ váy áo nào cả. Ngay lập tức, ta hóa phép cho những mẩu xương trong ba cái hũ dưới chân giường thành váy áo và giày đẹp rồi bảo cô Tấm lấy ra dùng. Sửa soạn xong xuôi, cô Tấm trở nên vô cùng xinh đẹp. Sung sướng chào ta, cô liền đi hội. Chưa yên tâm, ta bí mật đi theo phía sau cô. Ngờ đâu, dọc đường cô làm rơi hài xuống nước. Thế là ta liền làm cho voi của nhà vua đứng yên ở chỗ đôi hài bị rớt. Nhà vua thấy lạ, liền cho lính đi kiểm tra và tìm được chiếc hài kia. Thấy chiếc hài, nhà vua liền ra lệnh ai đi vừa chân sẽ trở thành vợ vua. Thật không ngờ rằng, nhờ vậy mà cô Tấm trở thành hoàng hậu.
Cứ tưởng từ nay, cô ấy sẽ được hưởng hạnh phúc. Nhưng chỉ ít lâu sau cô ấy đã qua đời. Bởi khi cô đang cố trèo lên cây cau để hái quả xuống giỗ cha thì bị mụ dì ghẻ chặt cây cho ngã xuống. Mụ ta còn lấy áo quần của Tấm để cho Cám mặc rồi vào cung thay chị hầu vua. Ta tức giận vô cùng trước sự độc ác của mẹ con họ. Vì thế, ta đã quyết định sẽ giúp cô Tấm tái sinh để giành lại hạnh phúc của mình. Lần đầu tiên, cô Tấm hóa thành chim vàng anh bay vào cung vua. Được vua yêu chiều, đi đâu cũng dẫn theo nên chim bị Cám ghét lắm. Ả ta lén lút giết chim ăn thịt rồi vất lông ở ngoài vườn. Thế là Tấm tái sinh lần thứ hai thành cây xoan lớn. Nhà vua thấy cây, liền yêu thích không thôi, trưa nào cũng mắc võng nằm ngủ trên cây. Cám thấy thế, lại sinh lòng căm ghét, nhân lúc vua đi vắng liền chặt cây làm khung cửi. Chiếc khung cửi ấy là lần tái sinh thứ ba của cô Tấm. Mỗi khi Cám dệt vải, cô liền chửi mắng ả ta không ngừng khiến ả sợ lắm. Liền đốt khung cửi thành tro rồi đem đi đổ thật xa. Từ đám tro tàn, cô Tấm tái sinh lần cuối cùng. Lần này cô chính thức trở về với hình dáng của con người trong quả thị thơm. Được bà quán nước thương yêu và mong mỏi, lại thiếu tình mẹ từ nhỏ, Tấm đã đồng ý làm con gái bà. Hằng ngày, cô giúp bà têm trầu, nấu nước chè để buôn bán. Chính nhờ miếng trầu ấy, nên khi nhà vua đi ngang qua đã phát hiện ra nàng. Nhờ vậy, hai vợ chồng đoàn tụ hạnh phúc.
Nhiều người vẫn hỏi ta, tại sao không để cô Tấm tái sinh thành người ngay từ lần đầu, mà để cô trải qua nhiều khó khăn như vậy. Thì chính bởi vì việc tái sinh trở lại không phải là việc đơn giản. Ta cần phải để cô trải qua nhiều khó khăn thử thách, để kiểm tra ý chí, lòng quyết tâm của cô Tấm xem cô có xứng đáng với món quà đó không. Và cuối cùng, cô Tấm đã không làm ta thất vọng. Với tính hiền lành, chăm chỉ, thảo hiền, cô xứng đáng được sống hạnh phúc mãi mãi bên nhà vua.
Viết bài văn đóng vai nhân vật kể lại một truyện cổ tích (Mẫu 41)
Sọ Dừa là tên thật mà mẹ đã đặt cho ta hồi còn nhỏ. Có lẽ bởi ta có một hình thể không bình thường như những người khác, nên cái tên cũng khác lạ chẳng giống ai.
