Top 40 mẫu Phân tích Ai đã đặt tên cho dòng sông

Sinx.edu.vn xin giới thiệu tới các em 40 mẫu Phân tích Ai đã đặt tên cho dòng sông giúp các em làm bài văn có nhiều cách phân tích Ai đã đặt tên cho dòng sông đa dạng hơn được điểm tốt trong môn Ngữ văn.

1 69 lượt xem


Nội dung bài viết

Phân tích Ai đã đặt tên cho dòng sông

 

I) Sơ đồ tư duy phân tích Ai đã đặt tên cho dòng sông

Sơ đồ tư duy phân tích Ai đã đặt tên cho dòng sông (Mẫu 1)

Phân tích Ai đã đặt tên cho dòng sông

 

II) Dàn ý phân tích Ai đã đặt tên cho dòng sông

Dàn ý phân tích Ai đã đặt tên cho dòng sông (Mẫu 1)

1. Mở bài:

  • H.P.N.T là một trong những cây bút kí tiêu biểu của VHVN hiện đại. Với thể loại kí, H.P.N.T thể hiện trên từng trang văn vốn kiến thức uyên bác và cách viết tài hoa.
  • 'Ai đã đặt tên cho dòng sông?' là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách kí của H.P.N.T. Tác phẩm ca ngợi vẻ đẹp của sông Hương, thiên nhiên và con người xứ Huế với những trang văn 'vừa giàu chất trí tuệ, vừa giàu chất thơ, nội dung thông tin về văn hóa lịch sử rất phong phú'.

2. Thân bài:

a) Hoàn cảnh sáng tác

  • 'Ai đã đặt tên cho dòng sông?' rút từ tập bút kí cùng tên, được xuất bản năm 1984. Tập bút kí gồm tám bài viết về nhiều đề tài. Có những bài đậm chất sử thi với cảm hứng anh hùng, ca ngợi đất nước, con người VN. Có những bài thiên về miêu tả thiên nhiên, qua đó nhà văn bộc lộ lòng gắn bó với quê hương đất nước và niềm tự hào về truyền thống, văn hóa, lịch sử của dân tộc. Đặc biệt là những bài viết về Huế.
  • Trong số những bút kí đó, 'Ai đã đặt tên cho dòng sông?' là bài kí độc đáo về sông Hương. Dòng sông khơi gợi cảm hứng cho thơ ca, nhạc họa đã được H.P.N.T cảm nhận từ nhiều góc nhìn, đặc biệt là góc nhìn tâm linh, mang những nét riêng của 'văn hóa Phú Xuân'.

b) Phân tích:

*) Chất trí tuệ của một cái tôi uyên bác: Viết về sông Hương, H.P.N.T thể hiện một sự hiểu biết sâu rộng về mọi mặt: văn hóa, lịch sử, địa lí, văn học nghệ thuật... Nhà văn đã cung cấp cho người đọc một lượng thông tin đa dạng để hiểu sâu hơn về dòng sông Hương và thiên nhiên, con người Huế.

* Vẻ đẹp của sông Hương từ góc nhìn địa lí:

- Hành trình của dòng sông: với câu hỏi gợi tìm 'Ai đã đặt tên cho dòng sông?', bằng những bước chân rong ruổi, H.P.N.T đã tìm về cội nguồn và dòng chảy của sông Hương:

  • Ở thượng nguồn sông Hương mang vẻ đẹp hùng vĩ: chảy 'rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, cuộn xoáy như con lốc vào những đáy vực bí ẩn...'; 'phóng khoáng và man dại'
  • Ra khỏi đại ngàn, sông Hương chuyển dòng, giấu kín cuộc hành trình gian truân giữa lòng Trường Sơn, 'ném chìa khóa trong những hang đá dưới chân núi Kim Phụng' -> Vẻ đẹp dữ dội, hùng vĩ của sông Hương giữa rừng già ít ai biết đến.
  • Chảy qua vùng rừng núi, sông Hương trở nên dịu dàng, 'uốn mình theo những đường cong thật mềm'. 'Dòng sông mềm như tấm lụa', êm đềm trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách, chảy qua những lăng tẩm đồ sộ, chảy qua chùa Thiên Mụ và 'những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà' .

-> Sông Hương trở thành 'người mẹ phù sa' mang vẻ đẹp 'dịu dàng và trí tuệ'.

  • Giữa lòng thành phố Huế, dòng sông trở nên tĩnh lặng, trôi thật chậm, in bóng cầu Tràng Tiền xa trông nhỏ nhắn như 'những vành trăng non'.
  • Xuôi về Cồn Hến 'quanh năm mơ màng trong sương khói', hòa với màu xanh của thôn Vĩ Dạ, sông Hương mang vẻ đẹp huyền ảo, mơ màng. Và thật bất ngờ, trước khi rời khỏi kinh thành Huế, sông Hương 'đột ngột rẽ dòng... để gặp lại thành phố lần cuối'. Nhà văn dùng biện pháp nhân hóa để nội tâm hóa hình dáng của dòng sông: 'Đó là nỗi vương vấn, cả một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu' -> Biện pháp nhân hóa đã giúp tác giả thổi hồn vào dòng sông và hơn thế nữa là một phương thức để nhà văn kết nối sông Hương với con người và văn hóa của mảnh đất Châu Hóa xưa và Huế ngày nay.

- Sông Hương và thiên nhiên Huế: Lần theo dòng chảy của sông Hương, ta bắt gặp những bức tranh thiên nhiên đẹp mượt mà:

  • Thiên nhiên Huế được nhà văn tái hiện với vẻ đẹp đa dạng trong thời gian và không gian. Sông Hương phản quang vẻ đẹp biến ảo của Huế 'sớm xanh, trưa vàng, chiều tím'. Gắn liền với dòng sông, những địa danh quen thuộc: Hòn Chén, Nguyệt Biều, Vọng Cảnh, Thiên Thai dường như sống động hơn: 'sông Hương vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn', 'sắc nước trở nên xanh thẳm'...-> Sông Hương tôn tạo vẻ đẹp cho cảnh sắc thiên nhiên Huế và ngược lại dòng sông cũng hun đúc mọi sắc trời, văn hóa của vùng đất cố đô.

- Sông Hương và con người Huế:

  • Thiên nhiên và dòng sông luôn gắn bó, gần gũi với con người. Qua điệu chảy của dòng sông nhà văn thấy được tính cách con người xứ Huế: mềm mại, chí tình, 'mãi mãi chung tình với quê hương xứ xở'.
  • Qua màu sắc của trời Huế, màu sương khói trên sông Hương nhà văn thấy cách trang phục trang nhã, dịu dàng của các cô gái Huế xưa 'sắc áo cưới màu điều – lục các cô dâu trẻ vẫn mặc sau tiết sương giáng'

* Vẻ đẹp của sông Hương từ góc nhìn lịch sử:

- Từ góc nhìn lịch sử, sông Hương không còn là cô gái 'Di – gan man dại', không còn là 'người đẹp ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa' mà trở thành chứng nhân của những biến thiên lịch sử. Nhà văn ví sông Hương như 'sử thi viết giữa màu xanh cỏ lá xanh biếc' -> Sự hòa quyện giữa chất hùng tráng và trữ tình. Sông Hương là một bản anh hùng ca, đồng thời giữa đời thường sông Hương là một bản tình ca 'Còn non, còn nước, còn dài – Còn về, còn nhớ...'.

- H.P.N.T đã nhìn thấy từ dòng sông những dấu tích lịch sử; từng nhánh rẽ của dòng sông, đến 'những cây đa, cây cừa cổ thụ' cũng hàm ẩn một phần lịch sử:

  • Nhà văn đã ngược về quá khứ để khẳng định vai trò của dòng sông Hương trong lịch sử dân tộc. Từ thời đại các Vua Hùng, sông Hương là 'dòng sông biên thùy xa xôi'. Trong những thế kỉ trung đại, với tên gọi Linh Giang, nó đã 'oanh liệt bảo vệ biên giới phía nam của Tổ quốc Đại Việt'. Sông Hương gắn liền với những chiến công Nguyễn Huệ. Sông Hương đẫm máu những cuộc khởi nghĩa TK XIX. Sông Hương gắn liền với cuộc CMT8 với những chiến công rung chuyển. Và sông Hương cùng những di sản văn hóa Huế oằn mình dưới sự tàn phá của bom Mỹ... -> Chất trữ tình của tùy bút giảm đi, nhường chỗ cho chất phóng sự với những sự kiện lịch sử cụ thể.

=> Quay về quá khứ xa xưa, ngòi bút nhà văn lấp lánh niềm tự hào về lịch sử một dòng sông có cái tên mềm mại, dịu dàng nhưng kiên cường, kiêu hãnh qua thăng trầm lịch sử.

* Vẻ đẹp của sông Hương từ góc nhìn văn hóa:

Trong cảm nhận tinh tế của nhà văn, sông Hương còn hàm chứa trong bản thân nó nền văn hóa phi vật chất.

- Sông Hương - dòng sông âm nhạc:

  • Từ âm thanh của dòng sông (tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga, tiếng mái chèo khua sóng đêm khuya, tiếng nước vỗ vào mạn thuyền...) đã hình thành những làn điệu hò dân gian và nền âm nhạc cổ điển Huế. Và rồi cũng chính trên dòng sông ấy, những câu hò Huế vút lên, mênh mang, xao xuyến...
  • Viết về sông Hương, nhiều lần nhà văn đã liên tưởng đến 'Truyện Kiều' của Nguyễn Du. Đại thi hào đã từng có thời gian sống ở Huế, những trang Kiều ra đời từ mảnh đất có truyền thống nhã nhạc cung đình. Đó là cơ sở để H.P.N.T hóa thân vào một nghệ nhân già, nghe những câu thơ tả tiếng đàn của nàng Kiều, chợt nhận ra âm hưởng của âm nhạc cung đình và bật thốt lên: 'Đó chính là Tứ đại cảnh' -> Bóng dáng Nguyễn Du và những trang Kiều nhiều lần xuất hiện trong bài kí bộc lộ một khả năng liên tưởng phong phú, một vốn văn hóa sâu rộng và sự gắn kết với truyền thống, một sự đồng điệu tâm hồn nhà văn.

- Sông Hương - dòng sông thi ca:

  • H.P.N.T đã làm sống dậy những vần thơ biếc xanh của Tản Đà về xứ Huế: 'Dòng sông trắng – Lá cây xanh'. Hình ảnh thơ này cùng với câu chữ của tác giả 'màu cỏ lá xanh biếc' là minh chứng cho sự tương giao của những tâm hồn nghệ sĩ nhạy cảm với sắc biếc của thiên nhiên Huế.
  • Nhà văn cũng làm sống dậy một sông Hương hùng tráng bất tử 'như kiếm dựng trời xanh' trong thơ Cao Bá Quát, một sông Hương 'nỗi quan hoài vạn cổ' trong thơ Bà Huyện Thanh Quan...

=> Bằng vốn kiến văn phong phú, H.P.N.T đã lay động linh hồn của con sông mà tên gọi của nó đã đi vào văn chương nghệ thuật mà theo tác giả 'Dòng sông ấy không bao giờ tự lặp lại mình trong cảm hứng của các nghệ sĩ'

*) Chất thơ của một ngòi bút tài hoa:

  • Chất thơ toát ra từ những hình ảnh đẹp, từ độ nhòe mờ của hình tượng nghệ thuật: 'những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà', 'lập lòe trong đêm sương những ánh lửa thuyền chài của một linh hồn mô tê xưa cũ...' ; qua cách so sánh liên tưởng gợi cảm: 'Chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời nhỏ nhắn như những vầng trăng non'.
  • Chất thơ còn lấp lánh ở cách H.P.N.T điểm xuyết ca dao, lời thơ Tản Đà, Cao Bá Quát, Bà Huyện Thanh Quan.
  • Chất thơ còn tỏa ra từ nhan đề bài kí gợi mãi những âm vang trầm lắng của dòng sông: 'Ai đã đặt tên cho dòng sông?'

3. Kết bài:

  • Chất trí tuệ và chất thơ kết hợp hài hòa trong tác phẩm của H.P.N.T tạo nên phong cách đặc sắc của nhà văn này.
  • 'Ai đã đặt tên cho dòng sông?' không chỉ là một trong những tác phẩm hay nhất viết về sông Hương mà còn là bút kí đặc sắc vào bậc nhất của VHVN hiện đại.

 

Dàn ý phân tích Ai đã đặt tên cho dòng sông (Mẫu 2)

1. Mở bài:

Giới thiệu sơ qua về nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường và bài bút kí

– Hoàng Phủ Ngọc Tường là một người nghệ sĩ có sự am hiểu sâu rộng trên nhiều lĩnh vực và ông là một nhà văn chuyên viết về thể loại bút kí. Những tác phẩm của ông có sự kết hợp nhuần nhuyễn, tinh tế giữa chất trí tuệ và trữ tình, giữa nghị luận sắc bén và suy tư đa chiều.

– Trích trong bút kí cùng tên, “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” được hoàn thành tại Huế, tác phẩm nói lên vẻ đẹp nên thơ của dòng sông Hương và tình yêu thương, niềm tự hào của tác giả đối với thiên nhiên đất nước.

2. Thân bài

a) Hoàn cảnh sáng tác bài bút kí và ý nghĩa nhan đề.

– Bài bút ký được sáng tác tại Huế vào năm 1981.

– Đoạn trích “Ai đã đặt tên cho dòng sông” trong SGK được rút ra từ tập bút kí cùng tên, đây là tác phẩm tiêu biểu nhất cho phong cách văn chương của Hoàng Phủ Ngọc Tường, lấy nguồn cảm hứng từ dòng sông Hương thơ mộng, trữ tình của xứ Huế để từ đó nhà văn bày tỏ tình yêu quê hương đất nước con người của mình.

– Ý nghĩa nhan đề: Nhan đề là một câu hỏi, đây là một nét độc đáo rất riêng của nhà văn, nhằm hướng người đọc biết về nội dung tác phẩm đó là “đi tìm nguồn gỗ của dòng sông Hương”, qua đó nhấn mạnh đến vẻ đẹp huyền thoại của dòng sông Hương, thể hiện lòng biết ơn đến những con người khai phá vùng đất ấy.

b) Phân tích vẻ đẹp tự nhiên của dòng sông Hương

*) Vẻ đẹp của sông Hương khi nó ở thượng nguồn.

– Ngược dòng sông Hương, trở về với vùng thượng nguồn Trường Sơn, người đọc sẽ thấy ngạc nhiên đến thú vị trước những nét tính cách độc đáo của sông Hương mà nhà văn thể hiện trong tác phẩm.

  • Sông Hương – một bản trường ca rầm rộ, …mãnh liệt…cuộn xoáy => Thể hiện sức mạnh hùng vĩ, man dại của dòng sông – một nét mới mẻ đầy thú vị.
  • Sự xuất hiện của hoa đỗ quyên rừng => trong cái lạnh lẽo của khu rừng xuất hiện ngọn lửa ấm nóng khiến con sông trở lên rực rỡ, tỏa sáng.
  • Giữa lòng Trường Sơn, sông Hương …..cô gái di gan phóng khoáng và man dại……Rừng già đã hun đúc ………một tâm hồn tự do trong sáng” => so sánh dòng sông với với cô gái di gan =>Với phép nhân hóa này con sông trở thành một sinh thể có cá tính.
  •  “Ra khỏi rừng sông Hương nhanh chóng ……… người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở “. Từ cô gái hoang dã, man dại => nâng lên thành người mẹ phù xa.

– Nhận xét: Với những hình ảnh đầy độc đáo, ấn tượng kết hợp với việc sử dụng biện pháp tu từ so sánh, nhân hóa, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã gợi ra tính cách đầy “man dại “, “mãnh liệt” của sông Hương khi ở thượng nguồn. 

*) Vẻ đẹp của sông Hương khi nó ở ngoại vi thành phố Huế.

– Hương giang xuôi dòng chảy về vùng đồng bằng và ngoại vi thành phố Huế, lúc này sông Hương lại mang một vẻ đẹp khác, một nét đẹp quyến rũ, mềm mại, đằm thắm hứa hẹn những điều thú vị qua hình ảnh so sánh sông Hương với: “người con gái đẹp nằm ngủ mơ màng”.

– Dòng sông đổi dòng một cách liên tục – như đang trăn trở, băn khoăn : “sông Hương đã chuyển dòng …….. uốn mình theo những đường cong thật mềm …”, “sông Hương đi trong dư vang của Trường Sơn……… dưới chân núi Ngọc Trản…”

– Màu nước đổi màu kỳ ảo: sớm xanh, trưa vàng rồi tới chiều tím – tím Huế.

– Với tình yêu tha thiếu con sông Hương của xứ Huế và một cây bút nhất mực tài hoa, uyên bác, am hiểu văn hóa, văn học tác giả đã viết lên những câu văn như mộng về vẻ đẹp trầm mặc đáng quý của con sông Hương, như nói lên cả tính cách con sông.

  • Vẻ trầm mặc giữa những rừng thông lăng mộ.
  • Tính triết lí sử thi khi chảy trong tiếng chuông chùa Thiên Mụ

*) Sông Hương khi nó chảy vào lòng thành phố.

– Đánh giá cả đoạn văn, như câu chuyển ý: Đoạn văn này như được cảm nhận dưới con mắt nghệ thuật tài hoa của nhà văn, hội họa và âm nhạc. Sông Hương được ví như người tình thơ mộng của xứ Huế.

* Sông Hương trong cảm nhận hội họa của tác giả:

  • Sông Hương vui tươi …đông bắc” => nhà văn cảm nhận dòng sông Hương như một thực thể có linh hồn, có niềm tin, tâm trạng phấn khích khi tìm lại được chính mình.
  • Chiếc cầu trắng… của tình yêu”. => Nghệ thuật so sánh tài hoa đã miêu tả lên vẻ đẹp thanh thoát của sông Hương và cầu Tràng Tiền.
  • Câu văn “Không giống như sông Xen…yêu quý của mình” => thể hiện niềm tự hào của tác giả khi so sánh sông Hương thân yêu của xứ Huế với các con sông nổi tiếng trên thế giới.

* Sông Hương trong cảm nhận âm nhạc của tác giả:

 Sông Hương như “điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế”, dòng chảy chậm, lững lờ vì nó quá yêu thành phố của mình nên không muốn rời đi nhanh => những câu văn đậm chất âm nhạc thể hiện ở nhịp điệu êm đềm của bài bút kí.

*) Vẻ đẹp của sông Hương khi rời thành phố Huế.

– Đoạn văn “Rời khỏi kinh thành …. trấn Bao Vinh xưa cổ…”

– Đây được coi là đoạn tuyệt bút của nhà văn. Phải là người có tình yêu sâu nặng với Huế, phải là một cây bút tài hoa, uyên bác lắm thì nhà văn mới có những phát hiện thú vị như vậy. Sông Hương giống như một người tình cảm thấy bịn rịn, lưu luyến khi tạm biệt cố nhân.

Nhận xét: Nhà văn đã miêu tả dòng sông từ cả không gian và thời gian. Ở mỗi góc độ khác nhau đều thể hiện những cảm nghĩ sâu sắc mới mẻ về non sông. Từ những cái nhìn ấy, ta cảm nhận được tình cảm yêu mến thiết tha, sâu đậm, niềm tự hào và một thái độ trân trọng gìn giữ đối với vẻ đẹp tự nhiên mang đậm màu sắc văn hóa của nhà văn đối với dòng sông quê hương.

c) Sông Hương khi nhìn ở phương diện văn hóa thi ca.

– Sông Hương đã sinh thành toàn bộ nền âm nhạc cổ điển xứ Huế: “Hình như trong khoảnh khắc …mái chèo khuya”….

– Sông Hương là dòng sông của thi ca, là nguồn cảm hứng bất tận cho các nhà văn nghệ sĩ.
 

d) Sông Hương trong cái nhìn ở phương diện lịch sử dân tộc.

– Sông Hương là dòng linh giang của tổ quốc, là chứng nhân lịch sử lâu đời cho bao sự kiện thăng trầm của dân tộc.

 Sông Hương chứng kiến hết lịch sử bi tráng, hào hùng của thế kỉ XIX với máu của những cuộc khởi nghĩa và từ đó sông Hư, vang dội.

e) Ai đã đặt tên cho dòng sông?

– Câu hỏi: “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” kết thúc bài bút kí.

– Và chính bài bút kí này là trả lời cho câu hỏi ấy.

 Nhà văn bộc lộ cảm xúc và sự ngạc nhiên đầy thú vị của mình trước cái duyên thật đẹp giữa cố đô Huế và sông Hương, điều này cũng để tạo ấn tượng trong người đọc.

3. Kết bài

– Nhận xét, đánh giá nghệ thuật nổi bật trong tác phẩm: sự liên tưởng độc đáo, sử dụng từ ngữ đặc sắc giàu chất gợi tả, văn phong tao nhã, thành công trong nghệ thuật xây dựng hình tượng dòng sông Hương.

 

Dàn ý phân tích Ai đã đặt tên cho dòng sông (Mẫu 3)


1. Mở bài
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm.
- Tổng quan nội dung bút kí.
2. Thân bài
Khám phá vẻ đẹp tự nhiên của sông Hương từ góc độ địa lý: 

a) Sông Hương ở thượng nguồn:
- Sông Hương như 'bản trường ca của rừng già'. 
- Sông Hương là 'Cô gái Di - gan phóng khoáng và man dại'. 
=> Sông Hương tỏa sáng như người con gái của núi rừng, tràn đầy bản lĩnh và tinh khôi.
- 'Khi vừa ra khỏi rừng, sông Hương chảy đi như một nàng tiên, quyến rũ giữa vẻ xanh tươi'. 
- Sông Hương đi qua làng quê, phát ra âm thanh của thiên nhiên.  
- Mặt nước sông Hương như 'phản ánh vẻ đẹp của Huế qua đèn sáng vàng lung linh'.
- Trước khi rời khỏi thành phố, sông Hương như 'người con gái dừng chân trước cánh cổng, biểu tượng của tình yêu và biệt ly'. 
b) Sông Hương trong lòng thành phố Huế: 
* Gần Huế: 
- Sông Hương giống như người du khách đã quay trở lại: 
+'Hạnh phúc vô tận tràn ngập giữa cánh đồng Kim Long'. 
+'Nhìn về phía cuối đường, nơi thấy bóng cầu Nhật Bản, biểu tượng của sự hiện đại'.
- 'Chạy qua Kim Long, sông Hương quay bước chậm lại khi đi qua cồn Hến'. 
* Trong thành phố Huế:
- Sông Hương 'mênh mông như dải lụa thắm, ôm trọn thành phố Huế yêu dấu'. 
- Sông Hương 'đặt cảm xúc của mình vào lòng thành phố, làm cho nó đẹp hơn'. 
* Sông Hương chia tay Huế:
- Sông Hương ra đi giữa bức tranh xanh của tre và vườn cây cổ thụ. 
- 'Nhưng giữa lúc chia tay, sông Hương quay đầu trở lại lần cuối ở thị trấn cổ Hến'. 
Khám phá vẻ đẹp văn hóa của sông Hương từ góc độ thời gian
a) Sông Hương - dòng sông của lịch sử:
- Trong chiến tranh:
+ Sông Hương trong lịch sử là dòng sông hùng tráng với những chiến công vẻ vang nhưng cũng là nơi chứng kiến nhiều bi thương, hi sinh. 
- Trong cuộc sống hàng ngày:
+ Sông Hương là dòng sông của thời gian với những câu chuyện lịch sử, là một bức tranh thơ mộng trong mắt tác giả. 
+ Thay đổi mạnh mẽ và đẹp đẽ từ cuộc sống thường nhật đến những biến động lịch sử, sự bình dị và trân trọng. 
+ Sông Hương không chỉ mang đẹp của người Huế mà còn đẹp của người Việt Nam. 
+ Sông Hương là cô gái Huế tinh tế, lịch lãm. 
b) Sông Hương - dòng sông của thi ca:
- Dòng sông Hương là nguồn cảm hứng cho thơ ca. Đối với từng tác giả, sông Hương lại hiện ra với một diện mạo khác nhau. 
- Dòng sông đã tạo nên những bản nhạc truyền thống của đất Huế. 
3. Kết bài

- Tôn vinh giá trị văn hóa và nghệ thuật của bút kí:
+ Nội dung: Vẻ đẹp của sông Hương qua nhiều khía cạnh, cái tôi đắm chìm, sự tài năng và uyên bác của tác giả.
+ Nghệ thuật: Rất nhiều sự liên tưởng, so sánh tinh tế, lối viết uyển chuyển, sức sáng tạo không ngừng. 

 

Dàn ý phân tích Ai đã đặt tên cho dòng sông (Mẫu 4) 

1. Mở bài

*  Giới thiệu tác giả, tác phẩm:

- Hoàng Phủ Ngọc Tường (1937) là nhà văn xứ Huế, có phong cách nghệ thuật độc đáo với sở trường là tùy bút, bút kí. Ông là một trong những cây bút viết kí xuất chúng của văn học Việt Nam giai đoạn hiện đại

- Bài kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” là một trong rất nhiều tác phẩm nổi bật cho phong cách kí của tác giả. Tác phẩm ca ngợi những vẻ đẹp riêng dòng sông Hương chảy qua xứ Huế bằng góc nhìn đầy tinh tế với thiên nhiên và con người để thấy hết tầm trí tuệ với những kiến thức uyên thâm về lịch sử, văn hóa phong phú, đa dạng và cả tâm hồn đậm chất thơ. Đây là tác phẩm được rút từ tập bút kí cùng tên thể hiện cái “tôi” uyên bác trữ tình và vẻ đẹp của thiên nhiên xứ Huế.

2. Thân bài

a. Nhan đề bài kí:

- Nhan đề độc đáo, mới lạ bằng cách sử dụng câu hỏi tu từ.

- Nhấn mạnh vẻ đẹp trữ tình của sông Hương - dòng sông lịch sử, cho thấy khát vọng về cái đẹp và xây dựng cái đẹp của con người xứ Huế.

b. Vẻ đẹp sông Hương

- Dưới góc độ địa lí

+ Sông Hương ở thượng nguồn:

Nhìn từ thượng nguồn, sông Hương có mối quan hệ mật thiết với dãy Trường Sơn.

Sông Hương rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn.

Sông Hương mang dáng vẻ trữ tình hiện đại.

Sông Hương hiện ra như một cô gái Di-gan phóng khoáng, man dại.

Nghệ thuật: Động từ, tính từ gây ấn tượng mạnh, so sánh, nhân hóa táo bạo.

-> Từ đó làm toát lên vẻ đẹp kỳ vĩ: chảy “'rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn…'; 'phóng khoáng và man dại' của sông Hương.

+ Sông Hương trước khi vào kinh thành Huế

Sông Hương chuyển dòng, ẩn mình trong cuộc hành trình giữa lòng Trường Sơn, 'ém chìa khóa trong những hang đá dưới chân núi Kim Phụng'.  Trở thành người tình dịu dàng và chung thủy của cố đô.

Toàn bộ thủy trình của dòng sông như một cuộc kiếm tìm có ý thức.

Sông Hương là người con gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng châu hóa đầy hoang dại.

+ Sông Hương chảy vào thành phố Huế:

Sông Hương vui tươi hẳn lên giữa những bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long.

Dòng sông kéo một nét thẳng thực yên tâm theo hướng Tây Nam - Đông Bắc, tự uốn một cánh cung rất nhẹ nhàng sang đến Cồn Hến, dòng sông mềm mại hẳn đi như một tiếng 'vâng' không nói ra của tình yêu.

Sông Hương duy nhất thuộc về một thành phố, là niềm tự hào của xứ Huế.

Nhìn bằng con mắt hội họa, sông Hương và những chi lưu của nó tạo nên những nét cổ kính của cố đô.

Qua cách cảm nhận âm nhạc, sông Hương như một điệu 'slow' dành riêng cho xứ Huế.

-> Tác giả đã sử dụng biện pháp nhân hóa để thể hiện nội tâm hóa hình dáng dòng sông: 'Đó là nỗi vương vấn, cả một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu'. Phép nhân hóa như một biện pháp đắt giá thổi hồn vào dòng sông và hơn cả là để nhà văn có thể kết nối sông Hương với con người và văn hóa của mảnh đất Châu Hóa xưa và xứ Huế ngày hôm nay

-  Trong mối quan hệ với lịch sử

+ Với góc nhìn lịch sử, dòng sông Hương lại không còn là một cô gái 'Di gan man dại', cũng không còn là 'người đẹp ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa' mà đã trở thành một chứng nhân lịch sử với những biến chuyển lớn của non sông. Sông Hương như 'sử thi viết giữa màu xanh cỏ lá xanh biếc'.

-> Sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất hùng tráng và trữ tình. Sông Hương như một bản anh hùng ca bi tráng, còn giữa đời thường thì lại là một bản tình ca.

+ Tác giả đã nhìn thấy những dấu tích lịch sử từ dòng sông; từng nhánh sông nhỏ đến 'những cây đa, cây cừa cổ thụ' cũng chất chứa trong đó một phần của lịch sử. 

-> Chất trữ tình có đôi chút giảm đi để nhường chỗ cho chất phóng sự với những dấu ấn sự kiện lịch sử.

- Dưới góc độ văn hoá: 

+ Sông Hương – dòng sông âm nhạc:

Chính những âm thanh đặc biệt của dòng sông (tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga, tiếng mái chèo khua sóng đêm khuya, tiếng nước vỗ vào mạn thuyền…) đã hình thành nên những làn điệu hò da diết và một nền âm nhạc cổ điển đáng nhớ nơi đất Huế. Cũng chính trên dòng sông ấy, những câu hò Huế được cất lên tự nhiên nhất làm mênh mang, xao xuyến lòng người…

- Sông Hương – dòng sông thi ca:

+ Tác giả đã thổi hồn vào những vần thơ tâm đắc của Tản Đà về Huế: “Dòng sông trắng – Lá cây xanh”. Từ hình ảnh thơ trên kết hợp cùng với tâm hồn thơ của tác giả “màu cỏ lá xanh biếc” là minh chứng rõ rang nhất cho sự tương giao giữa những tâm hồn nghệ sĩ với những rung động nhạy cảm về sắc biếc đặc trưng của thiên nhiên đất Huế.

-> Bằng vốn kiến thức văn học giàu có và phong phú mà tác giả đã chạm tới linh hồn của một dòng sông mà văn chương vẫn luôn gọi tên.

3. Kết bài

Khái quát giá trị nghệ thuật và giá trị nội dung của tác phẩm

 

Dàn ý phân tích Ai đã đặt tên cho dòng sông (Mẫu 5)

1. Mở bài

  • Tác giả: là một người nghệ sĩ có vốn hiểu biết sâu rộng trên nhiều lĩnh vực, là nhà văn chuyên viết về bút kí, có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và trữ tình, giữa nghị luận sắc bén và suy tư đa chiều.
  • Trích trong bút kí cùng tên, hoàn thành tại Huế, tác phẩm thể hiện vẻ đẹp nên thơ của dòng sông Hương và tình yêu thương của tác giả đối với thiên nhiên đất nước.

2. Thân bài

Ý nghĩa nhan đề: nhấn mạnh đến vẻ đẹp huyền thoại của sông Hương, khát vọng của con người muốn đẹp cái đẹp về xây đắp cho xứ Huế, gợi lòng biết ơn đến những con người khai phá vùng đất ấy.

a) Hình tượng sông Hương

*) Dòng sông thiên nhiên

  • Ở thượng nguồn: “bản trường ca của rừng già”, “cô gái Di gan”, “người con gái của rừng già”, “người mẹ phù sa của vùng văn hóa xứ sở”
  • Từ thượng nguồn đến Huế: sông Hương như người con gái lần đầu đến với tình yêu một mặt rất e lệ, một mặt táo bạo chủ động.
  • Trong lòng Huế: như một người con gái đắm say tình tứ khi bên người mình yêu, người con gái tài hoa “tài nữ đánh đàn trong đêm khuya”.
  • Từ biệt Huế ra biển: như một người con gái lưu luyến, thủy chung từ biệt người yêu.
  • Nhận xét: tác giả chủ yếu cảm nhận vẻ đẹp sông Hương từ góc độ tình yêu khiến sông Hương hiện lên như một người con gái chung tình hết lòng vì tình yêu.

*) Dòng sông lịch sử

  • Sông Hương là một nhân chứng lịch sử của Huế, của đất nước: “soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ”, chứng kiến những mất mát đau thương của các cuộc khởi nghĩa thế kỉ XIX, ...
  • Sông Hương như một công dân có ý thức trách nhiệm sâu sắc với đất nước: “biết hiến đời mình để làm nên chiến công”, ...
  • Là một người con gái anh hùng: cùng gắn bó với Huế qua nhiều cuộc chiến đấu anh hùng trong thời kì trung đại, đến cách mạng tháng tám cũng có những chiến công vang dội, ...

*) Dòng sông văn hóa

  • Sông Hương là “người mẹ phù sa của vùng văn hóa xứ sở”: toàn bộ âm nhạc cổ điển Huế, những bản đàn theo suốt cuộc đời Kiều và bản Tứ đại cảnh đều được sinh thành trên sông nước sông Hương.
  • Là người tài nữ đánh đàn trong đêm khuya: không bao giờ lặp lại trong cảm hứng của các thi nhân
  • Nhận xét: Sông Hương chính là người con gái phóng khoáng, chung thủy trong tình yêu,anh dũng kiên cường trong lịch sử, tài hoa sáng tạo trong âm nhạc, trong văn hóa, khiêm nhường trong đời thương. Là hiện thân cho vẻ đẹp người con gái Huế.

b) Hình tượng cái tôi tác giả

  • Quan sát dòng sông trên nhiều góc độ khác nhau, miêu tả dòng sông trên nhiều phương diện.
  • Là nhà văn có những liên tưởng, so sánh, độc đáo, lối viết tài hoa, uyên bác.
  • Là cái tôi nghệ sĩ có tình yêu tha thiết, say đắm với thiên nhiên Huế và đất nước.

3. Kết bài

  • Đánh giá nghệ thuật nổi bật: liên tưởng độc đáo, sử dụng từ ngữ đặc sắc, văn phong tao nhã, thành công trong nghệ thuật xây dựng hình tượng sông Hương.
  • Qua tác phẩm ta cảm nhận được niềm tự hào tha thiết của tác giả với vẻ đẹp thiên nhiên xứ Huế cũng như đất nước. Nhà văn có lối hành văn mê đắm, súc tích

Dàn ý phân tích Ai đã đặt tên cho dòng sông (Mẫu 6)

1. Mở bài

- Giới thiệu khái quát về tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường (tiểu sử, sáng tác chính, phong cách nghệ thuật…)

- Giới thiệu về tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông? (hoàn cảnh ra đời, vị trí đoạn trích, khái quát nội dung và nghệ thuật)

2. Thân bài

a) Vẻ đẹp thiên nhiên của sông Hương

*) Vẻ đẹp của sông Hương ở thượng nguồn

- Sông Hương như “một bản trường ca của rừng già”: “rầm rộ … màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”, “rừng già đã hun đúc … tự do và trong sáng”

→ Từ ngữ tạo hình, gợi tả vẻ đẹp của sông Hương ở vùng thượng nguồn vừa hùng vĩ, man dại vừa trữ tình, say đắm lòng người

- Nhà văn đã khéo léo so sánh sông Hương với “cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại”, nhân hóa sông Hương thành một thực thể sống động, có hồn

- Hình ảnh so sánh độc đáo “Sông Hương như người mẹ phú sa của một vùng văn hóa xứ sở”

*) Sông Hương ở ngoại vi thành phố

- Sông Hương trước khi chảy vào thành phố thì “nằm giữa cánh đầu châu hóa đầy hoa dại”

- Vẻ đẹp mơ màng của sông Hương được miêu tả rất rõ nét, có những đường cong mềm mại, quanh co uốn khúc quanh cố đô Huế

- Tác giả dành một tình yêu lớn cho dòng sông. Tình yêu ấy khiến ông mơ màng nhận ra bóng dáng của dòng sông giống như tấm lụa trên có thể người thiếu nữ

*) Vẻ đẹp của sông Hương ở trung tâm thành phố

- ¬Nét đẹp của dòng sông khi chảy vào thành phố có nét khác biệt so với khu chảy ở ngoại ô

- Dòng sông trở nên vui tươi nhưng cũng rất êm dịu, như một điệu slow tình cảm của xứ Huế

- Dòng sông như người con gái tinh tế đánh đàn trong đêm khuya

b) Vẻ đẹp lịch sử và thơ ca của sông Hương

*) Dòng sông lịch sử

- Tên của dòng sông được ghi trong cuốn “Dư địa chí” của Nguyễn Trãi

- Sông Hương là một nhân chứng lịch sử của xứ Huế, của đất nước:

   + Là điểm tựa, bảo vệ biên cương thời Đại Việt

   + Thế kỉ XVIII, vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân với tên tuổi người anh hùng Nguyễn Huệ

   + Nó đọng lại đến bầm da, tím máu, “nó sống hết lịch sử bi tráng của thể kỉ XIX”

   + Nó đi vào thời đại của cuộc cách mạng tháng Tám bằng những chiến công rung chuyển

   + Nó chứng kiến cuộc tổng tiến công và nổi dậy màu xuân năm 1968

*) Vẻ đẹp của sông Hương dưới góc độ văn hóa

- Tác giả cho rằng đó là một dòng thi ca về sông hương, đó là một dòng sông không bao giờ lặp lại mình

- Tác giả gắn sông Hương với âm nhạc cổ điển Huế

c) Hình tượng cái tôi tác giả

- Quan sát dòng sông trên nhiều góc đọ khác nhau, miêu tả dòng sông trên nhiều phương diện.

- Là nhà văn có những liên tưởng, so sánh, độc đáo, lối viết tài hoa, uyên bác.

- Là cái tôi nghệ sĩ có tình yêu tha thiết, say đắm với thiên nhiên Huế và đất nước

3. Kết bài

- Khái quát lại giá trị nội dung và nghệ thuật

   + Nội dung: với những trang viết mê đắm, tài hoa, bài kí cho chúng ta cảm nhận sâu sắc vẻ đpẹ của dòng sông Hương thơ mộng, trữ tình, cái nôi của nền văn hóa Huế

   + Nghệ thuật: văn phong hướng nội, súc tích, hình ảnh giàu sức liên tưởng, ngôn ngữ phong phú, giàu chất thơ,…

- Cảm nhận về văn bản: Qua tác phẩm ta cảm nhận được niềm tự hào và tình yêu tha thiết của tác giả với vẻ đẹp thiên nhiên xứ Huế nói riêng và đất nước nói chung.

Wikipedia tiếng Việt

 

III) Các bài văn mẫu phân tích Ai đã đặt tên cho dòng sông

Phân tích Ai đã đặt tên cho dòng sông (Mẫu 1)

Hoàng Phủ Ngọc Tường là người có vốn hiểu biết phong phú, sâu rộng trên nhiều lĩnh vực văn hóa, lịch sử địa lý. Các tác phẩm của ông thường có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và trữ tình với những liên tưởng mạnh mẽ và một lối hành văn mê đắm tài hoa. Ai đã đặt tên cho dòng sông là bài kí xuất sắc nhất của ông, thể hiện đặc trưng phong cách của nhà văn tài hoa, uyên bác này.

Ngay từ nhan đề của tác phẩm đã đem đến cho người đọc sự tò mò, hứng thú. Đồng thời đó như một gợi mở về vẻ đẹp của dòng sông Hương, và huyền thoại về sông Hương.

Để làm nổi bật vẻ đẹp của dòng sông Hương, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã soi ngắm nó trên nhiều góc độ. Đầu tiên ông nhìn sông Hương trên phương diện địa lí, cảnh sắc thiên nhiên vô cùng đa dạng, quyến rũ. Sông Hương khi ở trong rừng núi Trường Sơn là bản trường ca của rừng gia thâm u, huyền bí. Đây là nơi khởi nguồn của dòng chảy, gắn liền với đại ngàn Trường Sơn hùng vĩ, con sông toát lên vẻ đẹp vừa hùng vĩ vừa trữ tình, mang một sức sống mãnh liệt. Hoàng Phủ Ngọc Tường ví dòng sông Hương như một cô gái Di-gan vô cùng quyến rũ : “sông hương đã sống một nửa cuộc đời mình như một cô gái Di-gan phóng khoáng và gan dạ”. Bằng biện pháp nhân hóa đã gợi ra vẻ đẹp hoang dại nhưng cũng rất tình tứ của dòng sông. Nhưng khi ra khỏi rừng già, dòng sông nhanh chóng mang vẻ đẹp “dịu dàng và trí tuệ”, góp phần hình thành, gìn giữ và bảo tồn văn hóa của xứ Huế. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã tỏ ra vô cùng tinh tế, uyên bác và kì công để khám phá, thấu hiểu từng vẻ đẹp của dòng sông: “dòng sông hình như không muốn bộc lộ, đã đóng kín lại ở cửa rừng và ném chìa khóa trong những hang đá dưới chân núi Kim Phụng”.

Bằng con mắt quan sát tinh tế của mình, tác giả còn nhận thấy, sông Hương như một người con gái đẹp bừng tỉnh sau một giấc ngủ dài. Trong cảm nghĩ của nhà văn, sông Hương giống như “người gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại” được “người tình mong đợi đến đánh thức”. Từ đây, thủy trình về xuôi của sông Hương giống như một cuộc tìm kiếm người tình nhân đích thực của một người gái đẹp trong câu chuyện tình yêu lãng mạn. Hành trình về xuôi của dòng sông Hương quả thực là một bức tranh đa dạng màu sắc, ở mỗi địa danh khác nhau, sông Hương lại khoác trên mình một vẻ đẹp mới lạ: khi thì như tấm lụa mềm, khi thì sắc nước xanh thăm thẳm, … “Phải chăng người con gái khi đến với người yêu không chỉ để dâng tặng tình yêu mà còn để hoàn thiện và phơi bày vẻ đẹp của mình?”.