Nhưng ta cũng chẳng buồn phiền vì mẹ rất yêu thương ta. Một hôm, ta đang đi trông đàn bò cho nhà phú ông, có anh chàng cũng đi chăn bò lân la trò chuyện và tò mò hỏi rằng: Sọ Dừa ơi, sao cậu lại có cái tên kỳ lạ vậy, sao thân hình cậu lại tròn như thế kia?
Ta liền đáp: Có lẽ vì thân hình tớ tròn như trái dừa nên mẹ đã đặt tên cho tớ như vậy chứ sao. Người bạn tò mò nhìn ta một cách rất kì lạ, rồi một lúc sau, không hiểu sao cậu ta bỏ đi sau đó chẳng bao giờ gặp lại nữa. Bây giờ, ta cũng cảm thây buồn vì có lẽ chẳng ai muốn chơi cùng ta. Ngày ngày, ta vẫn chỉ có đàn bò làm bạn cùng cây sáo thổi véo von. Đàn bò con nào cũng ăn no căng. Thấy ta làm được việc, Phú ông cũng mừng lắm và người vui nhất có lẽ là mẹ, mẹ cảm thấy sung sướng vì đứa con của mẹ giờ đây đã giúp mẹ làm được rất nhiều việc.
Ngày mùa, nhà phú ông bận lắm, tôi tớ ra đồng làm việc nên ba cô con gái phải thay nhau đưa cơm cho ta. Hai cô chị xem ra kiêu kì, ác nghiệt thấy ta xấu xí nên thường trêu chọc, khinh thường. Chỉ có cô Út là có vẻ hiền lành, tính lại hay thương người nên đối đãi với ta rất tử tế, có thứ gì ngon, cô thường giấu đem đến cho ta. Tình cảm giữa cô với ta càng ngày càng sâu nặng khiến ta càng ngày càng cảm động.
Ta quyết định lấy nàng làm vợ. Cuối mùa ta giục mẹ đến nhà phú ông. Lúc đó mẹ vô cùng sửng sốt, nhưng thấy ta năn nỉ và quyết tâm nên cũng chiều lòng.
Khi đến nhà phú ông, ông ta cười mỉa mai và nói với mẹ ta: “Ừ được! Muốn hỏi con gái ta, hãy về sắm đủ một chĩnh vàng cốm, mười tấm lụa đào, mười con lợn béo, mười vò rượu tăm đem sang đây”.
Mẹ ta lo lắng và khuyên nhủ ta quên chuyện cưới vợ đi, nhưng ta nói với mẹ con sẽ lo đủ những thứ phú ông yêu cầu. Ta thầm nghĩ ta không phải người phàm trần nên những thứ mà phú ông yêu cầu làm đồ sính lễ thì có gì khó.
Rồi mẹ ta vô cùng ngạc nhiên, vì đúng hẹn trong nhà ta có bao nhiêu sính lễ, lại có cả chục gia nhân ở dưới nhà chạy lên khiêng lễ vật sang nhà phú ông. Phú ông hoa cả mắt, lão lúng túng nói với mẹ ta: Để ta hỏi con gái ta, xem có đứa nào ưng lấy thằng Sọ Dừa không.
Lão gọi ba cô con gái ra, hỏi lần lượt từng người một. Hai cô chị bĩu môi chê bai. Còn cô Út e lệ, cúi mặt tỏ ý bằng lòng. Phú ông đành phải nhận lễ và gả cô gái út cho ta.
Ngày cưới, trong nhà ta bày cỗ thật linh đình, gia nhân chạy ra chạy vào tấp nập khiến xóm làng vô cùng ngạc nhiên. Để cho người vợ hiền của ta không tủi hổ với thân hình kì dị của ta nên ta đã lột bỏ cái vỏ bọc, trở thành một chàng trai khôi ngô tuấn tú cùng vợ ta từ phòng cô dâu đi ra. Thấy vậy mọi người đều sửng sốt, mừng rỡ. Còn hai cô chị cứ trố mắt nhìn theo.