Trong không gian kinh thành Huế cổ kính, u tịch, sông Hương tiếp tục phô diễn những vẻ đẹp khác nhau. Bắt đầu đi vào thành phố, sông Hương được ví như một người tình vui tươi và vô cùng duyên dáng. Dòng sông vui hẳn lên khi bắt gặp tiếng chuông chùa Thiên Mụ thân thuộc, đây đồng thời cũng là dấu hiệu con sông sắp đi vào thành phố. Người con gái xinh đẹp – sông Hương làm duyên, làm dáng lần cuối cùng trước khi chảy vào thành phố, về với người tình nhân đích thực của mình: uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến Cồn Hến, khiến dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng vâng không nói ra của tình yêu. Vào đến thành phố sông Hương không còn mang cái man dại, mãnh liệt như khi ở Trường Sơn mà nó như điệu slow tình cảm, chạy chậm chạp, có chăng “chỉ còn là một một hồ yên tĩnh”. Bằng vốn hiểu biết phong phú của mình, ông đã lí giải từ nhiều góc độ khác nhau, đầu tiền là do đặc điểm tự nhiên: những chi lưu ấy, cùng với hai hòn đảo nhỏ trên sông đã làm giảm hẳn lưu tốc của dòng nước, nhưng đặc biệt hơn là khi ông lí giải từ lí lẽ của trái tim thì “điệu chảy lặng lờ”“ngập ngừng muốn đi muốn ở” của sông Hương là do tình cảm dành riêng cho Huế, do quá yêu thành phố của mình, do muốn được nhìn ngắm nhiều hơn nữa thành phố thân thương trước khi phải rời xa. Khi rời thành phố sông Hương còn là một người tình chung thủy, đã đi rồi còn lưu luyến vòng quay trở lại một lần nữa.

Không chỉ nhìn sông Hương từ góc nhìn địa lý, Hoàng Phủ Ngọc Tường còn đi sâu vào lịch sử để khám phá một vẻ đẹp khác của sông Hương. Ở mỗi thời kì lịch sử, sông Hương đều có những đóng góp quang vinh với Tổ quốc. Sông Hương đã chứng kiến biết bao trận chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới phía Nam của Tổ quốc Đại Việt qua những thế kỉ trung đại theo sách Dư địa chí của Nguyễn Trãi. Là dòng sông “Vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ” vào TK XVIII. Ở thế kỉ XX, sông Hương đi vào chiến công rung chuyển thời đại với cách mạng tháng Tám lịch sử. Bằng cách đặt sông Hương vào những thời điểm lịch sử trọng đại khác nhau, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã ngầm khẳng định sự thiêng liêng, vĩ đại của dòng sông này.

Dòng sông Hương thơ, mộng, trữ tình còn là nguồn cảm hứng cho biết bao thế hệ thi sĩ. Sông Hương trước hết khơi nguồn cảm hứng âm nhạc, như một “người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”. Hình ảnh so sánh này xuất phát từ thực tế, sông Hương là sông âm nhạc, với những khúc ca Huế dịu dàng, thiết tha. Đây là nơi gặp gỡ của âm nhạc cổ điển cũng như những câu hò dân gian đều đã được sinh thành trên mặt nước sông Hương, nên nó chỉ vang lên hay nhất “trong một khoang thuyền nào đó, giữa tiếng nước rơi bán âm của những mái chèo khuya”.

Không chỉ vậy, sông Hương còn khơi dậy cảm hứng thi ca. Ở điểm này sông Hương thực sự đã trở thành nàng thơ của tâm hồn thi sĩ. Với diện mạo phong phú, khi dữ dội, man dại, khi e ấp, thướt tha, sông Hương là nguồn cảm hứng thi ca muôn đời. Mỗi người bằng khám phá riêng, bằng cảm nhận riêng lại khám phá ra những vẻ đẹp khác nhau của sông Hương: “Từ xanh biếc thường ngày, nó bỗng thay màu thực bất ngờ “dòng sông trắng- lá cây xanh” trong cái nhìn tinh tế của Tản Đà”“từ tha thướt mơ màng nó chợt nhiên hùng tráng lên như “kiếm dựng trời xanh” trong khí phách của Cao Bá Quát”

Đặc biệt, sông Hương còn được cảm nhận trong trí tưởng tượng đầy sáng tạo, tài hoa của tác giả. Qua dòng chảy của dòng sông, Hoảng Phủ Ngọc Tường còn nhận được tính cách của con người xứ Huế. Ông nhìn sông Hương như một thiếu nữ xinh đẹp và tài hoa, dịu dàng và sâu sắc, đa tình và kín đáo, lẳng lơ nhưng rất mực chung tình. Ở người thiếu nữ ấy nổi bật lên vẻ đẹp của sự nữ tính, khi là cô gai Digan phóng khoáng và man dại với bản lĩnh gan dạ, tâm hồn tự do và trong sáng, khi là một người con gái đẹp ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại, khi là người con gái dịu dàng của đất nước, khi là người mẹ phù sa của một vùng văn hoá xứ sở với một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, lúc lại là người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya... Không chỉ vậy, sông Hương còn mang vẻ đẹp đa tình, nó được ông phản ánh trong mối quan hệ với thành phố, đó là quan hệ của cặp tình nhần lý tưởng trong Truyện Kiều “tìm kiếm và đuổi bắt, hào hoa và đam mê, thi ca và âm nhạc”.

Trong bài tùy bút này sông Hương đã được đặt trong một cái nhìn tổng thể và toàn diện: địa lí, lịch sử, văn hóa … Trong các mối liên hệ ấy, sông Hương vừa tươi đẹp, vừa thơ mộng và quyến rũ trong các sắc thái thiên nhiên vừa sâu lắng trong các giá trị văn hóa, vừa phong phú đến bất ngờ trong khả năng gợi hứng thú sáng tạo cho những người nghệ sĩ, vừa kiên cường bất khuất trong thế đứng và tinh thần khi đối diện với giặc ngoại xâm… Song dường như sau tất cả những điều đó, sông Hương vẫn mãi còn những điều bí ẩn chưa được khám phá hết nên vẫn mãi gợi niềm bâng khuâng trong tâm hồn con người.

Phân tích Ai đã đặt tên cho dòng sông (Mẫu 2)

Dòng sông Hương đồng hành cùng nền văn hóa Huế đã được thể hiện rõ trong Phân tích Ai đã đặt tên cho dòng sông

Trước khi bước chân vào đất kinh thành Huế, sông Hương trở thành tình nhân trung thành, dịu dàng. Nàng sông là hình ảnh đẹp như mơ, nằm giữa cánh đồng Châu Hóa rợp hoa dại. Sông đã biến đổi bản thân, lột xác thành hình dáng mềm mại như tấm lụa, sắc màu từ xanh sớm, vàng trưa đến tím chiều, dòng chảy êm đềm. Sông Hương hiện lên như triết lý, như cô gái Di - gan. Rời khỏi vùng núi, sông Hương hồi sinh như nàng tiên trẻ trung, hăng say khám phá. Khi chạm vào thành phố Huế, sông Hương hòa mình vào vẻ đẹp xanh bất tận của Kim Long. Dòng sông mềm mại uốn cong như tiếng 'vâng' của tình yêu. Sông Hương, người tình duy nhất thuộc về thành phố, tự hào của xứ Huế, đánh thức linh hồn dân tộc với những đóng góp lịch sử, khác biệt so với những dòng sông khác như ánh lửa thuyền chài của linh hồn Mô - tê xưa cũ trong đêm sương.

Sông Hương được nhìn nhận đặc biệt trong sự khám phá của các nhà văn, mang đôi chút lẳng lơ, kín đáo của tình yêu. Bằng con mắt của hội họa, sông Hương và những nhánh sông tạo nên vẻ cổ kính của cố đô. Từ góc độ âm nhạc, sông Hương như điệu nhạc 'slow' dành cho Huế, sâu lắng, trữ tình. Với tình cảm đa dạng, sông Hương là người tình dịu dàng và trung thành, được nhìn nhận ở nhiều khía cạnh khác nhau. Dưới bàn tay của Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương trở thành hình ảnh quay về với Huế, như lời nói của người con gái đi qua nửa cuộc đời để tìm thấy tình yêu đích thực. Sông Hương làm cho Huế đẹp một cách yên bình và trầm lặng.

Sông Hương, dòng sông mang tính lịch sử quan trọng. Nó được khám phá trong 'Dư địa chí' của Nguyễn Trãi, với tên gọi Linh Giang. Sông đã chiến đấu để bảo vệ biên giới phía Nam Tổ quốc qua các thời kỳ lịch sử. Nó chứng kiến những sự kiện lịch sử đầy biến động, từ Cách mạng tháng Tám đến mùa xuân Mậu Thân 1986. Sông Hương là chứng nhận sống động của thời gian.

Không chỉ được nhìn từ góc độ địa lí, lịch sử, sông Hương còn được đánh giá từ góc độ văn hóa và thơ ca. Với cách tiếp cận âm nhạc, tác giả kết nối sông Hương với âm nhạc cổ điển Huế: “Sông Hương trở thành người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”. Hoàng Phủ Ngọc Tường thậm chí liên kết sông Hương với việc nghe hát trên dòng sông. Ông làm chứng minh rằng 'Toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế được sinh ra trên mặt nước của dòng sông này trong một khoang thuyền nào đó giữa tiếng nước rơi bán âm của những mái chèo khuya'. Từ góc độ văn hóa, nghệ sĩ tưởng tượng về đại thi hào Nguyễn Du, về Kiều: “Trong như tiếng hạc bay qua – Đục như tiếng suối mới sa nửa vời”. Sông Hương xuất hiện trong mối quan hệ với tiếng chuông chùa và tiếng nước vỗ vào mạn thuyền, tạo ra những điệu hò dân gian. Nhà văn thậm chí kết nối với truyện Kiều của Nguyễn Du, nơi có truyền thống nhã nhạc cung đình, đó là nguồn cảm hứng cho văn chương và văn hóa.

Sông Hương, mảnh đất thơ ca, luôn giữ vẻ đẹp mới mẻ qua mắt của các nhà thơ. Hoàng Phủ Ngọc Tường chạm nhẹ vào những dòng thơ xanh của Tản Đà, tô điểm bằng hình ảnh sông trắng và lá xanh biếc. Điều này chứng minh tâm hồn nhạy cảm của nhà văn. Sông Hương xuất hiện hùng tráng như 'kiếm dựng trời xanh' trong bài thơ của Cao Bá Quát, và buồn bã như niềm đau vạn cổ trong thơ Bà Huyện Thanh Quan. Đặc biệt, tác giả thấy sự kỳ diệu khi đặt sông Hương vào bối cảnh của Kiều, tạo nên một dấu ấn riêng về phong cách nghệ thuật giàu thơ mộng.

“Ai đã đặt tên cho dòng sông ?” là tác phẩm nổi bật về sông Hương của xứ Huế, thể hiện cái 'tôi' độc đáo của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Nghệ sĩ tài hoa này mô tả sông Hương ở nhiều khía cạnh, từ âm nhạc và thơ ca đến lịch sử, văn hóa. Sông Hương trở thành biểu tượng trữ tình và thơ mộng, kết nối mạch thời gian và văn hóa Huế. Cái 'tôi' uyên bác của tác giả hiện rõ qua sự sáng tạo đa ngành và sử dụng tri thức đa dạng để diễn đạt vẻ đẹp của dòng sông. Tác phẩm thể hiện tình yêu sâu sắc của tác giả đối với quê hương và nhấn mạnh cái 'tôi' nặng trĩu với xứ Huế.

Đoạn văn tả ngắn và thơ mộng về sông Hương hiện lên sắc nét qua góc độ thơ ca. Tác giả linh hoạt kết hợp kể chuyện và mô tả, sử dụng kỹ thuật nghệ thuật như nhân hóa, so sánh, ẩn dụ để tạo nên hình ảnh sống động của sông. Bằng từ ngữ phong phú và đa dạng, bài kí 'Ai đã đặt tên cho dòng sông?' truyền đạt tinh thần và tính cách của sông Hương, từ vật vô tri vô giác trở nên sống động, đầy hồn, với những biến hóa dịu dàng và mạnh mẽ.

Tùy bút “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” thể hiện lòng yêu thương sâu sắc đối với quê hương và con người Huế. Tác phẩm này chứng tỏ vốn hiểu biết rộng lớn của tác giả về văn hóa, nghệ thuật. Bài kí khẳng định thành công của Hoàng Phủ Ngọc Tường trong lĩnh vực bút kí và thể hiện cái 'tôi' cá nhân độc đáo, trữ tình. Tác giả đưa đến bài học về tình yêu thiên nhiên, quê hương, và dành toàn bộ tâm huyết để theo dõi sự thay đổi của sông Hương, đem đến những so sánh táo bạo với hình ảnh cô gái Di - gan, người mẹ phù sa, và người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya.

“Quê hương, hỡi má, ơi là gì?

Khi cô giáo truyền đạt sự yêu thương

“Quê hương, hỡi má, ơi là gì?

Người đi xa vẫn nhớ mãi, quen thuộc”

Phân tích Ai đã đặt tên cho dòng sông (Mẫu 3)

Hoàng Phủ Ngọc Tường không phải là nhà văn gốc Huế, ông vốn gốc người Quảng Trị, nhưng từ khi sinh ra ông đã ở Huế và cho đến tận cuối đời ông vẫn gắn bó với đất Huế. Có lẽ cũng chính vì thế mà nhà văn có một tình yêu và sự nghiên cứu rất sâu sắc về văn hóa, lịch sử, địa lý của xứ Huế, là cơ sở vững chắc để viết được bài tùy bút này xuất sắc đến vậy. Nhà văn luôn sáng tác với một phong cách nghệ thuật riêng biệt, tác phẩm của ông luôn mang một sức liên tưởng dồi dào và lối hành văn mê đắm, hài hòa, kết hợp nhuần nhuyễn giữa cái chất trữ tình và trí tuệ, giữa nghị luận sắc bén và niềm suy tư đa chiều. Chính những đặc điểm ấy ở nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường mà nền văn học Việt Nam mới có được những trang bút ký tuyệt vời có giá trị sâu sắc cho đến tận ngày hôm nay.

Tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông được viết vào ngày 4-1-1981, tại Huế, được in trong tập sách cùng tên, bài bút gồm có ba phần, đoạn trích chúng ta được học nằm ở phần mở đầu, chủ yếu nói về vẻ đẹp thơ mộng trữ tình của dòng Hương giang lững lỡ giữa trời Huế mộng mơ.

Hoàng Phủ Ngọc Tường viết những trang bút ký này bằng tất cả tình yêu thương cùng cảm xúc dâng trào của mình trong nỗi niềm với Huế. Hình ảnh sông Hương hiện lên như hình ảnh một cô gái Huế xinh đẹp, diễm tình, mái tóc đen dài như suối, tính cách của cô gái mang đầy màu sắc mới mẻ, có cá tính lúc mạnh lúc dịu dàng uyển chuyển.

Mở đầu, dưới sự am tường sâu sắc về địa lý, tác giả đem đến cho người đọc người nghe cái vẻ đẹp của cảnh sắc thiên nhiên đa dạng phong phú cùng sức quyến rũ của dòng sông. Sông Hương được nhìn nhận trên vẻ đẹp cảnh quan địa lý của xứ Huế và ngược lại vẻ xinh đẹp của thiên nhiên hai bên bờ sông cũng được dòng sông nâng đỡ làm nổi bật hẳn, giữa chúng là sự tương hỗ, phụ trợ cho nhau tạo nên một vẻ đẹp rất Huế, rất thơ mộng. Sông Hương chảy qua ba đoạn lớn, sông Hương chảy giữa lòng Trường Sơn, sông Hương chảy ở ngoại vi thành phố Huế, cuối cùng là sông Hương chảy qua thành phố, và chính lúc này dòng Hương Giang đã in bóng cái vẻ đẹp tuyệt mỹ của kinh thành Phú Xuân.

Sông Hương trong không gian núi rừng Trường Sơn, in bóng những vẻ đẹp mà núi rừng Trường Sơn đã tạo nên, đã góp phần hình thành nên dòng sông xinh đẹp. Và để làm rõ điều này tác giả đã đưa vào bài bút ký ba hình ảnh so sánh và nhân hóa đặc biệt ấn tượng, “sông Hương như một bản trường ca của rừng già”, một hình ảnh so sánh hết sức độc đáo mới lạ, cho thấy cái cá tính của tác giả trong việc liên tưởng rất phong phú và mạnh mẽ đậm chất Hoàng Phủ Ngọc Tường. Sông Hương mang cái chất hào hùng, dài bất tận, nằm giữa lòng Trường Sơn với bộ mặt vừa hùng vĩ vừa hùng tráng, cũng rất đỗi trữ tình. Tất cả thể trong cái nhịp chảy của nó “rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn”, “mãnh liệt qua những ghềnh thác”, “cuộn xoáy như những cơn lốc”, tác giả sử dụng những động từ mạnh để nhấn mạnh cái hùng tráng của dòng sông. Nhưng không chỉ thế dòng sông cũng chẳng kém phần thơ mộng trữ tình khi chảy qua “những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng” và giữa cái cảnh sắc ấy dòng sông lại mang những phẩm chất khác hẳn “dịu dàng và say đắm”. Cả dòng sông tồn tại như một sinh thể mang những nét tính cách đối lập nhau nhưng vẫn rất hài hòa tạo nên một vẻ đẹp đa dạng phong phú, một sức sống mãnh liệt cho dòng Hương giang.

Nhưng chưa dừng lại ở đó, tự cảm thấy vẫn chưa lột tả hết được cái vẻ đẹp, cái tính cách của dòng sông ở đoạn này, nên nhà văn dùng tiếp một hình ảnh nhân hóa đầy sáng tạo, tác giả so sánh sông Hương giống như “một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại”, giống như bộ tộc sống du mục, tự do mạnh mẽ có phần hoang dại, làm ta liên tưởng đến những cô gái với vũ khúc tình tứ, cháy bỏng, say mê lòng người. Dòng sông qua miêu tả của tác giả trở nên có cá tính và tâm hồn khoáng đạt, chính rừng già đã hun đúc cho nó một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng. Cái cá tính và tâm hồn ấy lại chính là thứ mà dòng sông muốn giấu đi và ẩn mình trong núi ngàn sâu thẳm, ngay khi ra khỏi rừng già, nó đã lập tức kết thúc phần đời hùng tráng ấy tại cửa rừng và ném chìa khóa vào lòng sâu của vực thẳm dưới núi Kim Phụng. Việc Hoàng Phủ Ngọc Tường tìm đến được vùng thượng nguồn con sông, thể hiện cái sự kỳ công, lòng khám phá không ngừng, cái sự tinh tế trong cảm nhận của nhà văn, thể hiện được quá trình lao động nghệ thuật công phu và khó nhọc của tác giả.

Ngay sau khi ra khỏi rừng già sông Hương đã vặn mình và khoác lên mình một tấm áo với nét đẹp hoàn toàn mới lạ, khiến cho chúng ta hơi ngỡ ngàng, bối rối. Tác giả so sánh vẻ đẹp của sông Hương như “người mẹ phù sa của vùng văn hóa xứ sở”, mang trong mình vẻ đẹp dịu dàng đầy trí tuệ, nuôi dưỡng những đứa con xứ Huế, bồi đắp nên nền văn hóa hai bên bờ sông cho cố đô băng dòng phù sa ngọt ngào, ấm áp. Sự lặng lẽ chảy, lặng lẽ cống hiến bồi đắp phù sa để hình thành nên nền văn hóa rực rỡ, giống như một người mẹ hiền lúc nào cũng âm thầm, hi sinh chịu đựng, tất cả vì những đứa con thân yêu, người mẹ ấy chẳng đòi hỏi gì, chỉ mong sao con mình khôn lớn, nay mai tỏa khắp phương trời. Đến đây tác giả đã thực sự thành công khi biến một dòng sông vốn vô tri vô giác, nay đã trở thành một sinh thể có cảm xúc, có cá tính, biết hi sinh như một con người thực thụ, để lại cho người đọ người nghe những ấn tượng vô cùng sâu sắc về dòng sông.

Hết phần chảy ở giữa Trường Sơn, sông Hương bắt đầu một giai đoạn mới trong cuộc đời của mình ở vùng ngoại vi kinh thành Huế, đi qua vùng Châu Hóa đầy hoa dại, hết sức lãng mạn, hết sức thi vị. Mang vẻ đẹp của “người gái đẹp”, trong cảm nhận của nhà văn cô gái ấy đang nằm ngủ mơ màng, thì người tình mong đợi đến và đánh thức. Sở dĩ tác giả có liên tưởng như vậy là bởi dòng sông khúc này nước chảy rất êm đềm. Hành trình về xuôi, hành trình chảy ra cửa biển Thuận An của sông Hương giờ đây giống như một cuộc tìm kiếm có ý thức, tìm kiếm người tình trong mộng. Thế nên đoạn chảy này được tác so sánh như cuộc tìm kiếm và đuổi bắt, hào hoa và đầy đam mê. Đây là hành trình của những người yêu nhau tìm về với nhau, là hành trình của nàng công chúa đi tìm chàng hoàng tử trong mơ. Dòng sông mang trong mình đầy đủ những sức sống mới những vóc dáng mới, chuyển dòng một cách liên tục, “vòng giữa những khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm”. Tác giả ngắm nhìn dòng sông mà tưởng tượng đến “người gái đẹp” đang phô ra những đường cong quyến rũ đầy hấp dẫn của mình, đây là dòng liên tưởng đầy sáng tạo và mạnh mẽ của nhà văn.

Sông Hương khi đi qua vùng Châu Hóa không chỉ mang vẻ đẹp mềm mại quyến rũ của người con gái mà còn mang những vẻ đẹp rất đa dạng và phong phú. “Có khi sắc nước trở nên xanh thẳm”, “mềm như tấm lụa”, một vẻ đẹp mềm mại, yên bình đến thế. Rồi dòng sông khi đi qua những ngọn đồi, mặt nước phản quang thành những mảng màu rực rỡ, “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”, thật kỳ thú và dòng Hương Giang như một bức tranh nhiệm màu, đặc sắc vô cùng. Khi sông Hương đi qua những lăng tẩm thì lại trở nên trầm mặc, cổ thi, tạo cảm giác như dòng sông Hương đang chiêm nghiệm, thành kính, suy nghĩ về lịch sử của những ông hoàng bà chúa xưa kia đã từng huy hoàng như thế nào, và rồi ông Hương bỗng bừng sáng, trẻ trung hơn hẳn khi nghe thấy âm thanh của thành phố.

Cuối cùng tác giả đem đến cảnh sông Hương nằm trong vòng tay của kinh thành Huế như người con gái đang e ấp trong vòng tay của người thương, và lúc chuẩn bị rời xa người yêu. Nhà văn thật tài tình khi sáng tác ra những hình ảnh độc đáo “chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như vành trăng non”, gợi ra một mối tình mới chớm của người con gái Huế. Rồi thì “dòng sông mềm hẳn đi như tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu”, như tấm lòng thẹn thùng, bẽn lẽn của cô gái Huế trong tình yêu đầu đời.

Tác giả so sánh sông Hương như một điệu “slow” của xứ Huế, chậm rãi, như một “mặt hồ yên tĩnh”, “điệu chảy lặng lờ của nó ngang qua thành phố… Đấy là điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế”, những câu văn mang theo âm nhạc chậm chạp hòa vào lòng người đọc, du dương, mềm mại, ý nhị, một sức liên tưởng đầy thi vị, lãng mạn. Rồi thì nhà văn lại tiếp tục có những liên tưởng mới hết sức thú vị “sông Nê-va cuốn trôi những phiến băng lô xô”, “mỗi phiến băng chở một con hải âu nghịch ngợm đứng co lên một chân, thích thú với chiếc thuyền xinh đẹp của chúng”. Tác giả muốn hóa mình thành con chim hải âu trôi nhanh ra biển trên chiếc tàu thủy tinh ấy, rồi cuối cùng chẳng kịp nói lời tạm biệt với lũ bạn trên bờ vì tàu trôi nhanh quá, thế tác giả mới thấm thía nhớ về sông Hương và “chợt thấy quý cái điệu chảy lặng lờ của nó khi đi qua thành phố”. Kiểu chảy lững lờ ấy khiến ta liên tưởng đến một cô gái, bẽn lẽn nửa muốn đi, nửa lại muốn ở, chẳng nỡ rời ra vòng tay yêu dấu của người thương, lòng đầy vấn vương. Với lối viết sinh động và sáng tạo, tác giả biến dòng Hương giang thành một “nàng thơ” vừa cá tính lại vừa e ấp, dịu dàng đắm mình trong tình yêu cùng chàng trai xứ Huế mộng mơ.

Hơn thế nữa sông Hương còn là nhân chứng cho lịch sử biết bao thăng trầm hưng thịnh của cố đô Huế “vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân”, những dấu ấn, những sự kiện không bao giờ có thể lãng quên của dân tộc Việt Nam, đều được sông Hương chứng kiến và ghi lòng tạc dạ. Sông Hương chính là biểu tượng đẹp đẽ nhất xây dựng cho Huế một hình ảnh xinh đẹp thơ mộng, suốt mấy nghìn năm văn hiến của đất nước. Một vẻ đẹp lặng lờ, ẩn sâu trong đó là nét cá tính, sông Hương đã có từ lâu nhưng nó chưa bao giờ già cỗi, nó vẫn mang trong mình nhiệt huyết yêu đương của cô gái đang độ xuân thì.

Bằng óc sáng tạo, liên tưởng tài tình, sự quan sát tỉ mỉ, tinh thế, sử am hiểu tinh tường về các kiến thức xã hội, văn hóa của xứ Huế tác giả Hoàng phủ Ngọc Tường đã cho ra đời một tá phẩm bút ký thật đặc sắc, như họa vào lòng người đọc người nghe một bức tranh Huế và sông Hương tuyệt đẹp, vẻ đẹp vừa gần gũi, lại thiêng liêng, nhưng cũng rất dịu dàng e lệ. Tất cả như hướng độc giả đến cái khao khát một lần được về thăm Huế, đứng trên cây cầy Tràng Tiền vắt ngang sông Hương mà chiêm ngưỡng dòng sông cho thỏa nỗi lòng.

Phân tích Ai đã đặt tên cho dòng sông (Mẫu 4)

   Sông Hương có lẽ là một đặc ân trời ban cho Việt Nam nói chung và cho mảnh đất xứ Huế nói riêng. Nó là sự hội tụ của văn hóa, lịch sử, truyền thống,… Bởi vậy, từ bao đời nay sông Hương đã làm say đắm biết bao thế hệ nghệ sĩ. Hoàng Phủ Ngọc tường – cây bút kí tài hoa của văn học Việt Nam cũng không thể cưỡng nổi vẻ đẹp của dòng sông này. Dưới con mắt của Hoàng Phủ Ngọc Tường, dường như mỗi chúng ta lại khám phá, phát hiện ra một vẻ đẹp thật khác, thật lạ của dòng sông này.

Ở mỗi khúc đoạn khác nhau của sông Hương bằng sự am hiểu tường tận, bằng tình cảm chân thành ông nhìn nhận sông Hương với vẻ đẹp vô cùng đa dạng, phong phú.

Trước khi về đến kinh thành Huế, sông Hương tựa như một bản trường ca dữ dội của rừng già. Sông Hương ở thượng lưu mang trong mình sự hoang dại, sức sống mãnh liệt nhưng cũng có những nét hết sức dịu dàng, đằm thắm. Bờ sông Hương, bãi sông Hương được tác giả quan sát vô cùng tinh tế, những câu văn đầy chất tạo hình, gây ấn tượng về khung cảnh dữ dội của rừng núi kết hơp sự mãnh liệt của sông Hương qua những gềnh thác “cuộn xoáy như cơn lốc”. nào ai có thể ngờ được, một dòng chảy cuộn trào như vậy lại còn có thể mang vẻ đẹp hết sức đằm thằm , đầy nhiệt huyết của một cô gái di-gan phóng khoáng. Trường liên tưởng đó của ông được gợi lên từ chính “màu đỏ của hoa đỗ quyên”. Cách liên tưởng đó vừa tinh tế, vừa chính xác, mang đến cho sông Hương một vẻ đẹp khác hẳn, rừng già đã mang đến cho sông Hương sự “bản lĩnh gan dạ, tâm hồn tự do và trong sáng”.

Cách miêu tả của ông vô cùng say đắm, ngọt ngào, mang một nét rất riêng, khắc hẳn với sự sắc sảo, tinh tế trong bút kí của Nguyễn Tuân. Ông cũng miêu tả cái dữ dội của sông nhưng nếu như sông Đà – Nguyễn Tuân đầy oán trách, đầy dữ dội, nguy hiểm, thì sông Hương lại là bản trường ca của rừng già. Cách miêu tả dòng sông luôn được đặt trong tương quan với con người, lúc hoang dại như một cô gái Di-gan, lúc lại êm đềm, sâu sắc như bà mẹ phù sà bồi đắp, nuôi dưỡng mảnh đất xứ Huế mộng mơ. Chính cái tương quan đó đã tạo nên vẻ đẹp khác biệt cho dòng sông Hương.

Trải qua biết bao thăng trầm, từ thượng nguồn về đến kinh thành Huế, rồi đổ ra biển lớn sông Hương đã phải vượt qua biết bao khúc đoạn khác nhau. Ra khỏi rừng già Trường Sơn, về đến cánh đồng Châu Hóa, sông Hương được ví như một người con gái đẹp đang nằm ngủ mơ mà, chờ đợi người tình trăm năm đến đánh thức mình dậy. Sông Hương khôn còn mang vẻ hoang dại cua người con gái Di gan mà thay vào đó là sự nên thơ, với những đường cong mềm mại hết sức nữ tính, nó như một dải lụa mềm maik “ôm lấy chân đồi Thiên Mụ”. Có được những quan sát tinh tế và chính xác như vậy, cho thấy ông là người hết sức am hiểu văn hóa, địa lí nơi đây và còn có một tình cảm đặc biệt dành cho khung cảnh và con người xứ Huế.

Từ hàng nghìn năm nay, sông Hương đã chứng kiến biết bao biến chuyển của lịch sử, có thể coi nó chính là chứng nhân lịch sử của mảnh đất này. Đây đồng thời cũng là yếu tố làm nên cốt cảnh, phẩm chất của dòng sông Hương. Dòng sông Hương uốn mình quanh những địa danh nổi tiếng, lăng tẩm của vị vua triều Nguyễn nó mang vẻ đẹp trầm mặc, như “triết lí, như cổ thi”. Trong phần này, Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng đặc biệt chú ý miêu tả màu sắc đặc biệt của sông hương. Nó không thay đổi theo mùa như sông Đà mà thay đổi theo từng thời điểm trong ngày “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”. Có bất giác chúng ta nhớ đến tâm tư của một người con gái trẻ, tâm tư cũng thay đổi tựa như màu sắc của dòng sông này vậy. “Quả thực sông Hương có được vẻ đẹp bình dị nhưng không tầm thường, trầm mặc nhưng không ủy mị, dịu dàng nhưng vẫn tiềm ẩn khí mạnh của đất đai” (Sử thi buồn).

Đẹp nhất là sông Hương khi đã vào đến kinh thành Huế. Lúc này con sông “như đã tìm đúng hướng về” nên “vui tươi hẳn”. “Giáp mặt với thành phố ở cồn Giã Viên sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ sang cồn Hến, đường con ấy làm cho dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu”. Con sông vào đến kinh thành Huế được Hoàng Phủ Ngọc Tường nhìn nhận thật nhẹ nhàng, thanh thoát, có nét gì đó bẽn lẽn, yêu kiều của người con gái mới lớn. Cách so sánh cũng rất đăc biệt và tài tình. Sông Hương vừa mang trong mình cái kín đáo lại cũng rất đỗi thâm tình, nhẹ nhàng. Khiến ta cũng bất giác nhớ đến câu thơ của Thu Bồn:

Con sông dùng dằng con sông không chảy

Con sông chảy vào long Huế rất thơ.

Dòng sông chậm chạp trôi như đang ngóng mong, đợi chờ, như đang mơ màng, suy ngẫm điều gì đó. Cảm tình quyến luyến không muốn rời đi “ngập ngừng như muốn đi muốn ở, chao nhẹ trên mặt nước như những vấn vương của nỗi lòng”. Sự dung dằng ấy cho thấy sông hương không chỉ đẹp ở cảnh sắc mà còn đẹp ở cả tâm hồn, một tâm hồn sâu nặng như chính con người nơi đây.

Trước sự chùng chình của dòng sông Hương, tác giả đã có liên tưởng hết sức độc đáo, chùng chình như “người tài nữa đánh đàn lúc đêm khuya”. Đồng thời ông thấy sự tương đồng giữa cảnh cảnh thiên nhiên Huế và cảnh sắc thiên nhiên trong truyện Kiều – Nguyễn du, đó là tiếng đàn định mệnh, day dứt và đầy chua xót.

Rời khỏi kinh thành Huế, sông Hương lưu luyến chẳng muốn rời xa, “và rồi như sực nhớ lại điều gì chưa kịp nói, nó đột ngột đổi dòng, rẽ hướng sáng hướng đông tây để gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bao Vinh xưa”. Đó chính là sự lưu luyến, dịu dàng mãi chẳng muốn dời xa của những đôi tình nhân, mà như chính tác giả cũng đã khẳng định: “nỗi vấn vương, cả một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu”. Sông Hương và kinh thành Huế chẳng phải là một cặp tình nhân đó sao?

Dưới ngòi bút tài hoa của Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương hiện lên vô cùng đẹp đẽ, hòa quyện nhiều nét đẹp khác nhau, khi mạnh mẽ , dự dỗi khi lại rất đỗi thâm trầm kín đáo. Vẻ đẹp của sông Hương cũng chính là vẻ đpẹ của con người nơi đây. Đồng thời qua bài kí này, tác giả cũng thể hiện tình yêu quê hương, đất nước sâu nặng.

Ai đã đặt tên cho dòng sông?' vào đề ...

Phân tích Ai đã đặt tên cho dòng sông (Mẫu 5)

Ai đó đã từng viết “ Đất nước có nhiều dòng sông nhưng chỉ có một dòng sông để thương, để nhớ như đời người có nhiều cuộc tình nhưng chỉ có một cuộc tình để mãi mãi mang theo”. Vâng, “một dòng sông để thương, để nhớ” của mỗi người rất khác nhau.

Nếu tên tuổi Văn Cao gắn liền với sông Lô hùng tráng; nếu Hoàng Cầm là nỗi nhớ của ta khi ngang qua “Sông Đuống trôi đi một dòng lấp lánh”; nếu Hoài Vũ mãi là nhà thơ của con sông Vàm Cỏ đêm ngày thao thiết chở phù sa, thì Hoàng Phủ Ngọc Tường đã song hành cùng sông Hương đi vào trái tim người đọc với “Ai đã đặt tên cho dòng sông?.”…Có một huyền thoại vọng về từ làng Thành Trung, một ngôi làng trồng rau thơm ở Huế: Vì yêu quý con sông xinh đẹp, người dân hai bên bờ sông Hương đã nấu nước của trăm loài hoa đổ xuống dòng sông cho làn nước xanh thắm ấy mãi mãi thơm tho.

Phải chăng đó là cách lý giải tên của Hương Giang – con sông gắn liền với Huế, gắn liền với tình yêu của Hoàng Phủ Ngọc Tường? Bút ký “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” được viết năm 1981, khi tác giả đã sống bên bờ sông Hương, sống trong lòng Huế hơn 40 năm trời, tình yêu máu thịt đối với quê hương cứ lớn lên từng ngày và nó hiện hữu ở mọi thời gian, mọi không gian.

Khi tác giả ngồi đọc truyện Kiều giữa mùa thu, trong một khu vườn xưa cổ, nơi có những loài hoa đang nở, trái cây đang chín, yên tĩnh và khoáng đạt – khu vườn tọa lạc trên vùng đất mà Nguyễn Du từng sống nên thiên nhiên của “mảnh đất Kinh- xưa” đã in bóng trong thơ Nguyễn, ngược lại sông Hương và Huế đã gợi cho tác giả hình tượng của cặp tình nhân lý tưởng: Kim- Kiều.

Chưa bao giờ tôi nhìn thấy một dòng chảy nào đáng yêu đến thế, sông Hương đến với Huế qua cái nhìn của Hoàng Phủ Ngọc Tường đã mang hình ảnh một cô gái mỹ miều đến với tình yêu. Hãy ngắm nhìn nàng trước khi gặp Huế, đó là “một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại” “bản lĩnh và gan dạ” có một tâm hồn “ tự do và trong sáng”, đó là hình ảnh “ bản trường ca của rừng già” rầm rộ và mãnh liệt nhưng cũng có lúc “dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”, nàng đã chế ngự sức mạnh bản năng của mình để đến lúc ra khỏi rừng già sẽ trở nên dịu dàng và trí tuệ. Để đến với Huế, sông Hương phải băng qua một hành trình, phải chuyển dòng liên tục, như một cuộc kiếm tìm thiết tha và rạo rực, vô vàn địa danh mà dòng nước ấy đã trôi qua Hòn Chén, Ngọc Trản, Nguyệt Biều, Lương Quán, Thiên Mụ… người con gái Di-gan ấy đã đột ngột uốn mình theo một đường cong thật mềm nhưng “vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn, vượt qua một lòng vực sâu dưới chân núi Ngọc Trản, để sắc nước trở nên xanh thẳm”, nàng vẫn còn mang một vẻ buồn trầm mặc như triết lý, như cổ thi… cho đến khi gặp được tiếng chuông Thiên Mụ, nghe âm thanh bát ngát tiếng gà, từ ấy sông Hương rạng rỡ như nắng mới, nàng uốn một cánh cung thật nhẹ, đến khi giáp mặt với thành phố, đường cong ấy làm cho nàng “mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu”- Cái phút ban đầu để đến với “người tình” của sông Hương như thế đấy! Nàng đã tự làm mới mình để hiến tặng những gì đẹp nhất cho người yêu.

Sông Hương – dòng sông thuộc về một thành phố duy nhất – đã rời cuộc sống hoang dã của rừng để đến với Huế và chỉ Huế mà thôi, nàng như “sông Xen của Paris, sông Ðanuýp của Buđapet…” chảy trong lòng thành phố yêu quý của mình nhưng khác ở chỗ nàng đẹp một cách huyền hồ như đang che khuôn mặt diễm kiều bằng tấm voan sương khói, nàng trôi lặng lẽ với nghìn ánh hoa đăng vào hội rằm tháng 7 bồng bềnh chao nhẹ trên mặt nước như vương vấn một nỗi lòng. Tôi chợt nhớ đến một câu nói “có những dòng tình cảm, rất sâu nên rất đỗi lặng lờ”, dòng chảy êm đềm của sông Hương hay chính là tình yêu sâu lắng mà nàng dâng tặng cho thành phố Huế? Vẻ đẹp của sông Hương còn là vẻ đẹp của một nền văn hóa, vẻ đẹp của người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya, toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế đã được sinh sôi trên mặt sông này và hơn thế khắp lưu vực sông còn vang vọng những điệu hò dân dã, những điệu hò thấm đẫm tấm chung tình, thấm đẫm lời thề của sông Hương trước phút chia tay với Huế mà trôi về biển cả. Nhưng chẳng phải bao giờ sông Hương cũng là người con gái đằm thắm, dịu dàng, mềm mại trong lòng Huế, đã có một thời sông Hương “mang tên là Linh Giang, dòng sông viễn châu đã chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới phía Nam” của Tổ quốc, vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân, “dòng sông của thời gian ngân vang”, của lịch sử viết giữa màu cỏ xanh, lá biếc…

Sông Hương được nhìn như một người con gái đến với tình yêu, dâng tặng những vẻ đẹp mà mình có được cho người yêu, đắm mình trong tình yêu để khám phá và hoàn thiện bản thân. Từ một dòng sông hoang dại, bí ẩn, nàng đã trở thành một sông Hương rất mực dịu dàng, rất mực tài hoa, rất mực kiên cường, rất mực hy sinh…

Cho nên, từ khi có được sông Hương, Huế – chàng Kim của nàng- cũng có nhiều thay đổi.

Từ hoang sơ với “cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại” hay kiêu hãnh âm u với những lăng tẩm đền đài đồ sộ, đã hóa thành vẻ đẹp cổ kính mà thơ mộng, khiến người con của Huế dù đến Pari, Buđapét hay Leningrad vẫn đau đáu nhớ về một thành phố với nguyên dạng đô thị cổ, trải dọc hai bờ sông. Huế càng lung linh hơn khi sông Hương chở trong lòng Huế những nét đặc thù của hội Hoa đăng, của ca Huế, man mác tiếng rơi của những mái chèo khuya. Có sông Hương, Huế trở thành biên thùy xa xôi của đất nước các vua Hùng, Huế chiến đấu oanh liệt bảo về biên giới phía Nam của Đại Việt, Huế là kinh thành của người anh hùng Nguyễn Huệ, Huế cùng sông Hương đi vào Cách mạng tháng 8 bằng những chiến công rung chuyển. Huế đã cống hiến xứng đáng cho Tổ quốc trong cuộc trường chinh máu lửa bên cạnh sông Hương – dòng sông của sử thi đã tự hiến đời mình làm một chiến công.

Tình yêu của sông Hương và Huế – một tình yêu lãng mạn và âm vang sức sống, một tình yêu như một cuộc tìm kiếm và đuổi bắt, hào hoa và đam mê, bản hợp xướng diệu kỳ giữa thi ca và âm nhạc. Tình yêu ấy được vun đắp bởi ngòi bút tài hoa của Hoàng Phủ Ngọc Tường, đứa con thân yêu của Huế, yêu Huế, yêu sông Hương, nhìn ngắm sông Hương khi gần kề để phát hiện ra dòng sông ấy “đang đổi sắc không ngừng dưới ánh nắng và mùi hương của hoa trái trong vườn”, lúc xa xôi gần nửa vòng trái đất, nhìn Nê va để sông Hương tìm về trong niềm nhớ.

Sông Hương của Hoàng Phủ Ngọc Tường không chỉ mang vẻ đẹp trời phú mà còn ánh lên vẻ đẹp của con người, những tài nữ đánh đàn, những người dân Châu Hóa lái thuyền xuôi ngược, những người con anh dũng đã hi sinh, những Nguyễn Du, những bà huyện Thanh Quan, những Tố Hữu…đã viết thơ trên dòng chảy long lanh in bóng mây trời.

Cũng như tình yêu của sông Hương với Huế, tình yêu của Hoàng Phủ Ngọc Tường với sông Hương cũng là quá trình dâng tặng, khám phá và hoàn thiện chính mình. Tuy nhiên, vì sông Hương là hóa thân của huyền thoại nên câu hỏi bâng khuâng của một người Hà Nội khi lặng lẽ ngắm nhìn dòng nước: “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” vẫn là một câu hỏi lửng lơ chưa có lời giải đáp, câu hỏi đã thành tên cho một thiên bút ký tuyệt vời…

Phân tích Ai đã đặt tên cho dòng sông (Mẫu 6)

Hoàng Phủ Ngọc Tường không phải là nhà văn gốc Huế, ông vốn gốc người Quảng Trị, nhưng từ khi sinh ra ông đã ở Huế và cho đến tận cuối đời ông vẫn gắn bó với đất Huế. Có lẽ cũng chính vì thế mà nhà văn có một tình yêu và sự tìm rất sâu sắc về văn hóa, lịch sử, địa lý của xứ Huế, là cơ sở vững chắc để viết được bài tùy bút này tuyệt đến vậy. Nhà văn luôn sáng tác với một phong cách nghệ thuật độc đáo, tác phẩm của ông luôn mang một sức liên tưởng dồi dào và lối hành văn mê đắm, hài hòa, kết hợp nhuần nhuyễn giữa cái chất trữ tình và trí tuệ, giữa nghị luận sắc bén và niềm suy tư đa chiều. Chính những đặc điểm ấy ở nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường mà nền văn học Việt Nam mới có được những trang bút ký tuyệt vời có giá trị sâu sắc cho đến tận ngày hôm nay.

Tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông được tại Huế, được in trong tập sách cùng tên, bài bút gồm có ba phần, đoạn trích chúng ta được học nằm ở phần mở đầu, chủ yếu nói về vẻ đẹp thơ mộng trữ tình của dòng Hương giang lững lỡ giữa trời Huế mộng mơ.

Hoàng Phủ Ngọc Tường viết những trang bút ký này bằng tất cả tình yêu thương cùng cảm xúc dâng trào của mình trong nỗi niềm với Huế – miền đất thơ mộng trữ tình. Hình ảnh sông Hương hiện lên như hình ảnh một cô gái Huế xinh đẹp, diễm tình, mái tóc đen dài như suối, tính cách của cô gái mang đầy màu sắc mới mẻ, có cá tính lúc mạnh lúc dịu dàng uyển chuyển.

Ngay đầu tác phẩm, dưới sự am tường sâu sắc về địa lý, tác giả đem đến cho người đọc người nghe cái vẻ đẹp của cảnh sắc thiên nhiên đa dạng phong phú và sức quyến rũ của dòng sông. Sông Hương được nhìn nhận trên vẻ đẹp cảnh quan địa lý của xứ Huế và ngược lại vẻ xinh đẹp của thiên nhiên hai bên bờ sông cũng được dòng sông nâng đỡ làm nổi bật hẳn, giữa chúng là sự tương hỗ, phụ trợ cho nhau tạo nên một vẻ đẹp rất Huế, rất thơ mộng. Sông Hương chảy qua ba đoạn lớn, sông Hương chảy giữa lòng Trường Sơn, sông Hương chảy ở ngoại vi thành phố Huế, cuối cùng là sông Hương chảy qua thành phố, và chính lúc lúc này dòng Hương Giang đã in bóng cái vẻ đẹp tuyệt mỹ của kinh thành Phú Xuân.

Sông Hương ở không gian núi rừng Trường Sơn, in bóng những vẻ đẹp mà núi rừng Trường Sơn đã tạo nên, đã góp phần hình thành nên dòng sông xinh đẹp. Và để làm rõ điều này tác giả đã đưa vào bài bút ký ba hình ảnh so sánh và nhân hóa đặc biệt ấn tượng, “sông Hương như một bản trường ca của rừng già”, một hình ảnh so sánh hết sức độc đáo mới lạ, cho thấy cái cá tính của tác giả trong việc liên tưởng rất phong phú và mạnh mẽ đậm chất Hoàng Phủ Ngọc Tường. Sông Hương mang cái chất hào hùng, dài bất tận, nằm giữa lòng Trường Sơn với bộ mặt vừa hùng vĩ vừa hùng tráng, cũng rất đỗi trữ tình. Tất cả thể trong cái nhịp chảy của nó “rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn”, “mãnh liệt qua những ghềnh thác”, “cuộn xoáy như những cơn lốc”, tác giả sử dụng những động từ mạnh để nhấn mạnh cái hùng tráng của dòng sông. Nhưng không chỉ thế dòng sông cũng chẳng kém phần thơ mộng trữ tình khi chảy qua “những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng” và giữa cái cảnh sắc ấy dòng sông lại mang những phẩm chất khác hẳn “dịu dàng và say đắm”. Cả dòng sông tồn tại như một sinh thể mang những nét tính cách đối lập nhau nhưng vẫn rất hài hòa tạo nên một vẻ đẹp đa dạng phong phú, một sức sống mãnh liệt cho dòng Hương giang.

Nhưng chưa hết, tự cảm thấy vẫn chưa lột tả hết được cái vẻ đẹp, cái tính cách của dòng sông ở đoạn này, nên nhà văn dùng tiếp một hình ảnh nhân hóa đầy sáng tạo, tác giả so sánh sông Hương giống như “một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại”, giống như bộ tộc sống du mục, tự do mạnh mẽ có phần hoang dại, làm ta liên tưởng đến những cô gái với vũ khúc tình tứ, cháy bỏng, say mê lòng người. Dòng sông qua miêu tả của tác giả trở nên có cá tính và tâm hồn khoáng đạt, chính rừng già đã hun đúc cho nó một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng. Cái cá tính và tâm hồn ấy lại chính là thứ mà dòng sông muốn giấu đi và ẩn mình trong núi ngàn sâu thẳm, ngay khi ra khỏi rừng già, nó đã lập tức kết thúc phần đời hùng tráng ấy tại cửa rừng và ném chìa khóa vào lòng sâu của vực thẳm dưới núi Kim Phụng. Việc Hoàng Phủ Ngọc Tường tìm đến được vùng thượng nguồn con sông, thể hiện cái sự kỳ công, lòng khám phá không ngừng, cái sự tinh tế trong cảm nhận của nhà văn, thể hiện được quá trình lao động nghệ thuật công phu và khó nhọc của tác giả.

Ngay sau khi ra khỏi rừng già sông Hương đã vặn mình và khoác lên mình một tấm áo với nét đẹp hoàn toàn mới lạ, khiến cho chúng ta hơi ngỡ ngàng, bối rối. Tác giả so sánh vẻ đẹp của sông Hương như “người mẹ phù sa của vùng văn hóa xứ sở”, mang trong mình vẻ đẹp dịu dàng đầy trí tuệ, nuôi dưỡng những đứa con xứ Huế, bồi đắp nên nền văn hóa hai bên bờ sông cho cố đô băng dòng phù sa ngọt ngào, ấm áp. Sự lặng lẽ chảy, lặng lẽ cống hiến bồi đắp phù sa để hình thành nên nền văn hóa rực rỡ, giống như một người mẹ hiền lúc nào cũng âm thầm, hi sinh chịu đựng, tất cả vì những đứa con thân yêu, người mẹ ấy chẳng đòi hỏi gì, chỉ mong sao con mình khôn lớn, nay mai tỏa khắp phương trời. Đến đây tác giả đã

Hết phần chảy ở giữa Trường Sơn, sông Hương bắt đầu một giai đoạn mới trong cuộc đời của mình ở vùng ngoại vi kinh thành Huế, đi qua vùng Châu Hóa đầy hoa dại, hết sức lãng mạn, hết sức thi vị. Mang vẻ đẹp của “người gái đẹp”, trong cảm nhận của nhà văn cô gái ấy đang nằm ngủ mơ màng, thì người tình mong đợi đến và đánh thức. Sở dĩ tác giả có liên tưởng như vậy là bởi dòng sông khúc này nước chảy rất êm đềm. Hành trình về xuôi, hành trình chảy ra cửa biển Thuận An của sông Hương giờ đây giống như một cuộc tìm kiếm có ý thức, tìm kiếm người tình trong mộng. Thế nên đoạn chảy này được tác so sánh như cuộc tìm kiếm và đuổi bắt, hào hoa và đầy đam mê. Đây là hành trình của những người yêu nhau tìm về với nhau, là hành trình của nàng công chúa đi tìm chàng hoàng tử trong mơ. Dòng sông mang trong mình đầy đủ những sức sống mới những vóc dáng mới, chuyển dòng một cách liên tục, “vòng giữa những khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm”. Tác giả ngắm nhìn dòng sông mà tưởng tượng đến “người gái đẹp” đang phô ra những đường cong quyến rũ đầy hấp dẫn của mình, đây là dòng liên tưởng đầy sáng tạo và mạnh mẽ của nhà văn.

Sông Hương khi đi qua vùng Châu Hóa không chỉ mang vẻ đẹp mềm mại quyến rũ của người con gái mà còn mang những vẻ đẹp rất đa dạng và phong phú. “Có khi sắc nước trở nên xanh thẳm”, “mềm như tấm lụa”, một vẻ đẹp mềm mại, yên bình đến thế. Rồi dòng sông khi đi qua những ngọn đồi, mặt nước phản quang thành những mảng màu rực rỡ, “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”, thật kỳ thú và dòng Hương Giang như một bức tranh nhiệm màu, đặc sắc vô cùng. Khi sông Hương đi qua những lăng tẩm thì lại trở nên trầm mặc, cổ thi, tạo cảm giác như dòng sông Hương đang chiêm nghiệm, thành kính, suy nghĩ về lịch sử của những ông hoàng bà chúa xưa kia đã từng huy hoàng như thế nào, và rồi ông Hương bỗng bừng sáng, trẻ trung hơn hẳn khi nghe thấy âm thanh của thành phố.

Cuối cùng tác giả đem đến cảnh sông Hương nằm trong vòng tay của kinh thành Huế như người con gái đang e ấp trong vòng tay của người thương, và lúc chuẩn bị rời xa người yêu. Nhà văn thật tài tình khi sáng tác ra những hình ảnh độc đáo “chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như vành trăng non”, gợi ra một mối tình mới chớm của người con gái Huế. Rồi thì “dòng sông mềm hẳn đi như tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu”, như tấm lòng thẹn thùng, bẽn lẽn của cô gái Huế trong tình yêu đầu đời.

Tác giả so sánh sông Hương như một điệu “slow” của xứ Huế, chậm rãi, như một “mặt hồ yên tĩnh”, “điệu chảy lặng lờ của nó ngang qua thành phố… Đấy là điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế”, những câu văn mang theo âm nhạc chậm chạp hòa vào lòng người đọc, du dương, mềm mại, ý nhị, một sức liên tưởng đầy thi vị, lãng mạn. Rồi thì nhà văn lại tiếp tục có những liên tưởng mới hết sức thú vị “sông Nê-va cuốn trôi những phiến băng lô xô”, “mỗi phiến băng chở một con hải âu nghịch ngợm đứng co lên một chân, thích thú với chiếc thuyền xinh đẹp của chúng”. Tác giả muốn hóa mình thành con chim hải âu trôi nhanh ra biển trên chiếc tàu thủy tinh ấy, rồi cuối cùng chẳng kịp nói lời tạm biệt với lũ bạn trên bờ vì tàu trôi nhanh quá, thế tác giả mới thấm thía nhớ về sông Hương và “chợt thấy quý cái điệu chảy lặng lờ của nó khi đi qua thành phố”. Kiểu chảy lững lờ ấy khiến ta liên tưởng đến một cô gái, bẽn lẽn nửa muốn đi, nửa lại muốn ở, chẳng nỡ rời xa vòng tay yêu dấu của người thương, lòng đầy vấn vương. Với lối viết sinh động và sáng tạo, tác giả biến dòng Hương giang thành một “nàng thơ” vừa cá tính lại vừa e ấp, dịu dàng đắm mình trong tình yêu cùng chàng trai xứ Huế mộng mơ.

Hơn thế nữa sông Hương còn là nhân chứng cho lịch sử biết bao thăng trầm hưng thịnh của cố đô Huế “vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân”, những dấu ấn, những sự kiện không bao giờ có thể lãng quên của dân tộc Việt Nam, đều được sông Hương chứng kiến và ghi lòng tạc dạ. Sông Hương chính là biểu tượng đẹp đẽ nhất xây dựng cho Huế một hình ảnh xinh đẹp thơ mộng, suốt mấy nghìn năm văn hiến của đất nước. Một vẻ đẹp lặng lờ, ẩn sâu trong đó là nét cá tính, sông Hương đã có từ lâu nhưng nó chưa bao giờ già cỗi, nó vẫn mang trong mình nhiệt huyết yêu đương của cô gái đang độ xuân thì.

Bằng óc sáng tạo, liên tưởng tài tình, sự quan sát tỉ mỉ, tinh thế, sự am hiểu tinh tường về các kiến thức xã hội, văn hóa của xứ Huế tác giả Hoàng phủ Ngọc Tường đã cho ra đời một tác phẩm bút ký thật đặc sắc, như họa vào lòng người đọc người nghe một bức tranh Huế và sông Hương tuyệt đẹp, vẻ đẹp vừa gần gũi, lại thiêng liêng, nhưng cũng rất dịu dàng e lệ. Tất cả như hướng độc giả đến cái khao khát một lần được về thăm Huế, đứng trên cây cầy Tràng Tiền vắt ngang sông Hương mà chiêm ngưỡng dòng sông cho thỏa nỗi lòng.

thực sự thành công khi biến một dòng sông vốn vô tri vô giác, nay đã trở thành một sinh thể có cảm xúc, có cá tính, biết hi sinh như một con người thực thụ, để lại cho người đọ người nghe những ấn tượng vô cùng sâu sắc về dòng sông.

Phân tích Ai đã đặt tên cho dòng sông (Mẫu 7)

Tác phẩm “Ai đã đặt tên cho dòng sông” là một bài bút kí nổi tiếng của tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường. Ông là một nhà văn mang nặng ân tình với xứ Huế. Tác phẩm của ông đã lột tả được hết vẻ đẹp và linh hồn của dòng sông Hương, con sông mang đậm đặc trưng và dấu ấn của xứ Huế mộng mơ

Trước hết, tác giả dẫn ta trở về với khúc sông thượng nguồn để khám phá. Trước khi về với vùng châu thổ êm đềm, sông Hương có nét đẹp hoang sơ và dữ dội. Nhà văn đã ví dòng sông như một cô gái Di-gan 'phóng khoáng và man dại'. Bởi rừng già ở thượng nguồn đã hun đúc nên bản lĩnh gan dạ cùng tâm hồn tự do, trong sáng cho dòng sông Hương.

Tới khi ra khỏi rừng già, sông Hương đã thu lại vẻ dữ dội mà chuyển mình dịu dàng, trí tuệ, mang vẻ đẹp kín đáo, lắng sâu của người con gái. Vẻ đẹp sông Hương hiện lên với hai nét tính cách: vừa phóng khoáng, man dại, vừa dịu dàng, thơ mộng, đắm say

Ra khỏi rừng, sông Hương như bừng tỉnh sau một giấc ngủ dài để hiện lên vóc dáng và sức sống mới. Nó 'chuyển dòng liên tục', 'uốn mình theo những đường cong thật mềm'. Sông Hương chảy trôi qua ngã ba Tuần, điện Hòn Chén, vấp Ngọc Trản, bãi đất Nguyệt Biều, Lương Quán rồi chuyển hướng về phía Đông Bắc, ôm lấy chân chùa Thiên Mụ và xuôi dần về Huế. Tất cả những nơi nó chảy qua đã nhuốm một vẻ đẹp 'trầm mặc như triết lí, như cổ thi' cho chính dòng sông. Và kéo dài bằng tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân vang.

Đến thành phố, sông Hương như tìm thấy chính mình. Nó 'vui tươi' hẳn lên giữa những biển bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long. Ở đoạn văn này, tác giả liên tưởng sông Hương như người con xa xứ háo hức được trở lại mảnh đất quê hương để ngắm nhìn xứ Huế từ xa và nhìn thấy chiếc cầu trắng của thành phố in trên bầu trời nhỏ nhắn như vầng trăng non. Phân tích Ai đã đặt tên cho dòng sông ta thấy cách so sánh này vừa thể hiện hình dáng độc đáo của cầu Trường Tiền, vừa gợi nét trong sáng, thanh mảnh của người con gái Huế.

Nhà văn vẫn còn ngắm nhìn sông Hương một cách đắm say ở Cồn Giã Viên để khám phá ra, sông Hương 'uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến Cồn Hến'. Đường cong ấy làm cho dòng sông mềm hẳn đi, như tiếng nói 'Vâng ạ' e ấp, ngọt ngào, kín đáo trong tình yêu. Trong khoảnh khắc trùng lai giữa lòng thành phố, sông Hương trở thành người tài nữ đánh đàn giữa đêm khuya mà cái hồn của nó đã thấm vào những trang Kiều và âm nhạc Huế.

Trước khi hòa vào biển cả, ở cửa biển Thuận An, sông Hương lại đẹp đến nao lòng trong dáng vẻ lẳng lơ, kín đáo khi ngoặt một khúc quanh rồi vươn tay lưu luyến ôm lấy lần cuối thành phố Huế thân yêu. Qua cách phân tích Ai đã đặt tên cho dòng sông, những so sánh tài hoa của tác giả giúp ta nhận ra vẻ đẹp độc đáo, sâu sắc của Hương giang giống như nàng Kiều trong đêm tình tự quyết chí đi tìm Kim Trọng để rơi một lời thề chung thủy, sắt son.

Trong hành trình khám phá vẻ đẹp sông hương từ thượng nguồn đến vùng hạ lưu, Hoàng Phủ Ngọc Tường còn khám phá ra sông Hương mang vẻ đẹp của một vùng văn hóa truyền thống. Từ góc nhìn lịch sử, tác giả điểm lại dấu ấn dòng sông trong lịch sử dân tộc: thế kỷ XV ở Dư địa chí của Nguyễn Trãi, thế kỷ XVIII qua chiến thắng của anh hùng Nguyễn Huệ, thế kỷ XIX với máu của các cuộc khởi nghĩa, đi vào thời đại của Cách mạng tháng Tám bằng những chiến công rung chuyển.

Với cái nhìn xuyên suốt ấy, dòng Hương giang thơ mộng đã tham gia, trải nghiệm cùng những bước thăng trầm của lịch sử dân tộc. Sông Hương là vậy, qua cách phân tích Ai đã đặt tên cho dòng sông ta thấy nó biết cách tự hiến đời mình làm một chiến công, để rồi nó trở về với cuộc sống bình thường, làm một người con gái dịu dàng của đất nước.

Nếu như ở đoạn một và hai, sông Hương được cảm nhận chủ yếu trên bề rộng của không gian địa lý với những liên tưởng độc đáo thì ở đoạn này, sông Hương được bố cục theo chiều sâu của lịch sử. Nó ghi dấu những chiến công, lặng khóc cho những hy sinh âm thầm, vùng lên quật khởi,... Nó giống như một tấm gương soi vào lịch sử.

Phân tích Ai đã đặt tên cho dòng sông thì thấy Sông Hương như biết bao chiến sĩ vô danh trên dải đất hình chữ S, sinh ra không phải cầm súng cầm mác nhưng kẻ thù buộc ta phải đấu tranh. Khi bình yên, họ lại trở về với cuộc sống bình thường, trở về bản tính tự nhiên muôn thuở, như sông Hương 'làm một người con gái dịu dàng của đất nước'.

Trong mối quan hệ với thi ca, sông Hương không bao giờ tự lặp lại mình trong cảm hứng của các nghệ sĩ. Có bao nhiêu người đến với sông Hương thì có bấy nhiêu lời thơ dạt dào, lai láng về dòng sông này. Từ cách phân tích Ai đã đặt tên cho dòng sông ta thấy đó là dòng sông mơ màng với nỗi quan hoài vạn cổ trong bóng chiều bảng lảng, là dòng sông 'trắng - lá cây xanh' trong cái nhìn tinh tế của Tản Đà và là dòng sông hùng tráng 'như kiếm dựng trời xanh' trong khí phách của Cao Bá Quát, là sức mạnh phục sinh của tâm hồn, trong thơ Tố Hữu,…

Kết thúc phần một của bài ký, tác giả cất lên câu hỏi không phải để hỏi nguồn gốc của một danh xưng địa lý thông thường mà là một sự nhấn mạnh, ẩn chứa niềm tự hào sâu sắc về dòng sông quê hương. Đồng thời, gợi mở cho người đọc những hướng trả lời khác nhau bằng trải nghiệm văn hóa của bản thân.

Bài tùy bút đã thể hiện một bút pháp nghệ thuật độc đáo, tài hoa và phong tình của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Tác giả đã thể hiện chất thơ quyến rũ làm say lòng người qua phân tích Ai đã đặt tên cho dòng sông. Những tri thức về địa lý, văn hóa, thi ca, âm nhạc của ông đã chung đúc thành trang văn tuyệt bút.

Phân tích Ai đã đặt tên cho dòng sông (Mẫu 8)

Nếu người Hà Nội tự hào có con sông Hồng đỏ nặng phù sa, người Huế cũng tự hào khi có dòng sông Hương thơ mộng chảy qua thành phố Huế cổ kính với những lăng tẩm, đền đài. Con sông ấy đã chứng kiến bao đổi thay của lịch sử, sự thăng trầm của cuộc sống. Dòng nước của con sông Hương ấy đã tươi mát cho cảnh vật cũng như con người nơi xứ Huế này. Vì thế, người Huế rất tự hào về con sông ấy nó mang đặc trưng của Huế là niềm tự hào kiêu hãnh của những con người xứ Huế. Có lẽ cũng vì điều đó mà sông Hương cũng đã đi vào thơ ca, nhạc họa rất trữ tình và sâu lắng. Hoàng Phủ Ngọc Tường, một người con xứ Huế đã bao lần ngắm con sông Hương rồi một lần bất chợt một lần thắc mắc, ai đã đặt tên cho con sông này là sông Hương nhỉ? Nỗi băn khoăn ấy được ông thế hiện trong tùy bút Ai đã đặt tên cho dòng sông. Bằng ngòi bút trữ tình sâu lắng, thể hiện rõ phong cách thể loại Hoàng Phủ Ngọc Tường. Tác phẩm thể hiện sự uyên bác tài hoa của chủ thể sáng tạo trong cái nhìn liên tưởng cùng với những triết luận sâu sắc về quan hệ giữa dòng sông và lịch sử, dòng sông với thi ca nhạc họa, dòng sông và người xứ Huế.

Mở đầu Hoàng Phủ Ngọc Tường đã giới thiệu sự độc đáo, đặc biệt và đầy ấn tượng của con sông Hương. Nó là con sông duy nhất của thành phố. Trước về vùng châu thổ êm đềm, con sông thơ mộng ấy đã vượt qua bao thác ghềnh cuộn xoáy. Mang tính lưỡng thể, sông Hương vừa hùng vĩ như một bản trường ca của rừng già, rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực thẳm, thế nhưng cũng có nhiều lúc dòng sông Hương trở nên dịu dàng và say đắm giữa những dặm sài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng. Màu xanh của nước sông và sắc đỏ chói lọi của hoa đỗ quên như hòa vào nhau, những bông hoa đỏ rực như đang nghiêng mình soi bóng dưới dòng nước trong xanh ấy của dòng sông, cảnh đẹp và nên thơ. Sông Hương không đơn thuần là dòng sông nữa khi được tác giả liên tưởng nó như một cô gái Di-gan phóng khoáng khi nó ở giữa lòng Trường Sơn, có lẽ rừng đã hun đúc cho nó một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng. Một sự liên tưởng độc đáo và táo bạo với cách so sánh mạnh mẽ và đầy bất ngờ. Ở đây. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã xem con sông như một nhân vật trữ tình khiến cho chúng ta cảm nhận được rằng sông Hương có sức sống mãnh liệt, hoang dại nhưng dịu dàng và say đắm. Thoát khỏi rừng già, sông Hương nhanh chóng mang một sắc đẹp dịu dàng trí tuệ, trở thành người mẹ phù sa của cả một vùng văn hóa xứ sở. Dòng chảy của sông Hương ở đầu là cuộc hành trình gian truân không kém phần kì lạ và bí mật, vì nó đã đóng kín cửa rừng và ném chìa khóa trong những hang đá dưới chân núi Kim Phượng.

Dường như có sự gặp gỡ giữa Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường, cả hai khi miêu tả con sông đều xem nó như một chủ thể trữ tình. Khi miêu tả con sông Đà. Nguyễn Tuân đã viết như oán trách... như van xin... như khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo, có lúc như tiếng của hàng ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rùng vầu rừng tre nứa đổ lửa... Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng thế, thật tài hoa khi miêu tả sông Hương đã không ngần ngại khi sử bút pháp nghệ thuật so sánh, liên tưởng, ẩn dụ và nhân hóa về vẻ đẹp lưỡng thể đầy tính nhân văn của dòng sông Hương giữa đại ngàn Trường Sơn. Tác giả đã nhắc khẽ mọi người nếu chỉ mãi ngắm nhìn khuôn mặt kinh thành sẽ không hiểu một cách đầy đủ bản chất của sông Hương với cuộc chiến tranh gian truân mà nó đã vượt qua... suy tưởng ấy đã làm cho những liên tưởng mà tác giả nêu lên thêm phần rung động thấm thìa.

Vượt qua cánh đồng Châu Hóa đầy cỏ dại, sông Hương như người con gái đang ngủ mơ màng được đánh thức bởi người tình mong đợi. Sông Hương đã chuyển dòng một cách liên tục khi vừa ra khỏi rừng. Nó như nôn nóng đi tới gặp người tình - thành phố tương lai của nó. Nó đã vòng những khúc đột ngột. Nó đã uốn mình theo những đường cong thật mềm... Con sông như được nhân hóa như đang làm duyên, đang múa lượn. Sông Hương lúc thì trôi theo hướng nam bắc theo điệu Hòn Chén, vấp phải Ngọc Trản, lúc thì chuyển sang hướng sang tây bắc vòng qua bãi Nguyệt Biểu, Lương Quán. Rồi nó đột ngột vẽ một hình cung thật tròn về phía đông bắc ôm lấy chân đồi Thiên Mụ xuôi dần về Huế. Dòng chảy của dòng sông Hương qua các địa danh ngã ba Tuần, điện Hòn Chén, Ngọc Trản, bãi Lương Biểu, Lương Quán, Vọng Cảnh, Tam Thai, Lưu Bảo... được tác giả vẽ ra, nhắc lại một cách chính xác thế kiến thức về địa lí, văn hóa tinh tường. Người đọc nhiều lúc cứ ngỡ là ông là người nhiều năm tháng đi du ngoạn ngược xuôi với con thuyền nhỏ bồng bềnh trong điệu Nam ai, Nam bình trên dòng sông Hương thơ mộng.

Ông yêu dòng sông quê mẹ, ông biết rõ dáng hình và những đường nét uốn lượn của nó. Cũng như Tố Hữu đã cảm mến thốt lên Hương Giang ơi, qua tim ta vần ngày đêm tự tình. Ông nói về sắc nước của Hương Giang là xanh thẳm dáng hình của nó mềm như tấm lụa, sự tấp nập rộn ràng của nó là những chiếc thuyền xuôi ngược chỉ bé bằng những con thoi. Ông say mê thưởng thức gương sông lấp lánh sớm xanh trưa vàng, chiều tím dưới ánh phản quang nhiều màu sắc trên nền trời Tây Nam thành Huế.

Giữa đám quần sơn lô xô, giữa những lăng tẩm đồ sộ của vua chúa nhà Nguyễn giừa những rừng thông u tịch, sông Hương mang vẻ đẹp trầm mặc, như triết lí, như cổ thi... tác giả nhắc lại một vần thơ cổ, thật đắc địa gợi lên không khí, khung cảnh u tịch và trầm mặc của những rừng thông, của dòng sông, những thành quách và những đồi núi lô xô ở đây. Ai đã từng một lần đến thăm thú Khiêm Lãng (lăng vua Tự Đức) mới cảm nhận được cái đẹp của cảnh vật mà tác giả nói đến:

   'Bốn bề núi phủ mây phong

   Mảnh trăng thiên cổ, bóng tùng vạn niên'

Sắp đến thành phố mến thương, mặt nước con sông Hương trở nên mơ màng, phẳng lặng trong tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga, giữa bát ngát tiếng gà của những xóm làng.

Một lần nữa ta được thưởng thức một đoạn tùy bút mà chất thơ lai láng, bồi hồi. Những liên tưởng và suy tưởng, những so sánh và nhân hóa, những kiến thức về địa lí, về văn hóa về thi ca được tác giả vận dụng tài hoa khi nói về vẻ đẹp quyến rũ của sông Hương đoạn từ ngã ba Tuần đến chân đồi Thiên Mụ Đến vùng ngoại ô Kim Long, giữa những bãi biển xanh biếc, sông Hươu vui tươi hẳn lên khi nó nhìn thấy chiếc cầu trắng của thành phổ in ngần trên bầu trời, nhỏ nhắn như những vành trăng non. Cồn Giã Viên và cồn Hến ở đầu và cuối thành phố như hai cù lao xanh đã làm cho dòng Hương uốn co mềm hẳn đi như một tiếng vâng không nói ra của tình yêu. Tác giả liên tưởng đến sông Xen của Pa-ri, sông Đa-núp của Bu-đa-pét, để nói lên vẻ độc đáo sông Hương là nó nằm ngay giữa lòng thành phố yêu quý của mình, nó đà cho Huế trong tổng thể vẫn giữ nguyên dạng một đô thị cổ, trải dọc hai sông. Những nhánh sông đào mang nước Hương Giang tỏa đi khắp đô thị, những cây đa, cây dừa cố thụ, những ánh lứa chài lập lòe nơi xóm thuyền xúm xít trong đêm sương... đã làm cho cố đô Huế tựa như một linh hồn mô tê xưa mà không một thành phô hiện đại nào còn nhìn thấy được.

Lần thứ hai, Hoàng Phủ Ngọc Tường liên tưởng so sánh về lưu tốc của sông Nê-va nơi thành phố Lê-nin-grat nước Nga với sông Hương. Hình ảnh chim hải âu co một chân đậu trên chiếc thuyền băng lướt qua cung điện Pê-téc-bua như một khám phá nhiều ngộ nghĩnh. Tác giả mơ ước được hóa một con chim nhỏ co một chân trên con tàu thủy tinh để đi ra biển. Con sông Hương khi gặp kinh thành xưa, hai hòn đảo Giã Viên và cồn Hến đã làm nó trôi đi chậm, thực chậm, cơ hồ chỉ còn là một mặt hồ yên tĩnh.

Nhìn những dòng sông, những dòng nước chảy, tác giả nhắc lại tiếng khóc của nhà triết học Hi Lạp hơn hai ngàn năm về trước để nêu lên suy nghĩ dòng chảy của cuộc đời, về sự biến chuyển không ngừng của vạn vật. Rồi ông lại nghĩ về điệu chảy lặng lờ của sông Hương, quý trọng coi đó là điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế. Hình ảnh hàng trăm nghìn ánh hoa đăng bồng bềnh vào những đêm hội răm tháng Bảy từ điện Hòn Chén trôi về và sự ngập ngừng như muốn đi muốn ở, chao nhẹ trên mặt nước như những vấn vương của nỗi lòng đã nói lên thật thơ vẻ mộng mơ của sông Hương - bài thơ trữ tình của cố đô Huế.

Sự ngập ngừng vấn vương ấy là vẻ đẹp của Hương Giang mà nhiều nhà thơ đã cảm nhận, trong đớ Thu Bồn đã có lần rung cảm.

Con sông dùng dằng, con sông không chảy Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu.

Hoàng Phủ Ngọc Tường đã gieo chữ lên những vườn hoa, những cánh đồng màu mỡ trong đó mỗi so sánh, nhân hóa và liên tưởng về dòng sông Hương đi qua Huế tựa như hoa thơm trái ngọt đã thể hiện một bút lực và tầm cao trí tuệ của nhà văn sở trường về bút kí, tùy bút. Ông dã dành cho sông Hương cả một tấm lòng yêu mến và quý trọng đặc biệt.

Đoạn nói về sông Hương rời khỏi kinh thành ra đi được Hoàng Phủ Ngọc Tường diễn tả bằng một ngòi bút nghệ thuật rất đỗi hào hoa phong tình. Ông đã nhân hóa sông Hương thành một người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya, họ biết nhạc cổ điển Huế đã được sinh thành trên mặt nước Hương Giang. Ông cho hay, thi hào Nguyễn Du đã từng ôm ấp một phiến trăng sầu trong bao năm lênh đênh trên dòng sông Hương. Một nghệ nhân già, chơi đàn hết nửa thế kỉ đã chỉ đích danh hai câu thơ Trong như tiếng hạc bay qua - Đục như tiếng suối mới sa nửa vời mang điệu nhạc cung đình Tứ đại cảnh. Hương rời khỏi kinh thành lưu luyến ra đi giữa màu xanh biếc của tre trúc và của những vườn cau vùng ngoại ô Vĩ Dạ, rồi nó lại đổi dòng đột ngột gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bảo Vinh xưa cổ như sực nhớ lại một điều gì chưa kịp nói, phải chăng khúc lượn này, sông Hương có cái gì rất lạ với tự nhiên và rất giống con người. Tác giả cho rằng đó là nỗi vương vấn, cả một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu. Và ông đã so sánh sông Hương với nàng Kiều trong đêm trình tự, ông dẫn buông hai câu thơ của Nguyễn Du để nói sự lưu luyến chí tình với lời thề trước khi về biển cả. Thật không có sự so sanh nào hay hơn khi nói về con sông mang tình người, tình son sắt thủy chung của lứa đôi còn non, còn nước, còn dài - Còn về, còn nhớ... lời thề của lứa đôi, lời thề của dòng sông đã trở thành giọng hò dân gian của xứ Huế. Sâu xa hơn nữa, lời thề ấy là tấm lòng người dân Châu Hóa xưa mãi mãi chung tình với quê hương xứ sở thân thương.

Đến với Huế mộng mơ là đến với sông Hương, đến với tiếng chuông chùa Thiên Mụ đến với tiếng gà Bao Vinh, là đến với lăng tẩm đế vương, đến với con người thủy chung trọn tình trọn nghĩa, là đến với lời ca điệu hò gian dịu ngọt

Tác giả bài tùy bút Ai đã đặt tên cho dòng sông? Đã nói hộ lòng ta những tình cảm sâu sắc tốt đẹp ấy.

Bài tùy bút đã thể hiện một bút pháp nghệ thuật độc đáo, tài hoa và phong tình của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Tác giả đã tạo nên chất thơ quyến rũ làm say lòng người. Những tri thức về địa lí, văn hóa, thi ca, âm nhạc của ông đã chung đúc thành trang văn tuyệt bút.

Ai đã đặt tên cho dòng sông? - Tuổi Trẻ ...

Phân tích Ai đã đặt tên cho dòng sông (Mẫu 9)

Hoàng Phủ Ngọc Tường là nhà văn chuyên viết về bút kí, tản văn. Sáng tác của ông gắn liền với tình yêu quê hương, đất nước, con người, đặc biệt là văn hóa Huế như: “Ngôi sao trên đỉnh Phù Văn Lâu”, “Ai đã đặt tên cho dòng sông”,..Trong đó tùy bút “Ai đã đặt tên cho dòng sông” thực sự là một rng những trang viết hay nhất của nhà văn về một dòng sông mang ba huyền thoại đẹp – sông Hương.

Bút ký “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” được Hoàng Phủ Ngọc Tường viết ở Huế năm 1981, in trong tập sách cùng tên. Bài ký có ba phần, sách giá khoa trích học phần đầu. Với bút ký này tác giả đã mang đến cho người đọc những cảm nhận thật đầy chất thơ về dòng sông Hương theo dòng chảy của nó từ Trường Sơn cho đến khi chảy qua thành phố Huế và xuôi về biển.

Sông Hương nhìn từ cội nguồn là dòng chảy có mối quan hệ gắn bó sâu sắc với dãy Trường Sơn. Sông Hương mang vẻ đẹp của một sức sống mãnh liệt, hoang dại, bí ẩn, sâu thẳm nhưng cũng có lúc dịu dàng, say đắm. Sự mãnh liệt, hoang dại của sông được thể hiện qua những so sánh: “Như một bản Trường ca của rừng già, rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn”. Khi chảy qua miền địa hình hiểm trở, sông Hương mang vẻ đẹp dữ dội “mãnh liệt qua ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc xoáy vào đáy vực bí ẩn”, nhưng cũng có lúc nó lại hiền lành, trữ tình “dịu dàng, say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”. Nhà văn đã nhân hóa dòng sông giống như “một cô gái Digan phóng khoáng và man dại”. Con sông được rừng già hun đúc cho “một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng”. Đó là sức mạnh bản năng của người con gái, sức mạnh ấy được chế ngự bởi cấu trúc địa lý lãnh thổ để đi ra khỏi rừng, “nó nhanh chóng mang một sắc đẹp nhẹ nhàng và trí tuệ, trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hóa sứ sở”.

Với vốn hiểu biết về địa lý tác giả đã miêu tả tỉ mỉ về sông Hương với hình ảnh: “Nhưng ngay từ đầu, vừa ra khỏi vùng núi, sông Hương đã chuyển dòng một cách liên tục, vòng giữa khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm”. Sự chuyển dòng ấy, trong cách cảm nhận của Hoàng Phủ Ngọc Tường giống như “một cuộc tìm kiếm có ý thức để đi tới nơi gặp thành phố trong tương lai của nó”. Vẫn những đường cong mềm mại, sông Hương lại có sự chuyển mình: “Từ ngã ba tuần, sông Hương theo hướng Nam Bắc qua điện Hòn Chén, vấp Ngọc Trản, nó chuyển hướng sang tây bắc, vòng qua thêm đất bãi Ngọc Biểu, Lương Quán rồi đột ngột vẽ một đường cung thật tròn về phía đông bắc, ôm lấy chân đồi Thiên Mụ, xuôi dần về Huế”. Có lúc cảnh sắc sông hương hiện lên như một bức tranh có đường nét, hình khối với “ sắc nước trở nên xanh thẳm, và từ đó trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách với những điểm cao đột ngột như Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo mà từ đó, người ta luôn nhìn thấy dòng sông mềm mại như tấm lụa với những chiếc thuyền xuôi ngược chỉ bé bằng con thoi”. Người đọc còn bắt gặp vẻ đẹp đa màu mà biến ảo, phân quang màu sắc của nền trời Tây Nam thành phố: “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”.

Ngoài ra ta còn thấy sông Hương hiện lên với vẻ đẹp trầm mặc chảy dưới những rừng thông u tịch với những lăng mộ âm u mà kiêu hãnh của các vua chúa triều Nguyễn. Đó là vẻ đẹp mang màu sắc triết lí, cổ thi khi đi trong âm hưởng ngân nga của tiếng chuông chùa Thiên Mụ. Có vẻ đẹp “vui tươi” khi đi qua những bãi bờ xanh biếc vùng ngoại ô Kim Long. Có vẻ đẹp “mơ màng trong sương khói” khi nó rời xa thành phố để đi qua những bờ tre, lũy trúc và những àng cau thôn Vĩ Dạ.

Đoạn tả sông Hương khi đi qua thành phố đã gây được nhiều ấn tượng cho người đọc. Từ Kim Long, sông Hương đã nhìn thấy các hình ảnh “chiếc cầu trắng in ngấn trên nền trời, nhỏ nhắn như những vành trăng non”. Đó chính là chiếc cầu Tràng Tiền nối đôi bờ sông thơ mộng. Không chỉ vậy, vẻ đẹp của dòng sông Hương còn được miêu tả “giáp mặt thành phố ở cồn Dã Viên, sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến cồn Hến”. Nhà văn như thổi linh hồn vào cảnh vật: “đường cong ấy làm cho dòng sông như mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu”. “Tôi nhớ sông Hương, quý điệu chảy lững lờ của nó khi ngang qua thành phố”. Cái phút ban đầu để đến với “người tình” của sông Hương như thế đấy ! Nàng đã tự làm mới mình để hiến tặng những gì đẹp nhất cho người yêu.

Từ sông Hương xinh đẹp, nhà văn liên tưởng đến nhiều con sông trên thế giới như sông Xen, sông Nê – va, sông Đa – nuýt,..và nhận ra những điểm tương đồng giữa chúng là cùng chảy giữa lòng thành phố. Nhưng sông Hương khác với các dòng sông khác là bởi vì nó vẫn giữ được những nét cổ kính và nếu sông Nê – va chảy nhanh quá thì sông Hương lại chảy chậm buồn như điệu Slow “đấy là điệu Slow tình cảm dành riêng cho Huế”. Tình cảm của dòng sông dành cho thành phố Huế cũng rất sâu đậm. Dường như sông Hương không muốn xa thành phố: “rồi như sực nhớ ra một điều gì đó chưa kịp nói, nó đột ngột đổi dòng rẽ ngoặt sang hướng Đông Tây để gặp lại thành phố lần cuối ở góc Bao Vinh xưa cổ”. Nhà văn ví sông Hương như nàng Kiều chí tình trở lại tìm Kim Trọng. Vì thế nên nhìn “khúc quanh này” thấy nó “thật bất ngờ”. Nhà văn cảm nhận khúc quanh ấy giống như “ là nỗi vẫn vương, cả một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu”. Đó là sự chí tình của sông Hương trở về “để nói một lời thề trước khi về với biển cả”. Tác giả liên hệ “lời thề ấy vang vọng khắp khu vực sông Hương thành giọng hò dân gian, ấy là tấm lòng người dân Châu Hóa xưa mãi mãi chung tình với quê hương xứ sở”.