Cô Út là người vợ hiền thảo nên mẹ ta mừng lắm. Cuộc sống của hai vợ chồng ta rất hạnh phúc. Ngày ngày nàng kéo tơ dệt lụa còn ta thì chăm chú đèn sách chờ khoa thi.
Năm ấy ta đã đỗ trạng nguyên. Chẳng bao lâu, có chiếu nhà vua sai ta đi sứ. Để đề phòng bất trắc nên khi chia tay ta đưa cho vợ một hòn đá lửa, một con dao, hai quả trứng gà và dặn luôn phải giắt trong người, phòng khi dùng đến.
Khi ta dẹp loạn xong trở về, chiếc thuyền ta cắm cờ đuôi nheo lướt qua đảo. Thì bỗng nhiên nghe tiếng gà trống gáy. Ta liền sai quân ghé thuyền vào xem sao. Thuyền vừa cập bến ta vô cùng sửng sốt khi thấy vợ ta thân hình gầy gò, nước da trắng hồng xưa kia đen xạm lại, ta chỉ nhận ra đôi mắt của nàng. Khi thấy ta nàng ôm chầm lấy ta rồi khóc nức nở. Trên đường về, nàng kể lại toàn bộ sự việc về hai cô chị đã hại nàng, về nhà, ta giấu nàng trong buồng rồi mở tiệc ăn mừng để mời bà con đến chia vui. Hai cô chị không hay biết gì, khấp khởi mừng thầm thấy ta hai cô tranh nhau kể chuyện rằng vợ ta xấu số, rủi ro rồi khóc nức nở ra điều thương tiếc. Ta không hề nói gì. Tiệc xong ta gọi vợ ta ra. Hai người chị xấu hổ quá, lẻn ra về lúc nào không ai hay biết và bỏ đi biệt xứ. Từ đó hai vợ chồng ta sống với nhau thật hạnh phúc vô cùng.
Viết bài văn đóng vai nhân vật kể lại một truyện cổ tích (Mẫu 42)
Ta là Heng-bu - một phú ông trẻ tuổi của buôn làng. Lúc còn trẻ, ta từng rất vất vả, nhưng nhờ một sự kiện đặc biệt, mà ta đã thay đổi được cuộc đời mình.
Năm đó, sau khi cha mất, ta bị người anh trai tham lam của mình là Non-bu đuổi ra khỏi nhà. Một mình lầm lũi kiếm sống rất vất vả, nhưng ta chẳng dám oán than anh nửa lời. Mùa đông năm ấy, ta tình cờ phát hiện một chú nhạn nhỏ bị gãy cánh ngã xuống trước thềm nhà. Thương tình, ta bèn băng bó và chăm sóc cho chú ta đến ngày khỏi bệnh. Khi chân đã lành, chú ta liền bay đi tìm gia đình. Mùa xuân đến, chú ta trở về mang tặng ta một hạt bầu thân. Cây bầu lớn nhanah như thổi, cho ra nhiều trái lớn. Bổ ra bên trong toàn là vàng bạc châu báu. Nhờ số vốn đó, ta trở nên giàu có, kinh doanh thành công. Ta cũng dùng tiền của để giúp đỡ bà con trong làng nên được mọi người quý mến lắm. Nghe tin, anh trai ta liền ghé qua nhà hỏi chuyện. Sau đó, bẵng đi một thời gian, ta nghe tin anh trai ta đã bị cướp đánh bị thương rồi cướp hết gia sản trở thành ăn mày. Thì ra, để có hạt bầu thần như ta, anh ấy đã bắt một con chim nhạn và bẻ gãy cánh của nó. Rồi ép nó phải quay về trả ơn bằng hạt bầu thần. Tuy nhiên, từ hạt bầu thần đó, các quả bầu lại cho ra toàn rắn rết và những tên cướp hung tợn. Có lẽ đó chính là bài học thích đáng cho thói tham lam, độc ác của anh trai ta.
Từ câu chuyện của hai anh em mình, ta thường răn dạy con cháu rằng, chớ có tham lam, độc ác kẻo có ngày phải trả giá đắt.