Dưới góc độ văn hóa, tác giả gắn sông Hương với âm nhạc cổ điển Huế: “Sông Hương đã trở thành một người đánh đàn tài nữ giữa đêm khuya…Qủa đúng vậy, toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế đã được hình thành trên mặt nước của dòng sông này”. Tác giả liên tưởng tới việc có người nghệ nhân già gần thế kỷ chơi đàn, một đêm khuya nghe con gái đọc Kiều “Trong như tiếng hạc bay qua/ Đục như tiếng suối mới sa nửa vời”. Người nghệ nhân ấy đã nhổm dậy, vỗ đìu chỉ vào trang sách mà nói “Đó là Tứ Đại Cảnh”. Cũng từ đó cùng với ngòi bút tài hoa cộng với sự rung cảm mạnh mẽ, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã nhớ tới Nguyễn Du “Nguyễn Du đã bao năm lênh đênh trên quãng sông này với một phiến trăng sầu. Và từ đó, những bản đàn đã đi suốt đời Kiều”. Đây là cách liên tưởng độc đáo, tài hoa mang đến cho người đọc một sự bồi hồi, xao xuyến.

Trong cái nhìn đa diện của Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương không chỉ là một người tình dịu dàng, thủy chung mà còn là một anh hùng ghi dấu những thế kỉ vinh quang. Từ thuở các vua Hùng dựng nước cho đến Dự địa chí của Nguyễn Trãi với cái tên Linh Giang, dòng sông viễn châu đã chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới phía Nam của Tổ quốc. Dòng sông ấy là điểm tựa bảo vệ biên cương thời kì Đại Việt. Thế kỉ XVIII nó mang vẻ soi bóng kinh thành Phú Xuân, gắn liền với tên tuổi của người anh hùng Nguyễn Huệ. Nó đọng lại bầm da, tím máu, “nó sống hết lịch sử bi tráng của thế kỉ XIX”. Nó đi vào thời đại của cách mạng tháng tám bằng những chiến công rung chuyển. Nó chứng kiến cuộc nổi dậy tổng tiến công tết Mậu Thân 1968. Sông Hương đã gắn liền với lịch sử của Huế, lịch sử dân tộc.

Vẻ đẹp của sông Hương không được tô đậm, không hoàn hảo nếu như nhà văn quên đi một dòng sông thi ca. Sông Hương là nguồn thi hứng bất tận, nó vẫn “mãi là nỗi hoài vọng về một cái đẹp nào đó chưa đạt tới” để bao thế hệ lãng tử đến đây thả hồn ngụp lặn. Suy cho cùng, chính vẻ đẹp thơ mộng của sông Hương trong thực tế đã làm nên điều kì diệu trong mỗi trang thơ. Sông Hương sẽ còn mãi tuôn chảy ngọt ngào, dạt dào trong nguồn mạch thi ca của dân tộc

Nét đặc sắc nghệ thuật trong văn phong của Hoàng Phủ Ngọc Tường chính là ở việc sử dụng ngôn ngữ trong sáng, phong phú, uyển chuyển giàu hình ảnh, giàu chất thơ, sử dụng nhiều phép tu từ như: so sánh, nhân hóa, ẩn dụ,..Có sự kết hợp hài hòa giữa cảm xúc trí tuệ, chủ quan và khách quan. Bút kí có sức liên tưởng kì diệu, sự hiểu biết phong phú về kiến thức địa lí, lịch sử, văn hóa, nghệ thuật và những trải nghiệm của bản thân.

Trích đoạn bài kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông” đã gợi ra vẻ đẹp của Huế, của tâm hồn người Huế qua sự quan sát sắc xảo của Hoàng Phủ Ngọc Tường về dòng sông Hương. Hoàng Phủ Ngọc Tường xứng đáng là một thi sĩ của thiên nhiên, một cây bút giàu lòng yêu nước và tinh thần dân tộc.

Phân tích Ai đã đặt tên cho dòng sông (Mẫu 10)

Bằng một trái tim nghệ sĩ đắm say, một vốn từ ngữ giàu có chính xác, gợi tả, một kho tri thức phong phú và một tấm lòng ân tình với sông Hương xứ Huế, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã sáng tác nên một thiên tuỳ bút rất hấp dẫn: “Ai đã đặt tên cho dòng sông” bằng những áng văn vừa đẹp đẽ sang trọng, vừa lấp lánh trí tuệ, vẫn mê đắm tài hoa.

“Ai đã đặt tên cho dòng sông” là một tuỳ bút đặc sắc, thể hiện phong cách tài hoa, uyên bác, giàu chất thơ của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Bài kí đã ca ngợi dòng sông Hương như một biểu tượng của Huế (đặc biệt là đoạn từ thượng nguồn đến thành phố Huế).

Trong con mắt của Hoàng Phủ Ngọc Tường, dòng sông Hương hiện lên như một cô gái đẹp, một vẻ đẹp rất Huế, rất độc đáo; vừa dịu dàng, vừa “phóng khoáng, man dại”. Ngay từ ngọn nguồn của dòng chảy, gắn liền với đại ngàn Trường Sơn hùng vĩ, sông Hương toát lên một vẻ đẹp tràn đầy sức sống, vừa hùng tráng, vừa trữ tình như một bản “trường ca của rừng già”, rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc vào đáy vực bí ẩn. Cũng có lúc nó trở nên dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên.

Bằng biện pháp nhân hoá đặc sắc, tác giả như đã hình tượng hoá con sông Hương: “Giữa lòng Trường Sơn, sông Hương đã sống một nửa cuộc đời của mình như một cô gái di gan phóng khoáng và man dại. Rừng già đã hun đúc cho nó một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng”.

Nhưng cũng chính rừng già nơi đây, với cấu trúc đặc biệt… đã chế ngự sức mạnh bản năng ở người con gái của mình để khi ra khỏi rừng, sông Hương nhanh chóng mang một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở thành “người mẹ phù sa của một vùng văn hoá xứ sở”. Tác giả cho rằng “người ta sẽ không hiểu được một cách đầy đủ bản chất của sông Hương với cuộc hành trình gian truân mà nó đã vượt qua, không hiểu thấu phần tâm hồn sâu thẳm của nó mà dòng sông hình như không muốn bộc lộ, đã đóng kín lại ở cửa rừng và ném chìa khoá trong những hang đá dưới chân núi Kim Phụng”. Cái điều mà sông Hương “không muốn bộc lộ đã đóng kín lại” đó, hình như giờ đây bằng một cách kín đáo, tác giả đã hé mở cho độc giả thấy được: sông Hương chính là người mẹ hiền hàng ngày, hàng giờ không ngừng duy trì “bồi đắp phù sa” màu mỡ cho cả một vùng văn hoá lịch sử đã được hình thành nơi đôi bờ sông Hương – xứ Huế.

Trước khi trở thành người tình dịu dàng và chung thuỷ của kinh thành Huế có hàng trăm năm văn hiến, sông Hương đã trải qua một hành trình đầy gian truân và những thử thách. Trong cái nhìn tinh tế, lãng mạn và rất phong tình của tác giả, toàn bộ thuỷ trình của dòng sông Hương tựa như cuộc tìm kiếm có ý thức người tình nhân đích thực của người con gái trong một câu chuyện tình yêu nhuốm màu cổ tích.

Đoạn tả sông Hương chảy xuôi về đồng bằng và ngoại vi thành phố bộc lộ một nét lịch lãm, tài hoa với những hình ảnh mỹ lệ, vốn ngôn ngữ giàu có, sự hiểu biết phong phú của tác giả. Giữa cánh đồng Châu Hoá đầy hoa dại, sông Hương là “cô gái đẹp ngủ mơ màng”. Nhưng ngay khi ra khỏi vùng núi, sông Hương bỗng bừng lên sức trẻ như “người đẹp bừng tỉnh sau một giấc ngủ dài” với niềm khát khao của tuổi thanh xuân trong sự “chuyển dòng liên tục”, rồi “vòng những khúc quanh đột ngột”, “vẽ một hình cung thật tròn”, “ôm lấy chân đồi Thiên Mụ”, “vượt qua”, “đi giữa âm vang”, “trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách”.

Vừa mạnh mẽ, vừa tình tứ mà dịu dàng kín đáo, đó là cái nét phẩm chất đẹp đẽ mang nét riêng của sông Hương – cô gái Huế được tác giả diễn tả bằng những nét vẽ, những hình ảnh cũng thật tình tứ, dịu dàng. Khi qua Vọng Cảnh, Tam Thai, Lưu Bảo “dòng sông mềm như tấm lụa”; khi qua “hai dãy đồi sừng sững như thành quách”, dòng sông ánh lên vẻ đẹp biến ảo với những phản quang nhiều màu sắc “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”. Khi qua bao lăng tẩm, đền đài mang niềm kiêu hãnh âm u được phong kín trong những rừng thông u tịch toả lan khắp cả một vùng thượng lưu “Bốn bề núi phủ , mây phong; Mảnh trăng thiên cổ bóng tùng Vạn Niên”, dòng sông Hương, mang vẻ đẹp “trầm mặc như triết lí, như cổ thi, kéo dài mãi đến lúc mặt nước phẳng lặng của nó bỗng sinh động bừng sáng lên khi gặp tiếng chuông Thiên Mụ ngân nga tận bờ bên kia giữa những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà”.

Tóm lại, với những nét bút giàu màu sắc hội hoạ tinh tế, với cảm xúc say đắm, ở đoạn này Hoàng Phủ Ngọc Tường đã tạo dựng được một bức tranh sông Hương thật đẹp bởi sự phối cảnh kì thú giữa nó với thiên nhiên xứ Huế đa dạng và rất hài hoà.

Từ đây như đã tìm đúng đường về, gặp lại thành phố thân yêu của mình “sông Hương vui tươi hẳn lên giữa những biển bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long, kéo một nét thẳng thực, yên tâm theo hướng Tây Nam – Đông Bắc. Phía đó, nơi cuối đường, nó đã nhìn thấy chiếc cầu trắng của thành phố in ngần lên nền trời, nhỏ nhắn như những vành trăng non”. Đúng là một hình ảnh so sánh rất độc đáo và thi vị. Nó không chỉ được vẽ bằng bàn tay hoạ sĩ tinh tế mà còn được vẽ bằng trái tim của một thi sĩ tài hoa, đa tình. Cũng với bút pháp ấy, dòng sông “uốn một cánh cung rất nhẹ sang Cồn Hến” khiến “dòng sông mềm hẳn đi như một tiếng vâng không nói ra của tình yêu”. Đúng là dòng sông Hương dịu dàng và kín đáo như chính cô gái Huế vậy! Nằm ngay giữa lòng thành phố yêu quý của mình, sông Hương được ví như sông Xen của Paris, sông Đa-nuýp của Bu-đa-pét, sông Nê-va của Pê-téc-bua. Nhưng Huế vẫn giữ nguyên dáng một đô thị cổ trải dọc hai bờ sông với “cây đa, cây cừa cổ thụ toả vầng lá u sầm xuống những xóm thuyền xúm xít, từ nơi ấy vẫn lập loè trong đêm sương những ánh lửa thuyền chài của một linh hồn xưa cũ mà không một thành phố hiện đại nào còn nhìn thấy được”. Phải chăng đây là nét độc đáo nhất của Huế? Bởi nó vẫn còn mang vẻ đẹp cổ kính nghìn xưa. Bằng cảm nhận âm nhạc, tác giả thấy con sông Hương của mình ở đây “có điệu chảy lặng lờ, đó là điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế, có thể cảm nhận được bằng thị giác qua trăm nghìn ánh hoa đăng bồng bềnh trong những đêm rằm tháng bảy từ điện Hòn Chén trôi về, qua Huế bỗng ngập ngừng như muốn đi muốn ở chao nhẹ trên mặt nước như vấn vương của một nỗi lòng”. Quả là một hình ảnh rất trữ tình, lãng mạn. Đúng như một nhà thơ đã viết về sông Hương – Huế:

   “Con sông dùng dằng, con sông không chảy

   Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu”

Hình như trong khoảnh khắc chững lại của sông nước ấy, sông Hương đã trở thành một người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya. Trong con mắt thi sĩ – nhạc sĩ của tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương đã trở thành con sông của “thơ ca nhạc hoạ”. Vì “toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế đã được sinh thành trên mặt nước của dòng sông này”. Từ đó, tác giả mường tượng thấy sau lớp sương khói của thời gian, hình như “Nguyễn Du đã bao năm lênh đênh trên quãng sông này, với một phiếm trăng sầu” để viết nên những trang Kiều tuyệt bút, với “những bản đàn đã đi suốt đời Kiều”. Trong đó, nổi bật nhất là bản “Tứ đại cảnh”, một bản nhạc cổ của Huế. Đây quả là một cuộc gặp gỡ kì thú giữa những tâm hồn nghệ sĩ cổ kim trên dòng sông Hương thơ mộng. Trong cái nhìn đắm say của trái tim đa tình Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương khi chảy vào lòng thành phố Huế bỗng hiện lên như “người tình rất dịu dàng và thuỷ chung”. Điều này được diễn tả trong một hình ảnh khá độc đáo, đầy phát hiện “Rời khỏi Kinh thành, sông Hương chếch về hướng Bắc, ôm lấy đảo Cồn Hến quanh năm mơ màng trong sương khói, đang xa dần thành phố để lưu luyến ra đi giữa màu xanh biếc của tre, trúc và những vườn cau vùng ngoại ô Vĩ Dạ. Và rồi như sực nhớ lại một điều gì chưa kịp nói, nó đột ngột đổi dòng rẽ sang hướng Đông Bắc để gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bao Vinh xưa cổ”, “vốn đang chảy giữa cánh đồng phù sa êm ái của nó, khúc quanh này thực bất ngờ biết bao. Có một cái gì rất lạ với tự nhiên và rất giống với con người ở đây”. Tác giả gọi đấy là “nỗi vương vấn, cả một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu”. Nhà văn hình dung sông Hương ở đây giống như nàng Kiều đã “chí tình trở lại tìm Kim Trọng của nó, để nói một lời thề ước trước khi về biển cả. Lời thề ấy vang vọng khắp lưu vực sông Hương thành giọng hò dân gian; ấy là tấm lòng người dân nơi Châu Hoá xưa mãi mãi chung tình với quê hương xứ sở”. Đây là một liên tưởng thật bất ngờ, thú vị, đậm màu sắc văn chương cổ điển của tác giả về dòng sông yêu quý của mình. Dòng sông Hương trong sâu thẳm của nó mang vẻ đẹp tâm hồn dân tộc. Bởi như Chế Lan Viên đã viết:

   “Chạnh thương cô Kiều như đời dân tộc

   Sắc tài sao mà lại lắm truân chuyên”

Và nhà thơ Ngô Viết Dinh cũng viết:

   “Nghìn năm gửi lại một chữ trinh

   Tâm hồn dân tộc kết tinh tim Kiều”

Gọi sông Hương là một áng văn trữ tình như một thiếu nữ dịu dàng, mơ mộng và kín đáo thì ai nấy đã rõ nhưng gọi sông Hương là một “thiên sử thi”, “một bản anh hùng ca” thì thật đáng ngạc nhiên. Đây là một phát hiện bất ngờ và thú vị nữa của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Qua “Dư địa chí” của Nguyễn Trãi và tài liệu khảo cổ học về thành cổ Hoá Châu, tác giả khám phá ra rằng sông Hường vốn có tên là Linh Giang, nghĩa là dòng sông thiêng đã đấu tranh oanh liệt để bảo vệ biên giới phía Nam của Tổ quốc Đại Việt qua những thế kỉ trung đại như Bạch Đằng, Như Nguyệt “Tự cổ huyết do hồng” ở phía Bắc. Thế kỉ XVIII, nó vẻ vang soi bóng Kinh thành Phú Xuân của anh hùng Nguyễn Huệ, nó sống hết lịch sử bi tráng của thế kỉ XIX với máu của những cuộc khởi nghĩa và từ đây sông Hương đi vào thời đại Cách mạng tháng tám, chiến dịch Mậu Thận và cuộc tổng tiến công hoàn toàn giải phóng dân tộc mùa xuân năm 1975 bằng những chiến công rung chuyển.

Như vậy, sông Hương đâu chỉ có vẻ đẹp mềm mại, duyên dáng, đầy trữ tình mà trong thời gian ngân vang của lịch sử, nó còn tiềm ẩn một sức mạnh quật cường, bất khuất của dân tộc, của “sử thi viết giữa màu lá cỏ xanh biếc”. “Khi nghe lời gọi, nó biết cách tự hiến đời mình làm một chiến công để rồi nó trở về với cuộc sống hình thường, làm một người con gái dịu dàng của đất nước”, của Huế thân yêu. Đúng là sử thi mà vẫn rất đỗi trữ tình, thơ mộng. Và đột nhiên, tác giả liên tưởng đến màu áo tím ẩn hiện thấp thoáng theo bóng cô dâu Huế “vẫn mặc sau tiết sương giáng”. Đấy cũng chính là màu của sương khói trên sông Hương, giống như tấm voan huyền ảo của tự nhiên, sau đó ẩn giấu khuôn mặt thực của dòng sông Hương – cô gái Huế.

Với tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường, vẻ đẹp của sông Hương không hề đơn điệu mà biến hoá đa dạng. Vì vậy, mỗi phong cách thơ đều có thể khám phá được những chất thơ khác nhau của nó. Từ xanh biếc thường ngày nó bỗng thay màu thực bất ngờ “dòng sông trắng – lá cây xanh” trong cái nhìn tinh tế của Tản Đà; từ tha thướt mơ màng, nó chợt nhiên hùng tráng lên như “kiếm dựng trời xanh” trong khí phách Cao Bá Quát; từ nỗi quan hoài vạn cổ với bóng chiều bảng lảng trong hồn thơ Bà Huyện Thanh Quan; nó đột khởi thành sức mạnh phục sinh của tâm hồn trong thơ Tố Hữu.

Bằng một tình cảm thiết tha với Huế, với một vốn văn hoá phong phú và một kho từ ngữ giàu có đậm chất thơ, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã khắc hoạ được một dòng sông như một công trình nghệ thuật tuyệt vời của tạo hoá, một vẻ đẹp rất thơ, khơi nguồn cho cảm hứng thi ca và gắn liền với nền âm nhạc cổ điển Huế, tạo nên bề dày lịch sử văn hoá của cố đô. Nhờ đó, sông Hương đã trở thành dòng sông bất tử chảy mãi trong trí nhớ và tình cảm của độc giả, bồi đắp phù sa màu mỡ làm xanh tươi thêm tình yêu đối với quê hương đất nước.

Phân tích Ai đã đặt tên cho dòng sông (Mẫu 11)

“Dòng nước sông Hương chảy lặng lờ

Ngàn thông núi Ngự đứng như mơ

Gió chiều vương áo nàng thôn nữ

Quai lỏng nghiêng vành chiếc nón thơ”

Ai đã từng đến với xứ Huế mộng mơ chắc hẳn không thể nào quên đi hình ảnh núi Ngự sông Hương với dư âm ngọt ngào, lắng đọng. Tạo hóa đã ban tặng cho thiên nhiên nơi đây những nét đẹp thật nên thơ. Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng đã trân trọng vẻ đẹp nên họa nên thơ của sông Hương qua bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông”.

Hoàng Phủ Ngọc Tường là tác giả của những áng văn thơ nổi tiếng về những dòng sông, bởi vậy cách mà ông viết về mỗi dòng sông cũng thật độc đáo và tài hoa. Đến với bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông” nhà văn không ví sông Hương “như một mạch máu lớn nuôi sống thủ đô” như cái cách mà ông đã đứng lặng hàng giờ trước bờ đê sông Hồng mà ngẫm ra. Thay vào đó là một phát hiện độc đáo vô cùng “chỉ sông Hương là thuộc về một thành phố duy nhất” . Nhắc đến sông Hương xứ Huế, người ta thường có ấn tượng về sự phẳng lặng, êm đềm của dòng sông trong khung cảnh thanh bình yên ả của xứ Huế. Ông đặt dòng sông trong mối quan hệ với dãy Trường Sơn xa xôi, nhà văn đã thể hiện những cảm hứng khám phá  sâu sắc về cội nguồn.

Hoàng Phủ Ngọc Tường đã miêu tả dòng sông Hương ở khúc thượng lưu trong những vẻ đẹp hoang dại đầy cá tính. Trước hết nó là “một bản trường ca của rừng già” . Cái tên ấy gắn liền với nơi khởi nguồn của dòng chảy, gắn liền với đại ngàn Trường Sơn hùng vĩ mang theo tất cả vẻ đẹp hùng tráng lẫn trữ tình. “Trường ca” là áng văn chương có dung lượng lớn thường mang đậm cảm hứng ngợi ca, còn “rừng già” lại là hình ảnh của những cánh rừng đại ngàn hoang sơ, bí ẩn, mênh mông chẳng thế mà lối viết “bản trường ca của rừng già” khiến sông Hương hiện ra với cả chiều dài rộng hùng vĩ và dòng chảy mãnh liệt trong sự ngưỡng mộ và niềm say mê của nhà văn. Sông Hương hiện lên với muôn vàn những sắc thái đa dạng của rừng già khi “rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn”, khi “mãnh liệt qua những ghềnh thác”, khi “cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn”, và có khi lại “dịu dàng say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”… Hàng loạt những động từ mạnh “rầm rộ, mãnh liệt, cuộn xoáy” cùng xuất hiện trong một câu văn đã đem đến cho sông Hương một sức sống mãnh liệt. Song hành cùng những động từ mạnh là hình ảnh nhân hóa kết hợp so sánh kì thú “là một bản ca của rừng già”, “ cuộn xoáy như cơn lốc”…đã góp phần tạo nên nhịp thở dồn dập của sông Hương ở thượng nguồn.

Cũng có lúc  sông Hương rất đỗi dịu dàng, đằm thắm khi trôi qua những dặm dài đỏ thắm của hoa đỗ quyên rừng, những miên man da diết của cỏ cây hoa lá nơi rừng đại ngàn. Câu văn dài được chia thành nhiều vế liên tục làm hiện lên dư vang của một bản trường ca của rừng già, biện pháp điệp cấu trúc kết hợp cùng các động từ mạnh tự nó tạo nên âm hưởng mạnh mẽ của sông Hương.

Tác giả ví sông Hương “như một cô gái Di – gan phóng khoáng và man dại”, “bản lĩnh gan dạ”, “tâm hồn tự do và trong sáng”, cái mạnh mẽ phóng khoáng của một bộ tộc yêu thích cuộc sống tự do lang thang nay đây mai đó được gắn cho dòng chảy hoang dã khiến sông Hương nơi thượng nguồn càng trở nên quyến rũ đắm say. Trong cái nhìn suy tư của nhà văn, sông Hương như một người con gái vốn mang sức mạnh hoang dã của rừng già nay đã được chế ngự để nhanh chóng tạo cho mình một “sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ” khi về đến Huế– sự dịu dàng như một cái bến bình yên người ta thường mong sau những thác ghềnh bão táp. Từ những hình ảnh so sánh, liên tưởng, nhân hóa, những câu văn mang tính chất giải thích “rừng già đã hun đúc cho nó một bản tính gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng” Hoàng Phủ Ngọc Tường đã làm toát lên vẻ đẹp sức sống mãnh liệt hoang dại đầy cá tính của sông Hương vùng thượng lưu. Và rồi khi ra khỏi rừng, tính cách của con sông bỗng nhiên thay đổi. Dường như nó đã thoát ra khỏi sự chế ngự của rừng già Trường Sơn để mang cho mình một vẻ đẹp “dịu dàng và trí tuệ” rồi vô tình “trở thành người mẹ phù sa” của một vùng văn hóa xứ sở, vùng văn hóa của 4000 năm văn hiến. Sông Hương như một đấng sinh thành đã góp phần tạo nên bản sắc của một vùng xứ sở. Chẳng những thế mà sông Hương cũng như một người mẹ mẹ với vùng văn hóa xứ Huế, từng ngày từng giờ dòng sông vươn mình chảy ra thì cũng là từng ngày từng giờ sông Hương duy trì và bồi đắp phù sa trong một vùng văn hóa đã hình thành từ hai bên sông. Ấy thế nhưng dòng sông không muốn bộc lộ công lao to lớn ấy, nó âm thầm chảy và lặng lẽ cống hiến cho dải đất nơi đây qua nhiều thế kỉ. Đây chính là chiều sâu của vẻ đẹp mà Hoàng Phủ Ngọc Tường muốn nhắc đến.

Trước khi trở thành người tình dịu dàng và chung thủy của cố đô, sông Hương đã trải qua một hành trình đầy gian truân thử thách nhưng cũng không kém phần kì lạ và bí ẩn. Trong cái nhìn tình tứ và lãng mạn của nhà văn, toàn bộ cuộc hành trình của sông Hương từ thượng nguồn về tới Huế giống như một “cuộc tìm kiếm có ý thức” người tình đích thực của cô gái đẹp trong một câu chuyện cổ tích về tình yêu. Đây là cuộc kiếm tìm bền bỉ, đầy hào hoa, rất lãng mạn, đắm say. Trong hành trình này, SH đã hiện lên mang theo tất cả vẻ đẹp cuốn hút của mình và dành tặng cho Huế những gì đẹp nhất.

Giữa “cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại”Hoàng Phủ Ngọc Tường nhắc đến sông Hương như một “người gái đẹp nằm ngủ mơ màng”. Dòng sông đi giữa cánh đồng hương hoa bát ngát thật êm đềm và lãng mạn để rồi sau một giấc ngủ dài nó trỗi dậy một sức sống mới đầy khao khát. Giờ đây sông Hương “chuyển dòng một cách liên tục, vòng giữa khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm, như một cuộc tìm kiếm có ý thức để đi tới nơi gặp thành phố tương lai của nó”. Ra khỏi vùng núi trầm mặc, thâm u, dòng sông như bừng thức sự trẻ trung và niềm khao khát thanh xuân khi “chuyển dòng liên tục”, “vòng đột ngột”, “uốn mình theo những đường cong thật mềm”, “vẽ một hình cong thật tròn… ôm lấy đồi Thiên Mụ, vượt qua vực… đi giữa âm vang… trôi đi giữa hai dãy đồi…”. Những câu văn dài nối tiếp nhau làm nên dòng chảy miên man vừa mạnh mẽ với “những dư vang của Trường Sơn” như còn phảng phất, vừa duyên dáng đầy nữ tính trong những khúc lượn vòng mềm mại. Sông Hương đã góp nhặt sắc núi Ngọc Trản để đem đến cho mình màu “xanh thẳm”; sông Hương hiền dịu lượn quanh những Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo để trở nên “mềm như một tấm lụa”, lấy ánh phản quang của những ngọn đồi “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím” để rực rỡ, kiêu sa ; thấm vào lòng mình vẻ đẹp “u tịch” của rừng thông, vẻ đẹp “trầm mặc… như triết lý, như cổ thi” và niềm kiêu hãnh âm u tỏa ra từ “giấc ngủ nghìn năm” của những vua chúa trong khu lăng tẩm Van Niên đồ sộ.

Khi thoát ra khỏi những vực sâu, những núi đồi “sừng sững như thành quách”, những “đám quần sơn lô xô”, những lăng tẩm u buồn…, “tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga tận bờ bên kia”, giữa những “xóm làng trung du bát ngát tiếng gà”. Cuối cùng sông Hương cũng đến được với thành phố thân yêu của mình. Dưới con mắt của hội họa, sông Hương hiện ra đẹp thơ mộng với những màu sắc hài hòa và bình dị.

Sông Hương được miêu tả trong “nét thẳng thực yên tâm theo hướng Tây Nam – Đông Bắc” khi vào đến thành Huế. Dòng sông “vui tươi hẳn lên giữa những biền bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long”, dòng sông xuân sắc vui tươi. Cách miêu tả đặc sắc của nghệ thuật nhân hóa đã đem đến cảm giác thanh thản, bình yên của một dòng sông khi tìm về với thành phố hình như chỉ dành riêng cho nó, tồn tại vì nó, một thành phố luôn đợi chờ, luôn tin vào dòng sông thân yêu từ miền thăm thẳm đại ngàn xa xôi. Nghệ thuật nhân hóa đã khiến dòng sông trở nên gần gũi vô cùng với mảnh đất cố đô và con người xứ Huế.

Khi nhìn thấy chiếc cầu nhỏ nhắn của thành phố in trên nền trời “nhỏ nhắn như những vành trăng non” thì dường như dòng sông thêm dạt dào xúc động. Nhà văn đã dành cho sông Hương một tình cảm trìu mến qua hình ảnh “sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến Cồn Hến”, “đường cong ấy làm dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu”. Phép so sánh thật ngọt ngào, dòng sông bỗng trở thành người tình dịu dàng, e ấp mà vẫn thật tình tứ, đắm say của Huế.

Dòng sông được liên tưởng để so sánh với các dòng sông trên thế giới: Sông Xen chảy vào thành phố Pari, Sông Đa – nuýp chảy vào thành phố Bu – đa –pét…

Màu sắc của dòng sông là màu “xanh thẳm”, màu rực rỡ của trăm nghìn ánh hoa đăng bồng bềnh trong đêm hội trên sông, lung linh sắc màu phong phú của cảnh vật bến bờ: từ những mảng phản quang nhiều màu sắc của núi đồi “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím” đến những “biền bãi xanh biếc của ngoại ô Kim Long”; từ màu thanh khiết nõn nà của “chiếc cầu trắng in ngần trên nền trời”, nhỏ nhắn như những vầng trăng non đến sắc “u trầm” của những vầng cổ thụ, ánh “lập lòe” của lửa thuyền chài, rồi lại là màu xanh biếc của tre trúc, của cau thôn Vĩ Dạ cùng sắc “mơ màng sương khói” của Cồn Hến… Sông Hương đã hiện ra như một bức tranh tuyệt đẹp trong thành Huế với những nét vẽ huyền ảo, những sắc màu thơ mộng.

Chất  nhạc của dòng sông hiện ra ở chính âm hưởng, nhịp điệu của văn bản ngôn từ – một nhịp điệu êm đềm, tĩnh lặng, được tạo ra bởi những câu văn dài nối tiếp, với rất ít dấu ngắt và rất nhiều thanh bằng, bởi sự giãn cách trong nhịp trầm tư sâu lắng của những suy ngẫm, những liên tưởng mênh mang trong không gian, thăm thẳm trong thời gian.Tác giả tiếp tục viết “một dòng sông trôi đi chậm, thực chậm, cơ hồ chỉ còn là một mặt hồ yên tĩnh”. Chất nhạc của dòng sông cũng được thể hiện qua những âm thanh của chính dòng sông và cảnh sắc đôi bờ. Đó là âm thanh gợi cõi vô thường huyễn hoặc vủa “tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga tận bờ bên kia”, âm thanh nồng ấm thân yêu của “những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà”, âm thanh không lời của một tình yêu e ấp, âm thanh của chính dòng sông được ví như “người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”, “tiếng nước rơi bán âm”, tiếng “những mái chèo khua đập nước”…; và chất nhạc đặc biệt được hiện ra trong những liên tưởng tới “nền âm nhạc cổ điển Huế”

Cuối cùng sông Hương vẫn phải tạm biệt thành phố Huế. Hương giang tỏ vẻ lưu luyến với thành phố Huế nên vừa ra khỏi kinh thành, dòng sông đột ngột chếch lên hướng Bắc, ôm lấy đảo Cồn Hến, ra đi “giữa màu xanh biếc của tre trúc” nơi ngoại ô Vĩ Dạ để gặp lại thành phố lần cuối ở thị trấn Bao Vinh xưa cổ. Với Hoàng Phủ Ngọc Tường khúc ngoặt ấy như là “một chút lẳng lơ kín đáo” trong tình yêu đôi lứa như nàng Kiều trở lại tìm Kim Trọng để nói lại một lời thề trước khi đi xa.

Thời gian có thể trôi đi nhưng vẻ đẹp của sông Hương thì vẫn còn mãi. Đọc bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông” ta càng biết yêu thêm những dáng núi hình sông trên dải đất quê mình.

Phân tích Ai đã đặt tên cho dòng sông (Mẫu 12)

Hoàng Phủ Ngọc Tường là nhà văn có phong cách độc đáo và đặc biệt sở trường về thể văn bút kí, tùy bút. Kí Hoàng Phủ Ngọc Tường vừa giàu chất trí tuệ, vừa giàu chất thơ, nội dung thông tin về văn hóa, lịch sử rất phong phú. Bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông? là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách của ông. Nhà văn đã chọn cho tác phẩm của mình một nhan đề thật gợi, đậm chất thơ. Không còn là nỗi buồn của cảnh “gió theo lối gió, mây đường mây” như trong thơ Hàn Mặc Tử, dòng sông Hương trong Ai đã đặt tên cho dòng sông đã vươn mình dậy để mang một màu sắc, hình hài mới.

Bài bút kí được viết tại Huế vào tháng 1-1981, rút từ tập bút kí cùng tên. Tập sách gồm tám bài kí, viết ngay sau chiến thắng mùa xuân 1975, nên vẫn còn bừng bừng khí thế chống giặc ngoại xâm và cảm hứng ngợi ca chủ nghĩa anh hùng. Nhưng ở Hoàng Phủ Ngọc Tường, lòng yêu nước, tinh thần dân tộc thường gắn với tình yêu sâu sắc với thiên nhiên trên đất nước và với truyền thống văn hóa, lịch sử lâu đời của dân tộc mà ông đã bỏ công tìm tòi, tích lũy một cách say mê, trân trọng, đồng thời cố gắng truyền đạt bằng một ngòi bút tài hoa với những lời văn thật đẹp, thật sang. Bài kí thực chất thuộc thể tùy bút vì hành văn phóng túng, nhân vật chính là cái tôi của tác giả, chất trữ tình rất đậm.

Sông Hương là dòng sông nổi tiếng của xứ Huế mộng mơ và thơ. Nhắc đến Huế là nhắc đến sông Hương núi Ngự gắn với hình ảnh những chiếc nón bài thơ, những tà áo dài tím thướt tha trong gió. Sông Hương đã đi vào thơ ca, nhạc họa như một miền nhớ, miền thương của những tâm hồn nghệ sĩ. Đến Hoàng Phủ Ngọc Tường, nhà văn cũng góp phần xây dựng lên một hình ảnh thật đẹp, thật thơ mà không kém phần mới lạ về sông Hương. Dưới ngòi bút của người nghệ sĩ tài hoa, sông Hương từ thượng nguồn đến khi hòa mình vào đất đai, nhà cửa của xứ Huế đã mang những vẻ đẹp khác nhau.

Lúc ở rừng già, sông Hương phóng khoáng và man dại, rầm rộ và mãnh liệt như một “bản trường ca của rừng già”. Sông Hương với người nghệ sĩ lúc ấy giống như một cô gái Di gan đẹp man dại đầy hấp dẫn và phóng túng. Nhưng vừa khi ra khỏi rừng nó lại chợt mang vẻ đẹp dịu dàng và trí tuệ của một người “mẹ phù sa”. Dưới con mắt tác giả, sông Hương rất giống với con người, nhất là phái nữ, càng về với đồng bằng, “nàng” càng trở nên chín chắn, trưởng thành hơn. Lúc qua hai dãy đồi sừng sững như thành quách, dòng sông mềm như tấm lụa, với vẻ đẹp biến ảo “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”. Qua vùng ngoại ô Kim Long nó chợt vui tươi hẳn lên. Rồi khi đến thành phố, sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ làm cho dòng sông mềm hẳn đi và trôi chậm như một mặt hồ yên tĩnh. Dòng sông như muốn làm duyên với con người ở xứ sở mơ mộng, hiền hòa này. Vẻ đẹp của dòng sông Hương đã được tác giả miêu tả bằng một tình cảm thiết tha với Huế, với một vốn văn hóa phong phú và một vốn ngôn ngữ giàu có và đậm chất thơ của tác giả. Trong đoạn trích nói trên, vẻ đẹp của dòng sông được phát hiện ở cảnh sắc thiên nhiên rất đa dạng. Dòng sông trữ tình, êm ả, hiền hòa như một thiếu nữ dịu dàng và duyên dáng.

Ngoài vẻ đẹp của một dòng sông thiên nhiên, sông Hương còn gắn bó với lịch sử, văn hóa của Huế và tâm hồn của con người vùng đất cổ kính này. Sông Hương đã sống những thế kỉ quang vinh với nhiệm vụ lịch sử của nó, từ thuở nó còn là một dòng sông biên thùy xa xôi của đất nước các vua Hùng. Trong sách địa dư của Nguyễn Trãi, nó mang tên là Linh Giang, dòng sông viễn châu đã chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới phía nam của tổ quốc Đại Việt qua những thế kỷ trung đại. Thế kỉ XVIII, nó vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ, nó sống hết lịch sử bi tráng của thế kỷ XIX với máu của những cuộc khởi nghĩa, và từ đấy, sông Hương đã đi vào thời đại Cách mạng tháng Tám bằng những chiến công rung chuyển. Cùng với niềm cổ vũ nồng nhiệt dành cho nó trong mùa xuân Mậu Thân, Huế đã nhận được những lời chia buồn sâu sắc nhất của thế giới về sự tàn phá của đế quốc Mĩ đã chụp lên những di sản văn hóa của nó. Sông Hương là vậy, là dòng sông của thời gian ngân vang, của sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc. Khi nghe lời gọi, nó biết cách tự hiến đời mình làm một chiến công, để rồi nó trở về với cuộc sống bình thường, làm một cô gái dịu dàng của đất nước.

Không chỉ vậy, cũng bắt nguồn từ sông Hương mà bao áng thơ ca, nhạc họa đã ra đời góp phần vào sự đa dạng, phong phú và độc đáo của văn hóa xứ Huế. “Toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế đã được sinh thành trên mặt nước của dòng sông này, trong một khoang thuyền nào đó, giữa tiếng nước rơi bán âm của những mái chèo khuya”. Trên mặt nước sông Hương, đã có bao bài ca Huế được cất lên: lí con sáo, hò giã gạo, hát ru em…Cả những khúc Nam ai Nam bình nao nức lòng người lãng khách. Và theo trí tưởng tượng kì diệu của tác giả, sông Hương chính là nơi gợi cảm hứng cho những dòng thơ trác tuyệt trong kiệt tác “Truyện Kiều” của đại thi hào Nguyễn Du: “Nguyễn Du đã bao năm lênh đênh trên quãng sông này, với một phiến trăng sầu. Và từ đó, những bản đàn đã đi suốt đời Kiều. Tôi đã chứng kiến một người nghệ nhân già, chơi đàn hết nửa thế kỉ, một buổi tối ngồi nghe con gái đọc Kiều….”

Trong tác phẩm, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã sử dụng rộng rãi thủ pháp nhân cách hóa đối với Huế và dòng sông Hương. Người đọc có thể gặp trong trang văn của ông những câu văn hết sức hữu tình, duyên dáng, tựa hồ như cái mỉm cười e lệ của người thiếu nữ chốn cố đô này: “Nếu chỉ mải mê nhìn ngắm khuôn mặt kinh thành của nó, tôi nghĩ rằng người ta sẽ không hiểu một cách đầy đủ bản chất của sông Hương với cuộc hành trình gian truân mà nó đã vượt qua, không hiểu thấu phần tâm hồn sâu thẳm của nó mà dòng sông hình như không muốn bộc lộ, đã đóng kín lại ở cửa rừng và ném chìa khóa trong những hang đá dưới chân núi Kim Phụng” hay “phải nhiều thế kỉ qua đi, người tình mong đợi mới đến đánh thức người con gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại”, “Hình như trong khoảnh khắc chùng lại của sông nước ấy, sông Hương đã trở thành một người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”.

Bên cạnh thủ pháp nhân hóa, tác giả còn sử dụng nhiều hình ảnh ví von, so sánh đặc sắc: “phía đó, nơi cuối đường, nó (sông Hương) đã nhìn thấy chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như những vành trăng non”, “giáp mặt thành phố ở Cồn Giã Viên, sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ sang Cồn Hến, đường cong ấy làm cho dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu”. Cách viết ấy làm cho dòng văn trở nên gợi cảm, giàu màu sắc và rất tình tứ, kín đáo, dịu dàng.

Qua bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông?, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã thể hiện một tình yêu tha thiết đến say đắm cảnh và người xứ Huế. Đến đây, người đọc có thể hiểu được câu trả lời cho câu hỏi tác giả đã chọn làm tiêu đề cho tác phẩm. Ai đã đặt tên cho dòng sông? nếu không phải là nền văn hóa, lịch sử lâu đời đất cố đô? Lớp lớp những con người xứ Huế rất đỗi dịu dàng, kín đáo nhưng tình cảm luôn dạt dào, bằng tình yêu vô bờ đối với quê hương đất nước, họ chẳng những đề thơ lên sông núi mà còn tạo nên cho đất đai, sông suối một chiều dài lịch sử, văn hóa giàu sức gợi. Cuối đoạn trích, tác giả đã kể về những người dân hai bên bờ, vì quá đỗi yêu sông mà đổ xuống dòng thứ nước thơm phức. Con người nơi đây vì yêu chốn quê cha đất Tổ đã biết làm nên những điều hay tốt đẹp để hậu thế mãi lưu danh thơm của những tên núi tên sông quê hương họ.

Ai đã đặt tên cho dòng sông? của Hoàng Phủ Ngọc Tường không chỉ là một bài ca ngợi ca cảnh trí non sông đất nước. Bút kí còn là lời tri ân đến những thế hệ con người đất cố đô tài hoa nghệ sĩ đã vì hậu thế mà tạo nên những giá trị văn hóa tinh thần đầy chất nhân văn. Đọc Ai đã đặt tên cho dòng sông? người đọc nhìn quê hương đất nước mình với ánh nhìn thêm thơ thêm nhạc.

19 Bài phân tích Ai đã đặt tên cho dòng ...

Phân tích Ai đã đặt tên cho dòng sông (Mẫu 13)

Hoàng Phủ Ngọc Tường là một trong những nhà văn chuyên về thể loại bút kí. Nét đặc sắc trong những sáng tác của ông chính là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và chất trữ tình. Các tác phẩm của ông còn là sự giao hòa nhuần nhuyễn giữa nghị luận sắc bén với suy tư đa chiều được tổng hợp từ vốn kiến thức phong phú về triết học, lịch sử, văn hóa, địa lý,… Tất cả được thể hiện qua lối hành văn hướng nội, súc tích, mê đắm và tài hoa của nhà văn. Chính lối văn phong ấy, ông đã thổi hồn vào Ai đã đặt tên cho dòng sông?, làm cho tác phẩm trở thành bài bút kí xuất sắc. Trong tác phẩm này, tác giả đã chép họa nên một dòng sông Hương – một dòng sông đã đi vào thơ ca nghệ thuật như một niềm cảm hứng bất tận đối với văn nhân, nghệ sĩ – với một dáng vẻ vô cùng dịu dàng, quyến rũ khiến ai cũng phải mê đắm và vẻ đẹp của sông Hương không chỉ được lột tả qua dáng vẻ bên ngoài mà còn là độ sâu lắng của nét đẹp bên trong tâm hồn.

Khi phân tích vẻ đẹp sông Hương, ta thấy trong đoạn trích của bài bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông, dưới sự am hiểu sâu sắc về địa lý, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã đem đến cho người đọc thấy được vẻ đẹp của cảnh sắc thiên nhiên đa dạng, phong phú cùng sức quyến rũ của dòng sông Hương. Cái đẹp của dòng sông được nhìn nhận trên vẻ đẹp cảnh quan địa lý của xứ Huế và ngược lại vẻ xinh đẹp của thiên nhiên hai bên bờ sông cũng được dòng sông nâng đỡ làm nổi bật.

Sông Hương chảy qua ba đoạn lớn: chảy giữa lòng Trường Sơn, vào ngoại vi thành phố và chảy đến giữa lòng thành phố để lúc này đây dòng Hương Giang đã in bóng cái vẻ đẹp tuyệt mỹ của kinh thành Phú Xuân rồi lưu luyến khi chảy ra ngoài thành về hạ nguồn.

Phân tích vẻ đẹp sông Hương sẽ thấy không gian của núi rừng Trường Sơn đã góp phần làm cho hình ảnh sông Hương trở nên xinh đẹp. Để làm rõ điều này, tác giả đã đưa vào bài bút kí ba hình ảnh so sánh đặc biệt ấn tượng. Trước hết, sông Hương “đã là một bản trường ca của rừng già” – một hình ảnh so sánh hết sức độc lạ cho thấy cá tính của tác giả trong việc liên tưởng phong phú.

Phân tích vẻ đẹp sông Hương để thấy dòng sông này mang cái chất hào hùng, nằm giữa lòng Trường Sơn với bộ mặt hùng vĩ vừa hùng tráng cũng rất đỗi trữ tình. Trong cái nhịp chảy của sông Hương “rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua từng ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn”, tác giả đã sử dụng những động từ mạnh để nhấn mạnh sự hùng tráng của dòng sông.

Nhưng bên cạnh đó, dòng Hương Giang cũng chẳng kém phần trữ tình thơ mộng khi thả mình qua “những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”. Ngay lúc này đây, sông Hương “trở nên dịu dàng và say đắm”, mang thêm cho mình một diện mạo khác hẳn giữa rừng núi Trường Sơn đại ngàn, hùng vĩ.

Cả dòng sông tồn tại như một sinh thể mang những nét tính cách đối lập nhau nhưng cũng rất hài hòa tạo nên vẻ đẹp phong phú đa dạng, mang lại một sức sống mãnh liệt cho dòng Hương Giang ở thượng nguồn. Chưa dừng lại ở đó, cảm thấy vẫn chưa lột tả được hết vẻ đẹp, tính cách của dòng sông Hương, tác giả đã sử dụng thêm một hình ảnh so sánh đầy sáng tạo “sông Hương đã sống một nửa cuộc đời của mình như một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại”. Với hình ảnh so sánh này làm cho độc giả liên tưởng đến những cô gái du mục với những vũ khúc tình tứ cháy bỏng làm say đắm lòng người.

Phân tích vẻ đẹp sông Hương sẽ thấy dưới ngòi bút so sánh của nhà văn, dòng sông trở nên có cá tính và tâm hồn tự do, trong sáng. Chính vẻ đẹp của cấu trúc rừng núi thượng nguồn đã chế ngự sức mạnh bản năng của cô gái phóng khoáng ấy, để khi ra khỏi rừng, sông Hương dưới ngòi bút của tác giả trở thành “người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở”, mang một vẻ đẹp dịu dàng đầy trí tuệ, nuôi dưỡng những đứa con xứ Huế, bồi đắp nên nền văn hóa hai bên bờ sông cố đô bằng những dòng phù sa ngọt ngào.

Bằng những hình ảnh so sánh độc đáo, nhà văn đã biến sông Hương – một cảnh quan của thiên nhiên vốn vô tri vô giác nay đã trở thành một sinh thể có cảm xúc, có cá tính, biết hy sinh như một người thực thụ, để lại cho độc giả những ấn tượng vô cùng sâu sắc. Việc Hoàng Phủ Ngọc Tường tìm đến tận vùng thượng nguồn của dòng sông nơi núi rừng Trường Sơn cho thấy được sự kỳ công, lòng khám phá không ngừng, đồng thời thể hiện sự tinh tế trong cảm nhận của nhà văn, quá trình lao động nghệ thuật công phu và khó nhọc của tác giả.

Hết phần chảy giữa Trường Sơn hùng vĩ, sông Hương bắt đầu một giai đoạn mới trong cuộc đời của mình ở vùng ngoại vi kinh thành Huế, đi qua “cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại”, hết sức lãng mạn, hết sức thi vị, mang vẻ đẹp của “người gái đẹp”, trong cảm nhận của nhà văn cô gái ấy đang nằm ngủ mơ màng, đợi người tình mong đợi đến và đánh thức.

Hành trình về xuôi, hành trình chảy ra cửa biển Thuận An của sông Hương giờ đây giống như một cuộc tìm kiếm và đuổi bắt, hào hoa và đầy đam mê. Đây là hành trình của những người yêu nhau, tìm về với nhau, là hành trình của nàng công chúa đi tìm hoàng tử trong mơ của mình.

Dòng sông mang trong mình đầy đủ những sức sống mới, những vóc dáng mới, chuyển dòng một cách liên tục “vòng giữa những khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm”. Khi phân tích vẻ đẹp sông Hương, ta thấy tác giả ngằm nhìn dòng sông mà liên tưởng đến “người gái đẹp” đang phô ra những đường cong quyến rũ đầy hấp dẫn của mình. Đây là dòng liên tưởng đầy sáng tạo và mạnh mẽ của nhà văn.

Sông Hương khi đi qua vùng Châu Hóa không chỉ mang vẻ đẹp mềm mại quyến rũ của người con gái mà còn mang nhiều vẻ đẹp rất đa dạng và phong phú khác. Rồi dòng sông đi qua những ngọn đồi, mặt nước phản quang thành những màu rực rỡ “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím” thật kì thú, làm cho dòng Hương Giang như bức tranh nhiệm màu.

Khi đi qua những lăng tẩm, sông Hương lại trở nên trầm mặc, tạo cho độc giả có cảm giác như dòng sông đang chiêm nghiệm, thành kính suy nghĩ về lịch sử của những ông hoàng bà chúa xưa kia đã từng huy hoàng như thế nào.

Và rồi, sông Hương bỗng bừng sáng hơn khi nghe thấy âm thanh thành phố. Nhà văn thật tài tình khi sáng tác ra những hình ảnh độc đáo “chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như vầng trăng non”, rồi thì “dòng sông mềm hẳn đi như tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu” như tiếng lòng thẹn thùng, bẽn lẽn của cô gái Huế trong tình yêu đầu đời.

Phân tích vẻ đẹp sông Hương sẽ nhận thấy tác giả so sánh sông Hương như một “mặt hồ yên tĩnh”, “điệu nhảy lặng lờ của nó ngang qua thành phố” – những câu văn mang theo âm nhạc chậm chạp hòa vào lòng người đọc, du dương, mềm mại, một sự liên tưởng hết sức thú vị “sông Nê-va cuốn trôi những đám băng lô xô”, “mỗi phiến băng chở một con hải âu nghịch ngợm đứng co lên một chân, thích thú với những chiếc thuyền xinh đẹp của chúng”.

Tác giả như muốn hóa mình thành con chim hải âu trôi nhanh ra biển trên chiếc thuyền thủy tinh ấy, rồi cuối cùng chẳng kịp nói lời tạm biệt với lũ bạn trên bờ tàu vì trôi nhanh quá. Thế, tác giả mới thấm thía nhớ thương về sông Hương và “chợt thấy quý cái điệu nhảy chảy lặng lờ của nó khi đi qua thành phố”.

Với lối viết sinh động sáng tạo, nhà văn đã khoác lên mình Hương Giang diện mạo của một “nàng thơ xứ Huế” vừa cá tính, vừa e ấp, đắm mình trong tình yêu cùng chàng trai Huế đầy mộng mơ.

Phân tích vẻ đẹp sông Hương để thấy dòng sông này càng đẹp hơn khi được soi chiếu và trở thành một phần của lịch sử nước nhà. Hơn thế nữa, sông Hương còn là nhân chứng cho lịch sử biết bao thăng trầm hưng thịnh của cố đô Huế “vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân”, những dấu ấn, những sự kiện không bao giờ có thể lãng quên của dân tộc Việt Nam đều được sông Hương chứng kiến và ghi lòng tạc dạ.

Dòng sông trải qua biết bao đau thương của chiến tranh nhưng khi hòa bình lập lại dòng sông cũng nhanh chóng thay đổi trở về vẻ dịu dàng vốn có. Sông Hương chính là biểu tượng đẹp đẽ nhất xây dựng cho Huế một hình ảnh đẹp thơ mộng. Một vẻ đẹp lặng lờ, ẩn sâu trong đó từ lâu nhưng nó chưa bao giờ già cỗi, nó vẫn mang trong mình nhiệt huyết yêu đương của cô gái đang độ xuân thì.

Rời khỏi kinh thành, sông Hương lưu luyến không muốn rời xa “đột ngột đổi dòng, rồi rẽ ngoặt sang hướng đông tây để gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bao Vinh xưa cổ.” Bên cạnh đó, “là nỗi vấn vương, là cả một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu, và giống như nàng Kiều trong đêm tình tự…”

Bằng nghệ thuật nhân hóa sinh động, nhà văn đã cho độc giả thấy được tình cảm của sông Hương đối với Huế, như người tình dịu dàng, chung thủy của xứ Huế đầy thơ mộng, trữ tình. Từ đây, khi phân tích vẻ đẹp sông Hương, độc giả thấy được sự quan tế tinh tế cùng với vốn từ ngữ phong phú cùng với sự tài hoa uyên bác trên mỗi trang viết của tác giả trong việc khắc họa vẻ đẹp của sông Hương vô cùng độc đáo.

Bằng óc sáng tạo, liên tưởng tài tình, sự quan sát tỉ mỉ, sự am hiểu tinh tường về các kiến thức xã hội, văn hóa của xứ Huế, pha vào đó là sự thành thạo, điêu luyện trong việc sử dụng những thủ pháp nghệ thuật đặc sắc như so sánh, nhân hóa, tác giả đã cho độc giả thấy được vẻ đẹp của sông Hương mang những bộ mặt khác nhau ở mỗi vùng đất mà nó chảy qua.

Với những xúc cảm sâu lắng được tổng hợp từ một vốn hiểu biết về mọi mặt cùng với văn chương tao nhã, hướng nội và tài hoa, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã cho ra đời một tác phẩm bút kí đặc sắc, một bức tranh Huế và sông Hương tuyệt đẹp – vẻ đẹp gần gũi, thiêng liêng nhưng rất dịu êm.

Có thể nói “Ai đã đặt tên cho dòng sông” đã mang đến những phát hiện mới lạ và độc đáo của sông Hương cho độc giả cả nước. Sông Hương, một dòng sông mang dại ở khúc thượng nguồn. Sông Hương, trở nên dịu dàng và say đắm, thủy chung khi gặp được người tình của mình là xứ Huế đầy thơ mộng trữ tình. Sông Hương đi vào trang viết của Hoàng Phủ Ngọc Tường không đơn thuần là một cảnh quan thiên nhiên vô tri vô giác mà nó còn chứa đựng trong tâm hồn đầy rẫy cung bậc cảm xúc và tình yêu.

Phân tích Ai đã đặt tên cho dòng sông (Mẫu 14)

Hoàng Phủ Ngọc Tường được biết đến là người có một phong cách riêng khó lẫn, thể hiện ở sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tính trí tuệ cũng như chính tính trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với nhiều suy tư đa chiều được tổng hợp từ vốn kiến thức phong phú về triết học, văn hóa, lịch sử, địa lí,…Và có thể nói minh chứng rõ nhất cho phong cách này chính là bài Tùy bút “Ai đã đặt tên cho dòng sông”

Có thể nhận ra được đặc điểm của thể văn tùy bút là hết sức lãng mạn, bay bổng, ngẫu hứng, không tuân theo một quy phạm chặt chẽ nào. Dường như nhân vật chính của tùy bút là cái tôi của chính tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường. Vì vậy,nếu như muốn hiểu bài văn, người đọc cần phải thấy được cái tôi của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Đó chính là một cái tôi thật tài hoa với vốn văn hóa sâu rộng, tâm hồn nhạy cảm, tinh tế, say mê cái đẹp của cảnh vật và con người đất Huế.

Bài kí đã miêu tả được thật hay và sinh động vẻ đẹp của sông Hương, mở rộng ra là xứ Huế đẹp đẽ và thơ mộng, dường như lại ca ngợi lịch sử vẻ vang, bề dày văn hóa của cố đô Huế và chiểu sâu tâm hồn người Huế. Thông qua đó, tác giả như đã thể hiện lòng yêu nước, niềm tự hào về non sông gấm vóc quê hương mình, và về những giá trị tinh thần thiêng liêng và cao quý của dân tộc.

Bằng tài năng cũng như sự quan sát sắc sảo và năng lực cảm nhận tinh tế, Hoàng Phủ Ngọc Tường dường như đã phản ánh sinh động và thú vị vẻ đẹp muôn màu muôn vẻ rất lạ của sông Hương ở thượng nguồn và hạ lưu. Có thể thấy được hành trình của sông Hương từ thượng nguồn xuôi về biển là hành trình của tâm hồn xứ Huế. Và chính điều này đã được tác giả miêu tả và thể hiện ở nhiều cung bậc khác nhau: vừa mãnh liệt, sối nổi; vừa sâu lắng, thiết tha như lại vừa bình thản, trí tuệ.

Phần thứ nhất dường như rất giống như khúc nhạc dạo đầu của bản trường ca về quê hương đất nước với những hình ảnh tuyệt đẹp, và đã để lại những ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc. Tác giả thật tài tình khi so sánh sông Hương ở thượng nguồn như một bản trường ca của rừng già với tiết tấu hùng tráng có lúc thật dữ dội. Và có khi lại rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, lúc mãnh liệt vượt qua ghềnh thác. Có khi lại như đang cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực sâu, lúc dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ sắc thắm của hoa đỗ quyên rừng.

Tác giả dường như cũng đã phát hiện ra vẻ đẹp của sông Hương ở thượng nguồn tựa như là một “cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại” hiện lên với một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng… Còn khi mà con sông Hương về đồng bằng, chính rừng già dường như đã chế ngự được những sức mạnh bản năng ở người con gái của mình. Từ đó, sông Hương đã rất nhanh chóng mang sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở. Nghệ thuật nhân hóa được sử dụng đắc địa, triệt để và khai thác tối đa đã mang lại cho sông Hương một linh hồn giống như con người vậy.

Và theo tác giả, nếu như chúng ta chỉ mải mê nhìn ngắm khuôn mặt kinh thành Huế mà không chú ý tìm hiểu sông Hương từ nguồn cội thì người ta khó lòng mà có thể hiểu hết được bản chất của sông Hương và vẻ đẹp trong phần tâm hồn sâu thẳm của dòng sông mà chính nó dường như đã không muốn bộc lộ. Tác giả thật đã kín đáo ngụ ý rằng nếu như muốn hiểu đầy đủ về một con người, một miền đất, rộng ra là một đất nước hay cả của một dân tộc thì phải biết rõ về quá khứ. Nếu không được thì chẳng bao giờ hiểu đúng về hiện tại và xác định đước tương lai.

Có thể nói chính đoạn tả sông Hương chảy xuôi về đồng bằng và ngoại vi thành phố Huế thể hiện một nét rất lịch lãm, tài hoa trong lối hành văn thật ấn tượng của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Người đọc, dường như cũng đã cảm nhận được sức hấp dẫn kì lạ toát lên từ hàng loạt động từ diễn tả dòng chảy sống động qua những địa danh khác nhau của xứ Huế. Chính điều này như đã gợi ra những liên tưởng kì thú: Phải nhiều thế kỉ qua đi và như một người tình mong đợi mới đến đánh thức người gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại miên man kia. Nhưng ngay từ đầu, như vừa ra khỏi vùng núi, con sông Hương lúc này dường như đã chuyển dòng một cách liên tục. Nó như đã vòng giữa khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm mại và uyển chuyển biết bao. Con sông Hương như một cuộc tìm kiếm có ý thức để đi tới nơi gặp thành phố tương lai của nó… Từ Tuần về đây, lúc này con sông Hương vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn, nó như đã vượt qua hẳn một lòng vực sâu dưới chân núi Ngọc Trân để sắc nước trở nên xanh thẳm, và cũng chính vì thế mà từ đó nó trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách…

Có thể cảm nhận được như vừa mạnh mẽ vừa dịu dàng, sông Hương mềm như tấm lụa khi chảy qua Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo. Và đó là có khi ánh lên những phản quang nhiều màu sắc sớm xanh, trưa vàng, chiều lại tím,thật như êm ả lúc lượn qua những dãy đồi núi phía tây nam thành phố. Dòng sông mang vẻ đẹp trầm mặc khi chảy qua lăng tẩm, đền đài, là giấc ngủ nghìn năm của những vua chúa được phong kín trong lòng những rừng thông u tịch… để rồi sau đó bừng sáng khi gập tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga tận bờ bên kia, giữa những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà…

Phải là người con của đất Huế, và phải gắn bó yêu thương máu thịt với Huế thì Hoàng Phủ Ngọc Tường mới viết được những câu văn đầy chất thơ và như chứa đựng sự rưng rưng cảm xúc như vậy. Trong đoạn văn này, dường như hai bút pháp kể và tả kết hợp nhuần nhuyễn. Có thể thấy được một sự phối hợp hài hòa giữa màu sắc và âm thanh làm nổi bật vẻ đẹp của từng khúc sông Hương. Tác giả dường như đã sử dụng khéo léo, tài tình phép tu từ thường thấy trong thơ như so sánh kết hợp với nhân hóa, ẩn dụ… đã như khiến đoạn văn giống như bài thơ trữ tình làm xao xuyến lòng người.

Lúc này con sông Hương như đã trở lên vui tươi hẳn lên giữa những biền bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long, đã như kéo một nét thẳng thực yên tâm theo một là hướng tây nam – đông bắc. Và chính ở phía đó, nơi cuối đường, nó đã nhìn thấy chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời, nó trông nhỏ nhắn như nhũng vành trăng non. Giáp mặt, đối diện thành phố ở cồn Giã Viên, sông Hương như đã uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến Cồn Hến. Và có thể nói chính những đường cong ấy làm cho dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu.

Sông Hương thật như giống con sông Xen của Pa-ri, hay là sông Đa-nuýp của Bu-đa-pét ở chỗ là nó đều chảy qua giữa lòng thành phố. Tác giả thật tài tình khi quan sát và cảm nhận sông Hương ở nhiều góc độ. Ở đoạn này, thì dường như tác giả cũng đã miêu tả vẻ đẹp của sông Hương từ góc độ văn hóa. Chính bằng con mắt của họa sĩ, tác giả thấy các nhánh của sông Hương tạo ra những đường nét uyển chuyển, mềm mại, làm nên vẻ đạp cổ kính của cố đô. Và ta như nhận thấy đầu và cuối ngõ thành phố, những nhánh Sông Đào mang nước sông Hương và như đã tỏa đi khắp phố thị, với những cây đa, cây dừa cổ thụ sừng sững kia tỏa vầng lá u sầm xuống những xóm thuyền xúm xít; từ những nơi ấy, vẫn lập loè trong đêm sương. Đó là những ánh lữa thuyền chài của một linh hồn mô tê xưa cũ mà không một thành phố hiện đại nào còn nhìn thấy được như vậy nữa.

Và nếu như xét từ góc độ âm nhạc, tác giả cảm nhận sông Hương giống như điệu slow chậm rãi, sâu lắng, trữ tình biết bao. “Lúc ấy, tôi nhớ lại con sông Hương của tôi, chợt thấy quý điệu chảy lặng lờ của nó khi ngang qua thành phố,”… Đấy là chính là điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế, có thể cảm nhận được bằng thị giác mà thôi, cảm nhận qua trăm nghìn ảnh hoa đăng bồng bềnh vào những đêm hội rằm tháng Bảy từ điện Hòn Chén trôi về, qua xứ Huế bỗng như lại trở nên ngập ngừng như muốn đi muốn ở. Và như đã hao nhẹ trên mặt nước như những vấn vương của một nỗi lòng.

Có thể nói dường như các chi tiết về phong tục, lễ hội qua cảm quan nhạy bén của tác giả cũng trở thành họa, thành nhạc, thành tình, thành thơ. Những câu văn được viết thật dài và với nhịp điệu du dương, êm ái làm cho tâm hồn người đọc tràn đầy cảm xúc bâng khuâng, xao xuyến. Và dường như với tác giả thì sông Hương là cội nguồn của dòng nhạc cung đình Huế, là cảm xúc của Nguyễn Du để viết Truyện Kiều:

Hình như trong những khoảnh khắc chùng lại của cảnh sông nước ấy, thì con sông Hương như bỗng đã trở thành một người tài nữ như đang đánh đàn lúc đêm khuya. Có thể nói rằng toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế đã được sinh thành trên mặt rước của dòng sông này, trong một khoang thuyền nào đó khi giữa tiếng nước rơi bán âm của những mái chèo khuya. Nguyễn Du cũng như đã bao năm lênh đênh trên quãng sông này, với một phiến trăng sầu. Và từ đó,dường như những bản đàn đã đi suốt đời Kiều. Và tác giả như đã chứng kiến một người nghệ nhân già, chơi đàn hết nửa thế kĩ, một buổi tối ngồi nghe con gái đọc Kiều “Trong như tiếng hạc bay qua. Đục như tiếng suối mới sa nửa vời…”. Đến câu ấy, người nghệ nhân chợt nhổm dậy vỗ đùi, chỉ vào trang sách Nguyễn Du mà thốt lên: “Đó chính là Tứ đại cảnh!”.

Có thể nói chính với cái nhìn đắm say của một nghệ sĩ, tác giả thấy sông Hương khi rời thành phố giống như người tình dịu dàng và dường như chung thủy biết bao nhiêu. Chính vì điều này được diễn tả bằng một phát hiện thú vị: …Khi mà con sông rời khỏi kinh thành, sông Hương như đã chếch về hướng chính bắc, nó như ôm lấy đảo cồn Hến quanh năm mơ màng trong sương khói. Và như đang xa dần thành phố để lưu luyến ra đi giữa màu xanh biếc của tre trúc và của những vườn cau vùng ngoại ô Vĩ Dạ. Và bỗng nhiên sông Hương như lại sực nhớ lại một điều gì chưa kịp nói, nó đột ngột đổi dòng, rẽ ngoặt sang hướng đông tây để gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bao Vinh xưa cổ…

Cũng theo tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường thì những khúc quanh rẽ ngoặt thật bất ngờ đó có một cái gì rất lạ với tự nhiên và lại như rất giống con người, tựa như một nỗi vương vấn và dường như còn có cả một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu vậy… Còn khi ra biển, lúc này con sông Hương rất nhớ thành phố. Dường như cái nỗi nhớ không nguôi ấy như đã lắng đọng trong lời thề: “Còn non, còn nước, còn dài, còn về, còn nhớ…”. Và chính lời thề ấy vang vọng khắp lưu vực sông Hương thành giọng hò dân gian. Và ấy chính là tấm lòng người dân nơi Châu Hóa xưa mãi mãi chung tình với quê hương xứ sở. Và vẫn là biện pháp so sánh kết hợp với nhân hóa ẩn dụ nhưng tác giả đã sáng tạo ra những hình ảnh đầy ấn tượng, đậm đà nét đẹp văn hóa xứ Huế.

Trong mối quan hệ qua lại với lịch sử dân tộc, thì con sông Hương lại như mang vẻ đẹp của một bản hùng ca chiến trận ghi lại những vinh quang từ thuở còn là một dòng sông biên thùy xa xôi hẻo lánh của đất nước các vua Hùng. Và ở thuở nó mang tên là Linh Giang (dòng sông thiêng) như trong sách Dư địa chí của Nguyễn Trãi còn ghi. Có thể nói sông Hương chính là dòng sông viễn châu đã chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới phía Nam của Tổ quốc Đại Việt ta. Nó như thật vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ vào thế kỉ mười tám. Dường như nó cũng đã sống hết lịch sử bi tráng của thế kỉ mười chín với máu của những cuộc khởi nghĩa. Con sông Hương lại như đã chứng kiến thời đại mới với cuộc Cách mạng tháng Tám vào năm 1945 và có không biết bao chiến công rung chuyển đất trời qua hai cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ xâm lược cửa dân tộc ta. Con sông Hương còn được biết đến là nhân chứng lịch sử chứng kiến mùa xuân Mậu Thân (1968)-đó chính là thời điểm quân dân ta mở cuộc tổng tiến công vào sào huyệt Mĩ – ngụy và sông Hương dường như cũng đã chứng kiến tội ác hủy diệt của chúng đối với các di sản văn hóa, lịch sử trên đất Huế cổ xưa cho đến nay.

Sông Hương của Hoàng Phủ Ngọc Tường miêu tả hiện lên như đã gắn bó với từng con người xứ Huế, là dòng sông của thời gian ngân vang. Và còn là của sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc. Sông Hương không chỉ là bản hùng ca tấu và ngân vang lên bao chiến công trong lịch sử, mà còn là một nhân chứng nhẫn nại và kiên cường qua những thăng trầm của đất nước. Tuy nhiên, phải nói rằng điều làm nên vẻ đẹp giản dị mà khác thường của dòng sông là ở chỗ là “Khi nghe lời gọi, nó biết cách tự hiến đời mình cho một chiến công, để rồi nó trở về với cuộc đời bình thường, làm một người con gái dịu dàng của đất nước’.

Và phải chăng chính điều đó đã làm cho sông Hương không bao giờ tự lặp lại mình trong cảm hứng của các nghệ sĩ. Sông Hương như đã gắnvới cuộc đời các nghệ sĩ và thi ca. Dường như vẻ đẹp của sông Hương hiện lên muôn màu muôn vẻ trong trí tưởng tượng phong phú của tác giả:

Có một dòng thi ca bất tận về con sông Hương, vf con sông Hương không bao giờ lặp lại chính mình. Có thể nói chính những nét đặc sắc làm nên sức hấp dẫn đặc biệt của đoạn văn ở đây chính là tình yêu say đắm đối với dòng sông được thể hiện bằng tài năng của một cây bút giàu thật quá đỗi cảm xúc và trí tuệ, tổng hợp từ một vốn hiểu biết sâu rộng về văn hóa, lịch sử, địa lí, văn chương cùng một văn phong tao nhã và tinh tế.

Con sông Hương dường như đã sống những thế kỉ quang vinh với nhiệm vụ lịch sử và thẩm mĩ của nó. Trong bài bút kí nổi tiếng ‘Ai đã đặt tên cho dòng sông?” của tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng như đã khẳng định chân lí là “Vẻ đẹp huyền diệu của sông Hương là cội nguồn sinh ra vẻ đẹp của tâm hồn Huế”. Thật vậy, trong cảm nhận tinh tế và lãng mạn của tác giả, ta như thấy toàn bộ thủy trình của dòng sông tựa như một cuộc tìm kiêm có ý thức người tình nhân đích thực của người con gái trong một câu chuyện tình yêu nhuốm màu cổ tích. Có thể nói những hiá trị nghệ thuật của đoạn văn tăng lên qua từng chi tiết và cuối cùng thì thăng hoa bằng câu chuyện về một nhà thơ già.

Chuyện kể đã có một nhà thơ từ Hà Nội đã đến đây, tóc bạc trắng, lặng ngắm dòng sông, ném mẩu thuốc lá xuống chân cầu, hỏi với trời, với đất, một câu thật bâng khuâng là “ Ai đã đặt tên cho dòng sông?”.

Để rồi khi đến với phần thứ ba của bài kí, tác giả lại như đã lí giải tên dòng Hương Giang bằng huyền thoại đầy chất thơ:

Người làng Thành Trung có nghề trồng rau thơm. Ở đây có một huyền thoại kể rằng, vì yêu quý con sông xinh đẹp, nhân dân hai bờ sông Hương đã nấu nước của trăm loài hoa đổ xuống dòng sống cho làn nước thơm tho mãi mãi.

Ai đã đặt tên cho dòng sông? Có lẽ huyền thoại trên đã giải đáp câu hỏi ấy chăng?

Giai thoại đó khiến cho dòng sông vốn đã nên thơ càng thêm thơ mộng: Hương là hương thơm của ngàn hoa đổ xuống làm cho làn nước thơm tho mãi mãi. Thơm tự ngàn năm, thơm đến ngày nay và mãi mãi về sau.

Bài bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” dường như đã giúp chúng ta cảm nhận được vẻ đẹp nên thơ, nên họa, nên nhạc của cảnh sắc thiên nhiên xứ Huế tươi đẹp. Và đặc biệt là sông Hương, qua bài ký ta như thấy được bề dày lịch sử, văn hóa của Huế và chính với những nét duyên dáng riêng của tâm hồn con người vùng đất cố đô này. Phải có một tâm hồn nghệ sĩ đa tình đa cảm, một vốn văn hóa phong phú về Huế cũng như trước hết với một tình cảm gắn bố thiết tha đối với Huế, tác giả mới có thể huy động triệt để mọi tiềm năng văn hóa cùng với vốn ngôn ngữ giàu có của mình để diễn tả cho tường tận đượcvẻ đẹp và chất thơ của Huế. Đặc biệt hơn là đã thể hiện tập trung nhất ở dòng sông Hương – một biểu tượng sinh động của xứ Huế ngàn năm văn hiến từ bao đời nay.

Phân tích Ai đã đặt tên cho dòng sông (Mẫu 15)

Khi nhắc đến nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường, Tô Hoài đã từng nhận xét 'Hoàng Phủ Ngọc Tường là một trong những nhà văn viết bút kí hay nhất của văn học ta hiện nay'. Đúng vậy! Với sự kết hợp giữa chất trí tuệ và chất trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với suy tư đa chiều Hoàng Phủ Ngọc Tường đã có những bài bút kí đặc sắc. Tiêu biểu trong số đó phải kể đến tác phẩm 'Ai đã đặt tên cho dòng sông?' đã làm nổi bật vẻ đẹp đầy quyến rũ, mê hoặc của sông Hương.

Đầu tiên, Hoàng Phủ Ngọc Tường khám phá sông Hương từ góc nhìn không gian địa lí. Sông Hương nơi thượng nguồn là 'bản trường ca của rừng già'. Bản trường ca sông Hương vừa hùng tráng, 'rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc'. Không chỉ vậy đó còn là dòng chảy trữ tình, nên thơ 'dịu dàng say đắm giữa màu đỏ chói lọi của hoa đỗ quyên rừng'. Dưới cái nhìn tinh tế, tác giả thấy sông Hương như 'Cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại'. Sông Hương hiện lên là người con gái của rừng và chính rừng Trường Sơn đã hun đúc lên ở dòng sông một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng. Bằng việc sử dụng phép so sánh, liên tưởng đầy thú vị, tác giả đã ngợi ca sức sống mãnh liệt và vẻ nữ tính đầy mê hoặc của con sông xứ Huế. Khi về đến đồng bằng sông Hương như 'một người gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng châu hóa đầy hoa dại'. Phép liên tưởng ấy đã ngợi ca vẻ đẹp như cổ tích, như huyền thoại của sông Hương. 'Người con gái đẹp' sông Hương được thánh thức bằng tình yêu, bừng tỉnh sau một giấc ngủ dài, mang một diện mạo hoàn toàn mới đầy lãng mạn. Dòng sông bắt đầu chủ động dấn thân vào một hành trình 'tìm kiếm có ý thức' để đi tới nơi gặp gỡ với những người tình mong đợi.

Trong lòng thành phố Huế, sông Hương giống như một người đi xa đã tìm đúng đường về 'Tâm trạng vui tươi hẳn lên giữa những biền bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long' và nó 'Kéo một nét thẳng thực yên tâm để nơi cuối đường nhìn thấy tín hiệu của Huế là cây cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như những vành trăng non'. Rõ ràng, sông Hương giao phó cả cuộc đời mình cho Huế không do dự, không nghi ngờ. Giáp mặt Huế ở Cồn Giã Viên, sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ sang cồn Hến. Chính đường cong ấy làm cho dòng sông mềm hẳn đi, giống như một tiếng 'vâng' không nói ra của tình yêu'. Hoàng Phủ Ngọc Tường lấy cái hữu ảnh, hữu hình của dòng sông so với cái vô hình, vô ảnh của xúc cảm nội tâm. Dòng sông như ẩn chứa một nỗi niềm, một cái chớp mắt, một cái đầu e lệ, một sự thuận tình không nói ra. Trong lòng thành phố, Huế rang rộng vòng tay đón sông Hương và dòng sông nằm trọn trong lòng thành phố yêu quý của mình. Dù không nỡ, nhưng rồi sông Hương cũng phải chia xa Huế. Sông Hương lưu luyến ra đi giữa màu xanh biếc của tre trúc và những vườn cau vùng ngoại ô Vĩ Dạ. Nhưng như sực nhớ một điều gì đó chưa kịp nói, sông Hương đột ngột đổi dòng, quay trở lại gặp Huế lần cuối ở thị trấn Bao Vinh xưa cổ.

Hoàng Phủ Ngọc Tường còn khám phá sông Hương từ góc nhìn thời gian. Trong chiến tranh, sông Hương là dòng sông hùng tráng với những chiến công hiển hách nhưng cũng là dòng sông đau thương với nhiều mất mát, hi sinh. Dòng sông mang số phận chung của con người Việt Nam qua các thời kì lịch sử. Còn giữa đời thường 'Sông Hương là dòng sông của thời gian ngân vang, là sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc'. Dòng sông ấy đổi thay mạnh mẽ từ hùng tráng đến đời thường, bình dị đế nói lên vẻ đẹp muôn đời. Sông Hương không chỉ mang nét đẹp của con người Huế mà còn mang vẻ đẹp của con người Việt Nam. Không chỉ là dòng sông của lịch sử, đây còn là dòng sông của thi ca. Sông Hương là dòng sông không bao giờ tự lặp lại mình trong cảm hứng sáng tác của các nghệ sĩ. Đó là 'dòng sông trắng - lá cây xanh' trong cái nhìn tinh tế của Tản Đà. Từ tha thướt, mơ màng nó chợt hiện lên hùng tráng 'như kiếm dựng trời xanh' trong khí phách của Cao Bá Quát.

Bằng việc sử dụng vô số những liên tưởng, so sánh rất mực tài hoa, lối hành văn uyển chuyển, bút lực dồi dào, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã làm nổi bật vẻ đẹp mê đắm của sông Hương. Qua đây, người đọc có thể cảm nhận được cái tôi mê đắm, tài hoa, uyên bác của tác giả.

Phân tích Ai đã đặt tên cho dòng sông (Mẫu 16)

Đất nước Việt Nam tươi đẹp đã trở thành nguồn cảm hứng lớn lao của các nhà thơ, nhà văn. Nếu từng rung động trước một miền quê Việt Nam yên bình trong trang thơ của Nguyễn Đình Thi, bùi ngùi trước dòng xúc cảm về đất nước muôn màu muôn vẻ dưới ngòi bút Nguyễn Khoa Điềm thì lại càng không thể không yêu một Việt Nam với dòng sông ấy đẹp như mơ. Sông Hương xứ Huế trong trang viết của tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường rất đẹp, rất ý vị trong bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông?.

Tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường là nhà văn chuyên về bút kí. Ông có lối hành văn hướng nội, súc tích, mê đắm,tài hoa, kiến thức phong phú về nhiều lĩnh vực. Đặc biệt, với sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và chất trữ tình, giữa tư duy đa chiều với nghị luận sắc bén, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã mang đến cho bạn đọc nhiều tác phẩm đặc sắc. Các tác phẩm bút kí chính của ông phải kể đến: “Ngôi sao trên đỉnh Phu Văn Lâu”, “Rất nhiều ánh lửa” và “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”.

“Ai đã đặt tên cho dòng sông?” là một trong số những tập bút kí xuất sắc của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Bút kí ban đầu vốn có nhan đề “Hương ơi e phải mày chăng?” được tác giả hoàn thành ngày 4/1/1981 khi nhà văn sống bên bờ sông Hương, trong thành phố Huế hơn bốn mươi năm. Tình yêu sông Hương, xứ Huế thơ mộng đã vun đắp trong ông tình cảm để viết những trang kí đẹp về sông Hương, xứ Huế.

Sông Hương được gắn với điểm nhìn đầu tiên là từ góc nhìn địa lí. Đây cũng là điểm nhìn mà tác giả tập trung khai thác hơn cả trong toàn bài bút kí đi tìm cội nguồn của cái tên: “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”. Sông Hương được minh chứng cho vẻ đẹp của mình ngay khi nó còn nằm trong không gian núi rừng Trường Sơn. Sông Hương được so sánh “như một bản trường ca của rừng già”. Dòng sông đẹp một cách hùng vĩ qua cách miêu tả của tác giả “rầm rộ giữa những bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác và cuộn xoáy như cơn lốc vào đáy vực sâu thẳm”. Nhưng nó cũng rất đỗi trữ tình “dịu dàng và say đắm khi đi qua những rặng dài chói loại màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”. Đến một điểm nhìn khác là giữa lòng Trường Sơn, Hoàng Phủ Ngọc Tường nhân hóa sông Hương “cô gái di gan phóng khoáng và man dại”. Hình ảnh cô gái Di- gan đã cho thấy cái nhìn mới mẻ, độc đáo của tác giả. Sông Hương trong mắt nhà văn là một sinh thể sống tự do, mạnh mẽ, có cá tính, tâm hồn riêng như cô gái Di- gan. Phải rất kỳ công trong khám phá, tinh tế trong cảm nhận thì ông mới phát hiện được cái riêng biệt của người con gái ấy. Nhưng như vậy thôi chưa đủ, Hoàng Phủ Ngọc Tường còn tìm tòi và hướng ngòi hút của mình tới cả những chỗ khuất lấp nhất của dòng sông ấy để viết lên câu chữ đặc sắc. Sông Hương- người mẹ phù sa của vùng văn hóa xứ sở. Lúc này, con sông mang theo vẻ đẹp dịu dàng và trí tuệ bởi lẽ “quãng sông này đã hết ghềnh thác”. Nó mang vẻ dịu hiền của người mẹ và ngày ngày góp phần bồi đắp văn hóa cho người dân sống hai bên bờ sông và xứ Huế. Sông Hương đã góp công to lớn để hình thành, bảo tồn và giữ gìn văn hóa xứ Huế. Dòng sông là người mẹ ngày đêm lặng lẽ, âm thầm cống hiến tạo nên cái đẹp riêng mộng mơ của Huế.

Sông Hương tiếp tục được khám phá ở nhiều nét đẹp trong không gian cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại. Trước hết, nhà văn so sánh “Nó là người gái đẹp nằm ngủ mơ màng”. Người gái đẹp ấy mang vẻ đẹp gợi cảm và đang phô khoe nét đẹp của mình khi chuyển dòng liên tục, vòng giữa khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm. Và những chướng ngại vật cản trở như núi Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo đã tạo cơ hội giúp Hương Giang phô khoe những đường cong mềm mại. Bên cạnh đó, người đọc còn được biết đến nét đẹp đa dạng của con sông với những biến chuyển màu sắc lạ mắt. Có khi các nước trở nên xanh thẳm khi đi qua dư vang của Trường Sơn, sự in bóng của những hàng cây đại ngàn tạo màu xanh cho mặt nước. Còn lại những quãng sông êm đềm, nó trở nên mềm như tấm lụa. Vẻ đẹp đa dạng ấy còn được minh chứng qua sự biến màu của mặt nước: sớm xanh, trưa vàng, chiều tím. Một loạt hình ảnh  liệt kê mang đến bao khám phá về vẻ đẹp của dòng sông. Không chỉ rực rỡ, nổi bật, Hương giang còn quyện mình vào cái lặng tờ  và trầm mặc của không gian. Nó mang vẻ đẹp trầm mặc đi qua những lăng tẩm ở rừng thông u tịch, nhưng rồi lại bừng sáng và tươi tắn khi nghe thấy âm thanh của thành phố, của tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga tận bờ bên kia giữa những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà. Cuộc hành trình sông Hương thực sự trở thành hành trình đi tìm người yêu của người gái đẹp, phô khoe và hoàn thiện vẻ đẹp của mình để đến với người yêu: tìm kiếm và đuổi bắt, hào hoa và đam mê, Thúy Kiều và Kim Trọng.

Trải qua bao chặng đường, Hương Giang đã đến được với người yêu: không gian kinh thành Huế. Khi mới bắt đầu vào thành phố thân yêu, sông Hương được so sánh với “người tình vui tươi và duyên dáng”. Nó rạo rực khi thấy dấu hiệu của thành phố với những bờ bãi xanh biếc và chiếc cầu trắng như vầng trăng non. Những hình ảnh hiện ra tức khắc ấy cũng có cái e ấp của mối tình chớm hé nơi người con gái đẹp. Và người con gái ấy cũng làm duyên, làm dáng lần cuối trước khi gặp mặt người yêu: uốn một cánh cung rất nhẹ sang Cồn Hến. Và khi được ở trong vòng tay người yêu,  con sông như luyến tiếc nên dành tặng một điệu slow dành riêng cho Huế. Nó chảy với lưu tốc chậm đến mức mà Hoàng Phủ Ngọc Tường cảm nhận “cơ hồ chỉ còn là mặt hồ yên tĩnh”. Để nhấn mạnh độ chảy chậm rãi của Hương giang, nhà văn đã đặt nó trong thế đối sánh với sông Nêva “chảy nhanh đến mức làm lũ hải âu muốn nói một câu với người bạn của mình cũng không kịp”. Vì vật mà ông càng thêm yêu quý điệu chảy ngập ngừng. lặng tờ muốn đi muốn ở của dòng sông quê mình. Chúng ta cũng đã từng bắt gặp nét riêng lặng tờ ấy của Hương giang trong những vần thơ của Tố Hữu.

Hương giang ơi dòng sông êm

Con tim ta ngày đêm vẫn tự tình.

Đến cách mà nhà văn lí giải về sự chậm ấy của dòng sông cũng không hoàn toàn theo cái nhìn chủ quan. Hoàng Phủ Ngọc Tường lí giải vận tốc chậm ấy trước hết là do địa lí tự nhiên: ở Huế có nhiều chi lưu làm giảm vận tốc nước cùng với hai hòn đảo nhỏ ở giữa sông ngăn cản dòng chảy. Nhưng theo lí lẽ của trái tim nhà văn thì sông Hương dành quá nhiều tình cảm cho Huế nên không muốn rời xa, muốn nằm mãi trong lòng người yêu. Dù có luyến tiếc thì Hương giang vẫn phải nói lời từ biệt người yêu, rời xa thành phố song con tim vẫn mãi là “ người tình dịu dàng và chung thủy”. Tưởng như sẽ mãi rời xa song sự am hiểu của tác giả đã giúp người đọc biết đến quãng đường đẩy đưa qua lại của dòng sông, rùng rằng nửa đi nửa ở. Sông Hương rời khỏi kinh thành, chếch về hướng chính bắc rồi lại uốn mình theo hướng tây đông và gặp Huế lần cuối ở thị trấn Bao Vinh cổ xưa. Người con gái lưu luyến người yêu và bịn rịn giờ phút chia tay.

Còn dưới góc nhìn lịch sử, dòng sông thơ mộng, người con gái đẹp ấy đã có những chuyển mình lớn lao với vẻ đẹp kiên trì, kiên cường và anh hùng bất khuất. Vẻ đẹp của sự kiên trì, kiên cường ấy đã được minh chứng rõ nét qua chặng đường lịch sử bốn nghìn năm của dân tộc. Từ thời các vua Hùng, sông Hương đã là dòng sông có vị trí quan trọng. Nó là dòng sông nơi biên thùy xa xôi có nhiệm vụ bảo vệ biên giới phía Nam. Đến những thế kỉ trung đại, dòng sông tiếp tục minh chứng ý nghĩa to lớn của mình khi là dòng sông Viễn Châu chiến đấu anh hùng bảo vệ biên giới phía Nam. Bước sang thế kỉ 18, nó không còn oằn mình với những nỗi đau nhưng vẫn thầm lặng cống hiến. Sông Hương vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ. Đến thế kỉ 19 của máu và nước mắt, dòng sông ấy cũng đã sống hết cùng lịch sử với máu của bao cuộc khởi nghĩa. Và sang đến thế kỉ 20, nó lặng lẽ đi vào cuộc cách mạng tháng Tám vẻ vang. Sông Hương cùng những người chiến sĩ đồng hành trong mọi khởi nghĩa chống Pháp, chống Mĩ. Và vì vậy, mà sông Hương đã gây ấn tượng mạnh trong tác giả “hiến đời mình lập chiến công rồi lại trở về làm người con gái dịu dàng”. Hoàng Phủ Ngọc Tường không ngoa khi so sánh “sử thi viết giữa màu của cỏ lá xanh biếc”. Sông Hương quả thật là bản hùng ca và bản tình ca dịu dàng, tươi mát.

Sông Hương càng thêm thi vị khi được nhà văn đặt dưới góc nhìn văn hóa. Con sông tình yêu càng thêm lung linh bởi âm nhạc, thi ca và huyền thoại. Sông Hương được so sánh “người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya” bởi điệu chảy của nó rất phù hợp với những đêm nhạc và đây cũng là nơi sinh thành nền âm nhạc dân gian và cung đình Huế. Như một nàng Kiều, sông Hương có cả tài và sắc. Đồng thời, dòng sông thân thương ấy còn là dòng sông của thi ca. Nó là “nàng thơ” gợi cảm hứng cho biết bao tâm hồn thi sĩ và chưa bao giờ lặp lại mình trong những trang viết. Với mỗi người, sông Hương lại gợi cảm, lại đẹp theo một cách riêng. Phải chăng vì lẽ đó mà nó được biết là dòng sông của huyền thoại. Tên gọi sông Hương quả xứng tầm với nét đẹp dịu dàng nhưng cũng rất cá tính, độc đáo. Và nhà văn đặt ra câu hỏi: “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” thể hiện nỗi niềm băn khoăn, suy ngẫm và ham thích khám phá. Từ truyền thuyết người dân hòa mùi hương của hàng nghìn bông hoa rồi đổ xuống dòng sông mà tác giả đã gợi ra cái đẹp vĩnh hằng cùng danh thơm muôn thuở của dòng sông thần tiên. Những dấu ấn riêng biệt của con sông quê hương với thi, nhạc, họa sẽ không bao giờ phai tàn trong lòng độc giả.

Bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông? được viết bằng tất cả yêu thương của nhà văn. Lối hành văn mượt mà ấy đã giúp sông Hương hiện lên đẹp tuyệt dưới góc nhìn địa lí, góc nhìn văn hóa nhưng cũng rất hào hùng trong góc nhìn lịch sử. Tài năng của nhà văn chính là thành công khi dùng ngòi bút liệt kê, so sánh, nhân hóa rất uyển chuyển, tài tình. Sông Hương hiện lên không khó hiểu, không hề mang nét ương bướng của người gái đẹp mà nhẹ nhàng men theo dòng cảm xúc của niềm yêu, nỗi nhớ và khắc sâu vào lòng người.

Đất nước có biết bao dòng sông đẹp nhưng có lẽ chỉ sông Hương xứ Huế mới đủ làm con người xao xuyến đến thế. Dòng sông ấy bạn có thể chưa từng nhìn trực tiếp nhưng lại có thể hiểu, thể cảm hơn bất kì cảnh vật thân thương nào khác. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã dẫn bước tâm hồn bạn đọc đến với trí tưởng tượng của niềm yêu, của tình thương về một Huế mộng mơ, Hương tuyệt diệu mãi trong trái tim bạn đọc.

Binh Phuoc ...

Phân tích Ai đã đặt tên cho dòng sông (Mẫu 17)

Từ xưa đến nay, thiên nhiên luôn là một nguồn cảm hứng vô tận với các nhà thơ, nhà văn tìm đề tài sáng tác. Nếu như những thi nhân, văn nhân trung đại hướng tâm hồn mình với mây, hoa, tuyết, nguyệt, cầm, kỳ, thi, tửu – những thú vui tao nhã ở đời thì những tác giả hiện đại lại hướng ngòi bút của mình về những cảnh sắc thiên nhiên của đất nước. Và sông nước chính là một trong những cảnh thiên nhiên tươi đẹp ấy. Dòng sông với dòng nước chảy, với lịch sử hình thành cũng như những đặc điểm độc đáo về địa lý đã khơi gợi trong lòng các nhà văn những cảm xúc dạt dào nhất khiến họ phải cầm bút và sáng tạo nghệ thuật. Ai đã đặt tên cho dòng sông? của Hoàng Phủ Ngọc Tường là một tác phẩm như thế. Tác phẩm ra đời từ chính sự thôi thúc trước cái đẹp của nhà văn.

Tác phẩm được viết năm 1981 bằng tình yêu, sự gắn bó hơn nửa cuộc đời với mảnh đất, cảnh vật, con người xứ Huế. Tác phẩm được in trong tập bút ký cùng tên năm 1986.

Đoạn trích được mở đầu bằng một nhận xét mang đậm tính chủ quan về dòng sông Hương: “Trong những dòng sông đẹp ở các nước mà tôi thường nghe nói đến, hình như chỉ có sông Hương là thuộc về một thành phố duy nhất”. Nhà văn không dừng lại ở việc ngắm nhìn khuôn mặt kinh thành với vẻ đẹp sang trọng, cổ kính của sông Hương trong thành phố Huế, ông khao khát ngược dòng không gian, tìm về cội nguồn của dòng sông nơi đại ngàn để khám phá những vẻ đẹp bí ẩn, những sức mạnh tiềm tàng được đóng kín trong phần tâm hồn sâu thẳm của dòng sông trước khi nó về với Huế. Hình ảnh so sánh “bản trường ca của rừng già” khiến sông Hương hiện ra với chiều dài, chiều rộng bao la và dòng chảy mãnh liệt trong sự ngưỡng mộ và trân trọng của nhà văn. Phép điệp cấu trúc cùng những động từ giàu sắc thái biểu cảm như tái hiện âm hưởng hùng tráng, mạnh mẽ của con sông giữa những cánh rừng đại ngàn. Những hình ảnh đối lập làm bật lên những vẻ đẹp đa dạng, độc đáo của sông Hương khúc thượng nguồn.

Những cô gái bô-hê-miêng xinh đẹp và bí ẩn với tính cách mạnh mẽ, phóng túng, ưa tự do, ca hát, nhảy múa đã được gán cho dòng chảy hoang dã khiến cho sông Hương khúc thượng nguồn càng trở nên quyến rũ, đắm say. Sự dịu dàng như một cái bến bình yên sau những thác ghềnh, sóng gió Nhà văn lý giải sự tương phản của sông Hương ở hai khúc thượng lưu và hạ lưu không phải bằng những kiến thức địa lý đơn thuần mà còn bằng cái nhìn suy tư, thấm đẫm tình yêu. Với cách nhìn ấy, sông Hương trong thành Huế vẫn sẽ mang vẻ đẹp bình lặng nhưng không tẻ nhạt, đơn điệu mà thâm trầm, sâu sắc. Đó là vẻ đẹp kín đáo của con người tuyệt đối không muốn bộc lộ cái quá khứ của nửa cuộc đời đầu oanh liệt đã vĩnh viễn ở lại với những cánh rừng đại ngàn. “… hình như không muốn bộc lộ, đã đóng kín lại ở cửa rừng và ném chìa khóa trong những hang đá dưới chân núi Kim Phụng”.

Tiếp đến là những hình ảnh ngoại vi thành phố Huế. Tác giả sử dụng một loạt động từ mang sắc thái nhân hóa, sông Hương như bừng thức sức sống trẻ trung và niềm khát khao thanh xuân. Những cô gái đẹp nằm ngủ trong mơ màng. Hành trình đầy gian truân để gặp “người tình mong. Đoạn văn miêu tả đã cho thấy vẻ đẹp của sông Hương chính là sự bắt bóng kì diệu vẻ đẹp của quần thể thiên nhiên thơ mộng xứ Huế. Thiên nhiên Huế như nguồn phù sa tuyệt vời bồi đắp vẻ đẹp nên thơ cho dòng sông Hương – người con gái dịu dàng của mình Bức tranh sông Hương còn được vẽ bởi một bàn tay nghệ sĩ tài hoa trong nghệ thuật phối màu. Sông Hương thực sự là một bức tranh với những nét vẽ huyền ảo, những sắc màu thơ mộng

Sông Hương hiện ra như một bức tranh lụa huyền ảo với những đường nét mềm mại, hài hòa, tinh tế. Qua cách cảm nhận của âm nhạc, sông Hương đẹp như một điệu slow chậm rãi, trữ tình, sâu lắng

Chất nhạc của dòng sông cũng được thể hiện qua những âm thanh của chính dòng sông và cảnh. Chất nhạc trước hết thể hiện ở chính âm hưởng, nhịp điệu, tiết tấu của văn bản ngôn từ. Chất nhạc còn hiện ra qua cách nhà văn miêu tả nhịp điệu dòng chảy của sông Hương. Đó là âm thanh gợi cõi vô thường, huyền hoặc của tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga tận bờ bên kia Âm thanh nồng ấm thân yêu của những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà Âm thanh không lời của một tình yêu e ấp Âm thanh của chính dòng sông được ví như người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya với tiếng nước rơi bán âm của những mái chèo khuya Âm thanh được gợi ra trong những liên tưởng đến nền âm nhạc cổ điển Huế – một giá trị văn hóa đặc sắc của cố đô được sinh thành và tồn tại trên chính dòng sông. Sông Hương thực sự như một bản nhạc êm đềm giữa lòng thành phố Huế.

Tóm lại, bằng những so sánh, nhân hóa đặc sắc, những liên tưởng mang đậm chất trữ tình khiến sông Hương hiện ra thủy chung và tình tứ giữa thành phố quê hương; vừa dịu dàng, mềm mại như bức tranh lụa huyền ảo, vừa tha thiết, đắm say như một bản nhạc êm đềm.

Phân tích Ai đã đặt tên cho dòng sông (Mẫu 18)

'Ai đã đặt tên cho dòng sông này' là bài bút kí xuất sắc của Hoàng Phủ Ngọc Tường khi viết về dòng sông trữ tĩnh, thơ mộng của Huế. Mạch cảm xúc của bài kí chính là vẻ đẹp đặc trưng, riêng biệt của con sông duy nhất chảy qua dòng thành phố Huế. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã rất tài tình khi lột tả được hết vẻ đẹp và linh hồn của dòng sông mang đặc trưng của Huế này.

Có lẽ vì đặc trung của thể loại bút kí nên lời văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường rất phóng khoáng, điêu luyện, nhẹ nhàng và mềm mại. Với một tấm lòng yêu Huế, yêu cảnh sắc thiên nhiên, yêu sông Hương nên Hoàng Phủ Ngọc tường đã khoác lên bài kí một màu sắc, âm hưởng riêng có của Huế.

Dòng sông Hương được tác giả ngợi ca 'dòng sông duy nhất chảy qua thành phố Huế', dòng sông vắt mình qua thành phố, chứng kiến bao nhiêu đổi thay của mảnh đất này.

Cái nhìn đầu tiên của tác giả khi viết về sông Hương là cái nhìn từ vùng thượng nguồn. Vẻ đẹp của dòng sông lúc này khiến tác giả liên tưởng đến cô gái Di gan phóng khoáng, mê dại, đầy sức hút. Qua ngòi bút của tác giả, sông Hương hiện lên thật kì vĩ 'sông Hương tựa như một bản trường ca của rừng già, khi rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, lúc mãnh liệt vượt qua nhiều ghềnh thác, khi cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực sâu, lúc dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu hoa đỗ quyên rừng'. Chỉ với một vài chi tiết và Hoàng Phủ Ngọc Tường đã lột tả được vẻ đẹp lúc mãnh liệt, lúc dịu êm của sông Hương. Có lẽ đây chính là đặc trưng của sông hương khi ở thượng nguồn, hứng chịu nhiều biến đổi của thời tiết.

Thật độc đáo khi dưới con mắt của tác giả, sông hương tựa như 'Cô gái di gan phóng khoáng và man dại với bản lĩnh gan dạ, tâm hồn tự do và trong sáng'. Có lẽ đây là phép nhân hóa đầy ẩn ý nhằm gợi lên nét đẹp hoang sơ nhưng hấp dẫn của con sông này. Như vậy có thể thấy được qua ngòi bút phóng khoáng của tác giả, sông Hương vùng thượng nguồn toát lên vẻ đẹp kì bí, hùng vĩ và đầy cá tính.

Tuy nhiên đây mới chỉ là ở thượng nguôn, cùng Hoàng Phủ Ngọc tường khám phá vẻ đẹp của dòng sông này khi chảy về thành phố Huế. Có lẽ người đọc sẽ bất ngờ với vẻ đẹp dịu dàng, mềm mại và uyển chuyển của nó. Tác giả đã ví sông Hương như 'người tình dịu dàng và chung thủy của cố đô'. Không phải vô duyên vô cớ mà tác giả lại đi ví von so sánh đầy tính nghệ thuật như vậy.

Sông Hương khi chảy về thành phố có sức hấp dẫn tuyệt vời đối với người đọc. Ở đây chúng ta nhận ra một lối viết nhẹ nhàng, tinh tế, rất mực tài hoa của tác giả. Ông vẽ lên vẻ đẹp của sông hương không chỉ bằng ngôn ngữ mà còn bằng cả trái tim đầy tình yêu thương. Giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại, sông Hương như 'cô gái đẹp ngủ mơ màng' – một vẻ đẹp màu màu sắc của câu chuyện cổ tích tuyệt đẹp. Và sông hương bỗng 'chuyển dòng liên tục' 'ôm lấy chân đồi Thiên Mụ', 'trôi giữa hai dãy đồi sững sững như thành quách'. Một sự diễn tả quá trữ tình, quá độc đáo khiên ngưỡng đọc khó cưỡng lại được vẻ đẹp tuyệt vời này.

Sông hương vừa mềm mại, vừa dịu dàng 'mềm như tấm lụa', có khi ánh lên những phản quang nhiều màu sắc sớm xanh, trưa vàng, chiều tím'. Sự chuyển đổi màu sắc theo mùa, theo thời gian như thế này đã làm nên một nét đặc trưng cho những ai muốn ngắm nhìn sông hương thật lâu.

Hoàng Phủ Ngọc Tường tả sông hương như vẽ, vẽ lên một bức tranh hoàn mĩ và tuyệt vời nhất về dòng sông huyền thoại này. Sông Hương tạo nên nét đẹp của đất cố đô Huế, ẩn mình trong trầm tích của nét văn hóa hàng nghìn năm lịch sử.

Thú vị nhất là đoạn sông hương chảy trong lòng Huế, tác giả cứ ngỡ rằng sông Hương tìm thấy chính mình khi gặp thành phố thân yêu nên tươi vui hẳn lên.

Vẻ đẹp của dòng sông này được cảm nhận dưới nhiều góc độ khác nhau. Nhìn bằng con mắt của hội họa, sông Hương và những chi lưu của nó tạo những đường nét thật tinh tế làm nên vẻ đẹo cổ kính của cố đô; qua cách cảm nhận âm nhạc, sông hương như điệu slow chậm rãi sâu lắng, trữ tình… Một vẻ đẹp khiến người khác phải ngỡ ngàng và đắm say chẳng thể dứt ra.

Sông hương còn là chứng nhân lịch sử, là 'người' chứng kiến sự đổi thay của cố đô Huế từng ngày. Trong sách Dư địa chí 'dòng sông viễn châu đã chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới phía nam của tổ quốc đại việt qua những thế kỉ trung đại, vẻ vang soi bóng kinh thành phú xuân của anh hùng nguyễn huệ…'

Có thể nói rằng để cảm nhận sông hương với nhiều góc độ, nhiều vẻ đẹp khác nhau, Hoàng Phủ Ngọc tường phải có trái tim nhạy cảm, yêu và thương tha thiết dòng sông thơ mộng này. Một lối viết giản dị, nhẹ nhàng nhưng đầy lôi cuốn đã khiến độc giả không thể để dứt mạch cảm xúc. Tác giả đã phát huy được đặc trưng của thể loại bút kì đầy sắc bén và tình cảm này.

'Ai đã đặt tên cho dòng sông này' thực sự là bài bút kí độc đáo. Sông hương hiện lên với tất cả vẻ đẹp mà nó mang.

Phân tích Ai đã đặt tên cho dòng sông (Mẫu 19)

Có ai về xứ Huế mộng mơ mà không một lần ngắm nhìn dòng sông Hương huyền diệu. Con sông đã làm nên nét đặc trưng của xứ Huế. Bởi vậy mà, nó đã trở thành nguồn cảm hứng vô tận cho nghệ thuật trong đó có văn chương. Và một trong những tác phẩm nổi tiếng về sông Hương chính là tùy bút 'Ai đã đặt tên cho dòng sông' của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Nổi bật của tác phẩm này là hình tượng sông Hương đẹp, đầy màu sắc.

Trước hết, sông Hương là 'bản trường ca của rừng già'. Sông Hương gắn liền với đại ngàn Trường Sơn hùng vĩ. Con sông toát lên vẻ đẹp của sức sống mãnh liệt vừa hùng tráng trữ tình như bản trường ca bất tận của thiên nhiên: 'rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn, và cũng có lúc nó trở nên dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng'. Câu văn dài gợi dậy cái dư vang của trường ca. 'Sông Hương đã sống một nửa cuộc đời mình như một cô gái Digan phóng khoáng man dại. Rừng già đã hun đúc cho nó một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng'. Đây là một liên tưởng thú vị độc đáo. Bằng việc ví sông Hương với cô gái Digan, tác giả đã khắc sâu vào tâm trí người đọc một ấn tượng mạnh mẽ. Sông Hương hiện lên như một con người có cá tính, có tâm hồn với vẻ đẹp hoang dại đầy tình tứ. Khi ra khỏi rừng, 'sông Hương nhanh chóng mang một sắc đẹp dịu dàng trí tuệ, trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở'. Cách gọi này giúp người đọc có thêm một cách nhìn, một sự hiểu biết về vẻ đẹp hùng vĩ đầy chất thơ. Sông Hương còn là một đấng sáng tạo. Nó đã tạo nên, gìn giữ và bảo tồn văn hóa của một vùng xứ sở.

Nhà văn tiếp tục hình dung sông Hương như 'người gái đẹp ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại' được người tình mong đợi đến đánh thức. Từ đây, thủy trình của sông Hương khi nó bắt đầu về xuôi như một cuộc tìm kiếm có ý thức. Người tình nhân đích thực của một người con gái đẹp trong câu truyện tình yêu nhuốm màu cổ tích. Thủy trình của sông Hương được miêu tả với sức sống mới, vóc dáng mới. Dòng sông chuyển dòng một cách kiên tục, vòng giữa khúc quanh đột ngột uốn mình qua những đường cong thật mềm. Hành trình khá gian truân, vượt qua nhiều thử thách: 'từ ngã ba tuần sông Hương theo hướng Nam Bắc qua điện Hòn Chén; vấp Ngọc Trản, nó chuyển hướng sang Tây Bắc, vòng qua thềm đất bãi Nguyệt Biều, Lương Quán rồi đột ngột vẽ một hình cung thật tròn về phía đông bắc, ôm lấy chân đồi Thiên Mụ, xuôi dần về Huế. Những câu văn miêu tả dòng chảy địa lý tự nhiên của dòng sông, biến dòng chảy ấy trở thành một hành trình của người con gái đẹp duyên dáng.
Vào giữa lòng thành phố, sông Hương 'vui tươi hẳn lên giữa những biền bãi xanh biếc'. 'Sông Hương nằm ngay giữa lòng thành phố yêu quí của mình'. Sông Hương phẳng lặng đã khiến cho cảnh vật phố Huế trở nên mộng mị, ảo diệu, nhẹ nhàng. Sông Hương như 'điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế'. Sông Hương như một giai điệu chậm rãi khiến cho mọi cảnh vật, mọi thứ xô bồ như một phút lặng. Sông Hương còn được ví với 'tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya'. Tác giả đã gợi đến một nét đẹp văn hóa của Huế gắn với dòng sông thơ mộng: nhã nhạc cung đình Huế. Nhã nhạc phải được biểu diễn trên sông vào đêm khuya mới cảm nhận hết được vẻ đẹp âm nhạc và màu săc văn hóa đặc trưng ở nơi đây.

Khi rời khỏi thành phố, sông Hương như một 'người tình thủy chung'. Khúc ngoặt về hướng Đông của dòng sông trong con mắt của người nghệ sĩ là biểu hiện của nỗi vấn vương, cả một chút lẳng lơ kín đáo. Nhà văn hình dung sông Hương như nàng Kiều trở lại gặp Kim Trọng để nói lời thề trước khi đi xa.

Dòng sông Hương là dòng sông của lịch sử, của thi ca. Trong lịch sử, sông Hương mang vẻ đẹp của một bản anh hùng ca, ghi dấu bao chiến công oanh liệt của dân tộc. Từ dòng sông biên thùy của các vua Hùng, đến bảo vệ biên giới phía Nam của Tổ quốc Đại Việt thời trung đại. Thế kỉ mười tám nó vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ; nó sống hết lịch sử bị tráng của thế kỉ mười chín với máu của các cuộc khởi nghĩa, và từ đấy sông Hương đã đi vào thời đại Cách mạng tháng Tám của những chiến công rung chuyển. Không chỉ lịch sử mà còn là thi ca. Dòng sông không bao giờ tự lặp lại mình. Nó luôn mang vẻ đẹp mới. Nó có khẳ năng khơi nguồn cảm hứng mới cho các nhà văn nghệ sĩ. Một cảm hứng vô tận, nhiều sắc màu.

Hình tượng sông Hương hiện lên trong tác phẩm càng khiến cho bạn đọc yêu thêm dòng sông và muốn được đến thăm thú, nhìn ngắm vẻ đẹp của dòng sông. Đó chính là thành công của Hoàng Phủ Ngọc Tường.

Phân tích Ai đã đặt tên cho dòng sông (Mẫu 20)

Trên khắp dải đất hình chữ S với ba miền: Bắc, Trung, Nam, vùng miền nào cũng đã từng để thương, để nhớ cho biết bao các nhà văn, nhà thơ có tâm hồn lãng mạn, bay bổng. Trong đó đặc biệt phải nói đến khúc giữa của dải đất này với miền Trung của xứ Huế mộng mơ. Thiên nhiên, con người xứ Huế có lẽ luôn nổi bật với nét đẹp nhẹ nhàng và mê đắm, nhưng mấy ai biết rằng, điều làm nên nét đẹp đó chính là nhờ một phần vào nét đặc trưng của dòng sông Hương bao quanh thành phố này. Hoàng Phủ Ngọc Tường với bài kí Ai đã đặt tên cho dòng sông là một tác phẩm viết rất hay, rất sâu sắc về Hương giang - biểu tượng cho thiên nhiên và con người xứ Huế.

Bài kí Ai đã đặt tên cho dòng sông được in trong tập bút kí cùng tên, gồm có 8 bài kí, được tác giả viết ngay sau chiến thắng mùa xuân năm 1975, khi cả nước đang tưng bừng xây dựng chủ nghĩa xã hội. Còn với Hoàng Phủ Ngọc Tường, lòng yêu nước, tinh thần dân tộc thường gắn với tình yêu thiên nhiên, yêu truyền thống văn hóa của dân tộc.

Sông Hương được tác giả miêu tả với ba trạng thái ở ba khúc khác nhau: khi ở thượng nguồn, rồi ở trong lòng và ngoại vi thành phố, thêm một chút đôi nét về văn hóa xứ sở. Với khúc thượng nguồn, Hương giang được nhà văn miêu tả với vẻ đẹp của một 'cô gái Di gan phóng khoáng và man dại', biện pháp nghệ thuật nhân hóa làm cho dòng sông hiện lên như là một cô gái đầy nữ tính, khi mãnh liệt, cháy bỏng, khi thì lại trầm mặc, êm đềm. Hoàng Phủ Ngọc Tường nhìn dòng sông dưới con mắt của 'một kẻ si tình', ông yêu, ông mến cái vẻ đẹp đầy man dại, độc đáo ấy của sông Hương. Dòng sông còn được miêu tả như một bản trường ca của rừng già 'Giữa rừng già, dòng sông là một bản trường ca, nó rầm rộ giữa những bóng cây đại ngàn, nó mãnh liệt vượt qua những ghềnh thác, rồi nó cuộn xoáy như cơn lốc vào đáy vực bí ẩn'. Với mỗi một dòng sông, khúc thượng nguồn là nơi nước chảy xiết nhất, mãnh liệt nhất, cho nên Hương giang cũng như vậy, nguồn nước của nó dồi dào, mạnh mẽ đủ để chảy vào bao quanh cả thành phố Huế của nó. Vừa là bản trường ca của rừng già, sông Hương vừa là 'một người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở', chính sông Hương đã cung cấp lượng phù sa giàu có cho người dân nơi đây, cho thiên nhiên xứ Huế. Nhà văn đã thể hiện được sự hiểu biết và gắn bó sâu sắc của mình với dòng sông của mảnh đất quê hương, bởi ông sinh ra và lớn lên tại thành phố này. Tình yêu dành cho xứ Huế khiến cho cô gái ấy không muốn mở lòng mình ra, chỉ dành trọn tình yêu cho xứ Huế mà trái tim nàng 'đã đóng kín lại ở cửa rừng và ném chìa khóa trong những hang đá dưới chân núi Kim Phụng'

Vượt qua khúc thượng nguồn, sông Hương tìm về với thành phố thân yêu của nó. Sông Hương theo dòng thủy trình đã tìm về thành phố Huế như một sự tìm kiếm có ý thức 'từ ngã ba tuần sông Hương theo hướng Nam Bắc qua điện Hòn Chén; vấp Ngọc Trản, nó chuyển hướng sang Tây Bắc, vòng qua thềm đất bãi Nguyệt Biều, Lương Quán rồi đột ngột vẽ một hình cung thật tròn về phía đông bắc, ôm lấy chân đồi Thiên Mụ, xuôi dần về Huế.' Nó tìm về nơi mà nó phải thuộc về, cũng như dòng sông Xen của Pari hay sông Đa - nuýp của Buđapet chỉ chảy trong lòng một thành phố duy nhất. Tâm trạng của người con gái mộng mơ 'vui tươi hẳn lên giữa những biền bãi xanh biếc' khi nó được gặp người tình của mình, chính là thành phố Huế. Về với miền đất quen thuộc, Hương giang được ví với 'tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya', khơi gợi ra một nét đẹp đặc trưng của cố đô Huế, đó là nhã nhạc cung đình Huế. Làm sao người đọc có thể quên được những lời hát tình tứ, những điệu nhạc du dương vốn đã trở thành nền văn hóa thi ca trên những con thuyền xuôi dòng Hương giang trong những đêm trăng sáng hờ hững, thơ mộng. Phải yêu thiên nhiên, yêu quê hương của mình lắm thì nhà văn mới có thể cảm nhận sâu sắc về dòng sông Hương đến như vậy. Hương giang nhảy 'điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế', nó muốn gắn chặt với nơi đây lâu nhất có thể.

Nhưng dù có chậm rãi đến như thế nào thì cũng đến lúc sông Hương phải từ biệt thành phố để tiếp tục thủy trình của mình. Hình ảnh chia tay của người con gái ấy được miêu tả với tâm trạng đầy lưu luyến, bịn rịn: 'Rời khỏi kinh thành, sông Hương chếch về hướng chính bắc, ôm lấy đảo Cồn Hến quanh năm mơ màng trong sương khói, đang xa dần thành phố để lưu luyến ra đi giữa màu xanh biếc của tre trúc và của những vườn cau vùng ngoại ô Vĩ Dạ. ' Cả một hành trình vượt bao gian nan để gặp được người tình của mình, Hương giang chẳng nỡ lìa xa tình yêu mãnh liệt của nó, cho nên nó đột ngột chuyển dòng, để được gặp lại thành phố một lần nữa ở thị trấn Bao Vinh xưa cổ. Tại đây, sông Hương nói lời thề của mình dành cho thành phố: '“Còn non, còn nước, còn dài, còn về, còn nhớ…”. Lời tạm biệt của dòng sông với xứ Huế gợi liên tưởng đến cảnh chia ly của những đôi tình nhân, cũng bịn rịn, thắm thiết không nỡ rời xa. Thương mến và giàu tình cảm đến như vậy, làm sao người đọc và thành phố này có thể lãng quên đi người con gái thủy chung, son sắt ấy?

Cuối cùng, nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường miêu tả dòng sông Hương với vẻ đẹp gắn liền với những nét đẹp văn hóa của dân tộc. Sông Hương là dòng sông của lịch sử, đã cùng các vị vua Hùng trải qua thời kì khó khăn dựng nước và giữ nước, nó là chứng nhân cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và Mĩ xâm lược, đặc biệt là sự kiện Xuân Mậu Thân năm 1968. Biết bao tội ác của quân giặc được sông Hương nhớ mãi và găm vào trái tim mình. Cùng với đó là những hình ảnh bất khuất, kiên cường của cả dân tộc không thể nào quên. Sông Hương vẫn cứ ở đó, trầm mặc khi bình thường và man dại khi cần thiết, nó sẽ tiếp tục theo chân thành phố và cả dân tộc trong những năm tháng tiếp theo của tương lai. Yêu biết bao vẻ đẹp của con sông trữ tình và mộng mơ ấy!

Với bài bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã làm hiện lên trước mắt người đọc hình ảnh một dòng sông Hương với vẻ đẹp thật nữ tính, làm mê đắm không chỉ với người dân xứ Huế mà còn cả những người lữ khách từng đặt chân tới nơi đây. Đọc tác phẩm, người đọc muốn xách ba lô lên và đi ngay, để được thăm thú và ngắm nhìn người con gái tình tứ với quê hương, với xứ sở thân yêu của nó, cùng như lòng chung thủy bền vững của con người trong tình yêu.

Kiến thức Wiki ...

Phân tích Ai đã đặt tên cho dòng sông (Mẫu 21)

Hoàng Phủ Ngọc Tường là nhà văn chuyên về bút ký, tản văn. Sáng tác của ông gắn liền với tình yêu quê hương, đất nước, yêu con người, đặc biệt là văn hóa Huế. Trong đó “Ai đã đặt tên cho dòng sông” thực sự là một trong những trang văn rất hay của ông về một dòng sông mang bao nhiêu huyền thoại đẹp- sông Hương. Tác phẩm đã hội tụ lối hành văn hướng nội, súc tích, mê đắm và tài hoa của nhà văn. Đọc tác phẩm, người đọc cảm nhận được rõ vẻ đẹp của sông Hương.

“Ai đã đặt tên cho dòng sông” được viết tại Huế vào tháng 1 năm 1981 ngay sau chiến thắng mùa Xuân 1975, trong tác giả vẫn còn bừng bừng khí thế chống ngoại xâm và cảm hứng ngợi ca chủ nghĩa anh hùng. Đây là một trong những tác phẩm tiêu biểu cho thành công của Hoàng Phủ Ngọc Tường ở thể loại ký và tùy bút. Sông Hương là hình tượng trung tâm của tác phẩm. Viết về dòng sông, nhà văn đã có những phát hiện độc đáo bất ngờ để lại ấn tượng mạnh mẽ cho người đọc về vẻ đẹp phong phú trên hành trình từ thượng nguồn ra biển. Đó là vẻ đẹp của cảnh sắc thiên nhiên hùng vĩ trữ tình, vẻ đẹp nên thơ trong mối quan hệ với nền văn hóa Huế và vẻ đẹp bi tráng đồng hành với những sự kiện lịch sử của đất nước. Dưới ngòi bút tài hoa của Hoàng Phủ Ngọc Tường sông Hương đã trở thành biểu tượng của Huế.

Tác giả khám phá vẻ đẹp sông Hương từ nhiều góc độ và trong nhiều mối quan hệ khác nhau thể hiện sự hiểu biết phong phú về nhiều lĩnh vực. Trước hết, nhà văn đã miêu tả Sông Hương khi chảy qua những vùng đất khác nhau. Qua đó đem đến cho người đọc những hiểu biết thú vị về đặc điểm của dòng sông. Ở thượng nguồn, sông Hương vừa hùng vĩ hoang sơ vừa thơ mộng, tác giả đã miêu tả cụ thể dòng chảy của Sông Hương khi đi qua vùng rừng núi: “Trước khi về đến vùng châu thổ êm đềm, nó đã là một bản trường ca của rừng già, rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn, và cũng có lúc nó trở nên dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi của hoa đỗ quyên rừng”. Tác giả đã sử dụng những từ ngữ chính xác “rầm rộ, mãnh liệt, cuộn xoáy” để miêu tả dòng chảy mạnh mẽ của sông Hương kết hợp với những hình ảnh “bản trường ca”, “cơn lốc” cùng nghệ thuật so sánh, qua đó giúp người đọc hình dung về những cung bậc và sức mạnh của dòng sông. Sự hoang sơ hùng vĩ của sông Hương gợi ta liên tưởng đến thác nước sông Đà của Nguyễn Tuân. Vẻ đẹp của sông Hương ở Thượng nguồn đã được khám phá với cái nhìn đa chiều, sự khám phá tinh tế và tâm hồn dạt dào cảm xúc của nhà văn đã làm cho ngay từ những trang văn đầu tiên hình ảnh sông Hương ở thượng nguồn toát lên vẻ đẹp của sức sống mãnh liệt và đầy cá tính.

Khi ra khỏi vùng rừng núi Trường Sơn đến vùng châu thổ, dòng chảy của sông Hương đã được chế ngự. Sông Hương nhanh chóng mang một sắc đẹp dịu dàng trí tuệ. Không chỉ vậy sông Hương còn được tác giả so sánh như “người con gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy man dại”. Sau khi người tình mong đợi đến đánh thức Dòng Sông Đã bừng lên sức trẻ với sự chuyển dòng liên tục “uốn mình theo những đường cong thật mềm, như một cuộc tìm kiếm có ý thức để đi tới nơi gặp thành phố tương lai của nó”. Chỉ trong một câu văn tác giả đã đặc tả hình dáng sông Hương bằng cái nhìn của họa sĩ để làm nổi bật vẻ đẹp hữu tình của dòng sông.

Nếu như ở thượng nguồn, dòng chảy mạnh mẽ của sông Hương được đánh giá là bản trường ca của rừng già thì khi về đến Huế dòng chảy của nó lại rất êm đềm lững lờ “trôi đi chậm, thực chậm, cơ hồ chỉ còn là một mặt hồ yên tĩnh”, câu văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường có nhịp điệu ngắn, chậm rãi, rất phù hợp khi miêu tả tốc độ chảy của nước sông. Sông Hương dường như không muốn chảy để mãi mãi quấn quýt, gắn bó với thành phố thân yêu của mình. Vì vậy từ tả thực nhà văn đã liên tưởng và cho rằng đấy là “điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế”. Dòng chảy của sông Hương đã được cảm nhận như một vũ điệu cổ điển, lãng mạn. Khi ra khỏi Huế, sông Hương mang một vẻ đẹp hữu tình. Sông Hương gắn bó với xứ Huế bằng một tình yêu như mối tình của Thúy Kiều và Kim Trọng cho nên khi ra khỏi thành phố nó cũng có cách riêng “như sực nhớ lại một điều gì chưa kịp nói, nó đột ngột đổi dòng, rẽ ngoặt sang hướng đông- tây để gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn…”. Qua nghệ thuật nhân hóa kết hợp với so sánh, tác giả đã làm cho sông hương giống như một cô gái chung thủy, lưu luyến, bịn rịn từ biệt người yêu của mình. Sự đổi dòng đột ngột của sông Hương đã được miêu tả với bao cảm xúc vấn vương. Ở ngã rẽ này sông Hương đã “chí tình trở lại, tìm Kim Trọng”, “để nói một lời thề trước khi về với biển cả”. Qua cách liên tưởng độc đáo tác giả không chỉ khẳng định sự gắn bó của sông Hương với Huế mà còn lý giải sông Hương muốn gặp lại Huế vì một lý do rất con người. Dòng sông không chỉ đẹp mà còn rất hữu tình, nó càng đẹp hơn khi nó ẩn chứa vẻ đẹp tâm hồn con người xứ Huế.

Hoàng Phủ Ngọc Tường đã khẳng định mối quan hệ gắn bó giữa sông Hương và nền âm nhạc của điển Huế, tác giả viết: “sông Hương đã trở thành một người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”. Cách liên tưởng đã hé mở vẻ đẹp của một dòng sông khơi nguồn cho nền âm nhạc cổ điển Huế, đồng thời làm nổi bật vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ của con người nơi đây. Với sự hiểu biết phong phú về dòng sông thi ca này, tác giả đã khẳng định sự gắn bó hữu tình của dòng sông êm đềm thơ mộng với những thi phẩm bất hủ đã đi cùng năm tháng: “Có một dòng thi ca về sông Hương, và tôi hi vọng đã nhận xét một cách công bằng về nó khi nói rằng dòng sông ấy không bao giờ tự lặp lại mình trong cảm hứng của các nghệ sĩ”. Với cách nói độc đáo tác giả đã đưa người đọc đến một nhận thức, sông Hương là nguồn cảm hứng bất tận cho các nhà thơ và nhấn mạnh sự chủ động của dòng sông. Không phải các nhà thơ tìm đến sông Hương mà sông Hương tự tìm đến với thơ ca để dâng hiến vẻ đẹp tuyệt vời bằng sức hấp dẫn của mình. Điều đó thống nhất trong tính cách mạnh mẽ của dòng sông ngay từ ở thượng nguồn. Không chỉ vậy, gắn liền với dòng chảy êm đềm lững lờ của dòng sông Hương khi đi qua thành phố Huế là những nét đẹp riêng độc đáo của nền văn hóa Huế: “trăm nghìn ánh hoa đăng bồng bềnh vào những đêm rằm tháng 7”. Như vậy, có thể thấy vẻ đẹp của sông Hương và văn hóa Huế hòa quyện vào nhau. Vẻ đẹp của sông Hương mang đậm dấu ấn văn hóa hàng ngày của những người dân vùng đất Cố Đô.

Từ xa xưa sông Hương đã gắn liền với những trang sử dựng nước giữ nước của dân tộc ta khi nó là một dòng sông biên thùy xa xôi của đất nước các vua Hùng. Dòng sông còn được so sánh như “một dũng sĩ đã chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới phía Nam của đất nước Đại Việt qua những thời kỳ trung đại”. Theo dòng lịch sử nhà văn đã phát hiện ra sông Hương là một nhân chứng lịch sử ở thế kỷ XVIII, “nó vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân” của người anh hùng Nguyễn Huệ, đến thế kỷ XIX nó đã đi qua những năm tháng bi tráng. Khám phá vẻ đẹp của sông Hương trong dòng chảy lịch sử của dân tộc, tác giả đã làm nổi bật vẻ đẹp bi tráng của dòng sông gắn bó với những con người và vùng đất Cố Đô.

Như vậy, vẻ đẹp của sông Hương gắn liền với tâm hồn và chiều sâu văn hóa Huế đã được khám phá từ nhiều góc độ và qua những hình thức phong phú. Khắc họa hình tượng sông Hương, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã khẳng định phong cách nghệ thuật độc đáo và sở trường của mình ở thể loại bút ký, đặc biệt là cái tôi tài hoa uyên bác thể hiện sự huy động vốn tri thức, vốn ngôn ngữ phong phú cùng với năng lực liên tưởng tưởng tượng tuyệt vời.

Bài bút ký đã khắc họa thành công hình tượng sông Hương với diện mạo thẩm mỹ phong phú, hùng vĩ và thơ mộng, vừa mang vẻ đẹp sử thi bi hùng, vừa ẩn chứa vẻ đẹp thi vị của thơ ca nhạc họa. Qua hình tượng sông Hương, tác giả không chỉ ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn của con người vùng đất Cố Đô mà còn gửi gắm tình yêu tha thiết và niềm tự hào sâu sắc về quê hương đất nước.

Phân tích Ai đã đặt tên cho dòng sông (Mẫu 22)

Hoàng Phủ Ngọc Tường là một trong những cây bút viết kí xuất chúng của văn học Việt Nam giai đoạn hiện đại. Nhắc đến tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường, chắc hẳn chúng ta không thể không kể đến tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông, một bài bút kí nổi tiếng về vẻ đẹp con sông Hương được ghi chép lại thật tinh tế qua ngòi bút của tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường.

Đến với Ai đã đặt tên cho dòng sông, hẳn người đọc không thể nén được cảm xúc trước vẻ đẹp cảnh quan thiên nhiên sông Hương được miêu tả qua nhiều cung bậc cảm xúc, khi thì phóng khoáng mạnh mẽ, lúc lại hiền hòa mộng mơ như vẻ đẹp của thành phố Huế.

Nằm ngay giữa lòng thành phố yêu quý của mình, sông Hương cũng giống sông Seine của Pari, sông Đa Nuýp của Budapest,… nhưng trong cách biểu đạt tài hoa của tác giả, sông Hương được cảm nhận với nhiều góc độ: nhìn bằng con mắt của hội hoạ, sông Hương và những chi lưu của nó tạo những đường nét thật tinh tế làm nên vẻ đẹp cổ kính của cố đô; qua cách cảm nhận âm nhạc, sông Hương “đẹp như điệu Slow” chậm rãi, sâu lắng, trữ tình và với cái nhìn đắm say của một trái tim đa tình, sông Hương là người tình dịu dàng và chung thuỷ.

Sông Hương trong mối quan hệ với lịch sử dân tộc lại mang vẻ đẹp của một bản hùng ca ghi dấu những thế kỉ vinh quang từ thuở còn là một dòng sông biên thùy xa xôi của đất nước các vua Hùng, thuở nó mang tên là Linh Giang (dòng sông thiêng) trong sách Dư địa chí của Nguyễn Trãi, là “dòng sông viễn châu đã chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới phía nam của Tổ quốc Đại Việt qua những thế kỉ trung đại”,

nó vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ” vào thế kỉ mười tám; “nó sống hết lịch sử bi tráng của thế kỉ mười chín với máu của những cuộc khởi nghĩa”, nó chứng kiến thời đại mới với cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 và bao chiến công rừng chuyển qua hai cuộc chiến tranh vệ quốc sau này…

Sông Hương với cuộc đời và thi ca là một nhân chứng nhẫn nại và kiên cường qua những thăng trầm của cuộc đời. Tuy nhiên, điều làm nên vẻ đẹp giản dị mà khác thường của dòng sông là ở chỗ: khi nghe lời gọi, nó biết cách tự hiến mình làm một chiến công, để rồi nó trở về với cuộc sống bình thường, làm một người con gái dịu dàng của đất nước. Có lẽ chính điều đó đã làm cho sông Hương không bao giờ tự lặp lại mình trong cảm hứng của các nghệ sĩ.

Có thể nói, nét đặc sắc làm nên sức hấp dẫn đặc biệt của đoạn văn là tình yêu say đắm với dòng sông được thể hiện bằng tài năng của một cây bút giàu trí tuệ, tổng hợp từ một vốn hiểu biết sâu rộng về văn hoá, lịch sử, địa lí và văn chương cùng một văn phong tao nhã, hướng nội, tinh tế và tài hoa.

Trích đoạn bài kí Ai đã đặt tên cho dòng sông đã gợi ra vẻ đẹp của Huế, của tâm hồn người Huế qua sự quan sát sắc sảo của Hoàng Phủ Ngọc Tường về dòng sông Hương. Ông xứng đáng là một thi sĩ của thiên nhiên, một cuốn từ điển sống về Huế, một cây bút giàu lòng yêu nước và tinh thần dân tộc. Bài kí góp phần bồi dưỡng tình yêu, niềm tự hào đối với dòng sông và cũng là với quê hương đất nước.

Phân tích Ai đã đặt tên cho dòng sông (Mẫu 23)

Với vốn kiến thức phong phú về văn hóa, lịch sử, địa lí, triết học, những trang viết của Hoàng Phủ Ngọc Tường luôn có sự kết hợp hài hòa, nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và chất trữ tình cùng cách dùng từ ngữ, lối hành văn súc tích, hướng nội, mê đắm và tài hoa. Bài bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông” được viết tại Huế vào năm 1981 là một trong số những tùy bút xuất sắc nhất, tiêu biểu cho phong cách văn chương của Hoàng Phủ Ngọc Tường.

Trước hết, nhà văn đã dùng vốn hiểu biết phong phú và sâu sắc của mình để tái hiện một cách chân thực và rõ nét thủy trình của sông Hương với những vẻ đẹp khác nhau từ thượng nguồn cho đến khi nằm trọn mình trong lòng của thành phố Huế mộng mơ. Ở thượng nguồn, vẻ đẹp của sông Hương đã được tác giả khắc họa bằng những hình ảnh so sánh độc đáo, thú vị. Sông Hương được ví như “một bản trường ca của rừng già, rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn”. Với việc sử dụng câu văn dài, được tách thành nhiều vế cùng các động từ mạnh “rầm rộ’, “cuộn xoáy” và những hình ảnh độc đáo, tác giả đã làm hiện lên một sông Hương với vẻ đẹp mãnh liệt, hùng tráng, nhưng ở dòng sông ấy ta còn thấy vẻ đẹp “dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”. Thêm vào đó, ở thượng nguồn, sông Hương còn được so sánh với “cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại” - một vẻ đẹp giản dị và trong sáng. Cuối cùng, sông Hương ở thượng nguồn giống như “người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở”. Dường như, sông Hương giống như một cái nôi, giống như một người mẹ đã sinh ra và nuôi dưỡng những nét đẹp văn hóa ngàn đời của thành phố Huế. Có thể thấy, bằng hàng loạt những hình ảnh so sánh độc đáo, sông Hương ở thượng nguồn như một sinh thể đa tính cách, có vẻ đẹp hùng tráng mãnh liệt nhưng cũng có vẻ đẹp dịu dàng, nữ tính.

Nếu ở thượng nguồn, sông Hương là một sinh thể đa tính cách thì khi về đến ngoại vi của thành phố Huế tác giả đã cho người đọc thấy được vẻ đẹp dịu dàng, trầm mặc của nó. Bằng cặp mắt quan sát đầy tinh tế của mình, ở ngoại vi thành phố Huế, sông Hương hiện lên như “người gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại” - một người con gái đẹp với những điều cong mềm mại bởi dòng sông ấy đang chuyển dòng một cách liên tục và đang uốn mình để khoe, để phô diễn những đường cong duyên dáng, mềm mại của mình. Thêm vào đó, sông Hương còn hiện lên là một người con gái dịu dàng, duyên dáng và luôn biết cách tự làm mới bản thân mình bằng cách thay đổi liên tục sắc áo của chính mình “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”. Ở nơi đây, sông Hương còn mang trong mình vẻ đẹp trầm mặc, “như triết lí, như cổ thi” bởi nó ẩn mình trong “những rừng thông u tịch” và “lăng tẩm đồ sộ”.

Nếu sông Hương ở ngoại vi thành phố hiện lên với vẻ đẹp của một người con gái đẹp - mềm mại, dịu dàng nhưng đồng thời cũng mang vẻ đẹp trầm mặc thì sông Hương khi đã nằm trọn trong lòng thành phố Huế lại mang nét đẹp riêng. Trong lòng thành phố, sông Hương giống như “điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế”. Đặc biệt, với vốn hiểu biết phong phú và sâu rộng của mình, ông đã đi so sánh sông Hương với những dòng sông khác trên thế giới để làm rõ nét khác biệt của sông Hương. Trước hết, tác giả đã so sánh sông Hương với “sông Xen của Pa-ri, sông Đa-nuýp của Bu-đa-pét” để thấy điểm giống nhau giữa chúng là nằm trọn trong lòng thành phố nhưng đồng thời qua đó cũng thấy được nét khác biệt của sông Hương chính ở chỗ sông Hương vẫn giữ được cho Huế vẻ đẹp của một đô thị, một thành phố cổ với những cây đa, cây cừa cổ thụ, với những ánh lửa thuyền chài lập lòe trong đêm… Thêm vào đó, tác giả đã so sánh sông Hương với sông Lê-nin-grat của Nga để thêm một lần nữa thấy sự khác biệt của sông Hương. Nếu Lê-nin-grat chảy nhanh, lưu tốc mạnh thì sông Hương lại hoàn toàn khác, nó có điệu chảy lặng lờ, chậm rãi, “cơ hồ chỉ còn là mặt hồ yên tĩnh”. Nét chậm rãi, lưu tốc chậm ấy của sông Hương có thể cảm nhận được bằng thị giác qua trăm ngàn những cánh hoa đăng trôi nhẹ nhàng, “như vấn vương của một nỗi lòng”. Sông Hương ở trong lòng thành phố Huế như bản nhạc trữ tình nhẹ nhàng, chậm rãi dành riêng cho mảnh đất cố đô. Cùng với đó, ở nơi đây, sông Hương còn hiện lên như “một người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya” - một người chơi đàn rất giỏi và độc đáo.

Có thể thấy, nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường đã miêu tả lại một cách chi tiết, sinh động và độc đáo về thủy trình của sông Hương từ thượng nguồn đến trước khi ra biển. Nhưng không chỉ dừng lại ở đó, bằng tất cả tình yêu, sự say đắm với sông Hương, với Huế, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã viết về sông Hương ở vẻ đẹp của lịch sử và thi ca. Trước hết, sông Hương hiện lên là dòng sông của lịch sử. Nhìn lại suốt cả chặng đường dài của lịch sử dân tộc, sông Hương đã góp sức mình làm nên những trang sử hào hùng của dân tộc. Thời kì dựng nước, nó là dòng sông biên thùy xa xôi, thời kì trung đại, gắn với tên tuổi của anh hùng Nguyễn Trãi. Và để rồi trong suốt thế kỉ XIX hay trong cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945 và cả mùa xuân năm 1968, sông Hương đã ghi dấu lại những chiến công vẻ vang của dân tộc. Thêm vào đó, sông Hương còn là dòng sông của cuộc đời. Nó như một người con gái dịu dàng của đất nước. Người con gái ấy khi nghe lời gọi, đã “sẵn sàng hiến cuộc đời mình để làm một chiến công” và để rồi khi trở về với cuộc sống đời thường, sông Hương lại là một người con gái dịu dàng. Và cuối cùng, sông Hương chính là dòng sông của thi ca, là một dòng sông đẹp và là nguồn cảm hứng của biết bao nhà thơ, nhà văn. Dòng sông ấy không bao giờ lặp lại mình trong các sáng tác của các nghệ sĩ, mỗi nhà thơ lại có những cảm nhận riêng về nó. Ta có thể bắt gặp những sông Hương với vẻ đẹp khác nhau trong thơ của Tản Đà, Cao Bá Quát, Bà huyện Thanh Quan…

Tóm lại, bằng vốn hiểu biết hướng nội, văn phong mê đắm, tài hoa cùng tình yêu say đắm với sông Hương, với xứ Huế mộng mơ, Hoàng Phủ Ngọc Tường qua bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông” đã thể hiện một cách hấp dẫn, sinh động vẻ đẹp của sông Hương.

Phân tích Ai đã đặt tên cho dòng sông (Mẫu 24)

Nếu ai đã một lần đến Huế, chắc hẳn chẳng thể nào quên được hình ảnh của dòng sông Hương xanh mát uốn lượn thật mềm mại quanh thành phố Huế. Nhưng đã có ai hiểu rõ dòng sông hiền hòa, êm dịu ấy bằng một người yêu Huế tha thiết- Hoàng Phủ Ngọc Tường hay chưa? Bằng một phong cách riêng vừa giàu trí tuệ lại giàu chất thơ, với đầy đủ kiến thức về địa lý, lịch sử, văn hóa, ông đã mang đến cho chúng ta những hình ảnh thật chân thực về con sông Hương của xứ Huế mộng mơ qua bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông.

Sông Hương, nhắc đến cái tên, người ta chợt nhận thấy cái đặc biệt của nó. Sông Hương, chỉ nghe thôi đã thấy thật nồng nàn, thật lãng mạn, nên thơ. Và quả thật, cái tên ấy đúng với dòng sông mang bao điều vừa kì lạ từ cảnh sắc thiên nhiên với thủy trình độc đáo, vừa mang trong mình dòng lịch sử văn hóa của xứ Huế cổ kính này.

Vẻ đẹp của dòng sông Hương qua bút ký của nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường được khơi gợi từ cảnh sắc thiên nhiên mà nó trải qua trong suốt thủy trình dài dằng dặc từ rừng già cho tới khi đặt chân vào kinh thành Huế. Là người am tường về địa lý, lịch sử, văn hóa, tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường đã cho chúng ta thấy rõ ngọn nguồn của dòng sông êm dịu này.

Bắt nguồn từ giữa lòng rừng già, ở khúc thượng nguồn, sông Hương khi ấy còn là 'bản trường ca của rừng già' với vẻ đẹp vừa huyền bí, thật dữ dội khi nó 'rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn'. Sông Hương được nhìn ra từ cội nguồn nơi mà dòng chảy của nó gắn bó chặt chẽ với dãy Trường Sơn. Ở nơi đây, nó được tung mình trong đôi cánh của tự do, giữa cái thâm sâu của núi rừng, nó mãnh liệt vượt qua những bóng cây già, cuộn qua những ghềnh đá nhấp nhô, 'cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn'. Nó như một con thú hoang giữa đại ngàn, thế rồi lại có lúc nó trở lại êm dịu, nhẹ nhàng, đắm say 'giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng'. Và không chỉ thế, nó 'sống nửa đời của mình như một cô gái Di – gan phóng khoáng và man dại' đầy cá tính và tự do giữa những núi non xanh thẳm. Đã từng có nhà văn nào có được sự so sánh độc đáo đến nhường ấy, so sánh một dòng sông giữa đại ngàn như một cô gái Di – gan vừa đầy cá tính lại mang vẻ đẹp 'man dại' của núi rừng? Chắc hẳn chỉ có Hoàng Phủ Ngọc Tường với sự tường tận và tấm lòng yêu quý sông Hương đến bất tận mới có được sự so sánh độc đáo đến như thế! Phải, sông Hương cuồng say chảy trong chốn âm u đại ngàn, nơi đã 'hun đúc cho nó một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng'. Bản năng của một người con gái thật mãnh liệt phải không, khi sông Hương phóng khoáng chảy trong tự do giữa lòng Trường Sơn hùng vĩ? Để rồi cũng chính rừng già ấy lại biến nó trở thành 'một người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở' với một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ. Vậy đấy, có ai biết một dòng sông Hương lặng lờ trôi nhẹ giữa lòng Huế lại có những chặng đường ở thượng nguồn đầy cá tính và mãnh liệt tới vậy?

Bằng những biện pháp so sánh, ẩn dụ, liên tưởng hết sức thú vị, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã dẫn chúng ta tìm lại cội nguồn của sông Hương, nơi người con gái ấy vẫn còn là một cô gái Di – gan 'phóng khoáng và man dại'. Nhịp văn tràn đầy cảm xúc, dồn dập và mãnh liệt, giống như cá tính của cô gái sông Hương ấy, đầy cuồng si với sức mạnh thật hùng vĩ, cuồng say trước khi trở thành một người mẹ phù sa dịu dàng, đầy trí tuệ khi bước chân vào Huế.

Chảy khỏi rừng già, sông Hương được 'hun đúc' để mang một vẻ đẹp khác, không còn cuồng si, hoang dại nữa mà thay vào đó, sông Hương lại trở thành một người con gái đẹp mang vẻ đẹp thật dịu dàng. Đó là khi nó tiến tới vùng đồng bằng và ngoại vi thành phố trước khi thực sự đặt chân vào Huế.

Sông Hương giờ đây lại biến đổi, 'nàng' trở thành 'một người con gái đẹp nằm mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại' cứ dịu dàng, đắm đuối, say mê như thế. Cũng như công chúa ngủ trong rừng cần chàng hoàng tử để thức giấc, sông Hương cũng đang chờ đợi 'người tình mong đợi mới đến đánh thức' sự dịu êm, bình yên của nó. Và rồi, như một cô gái đẹp còn đầy sự e thẹn, nó uốn mình thật nhanh, thật khéo, 'chuyển dòng một cách liên tục', 'uốn mình theo những đường cong thật mềm'. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã dựng lên sông Hương như một người cô gái trẻ đầy sức sống, nàng đang cố gắng vươn mình, thay đổi diện mạo mới để chạy thật nhanh để tìm đến với người tình 'thành phố tương lai' của mình 'như một cuộc tìm kiếm có ý thức'.

Sông Hương ở đây được tác giả thổi hồn vào đó, bừng lên một sức trẻ, một khát khao cháy bỏng của tuổi thanh xuân. Và Hoàng Phủ Ngọc Tường đã thật đúng đắn khi ví von nó như một người con gái đẹp đang trong cuộc tìm kiếm người tình của mình. Sự ví von ấy quá sức độc đáo, táo bạo mà lại thật ý nghĩa!

Mạnh mẽ và dịu dàng, người con gái ấy với một vóc dáng mới, mỹ miều và thanh thoát, với một sức sống căng tràn, chuyển dòng liên tục, 'từ ngã ba Tuần, sông Hương theo hướng nam – bắc qua điện Hòn Chén' rồi đến 'Vấp Ngọc Trản, nó chuyển hướng sang tây – bắc', vòng hoa Nguyệt Biều, Lương Quán và đột ngột 'vẽ một hình cung thật tròn về phía đông – bắc, ôm lấy chân đồi Thiên Mụ, xuôi dần về Huế'. Phải, sông Hương mới vừa từ rừng già trở về, vẫn còn 'đi trong dư vang của Trường Sơn', vẫn còn chút cá tính của một cô gái nơi hoang hoải, thế nên đến khi qua những 'điểm cao đột khởi như Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo' gập ghềnh, người ta mới thấy nó thật mềm như một tấm lụa, thực sự biến đổi thành một cô gái dịu dàng. Nếu ai đã từng đọc bút kí 'Người lái đò sông Đà' của Nguyễn Tuân thì hẳn sẽ hiểu, sông Đà qua thác ghềnh thì hung hãn, hùng vĩ bao nhiêu thì sông Hương, vượt qua thác ghềnh, nó lại trở thành một nàng thơ trong mắt của mọi người. Đi giữa những ngọn đồi, sông Hương cùng những ngọn đồi tạo nên những 'mảng phản quang nhiều màu sắc trên nền trời tây – nam thành phố, 'sớm xanh, trưa vàng, chiều tím''. Màu sắc của dòng sông không còn mang một màu xanh thăm thẳm nữa mà thay đổi theo từng thời điểm trong ngày. Và mỗi khi đi qua những dòng lăng tẩm của vua chúa, nó lại 'trầm mặc' như để tưởng nhớ đến những quá khứ oai hùng xưa kia. Phải, sông Hương mang một vẻ đẹp vô cùng bình dị, vô cùng lắng đọng, dịu êm, thế nhưng lại không hề tầm thường, trầm mặc, dịu dàng nhưng lại không chút ủy mị mà đầy chất trí tuệ, tiềm ẩn sức mạnh sâu kín của thiên nhiên. Kiến thức của Hoàng Phủ Ngọc Tường thật là uyên bác, không chỉ cho người đọc thấy được vẻ đẹp của dòng sông Hương kiều diễm, ông còn in dấu lên nó những địa danh với những lăng tẩm, đền đài, mang nó vào trong từng tiếng chuông chùa Thiên Mụ. Dưới ngòi bút của ông, sông Hương quả thật vừa kiều diễm lại vừa cổ kính, đúng với vẻ đẹp của cố đô Huế.

Sông Hương ở vùng đồng bằng qua con mắt của tác giả thật giàu hình ảnh, thật nên thơ biết bao. Với lối hành văn vừa lịch lãm lại uyển chuyển, sự so sánh độc đáo, đầy hình tượng, đa dạng về hình ảnh đã như giúp người đọc chúng ta tận hưởng được từng nét cọ đang vẽ lên dòng sông Hương thơ mộng của xứ Huế thân yêu.

Thủy trình tiếp theo của sông Hương là chảy vào trong lòng cố đô. Tại đây, dường như đã tìm được đúng người tình của mình, 'sông Hương vui tươi hẳn lên'. Người con gái ấy đã vượt qua chặng đường dài đằng đẵng, trải qua bao nhiêu sự đổi thay, dịu dàng và trưởng thành lên biết bao nhiêu để tìm được tình yêu đích thực của mình. Chính vì thế, tìm được tình yêu, nó quấn quít, sánh đôi không rời với tình lang của mình. Chào thành phố mộng mơ bằng 'một nhánh cung rất nhẹ đến Cồn Hến' như một lời tự tình thật kín đáo và dạt dào yêu thương. Phải, đó như 'một tiếng 'vâng' không nói ra của tình yêu', vừa e thẹn, thận trọng, ngượng ngùng nhưng lại đầy mãnh liệt. Câu văn viết về dòng sông mà người ta tưởng đâu như viết về những người con gái Huế, cũng dịu dàng, tha thiết, thẹn thùng như thế. Những người con gái khi yêu, đâu cần nói ra lời, chỉ một ánh mắt, một nụ cười, một cái cúi đầu e thẹn cũng là tín hiệu bày tỏ sự thuận tình của tình yêu.

Vào đến Huế, sông Hương không còn ồn ào, mãnh liệt nữa, nó trở lại dịu dàng, cơ hồ chỉ như 'một mặt hồ yên tĩnh'. Cũng giống như bao dòng sông nổi tiếng thế giới, 'sông Seine của Paris, sông Đa Nuýp của Budapest', sông Hương nằm trọn trong lòng thành phố yêu thương của mình. Nó cơ hồ thật lặng lẽ 'tỏa đi khắp thành phố', đến bên những cây đa, cây dừa cổ thụ, đến bên những con thuyền chài với ánh lửa như một linh hồn xưa cũ. Vào Huế, nó chầm chậm tĩnh lặng chảy trong lòng Huế, mà tác giả cảm tưởng như 'đó là điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế'. Phải chăng, đến với thành phố của mình, sông Hương muốn được ngắm nhìn thành phố yêu thương thật lâu, thật nhiều, trước khi rời xa, để từ đó linh hồn của sông Hương đã hòa với Huế làm một, không thể tách rời. Để sau này, khi nhắc đến Huế, người ta lại nhắc đến sông Hương như một đôi tình nhân không xa cách.

Đến với Huế, người ta không chỉ đến với những lăng tẩm, đền đài cổ kính từ những triều đại xưa cũ, mà còn đến với những làn điệu, với nền âm nhạc cổ điển Huế. Và sông Hương chính là bà mẹ của nền âm nhạc ấy. Những làn điệu ca dao dân ca Huế chao nghiêng trên mặt sông Hương, chẳng ai có thể cảm nổi thứ nhạc ấy khi ban ngày, bởi 'sông Hương đã trở thành một người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya', nơi mà những tiếng nước rơi bán âm trên những mái chèo khuya. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã khẳng định rằng 'toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế đã được sinh thành trên mặt nước của dòng sông này'. Phải, bởi chính Nguyễn Du cũng đã lênh đênh trên dòng sông này bao năm để từ đó mà những bản nhạc Kiều được sinh ra với tiếng đàn cầm réo rắt. Sông Hương và Huế giống như một đôi tình nhân Kiều và Kim Trọng, hết mực xinh đẹp, hết mực tài hoa.

Có hội ngộ, gắn bó, tất có chia xa. Sông Hương đến với Huế đầy say mê, mãnh liệt để rồi lúc đi xa lại bịn rịn bâng khuâng biết bao điều.Sông Hương rời xa Huế 'chếch về hướng chính bắc, ôm lấy đảo Cồn Hến', 'xa dần thành phố', nó lưu luyến màu xanh của tre trúc, của những vườn cau sai trái của Vĩ Dạ, bịn rịn đến thế, bồi hồi đến vậy. Và rồi, đột ngột, nó 'như sực nhớ lại một điều gì chưa kịp nói', nó vòng lại 'đột ngột đổi dòng' và gặp thành phố ở 'góc thị trấn Bao Vinh xưa cổ'. Quả đúng là cuộc chia tay của đôi lứa tình nhân, biết bao lưu luyến, bịn rịn, chẳng muốn rời xa. Đối với tác giả, đó là 'nỗi vương vấn, cả một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu'. Giống như Kim Trọng và nàng Kiều trong đêm tình tự, sông Hương và Huế cũng đã đặt một lời thề trước khi ra đi về với biển lớn. Sông Hương vốn đã đẹp nhưng với Hoàng Phủ Ngọc Tường, nó còn mang cái hồn thật sống động, tràn trề sức sống, lãng mạn đầy tình tứ.

Và hơn thế, sông Hương chẳng những là dòng sông với vẻ đẹp của thiên nhiên hữu tình mà nó còn mang trong mình vẻ đẹp của dòng lịch sử hào hùng với mảnh đất cố đô nữa. Lần giở lại những trang lịch sử hào hùng, người ta thấy sông Hương từ khi nó còn là 'một dòng sông biên thùy xa xôi của đất nước các vua Hùng'. Vào thời trung đại, nó đã chiến đấu hết mình oanh liệt bảo vệ biên giới phía nam của đất nước Đại Việt và nó còn soi bóng cả kinh đô Phú Xuân lộng lẫy của người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ. Có thể nói, sông Hương đã chứng kiến hết thảy những dòng bi tráng của lịch sử phong kiến Việt Nam, 'với máu của biết bao nhiêu con người đã đổ xuống trong những cuộc khởi nghĩa'. Và đến khi hai cuộc chiến tranh anh dũng nhất của dân tộc nổ ra, nó vẫn là 'dòng sông của thời gian ngân vang', cứ thế đi vào trong thời đại Cách mạng Tháng Tám với biết bao 'chiến công rung chuyển'. Có thể nói, dòng sông ấy đã chứng kiến bao sự đổi khác của từng thời đại, từ xa xưa đến tận ngày nay. Nó là một trong những dòng sông chịu nhiều đau thương, mất mát nhất, có bề dày lịch sử nhất, tự thân nó 'biến mình làm một chiến công'. Với góc độ lịch sử, sông Hương hiện lên thật chói lọi khi trải qua biết bao trang sử hào hùng cùng dân tộc ta. Nó đã ở đó, chứng kiến và góp phần vào sứ mệnh của dân tộc, để đến ngày nay, người ta vẫn tự hào khi nhắc tới dòng sông Hương, kể cả khi nó đã trở về cuộc sống thường ngày, 'làm một người con gái dịu dàng của đất nước'.

Hoàng Phủ Ngọc Tường đã khắc họa dòng sông Hương với bao nhiêu là thi ca ấy qua dòng lịch sử. Với vốn kiến thức phong phú của mình, ông đã tái hiện nó từ thời còn là một dòng sông biên thùy xa xôi, đến tận khi nó hòa mình vào dòng Cách mạng tháng Tám. Quả thật, ông là người am tường cả sông Hương lẫn lịch sử nước nhà.

Là một chứng nhân của lịch sử, nhưng nó cũng là một dòng sông của thi ca, âm nhạc, của văn hóa một vùng xứ sở. Nếu như ở trên, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã khẳng định 'toàn bộ nền âm nhạc của điển Huế' xuất phát từ mặt dòng sông Hương này, là nơi mà Nguyễn Du viết lên khúc ca da diết của Kiều, thì ở dưới đây, ông còn khẳng định nó còn là một dòng sông của thi ca, của nét phong tục, tâm hồn con người Huế.

Phải, trong những thơ của Tản Đà, sông Hương với vẻ đẹp mơ màng 'dòng sông trắng lá cây xanh', trong thơ của Cao Bá, nó mang vẻ đẹp hùng tráng 'như kiếm dựng trời xanh', trong thơ Bà Huyện Thanh Quan, nó là 'nỗi quan hoài vạn cổ với bóng chiều lảng bãng', và với thơ Tố Hữu, nó là 'sức mạnh phục sinh tâm hồn'. Sông Hương quả thực là dòng sông gợi lên nguồn cảm hứng bất tận cho các thi nhân cả xưa và nay. Đúng thật, nó quả thật 'Kiều rất Kiều', vừa xinh đẹp lại giàu tài năng.

Hơn thế, sông Hương còn mang nặng trong mình nét phong tục văn hóa của người dân xứ Huế. Những cô dâu trẻ với chiếc áo cưới 'màu lục điều cùng loại vải loại vải vân thưa màu xanh thẫm lồng trên một màu đỏ ở bên trong' thấp thoáng trong ánh sương mờ tạo nên ánh tím trên mặt sông. Nét trầm mặc rất riêng của tâm hồn con người Huế 'rất dịu dàng và rất trầm tư' phải chăng cũng được tạo nên từ vẻ trầm mặc, sâu lắng thật nên thơ của sông Hương?

Bài bút kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường kết lại bằng câu hỏi 'Ai đã đặt tên cho dòng sông?', đó cũng là câu hỏi khi mở đầu bài viết. Nó đã gợi lên trong lòng người đọc không chỉ nỗi tò mò mà còn là khao khát được tìm hiểu, được khám phá dòng sông huyền bí ấy. Cùng với huyền thoại, 'nước của trăm loài hoa đổ xuống dòng sông' đã mang tới cho sông Hương một danh thơm muôn đời cũng như cái đẹp vĩnh hằng mà nó đang sở hữu. Và để trả lời câu hỏi ấy, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã đi vào bài kí để chứng minh cho chúng ta thấy rõ từ ngọn nguồn của dòng sông cùng vẻ đẹp và chất thơ mà nó mang trong mình. Quả thật, nó hoàn toàn xứng đáng với danh xưng của mình: sông Hương.

Không chỉ vậy, 'Ai đã đặt tên cho dòng sông' còn là cái cớ, cái lý do nhà văn đặt ra để được hợp lý đi vào tìm hiểu, miêu tả, ngợi ca cái vẻ đẹp trường tồn của dòng sông gắn với cố đô cổ kính mà tươi đẹp. Và ông cũng mượn nó để mà thể hiện cảm xúc của mình, tình cảm của mình, sự trân trọng, ngợi ca của mình với sông Hương, với Huế thân yêu.

Về nghệ thuật, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã viết bút kí 'Ai đã đặt tên cho dòng sông?' bằng giọng điệu hết sức suy tưởng, đầy tính triết lý. Ông đã huy động hết những hiểu biết của mình về địa lý, văn hóa,lịch sử để khám phá và cảm nhận. Giọng điệu vừa ngọt ngào, vừa êm dịu, với cấu tứ nhịp nhàng, khoan thai, chọn lọc những điều nổi bật, vừa viết bút kí, vừa đưa vào đó giọng văn trần thuật hết sức tài tình. Để miêu tả vẻ đẹp của sông Hương, ông đã sử dụng triệt để những biện pháp nghệ thuật như nhân hóa, so sánh, ẩn dụ, liên tưởng, … để gợi lên hình ảnh một sông Hương từ man dại, phóng khoáng tới dịu dàng, đắm say. Câu văn giàu hình ảnh, giàu tính nhạc và tính thơ, với góc nhiều từ đa chiều đưa người đọc tìm hiểu hết thảy các khía cạnh của dòng sông Hương.

Tóm lại, Ai đã đặt tên cho dòng sông có thể nói là một bài bút kí đặc sắc nhất, hay nhất khi viết về vẻ đẹp của dòng sông Hương xứ Huế. Viết nó, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã thể hiện tình yêu của mình với xứ Huế thân thương, với sông Hương trữ tình và hơn cả là tình yêu đất nước, niềm tự hào về cảnh sắc của quê hương, tinh thần dân tộc đều chứa chan trong từng câu chữ. Đây còn như lời cảm tạ của ông tới xứ Huế, nơi đã nuôi dưỡng tâm hồn và cho ông niềm cảm hứng bất tận trong thi ca.

Download.vn

Phân tích Ai đã đặt tên cho dòng sông (Mẫu 25)

“Ai đã đặt tên cho dòng sông” là bài bút kí xuất sắc của Hoàng Phủ Ngọc Tường khi viết về dòng sông Hương trữ tĩnh, thơ mộng của Huế. Mạch cảm xúc của bài kí chính là vẻ đẹp đặc trưng, riêng biệt của con sông duy nhất chảy qua dòng thành phố Huế. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã rất tài tình khi lột tả được hết vẻ đẹp và linh hồn của dòng sông mang đặc trưng của Huế này.

Có lẽ vì đặc trưng của thể loại bút kí nên lời văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường rất phóng khoáng, điêu luyện, nhẹ nhàng và mềm mại. Với một tấm lòng yêu Huế, yêu cảnh sắc thiên nhiên, yêu sông Hương nên Hoàng Phủ Ngọc Tường đã khoác lên bài kí một màu sắc, âm hưởng riêng có của Huế.

Dòng sông Hương được tác giả ngợi ca “dòng sông duy nhất chảy qua thành phố Huế”, dòng sông vắt mình qua thành phố, chứng kiến bao nhiêu đổi thay của mảnh đất này. Cái nhìn đầu tiên của tác giả khi viết về sông Hương là cái nhìn từ vùng thượng nguồn. Vẻ đẹp của dòng sông lúc này khiến tác giả liên tưởng đến cô gái Digan phóng khoáng, mê dại, đầy sức hút.

Qua ngòi bút của tác giả, sông Hương hiện lên thật kì vĩ “sông Hương tựa như một bản trường ca của rừng già, khi rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, lúc mãnh liệt vượt qua nhiều ghềnh thác, khi cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực sâu, lúc dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu hoa đỗ quyên rừng”. Chỉ với một vài chi tiết mà Hoàng Phủ Ngọc Tường đã lột tả được vẻ đẹp lúc mãnh liệt, lúc dịu êm của sông Hương. Có lẽ đây chính là đặc trưng của sông Hương khi ở thượng nguồn, hứng chịu nhiều biến đổi của thời tiết.

Thật độc đáo khi dưới con mắt của tác giả, sông Hương tựa như “Cô gái di gan phóng khoáng và man dại với bản lĩnh gan dạ, tâm hồn tự do và trong sáng”. Có lẽ đây là phép nhân hóa đầy ẩn ý nhằm gợi lên nét đẹp hoang sơ nhưng hấp dẫn của con sông này. Như vậy có thể thấy được qua ngòi bút phóng khoáng của tác giả, sông Hương vùng thượng nguồn toát lên vẻ đẹp kì bí, hùng vĩ và đầy cá tính.

Tuy nhiên đây mới chỉ là ở thượng nguồn, cùng Hoàng Phủ Ngọc Tường khám phá vẻ đẹp của dòng sông này khi chảy về thành phố Huế. Có lẽ người đọc sẽ bất ngờ với vẻ đẹp dịu dàng, mềm mại và uyển chuyển của nó. Tác giả đã ví sông Hương như “người tình dịu dàng và chung thủy của cố đô”. Không phải vô duyên vô cớ mà tác giả lại đi ví von so sánh đầy tính nghệ thuật như vậy.

Sông Hương khi chảy về thành phố có sức hấp dẫn tuyệt vời đối với người đọc. Ở đây chúng ta nhận ra một lối viết nhẹ nhàng, tinh tế, rất mực tài hoa của tác giả. Ông vẽ lên vẻ đẹp của sông Hương không chỉ bằng ngôn ngữ mà còn bằng cả trái tim đầy tình yêu thương. Giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại, sông Hương như “cô gái đẹp ngủ mơ màng” – một vẻ đẹp đầy màu sắc của câu chuyện cổ tích tuyệt đẹp. Và sông Hương bỗng “chuyển dòng liên tục” “ôm lấy chân đồi Thiên Mụ”, “trôi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách”. Một sự diễn tả quá trữ tình, quá độc đáo khiến người đọc khó cưỡng lại được vẻ đẹp tuyệt vời này.

Sông Hương vừa mềm mại, vừa dịu dàng “mềm như tấm lụa”, có khi ánh lên những phản quang nhiều màu sắc sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”. Sự chuyển đổi màu sắc theo mùa, theo thời gian như thế này đã làm nên một nét đặc trưng cho những ai muốn ngắm nhìn sông hương thật lâu.

Hoàng Phủ Ngọc Tường tả sông Hương như vẽ, vẽ lên một bức tranh hoàn mĩ và tuyệt vời nhất về dòng sông huyền thoại này. Sông Hương tạo nên nét đẹp của đất cố đô Huế, ẩn mình trong trầm tích của nét văn hóa hàng nghìn năm lịch sử. Thú vị nhất là đoạn sông Hương chảy trong lòng Huế, tác giả cứ ngỡ rằng sông Hương tìm thấy chính mình khi gặp thành phố thân yêu nên tươi vui hẳn lên.

Vẻ đẹp của dòng sông này được cảm nhận dưới nhiều góc độ khác nhau. Nhìn bằng con mắt của hội họa, sông Hương và những chi lưu của nó tạo những đường nét thật tinh tế làm nên vẻ đẹp cổ kính của cố đô; qua cách cảm nhận âm nhạc, sông Hương như điệu slow chậm rãi sâu lắng, trữ tình…Một vẻ đẹp khiến người khác phải ngỡ ngàng và đắm say chẳng thể dứt ra.

Sông Hương còn là chứng nhân lịch sử, là “người” chứng kiến sự đổi thay của cố đô Huế từng ngày. Trong sách Dư địa chí “dòng sông viễn châu đã chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới phía nam của tổ quốc đại việt qua những thế kỉ trung đại, vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân của anh hùng Nguyễn Huệ…”

Có thể nói rằng để cảm nhận sông Hương với nhiều góc độ, nhiều vẻ đẹp khác nhau, Hoàng Phủ Ngọc Tường phải có trái tim nhạy cảm, yêu và thương tha thiết dòng sông thơ mộng này. Một lối viết giản dị, nhẹ nhàng nhưng đầy lôi cuốn đã khiến độc giả không thể để dứt mạch cảm xúc. Tác giả đã phát huy được đặc trưng của thể loại bút kí đầy sắc bén và tình cảm này.

“Ai đã đặt tên cho dòng sông” thực sự là bài bút kí độc đáo. Sông Hương hiện lên với tất cả vẻ đẹp mà nó mang.

Phân tích Ai đã đặt tên cho dòng sông (Mẫu 26)

Tác phẩm “Ai đã đặt tên cho dòng sông” là một bài bút kí nổi tiếng của tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường. Ông là một nhà văn mang nặng ân tình với xứ Huế. Tác phẩm của ông đã lột tả được hết vẻ đẹp và linh hồn của dòng sông Hương, con sông mang đậm đặc trưng và dấu ấn của xứ Huế mộng mơ.

“Ai đã đặt tên cho dòng sông” được tác giả trình bày dưới dạng ký, thể loại văn ghi lại cảm xúc cũng như tình cảm của con người một cách sâu sắc và súc tích nhất. Thể loại này đưa bài kí vào lòng người đọc một cách nhẹ nhàng nhưng cũng rất chân thành. Qua giọng văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường, dòng sông Hương hiện lên thật ấn tượng, với một vẻ đẹp thơ mộng đến ngỡ ngàng. Con sông này chính là dòng chảy duy nhất qua thành phố Huế, chính vì điều đó nên nó mang một đặc trưng riêng của xứ Huế mà không nơi nào có được. Có lẽ không chỉ tác giả mà những người dân xứ Huế cũng rất tự hào vì điều này.

Dưới ngòi bút tinh tế, sâu sắc cùng tình yêu tha thiết của Hoàng Phủ Ngọc Tường, con sông đã trở nên lộng lẫy, mê hoặc người đọc. Con sông hiện lên với nhiều góc độ, nhiều khía cạnh, với chiều dài của thời gian và chiều sâu của không gian. Và dù cho dưới góc độ nào thì sông Hương vẫn rất đẹp và nên thơ như thế.

Đầu tiên, tác giả muốn nói đến sông Hương ở vùng thượng nguồn. Đó là một vẻ đẹp mà không lẫn vào đâu được. Hình ảnh “một cô gái di gan phóng khoáng và man dại; tự do và trong sáng” được tác giả ưu ái khiến cho bóng dáng ấy đi vào lòng người đọc một cách chân thực nhất. Sông Hương còn được tác giả vẽ lên một cách đầy mê hoặc, đó là sông Hương như bản trường ca của rừng già; rầm rộ và mãnh liệt nhưng có lúc lại “dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi của màu đỏ hoa đỗ quyên rừng”.

Dường như chỉ có duy nhất màu đỏ, một màu sắc đầy hoang dại ấy mới toát lên được vẻ đẹp đầy sức ám ảnh nhưng lại rất đỗi bình dị của sông Hương. Vẻ đẹp của con sông ở vùng thượng nguồn chắc chắn là một vẻ đầy mê đắm và tinh tế. Và đây cũng chính là đặc trưng của xứ Huế nên thơ và trữ tình.

Hơn thế nữa, sông Hương là dòng sông duy nhất thuộc về thành phố Huế. Chính vì thế nên vẻ đẹp của sông Hương là vẻ đẹp vang bóng một nền văn hóa trải qua nhiều thăng trầm nhưng cũng rất đỗi bí ẩn, quyến rũ của cố đô Huế. Trong con mắt của Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương như “người con gái dịu dàng, đằm thắm, mềm mại trong lòng Huế”. Dòng sông thật đẹp và lãng mạn biết bao.

Để rồi khi sông Hương về với thành phố mộng mơ, rời xa thượng nguồn thì con sông lại trở nên mê đắm hơn bao giờ hết. Cô gái digan hoang dại ấy đã “vượt qua một lòng vực sâu dưới chân núi Ngọc Trản, để sắc nước trở nên xanh thẫm, trầm mặc như triết lý….; cho đến khi gặp được tiếng chuông Thiên Mụ, nghe âm thanh bát ngát tiếng gà, từ ấy sông Hương rạng rỡ như nắng mới, nàng uốn một cánh cung thật nhẹ, đến khi giáp mặt với thành phố, đường cong ấy làm cho nàng như mềm hẳn đi, như một tiếng vang không nói ra của tình yêu.”

Những câu văn thật nhẹ nhàng nhưng vô cùng tình tứ, lãng mạn được tác giả dùng để miêu tả vẻ đẹp của sông Hương khi về với thành phố Huế. Những đường nét mềm mại, mê đắm của sông Hương khiến cho tất cả ai khi đọc cũng đều cảm thấy sửng sốt, ngỡ ngàng, và cứ thế sông Hương len lỏi vào trong lòng người đọc một cách chân thực nhất.

Không chỉ vậy, đối với cố đô Huế, sông Hương còn là một nhân chứng đã cùng chứng kiến biết bao đổi thay, cùng những thăng trầm của thành phố Huế. Sông Hương cứ thế tồn tại như vậy, trải qua biết bao sự việc, cùng những năm tháng không thể nào quên của cố đô Huế nói riêng và thành phố Huế nói chung.

Chỉ với những câu văn giản dị, tinh tế, cùng với tình yêu chân thành tha thiết đối với mảnh đất và con người xứ Huế, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã đem đến cho người đọc hình ảnh dòng sông Hương thơ mộng, lãng mạn hơn bao giờ hết. Dòng sông Hương trong văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường khiến cho ai đã từng đọc qua đều mong muốn được một lần đặt chân đến nơi đây, để được đắm mình trong những gì nên thơ nhất của xứ Huế.

Phân tích Ai đã đặt tên cho dòng sông (Mẫu 27)

Ai đã một lần đến với Huế chắc hẳn sẽ không thể nào quên dòng sông Hương xinh đẹp. Những nét đẹp cổ kính, trầm mặc, thơ mộng trên mảnh đất này đều ít nhiều mang dáng hình của sông Hương. Bởi vậy khi viết về sông Hương, các nhà thơ, nhà văn luôn dành cho dòng sông này một tình cảm thiết tha, nâng niu và trân trọng.

Bài tùy bút của Hoàng Phủ Ngọc Tường “Ai đã đặt tên cho dòng sông” in trong tập sách cùng tên cũng đã dành cho sông Hương những tình cảm như thế. Bằng những rung cảm tinh tế và những lời văn giàu chất trữ tình, lối liên tưởng phong phú, tác giả đã mang người đọc đến với vẻ đẹp của một dòng sông đầy mê đắm, thân thương.

Sông Hương mang trong mình vẻ đẹp trù phú, vô tận mà thiên nhiên trao tặng. Từ thượng nguồn, sông Hương mang vẻ đẹp rất đỗi oai hùng, hoang dại, “chảy rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy rừng bí ẩn”.

Sông Hương mang sức sống mãnh liệt, tự do, dòng sông như “một cô gái Di- gan phóng khoáng và man dại”. Song, có lúc, cũng dịu dàng, đằm thắm, sâu sắc vô bờ “trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hoá xứ sở- đẹp dịu dàng và trí tuệ”. Nàng Hương xinh đẹp ấy cũng vô cùng yêu kiều giữa những bông hoa đỗ quyên nơi rừng già “dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”.

Sau những cuộc du hành của mình đến với bao địa điểm mới lạ và hấp dẫn như: Điện Hòn Chén, Nguyệt Biều, Lương Quán, chùa Thiên Mụ,.. sông Hương sẽ đến với Huế thương. Giữa những cánh đồng mênh mông, êm đềm, nàng Hương như “người con gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hoá đầy hoa dại”. Đường cung uốn mình đầy điệu nghệ và dẻo dai của sông Hương đưa nàng đến với Huế sau khi vỗ về ôm ấp chùa Thiên Mụ.

Nằm trong lòng cố đô, nàng mỉm cười với Huế trong niềm háo hức và hạnh phúc khôn nguôi, có lẽ sau bao vất vả, đến được với người thương của mình khiến nàng không khỏi xúc động, và có lẽ với niềm thương chân thành ấy mà sông Hương lúc này đây đang dâng tặng trọn vẹn sự đẹp đẽ của mình cho Huế.

Giữa lòng thành phố thương yêu, sông Hương mềm mại như một dải lụa, lững lờ trôi êm đềm trông vô cùng xinh đẹp và dịu dàng, điểm xuyết giữa dòng là những chiếc thuyền bé nhỏ, lập lòe trong màn đêm, là những ánh đèn nhỏ trên thuyền trông đẹp và thơ mộng biết bao. Sông Hương lúc này đây như một điệu “slow” ngọt ngào dành riêng cho Huế ,cho mỗi mình Huế mà thôi.

Sông Hương còn là nơi ghi dấu bao nét văn hoá của dân tộc, đó là những làn điệu ca Huế trên sông khi về đêm, là tiếng đàn tinh tế của người tài nữ trên khoang thuyền khi về khuya. Là những câu hò dân gian khiến bao người mê đắm. Tiếng nhạc hòa cùng hồn thiên nhiên vang vọng mãi trong lòng người.

Không chỉ mang vẻ đẹp của thiên nhiên, mang dấu ấn của văn hoá, sông Hương còn là chứng nhân cho bao thời kỳ lịch sử của vùng đất kinh kỳ này. Từ xa xưa, nó đã là một dòng sông biên thùy xa xôi, qua thời kì trung đại, dòng Linh Giang đã cùng người anh dũng chiến đấu với quân thù.

Trải qua bao mồ hôi, máu và nước mắt, sông Hương cùng nhân dân nước Việt lập nên bao chiến công hiển hách, hào hùng. Dường như sông Hương như một người mẹ hiền từ và bao dung, suốt đời mình lặng lẽ đồng hành, dõi theo từng bước trưởng thành của đất Huế cho tới bây giờ.

Có lẽ, với Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương đã trở thành một phần đặc biệt của vùng đất cố đô. Sông Hương như hồn thơ của những người thi sĩ, có buồn, có vui, có thương, có nhớ, có mãnh liệt, có dịu dàng, e ấp và cả khí phách quật cường, kiên trinh. Sông Hương mang dáng hình của những người con gái Huế, mang cốt cách của con người Huế, chân thành, bình dị, đằm thắm, tin yêu.

Bằng khát khao tìm kiếm, sự đam mê khám phá cùng những rung cảm tinh tế, Hoàng Phủ Ngọc Tường viết nên những dòng bút kí đầy chất thơ, chạm đến tâm hồn người đọc một cách nhẹ nhàng mà đầy chân tình.

Đọc xong đoạn bút kí, em thấy thêm yêu, thêm quý những cảnh đẹp quê hương mình. Vẻ đẹp thực chẳng cần tìm kiếm ở đâu xa, nó đến từ những điều bình dị gần gũi nhất của đất nước, quê hương. Hy vọng rằng, em sẽ có dịp được đến với thành phố Huế mộng mơ để đắm chìm và cảm nhận những nét đẹp của dòng sông Hương này.

Phân tích Ai đã đặt tên cho dòng sông (Mẫu 28)

Sông Hương – xứ Huế đã trở thành nguồn cảm hứng cho rất nhiều nghệ sĩ. Nhưng có lẽ, chỉ Hoàng Phủ Ngọc Tường - một cây bút tài hoa lãng mạn, một người con thân yêu của Huế mới có thể khiến sông Hương hiện lên với vẻ đẹp toàn bích. “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” là bài bút kí xuất sắc của Hoàng Phủ Ngọc Tường.

Hoàng Phủ Ngọc Tường được coi là “Nhà văn của những dòng sông kỉ niệm”. Là con người đa tài, phóng khoáng, nhà văn đã đặt chân đến nhiều vùng đất nhưng Huế mộng mơ và dòng Hương giang huyền ảo vẫn luôn có một vị trí đặc biệt trong lòng nhà văn. Nhan đề “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” là câu hỏi của một nhà thơ Hà Nội khi lặng ngắm dòng sông. Tác giả đã lý giải tên dòng sông bằng câu chuyện dân gian lấp lánh sắc màu huyền thoại. Người làng Thành Chung có nghề trồng rau thơm. Nhân dân hai bờ sông đã nấu nước của trăm loài hoa đổ xuống dòng sông cho làn nước thơm tho mãi mãi. Không phải một nhà hiền triết uyên thâm hay vị tao nhân mặc khách nào mà chính những người dân bình thường đã sáng tạo, bồi đắp cho mảnh đất văn hóa ấy. Cách lí giải này cho thấy tình yêu tha thiết của nhà văn dành cho cố đô Huế và sông Hương, đồng thời thể hiện lòng biết ơn, ngưỡng mộ dành cho những con người đã khai phá vùng đất này.

Trong tác phẩm, sông Hương được tác giả miêu tả với ba trạng thái ở ba chặng khác nhau gồm khi ở thượng nguồn, ở trong lòng thành phố và ngoại vi thành phố.

Trường Sơn là chứng nhân lịch sử cho những năm tháng gian lao và hào hùng của dân tộc nên ở đây, sông Hương cũng mang dáng vẻ dữ dội, mạnh mẽ tựa như một “bản trường ca của rừng già”. Sự kết hợp của những hình ảnh ấn tượng như “ghềnh thác”, “đại ngàn”, “cơn lốc”, “đáy vực” và hệ thống từ giàu tính biểu cảm “rầm rộ”, “cuộn xoáy”, “mãnh liệt”, “dịu dàng”, “say đắm”, “chói lọi” diễn tả sức mạnh của dòng chảy. Bên cạnh đó, các gam màu rực rỡ như màu xanh của bóng cây, màu đỏ của hoa đỗ quyên khiến bức tranh sông Hương tràn đầy sức sống. Nhà văn so sánh dòng sông với “cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại”, cho thấy vẻ đẹp khỏe khoắn, trong sáng và phóng khoáng vô cùng. Và quả thực, giống như những thiếu nữ có tâm hồn kín đáo và thanh khiết, sông Hương chẳng chịu phô bày mình. Dòng sông bèn đóng cửa lòng mình ở cửa rừng và ném chiếc chìa khóa vào những hang đá ở chân núi Kim Phụng. Nếu ta không chú ý tìm hiểu sông Hương từ nguồn cội thì chẳng thể nào nắm bắt được bản chất của nó. Cái hay của Hoàng Phủ Ngọc Tường nằm ở chỗ dù miêu tả sự hào hùng nhưng giọng văn của ông vẫn đượm chất trữ tình.

Trong hành trình theo chân con sông xuôi về đồng bằng, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã phát hiện ra sự thay đổi tính cách của sông Hương. Toàn bộ thuỷ trình của dòng sông được tác giả cảm nhận như “một cuộc tìm kiếm có ý thức người tình nhân đích thực của cô gái trong câu chuyện tình yêu nhuốm màu cổ tích”. Không gian mở ra đẹp như huyền thoại: “Phải nhiều thế kỉ đi qua, người tình mong đợi mới đến đánh thức người gái đẹp ngủ mơ màng giữa cánh đồng châu hóa đầy hoa dại”. Ngay từ đầu vừa ra khỏi vùng núi, sông Hương đã “chuyển dòng một cách liên tục, vòng giữa khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm”. Dòng sông như bừng lên sức trẻ, niềm khao khát tình yêu, không thể chờ đợi thêm để có thể gặp được Huế. “Từ ngã ba Tuần, sông Hương theo hướng nam bắc qua điện Hòn Chén; vấp Ngọc Trản, nó chuyển hướng sang tây bắc, vòng qua thềm đất bãi Nguyệt Biều, Lương Quán rồi đột ngột vẽ một hình cung thật tròn về phía đông bắc, ôm lấy chân đồi Thiên Mụ, xuôi dần về Huế”. Câu văn dài, liệt kê nhiều địa danh khiến người đọc có cảm giác được ngồi trên du thuyền mà chiêm ngưỡng danh lam xứ Huế. Nhà văn đã vận dụng những kiến thức văn hóa trên nhiều lĩnh vực, kết hợp giữa kể và tả để làm nổi bật từng bước đi của sông Hương.

Bức tranh sông Hương có thêm đường nét, có hình khối. “Sắc nước trở nên xanh thẳm, và từ đó nó trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách, với những điểm cao đột ngột như Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo mà từ đó, người ta luôn nhìn thấy dòng sông mềm như tấm lụa với những chiếc thuyền xuôi ngược chỉ bé bằng con thoi”. Qua những dãy đồi phía Tây Nam thành phố, sông Hương “ánh lên những phản quang rực rỡ. Nếu ta từng yêu cái xanh mướt mát như ngọc trong khu vườn thôn Vĩ, ắt hẳn cũng sẽ say mê sắc màu “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím” của sông Hương. Xanh, vàng, tím đều là những gam màu quen thuộc nhưng qua con mắt của Hoàng Phủ Ngọc Tường bỗng trở thành đặc trưng của không gian Huế. Lạc đến những lăng tẩm, đền đài sông Hương mang vẻ đẹp trầm mặc “như triết lí, như cổ thi”. Lướt mình dưới chân những rừng thông u tịch, dòng sông khẽ khàng đi qua những lăng mộ của các vua chúa triều Nguyễn. Mặt nước phẳng lặng, êm ái. Tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân dài, tiếng gà gáy vẳng đến từ các thôn xóm. Không gian thật thanh bình và cổ kính. Hoàng Phủ Ngọc Tường trở thành một họa sĩ chuyên nghiệp khi có thể khắc họa những đường uốn lượn của dòng sông.

Nhà văn đang đóng vai một người kể chuyện, đôi khi tập trung vào những chi tiết rồi lại kéo ta trở về với hành trình chính. Đắm mình trong tiếng chuông chùa, ta giật mình nhận ra những xóm làng đã lùi xa. Sông Hương đã gặp Huế. Sông Hương “vui tươi hẳn lên giữa những biền bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long”. Như những người yêu nhau không thể kìm lòng trong giây phút gặp mặt, dòng sông “kéo một nét thẳng thực yên tâm theo hướng Tây – Nam, Đông - Bắc” khi nhìn thấy “chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như một vành trăng non”. Càng đến gần thành phố, sông Hương càng phô bày hết vẻ nữ tính, yêu kiều. “Khi đã giáp mặt thành phố ở Cồn Giã Viên, sông Hương Uốn một cánh cung rất nhẹ sang Cồn Hến, đường cong ấy làm cho dòng sông mềm hẳn đi như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu”. Tiếng “vâng” ở đây chính là sự đồng điệu của hai trái tim cùng chung nhịp đập. Chứng kiến câu chuyện tình yêu giữa sông Hương và Huế, ngắm nhìn dòng sông khi đã ở trong lòng thành phố của nó, ta mới thấy hết được vẻ đẹp, sức sống “bình dị nhưng không tầm thường, trầm mặc nhưng không ủy mị, dịu dàng nhưng vẫn tiềm ẩn khí mạnh của đất đai” mà Hoàng Phủ Ngọc Tường từng ngợi ca trong “Sử thi buồn”.

Vốn sống phong phú, kiến thức uyên bác của nhà văn được thể hiện trực tiếp nhất ở đoạn miêu tả sông Hương khi chảy vào thành phố Huế. Tác giả miêu tả chi tiết những phong tục, lễ hội của người dân nơi đây.Nhưng nếu chỉ kể, tả, Hoàng Phủ Ngọc Tường mới chỉ là một người ghi chép. Ông thổi hồn vào từng ánh hoa đăng bồng bềnh “chao nhẹ trên mặt nước như những vương vấn của một nỗi lòng”. Kiến thức về âm nhạc đã giúp nhà văn tìm được cách biểu đạt gợi cảm, trữ tình, lãng mạn nhất để nói về “điệu Slow tình cảm” dành riêng cho Huế của sông Hương. Thiên tình ca vẫn được tiếp tục. Ngắm dòng sông, mà ta thấy được bao triết lí về tình yêu và con người. Cách nói “dành riêng cho Huế” đem đến cảm giác dòng sông đã thay dòng để đắm mình với cảnh sắc Huế cũng như con người khi yêu bỗng biết thay đổi để hòa hợp. Bên cạnh đó, tác giả còn so sánh sông Hương với sông Xen của Pari, sông Đa – nuýp của Bu- đa – pét, dòng sông Nê-va để thể hiện tình yêu, niềm tự hào về quê hương xứ sở.

Khi xa Huế, sông Hương xiết bao thương nhớ. Con sông chẳng muốn rời xa Huế, vẫn để lại chút lưu luyến giữa màu xanh biếc của tre trúc và những vườn cau vùng ngoại ô Vĩ Dạ. Như bước chân “Xăm xăm băng lối” của nàng Kiều thuở xưa, dòng sông “đột ngột đổi dòng, rẽ ngoặt sang hướng Đông -Tây để gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bao Vinh xưa cổ”. Sự thủy chung, son sắt của sông Hương dành cho Huế cũng chính là “tấm lòng người dân Châu Hóa xưa mãi mãi chung tình với quê hương xứ sở”.

Là nhà văn của những dòng sông, Hoàng Phủ Ngọc Tường từng nhận xét: “Sông Hồng là nỗi nhớ về phù sa của đời người, sông Cửu Long là sức mạnh đi tới biển và sông Hương như nỗi hoài vọng về một cái đẹp không thể đạt tới”. Có lẽ, sông Hương có “cái đẹp không thể đạt tới ấy” bởi nó hàm chứa trong mình rất nhiều giá trị về văn hóa, lịch sử đằng sau vẻ nên thơ khiến ta mãi hoài vọng, băn khoăn. Sông Hương gắn với âm nhạc cổ điển Huế, trở thành “người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”. Những âm thanh trong trẻo, quý báu trở thành di sản đã lớn lên từ những khoang thuyền, những mái chèo khuya. Điều này khiến tác giả liên tưởng tới việc có người nghệ nhân già gần thế kỷ chơi đàn, một đêm nghe con gái đọc Kiều: “Trong như tiếng hạc bay qua/Đục như tiếng suối mới sa nửa vời”.

Soi chiếu con sông từ góc độ thi ca, tác giả cho rằng đây là con sông “không bao giờ lặp lại mình trong cảm hứng của các thi sĩ”. Này là “Dòng sông trắng lá cây xanh” trong cái nhìn tinh tế của Tản Đà, này là “Kiếm dựng trời xanh” trong khí phách Cao Bá Quát,… Sông Hương trở thành mạch nguồn cho vô vàn sáng tạo nghệ thuật.

Trong mối quan hệ với lịch sử đất nước, sông Hương trở thành “sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc”. Nhà văn đã đưa người đọc trở về với quá khứ gian lao mà hào hùng của đất nước để cảm nhận giá trị của sông Hương. Dòng sông ấy đã có từ thời các vua Hùng, về sau lại chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới phía Nam của Tổ quốc. Bước vào thế kỉ XVIII, sông Hương vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ. Khi cả nước giương cao ngọn cờ độc lập, tự do, đánh đuổi thực dân Pháp, sông Hương cũng có cho mình những chiến công rung chuyển. Lời phát biểu của đại tướng Võ Nguyên Giáp đã để lại trong ta bao xúc động nghẹn ngào: “Lịch sử Đảng đã ghi bằng nét son tên của thành phố Huế, thành phố tuy nhỏ nhưng đã cống hiến rất xứng đáng cho Tổ quốc”.

Bằng tất cả tình yêu của mình, nhà văn đã khắc họa dòng sông trên tất cả các phương diện. Với ngôn ngữ trong sáng, lối hành văn tài hoa lãng mạn, hình ảnh phong phú, liên tưởng đặc sắc, kết hợp hài hoà giữa cảm xúc và trí tuệ, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã viết nên bản tình ca nồng nàn về thiên nhiên và con người cố đô:

“Sao thèm một điệu gì xưa lắm

Thèm đọc một đoạn văn Hoàng Phủ Ngọc Tường

Có ai đó rót chiều vào chén ngọc

Huế dịu dàng xây bằng khói và sương.”

Nghệ sĩ đã đặt tên cho dòng sông như ...

 

Phân tích Ai đã đặt tên cho dòng sông (Mẫu 29)

Có lẽ mỗi khi nhắc đến Hoàng Phủ Ngọc Tường không ai lại không nghĩ đến bài bút kí nổi tiếng của ông “Ai đã đặt tên cho dòng sông”. Mỗi nhà văn có một tảng, một xu hướng khác nhau, và Hoàng Phủ Ngọc Tường thực sự nổi bật trên phương diện bút kí. Các tác phẩm của ông luôn giàu chất trí tuệ mà vẫn thấm đẫm chất trữ tình.

Trước khi có tên “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” bài bút kí này còn có một cái tên khác là “Hương ơi, e phải mày chăng”. Phải chăng đây là cách cảm nhận độc đáo của tác giả về dòng sông Hương và cố đô Huế. Đó là một tình cảm sâu nặng và gắn bó tha thiết của ông đối với nơi đây. Cũng bởi có tình yêu sâu sắc với thiên nhiên và con người nơi đây, nên sông Hương đã được thi sĩ soi ngắm, phát hiện vẻ đẹp trên nhiều phương diện, vô cùng đa dạng, phong phú.

Trước hết, vẻ đẹp của sông Hương được thể hiện trong cảnh sắc thiên nhiên. Cũng như biết bao con sông khác trên thế giới, sông Hương cũng được hình thành và nằm trong lòng một thành phố cổ kính, mộng mơ. Nhưng điều đặc biệt hơn là sông Hương chỉ duy nhất thuộc về một thành phố, cũng bởi vậy, khi nhận xét nó là người tình thủy chung của thành phố quả là không hề sai.

Trước khi mang vẻ đẹp mơ màng, tĩnh lặng ở kinh thành Huế, có một sông Hương rất khác, một nội tâm rất đối lập đã được thể hiện ở nơi rừng núi sâu thẳm. Sông Hương tựa như một bản trường ca của rừng già, cuộn cuồn xiết chảy trong núi rừng Trường Sơn hùng vĩ. Sông Hương như một cô gái digan hoang dại, nhưng cũng hết sức quyến rũ, đắm say với màu đỏ chói của hoa đỗ quyên suốt những dặm dài dọc hai bên bờ sông.

Trước khi vào đến thành phố sông Hương liên tục chuyển mình, qua cánh đồng Châu Hóa với những vẻ đẹp khác nhau. Khi là một người mẹ dịu dàng, lúc lại biến ảo lung linh với màu nước “sáng xanh, trưa vàng, chiều tím”. Khi chảy qua những khu lăng tẩm triều Nguyễn sông Hương lại mang một dáng vẻ khác hẳn – u tịch, trầm tĩnh hơn bao giờ hết. Ở mỗi khúc đoạn, mỗi khung cảnh sông Hương lại mang những vẻ đẹp làm người ta nao lòng, dù tinh nghịch hồn nhiên, hay u trầm tĩnh lặng tất thảy cũng đều cho thấy vẻ đẹp phong phú của dòng sông Hương.

Nhưng tác giả đâu chỉ muốn nói về vẻ đẹp của cảnh sắc, mà đâu đó người đọc vẫn cảm nhận được tâm hồn, con người xứ Huế - người con gái nơi đây. Họ vừa dịu dàng, sâu sắc, vừa có nét gì đó rất phong tình những cũng rất đỗi thủy chung. Chỉ là những nét thoáng chốc, nhưng bằng ngòi bút của mình ông đồng thời làm được cả hai việc, tôn vinh vẻ đẹp thiên nhiên và con người nơi đây.

Ở một góc độ khác, sông Hương lại hiện lên với nét kiêu dũng, hào hùng của một dòng sông lịch sử. Thời Đại Việt, dòng sông này có tên Linh Giang, nó đã làm tròn nhiệm vụ lịch sử, canh giữ, bảo vệ biên giới đất nước. Vào thế kỉ XVIII kinh thành Phú Xuân, với người anh hùng Nguyễn Huệ, cùng hàng loạt biến cố lịch sử, sông Hương chính là chứng nhân lịch sử ghi lại toàn bộ hành trình lịch sử đầy dữ dội đó.

Đẹp nhất chính là vào ngày mùa thu lịch sử, dòng sông soi bóng lá cờ đỏ sao vàng, chứng kiến sự thắng lợi của nhân dân ta, kết thúc những năm tháng làm nô lệ tủi nhục,… Và hàng nghìn, hàng nghìn sự kiện lịch sử khác. Cho đến nay sông Hương vẫn lặng lẽ như vậy, lặng lẽ chứng kiến sự thay da đổi thịt của đất nước.

Bằng một con mắt rất đỗi thi sĩ, ông lại thấy ở sông Hương ở một vẻ đẹp rất khác. Mỗi nhà thơ, khi đến với sông Hương luôn bị nó làm cho mê mẩn, say lòng và Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng không phải là một trường hợp ngoại lệ. Khi ông nhớ đến hình ảnh “người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya” ông chợt liên tưởng đến Nguyễn Du và những bản đàn đi theo suốt cuộc đời của người con gái tài hoa bạc mệnh – Thúy Kiều.

Nhưng phải chăng điều mà ông muốn nhấn mạnh ở đây là sự tương đồng giữa cảnh và người trong thơ Nguyễn Du và bờ sông Hương. Dòng sông bất ngờ ngoặt lại thị trấn Bao Vinh như nàng Kiều vấn vương trong tình yêu khắc khoải, đau khổ mà không nỡ buông bỏ. Lại bắt gặp một chân dung rất khác của sông Hương: “Từ xanh biếc thường ngày, nó bỗng thay màu thực bất ngờ “dòng sông trắng- lá cây xanh” trong cái nhìn tinh tế của Tản Đà”, “từ tha thướt mơ màng nó chợt nhiên hùng tráng lên như “kiếm dựng trời xanh” trong khí phách của CBQ. “từ nỗi quan hoài vạn cổ với bóng chiều bảng lảng trong thơ Bà Huyện Thanh Quan, nó đột khởi thành sức mạnh phục sinh cả tâm hồn trong thơ Tố Hữu”.

Bằng vốn hiểu biết phong phú Hoàng Phủ Ngọc Tường đã đem đến cho bạn đọc cái nhìn toàn diện về sông Hương trên mọi phương diện: văn hóa, lịch sử, địa lí,… Nhưng hơn hết, đằng sau những câu chữ này ta còn cảm nhận được tình yêu Huế, yêu sông Hương tha thiết chân thành của ông. Đồng thời qua bài bút kí này ta cũng càng thấy rõ hơn nữa tài năng nghệ thuật bậc thầy của ông.

Phân tích Ai đã đặt tên cho dòng sông (Mẫu 30)

Hoàng Phủ Ngọc Tường là một văn, một nhà trí thức yêu nước, có vốn hiểu biết sâu rộng trên nhiều hình vực. Ông cũng là một nghệ sĩ đa tài với nhiều thể loại, và đặc biệt thành công về thể loại bút kí. Nét đặc sắc, độc đáo trong sáng tác của Hoàng Phủ Ngọc Tường đó chính là sự kết hợp nhuần nhuyễn, tài hoa giữa chất trí tuệ và tính trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với suy tư đa chiều, có được từ việc tổng hợp vốn kiến thức sâu rộng về triết học, văn hóa, lịch sử, địa lí, cùng lối hành văn hướng nội súc tích, tài hoa và mê đắm. “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” là bài bút kí xuất sắc trong sự nghiệp sáng tác của ông được viết tại Huế 1981.

Tác phẩm đã tái hiện lại vẻ đẹp của cảnh quan thiên nhiên sông Hương, thể hiện sự gắn bó của con sông với chiều dài lịch sử và văn hoá của xứ Huế, của đất nước. Qua đó nhà văn bày tỏ niềm tự hào tha thiết dành cho dòng sông Hương, cho xứ Huế thân thương và cũng là cho đất nước.

Sông Hương nhìn từ hướng thượng nguồn là dòng chảy có mối quan hệ sâu sắc với dãy Trường Sơn. Trong mối quan hệ này, sông Hương tựa như một bản trường ca vang dội của rừng già với nhiều tiết tấu hùng tráng, dữ dội, hào hùng: khi thì rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, lúc lại mãnh liệt vượt qua các ghềnh thác, khi thì cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực sâu, có lúc lại dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ rực của hoa đỗ quyên rừng.

Với biện pháp nhân hoá, sông Hương được ví như cô gái Digan phóng khoáng và man dại với một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn thích tự do và trong sáng. Theo nhà văn, nếu chỉ mải mê ngắm nhìn khuôn mặt kinh thành mà không chú ý tìm hiểu về nguồn cội của sông Hương, người ta sẽ khó mà hiểu hết được các vẻ đẹp trong phần tâm hồn sâu thẳm của dòng sông mà chính nó không muốn bộc lộ ra.

Như vậy, ở vùng thượng nguồn, sông Hương có thể chất mạnh mẽ, toát lên vẻ đẹp của một sức sống tràn đầy, mãnh liệt, hoang dại, đầy cá tính. Khi sông Hương chảy về kinh thành Huế lại mang những vẻ đẹp khác đa dạng, nó gắn bó với đặc trưng văn hoá, không gian kinh thành Huế. Trước khi trở thành người tình dịu dàng, thắm thiết và chung thuỷ của cố đô, thì sông Hương đã trải qua một hành trình đầy gian truân và nhiều thử thách. Trong cái nhìn tinh tế và lãng mạn, tài hoa của tác giả, toàn bộ thuỷ trình của dòng sông Hương tựa như một cuộc tìm kiếm có ý thức người tình nhân của người con gái trong một câu chuyện tình yêu mang đậm màu cổ tích.

Đoạn văn miêu tả sông Hương khi nó chảy xuôi về đồng bằng và ngoại vi thành phố bộc lộ ra cái nét lịch lãm và tài hoa trong lối hành văn của tác giả. Người đọc sẽ khó cưỡng lại sức hấp dẫn toát lên từ hàng loạt những động từ diễn tả cái dòng chảy sống động đầy thơ mộng qua những địa danh khác nhau của xứ Huế.

Giữa cánh đồng Châu Hoá với đầy hoa dại, sông Hương như một “cô gái đẹp ngủ mơ màng”; nhưng ngay sau khi ra khỏi vùng núi ấy thì cũng như công chúa được đánh thức bởi nụ hôn của hoàng tử, dòng sông Hương bỗng bừng lên sức trẻ và niềm khao khát mãnh liệt của tuổi thanh xuân, được thể hiện qua sự “chuyển dòng liên tục”, “rồi vòng những khúc quanh đột ngột”, vẽ lên một hình cung thật tròn, ôm trọn lấy chân đồi Thiên Mụ, rồi lại “vượt qua”, “đi giữa âm vang”, cuối cùng là “trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách”…

Vừa mạnh mẽ lại vừa dịu dàng, sông Hương có lúc thì “mềm như tấm lụa” khi đi qua Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo; có khi thì ánh lên “những phản quang nhiều màu sắc sớm xanh, trưa vàng, chiều tím” khi nó đi qua những dãy đồi núi phía tây nam của thành phố và lại mang vẻ đẹp trầm mặc, sâu sắc khi qua bao lăng tẩm, đền đài của cố đô mang niềm kiêu hãnh âm u được phong kín trong những rừng thông u tịch cho đến lúc lại bừng sáng, tươi tắn và trẻ trung, vui tươi khi gặp được “tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga tận bờ bên kia, giữa những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà”…

Hai bút pháp kể và tả xen kẽ được kết hợp nhuần nhuyễn hài hòa trong đoạn văn trên đã làm nổi bật một dòng sông Hương đẹp tuyệt trần bởi bối cảnh kì thú giữa nó với thiên nhiên xứ Huế mộng mơ, phong phú mà hài hoà. Sông Hương khi chảy trong kinh thành Huế, nó như đã tìm thấy chính mình khi gặp lại thành phố thân yêu, sông Hương trở lên “vui tươi hẳn lên giữa những bến bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long”, dòng sông ấy “kéo một nét thẳng thực yên tâm theo phía tây nam – đông bắc”, rồi lại “uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến Cồn Hến” khiến cho dòng sông mềm mại hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói là của tình yêu”.

Nằm ngay giữa lòng thành phố yêu quý, thân thương của mình, sông Hương cũng giống như sông Seine của Pari hay sông Đa Nuýp của Budapest,… nhưng trong cách biểu đạt tài hoa, uyên bác của tác giả, sông Hương được cảm nhận từ nhiều góc độ khác nhau: nó được nhìn bằng con mắt của hội hoạ, sông Hương và những chi lưu của nó đã tạo lên những đường nét thật tinh tế làm nên vẻ đẹp cổ kính, trầm mặc của cố đô; qua cách cảm nhận âm nhạc thì sông Hương lại “đẹp như điệu Slow” chậm rãi, sâu lắng, suy tư, đầy trữ tình và với cái nhìn đắm say của một trái tim đa tình thì sông Hương lại là người tình dịu dàng và chung thuỷ.

Điều này được thể hiện trong một phát hiện thú vị của tác giả qua đoạn văn: “Rời khỏi kinh thành, sông Hương chếch về hướng chính bắc, ôm lấy đảo Cồn Hến quanh năm mơ màng trong sương khói, đang xa dần thành phố để lưu luyến ra đi giữa màu xanh biếc của tre trúc và của những vườn cau vùng ngoại ô Vĩ Dạ.

Và rồi, như sực nhớ lại một điều gì chưa kịp nói, nó đột ngột đổi dòng, rẽ ngoặt sang hướng đông tây để gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bảo Vinh xưa cổ”. Cũng theo nhà văn khúc quanh thật bất ngờ đó, như thể hiện một “nỗi vương vấn, trăn trở”, và dường như nó còn có cả “một chút lẳng lơ kín đáo” của tình yêu vậy.

Sông Hương trong mối quan hệ khăng khít với lịch sử dân tộc lại mang một vẻ đẹp của bản hùng ca ghi dấu những dấu mốc lịch sử của thế kỉ vinh quang từ thuở còn là một dòng sông ở tận biên thùy xa xôi của đất nước các vua Hùng, thuở nó còn mang tên là Linh Giang (hay dòng sông thiêng) trong sách Dư địa chí của Nguyễn Trãi, và là “dòng sông viễn châu đã chiến đấu oanh liệt để bảo vệ biên giới phía nam của Tổ quốc Đại Việt qua những thế kỉ trung đại ”, nó đã “soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ” vào thế XVIII; nó cũng đã “sống hết lịch sử đầy bi tráng của thế kỉ mười chín với máu của những cuộc khởi nghĩa”, nó chứng kiến thời đại mới với sự thành công vang dội của cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 và bao cuộc chiến công rừng chuyển qua hai cuộc chiến tranh vệ quốc về sau này.

Sông Hương với cuộc đời và thi ca như là một nhân chứng đầy tính nhẫn nại và kiên cường qua những thăng trầm, những biến đổi của cuộc đời. Tuy nhiên, cái điều làm nên vẻ đẹp giản dị mà khác thường ấy của dòng sông đó là ở chỗ: khi nghe lời gọi, nó biết cách tự hiến dâng bản thân mình để làm một chiến công, để rồi nó trở về với cuộc sống đời thường, làm một người con gái dịu dàng, đằm thắm của đất nước. Có lẽ chính điều đó đã làm cho dòng sông Hương thơ mộng này không bao giờ tự lặp lại mình trong nguồn cảm hứng của các nghệ sĩ.

Có thể nói, nét đặc sắc nhất làm nên sức hấp dẫn đặc biệt của đoạn văn đó chính là tình yêu say đắm, tha thiết với dòng sông được thể hiện bằng tài năng vượt bậc của một cây bút giàu trí tuệ, được tổng hợp từ một vốn hiểu biết sâu rộng về các lĩnh vực từ văn hoá, lịch sử, địa lí tới văn chương, cùng với một văn phong tao nhã, hướng nội, tinh tế và đầy tài hoa.

Trích đoạn bài kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông” của Hoàng Phủ Ngọc Tường đã gợi lên vẻ đẹp của xứ Huế, của tâm hồn người dân nơi đây qua sự quan sát sắc sảo, tinh tế của nhà văn về dòng sông Hương. Ông quả xứng đáng là một thi sĩ của thiên nhiên, một cuốn từ điển sống về cố đô Huế, một cây bút tài năng giàu lòng yêu nước và tinh thần dân tộc. Bài kí đã góp phần bồi dưỡng tình yêu, niềm tự hào to lớn đối với dòng sông Hương và cũng là với quê hương đất nước.

Phân tích Ai đã đặt tên cho dòng sông (Mẫu 31)

“Đường vô xứ Nghệ quanh quanh
Non xanh nước biếc như tranh họa đồ”.

Đã ai tới Huế mà chưa một lần thử nghe hát trên dòng sông Hương chưa? Sông Hương chính là biểu tượng của xứ Huế mộng mơ, dưới ngòi bút của Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương lại mang một vẻ đẹp nữ tính, dịu dàng. Nhà văn đã dựng lên một bức tranh thiên nhiên với phong cảnh hữu tình đó là dòng sông quê hương qua bài kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”

Hoàng Phủ Ngọc Tường là một nhà văn, nhà khảo cứu văn học, văn hóa. Ông là một nhà văn chiến sĩ, có phong cách nghệ thuật độc đáo và có sở trường về thể kí đồng thời là người đã có công đưa thể kí Việt Nam phát triển lên đến đỉnh cao của văn học. “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” là một trong tám bài kí được xuất bản lần đầu năm 1986. Tác phẩm đã làm nổi bật phong cách nghệ thuật của Hoàng Phủ Ngọc Tường, đó là sự uyên bác, giàu chất thơ và giàu trí tưởng tượng.

Sông Hương là đối tượng để bộc lộ tâm tình, là khách thể của trang viết trong sự thể hiện cái tôi của nhà văn. Sông Hương chính là đối tượng để khảo cứu làm nên vẻ đẹp của xứ Huế. Chính vì vậy, sông Hương đã được nhìn nhận dưới nhiều góc độ khác nhau, từ góc độ địa lí đến lịch sử và qua góc nhìn văn hóa, thơ ca.

Ở góc độ địa lí, Hoàng Phủ Ngọc Tường tìm hiểu trực tiếp sông Hương ở thượng nguồn để phát hiện nhiều vẻ đẹp khác nhau của dòng sông. Đây là dòng sông có mối quan hệ mật thiết với dãy Trường Sơn. Có lẽ vì thế mà nó tựa như “một bản trường ca rừng già với tiết tấu hùng tráng, dữ dội”. Sông Hương khi “rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, lúc mãnh liệt vượt qua ghềnh thác, khi cuộn xoáy như cơn lốc dưới đáy vực sâu”. Sông Hương mang dáng vẻ trữ tình hiện đại “lúc dịu dàng, say đắm giữa những rặng dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng.” Hoàng Phủ Ngọc Tường đã sử dụng biện pháp nhân hóa để bạn đọc cảm nhận được sông Hương như một “cô gái Di- gan phóng khoáng và man dại” với “một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng” làm cho dòng sông nổi bật ở vẻ đẹp cá tính, hùng vĩ. Nhà văn đã sử dụng hàng loạt động từ, tính từ gây ấn tượng mạnh: “rầm rộ”, “mãnh liệt”, “cuộn xoáy”, “dịu dàng”, “say đắm”, “gan dạ”, “tự do” để diễn tả từng trạng thái thay đổi của dòng sông. Tác giả còn sử dụng lối so sánh táo bạo, đặc biệt đầy hình ảnh: Sông là “bản trường ca của rừng già”, là “cô gái Di- gan”, là “người mẹ phù sa”. Tác giả đã nhân hóa sông trong liên tưởng với một cô gái, đây là liên tưởng kín đáo, ấn tượng làm cho gương mặt sông Hương được nắm bắt ở chiều sâu và ở nhiều phương diện khác nhau.

Trước khi vào đến miền đất của kinh thành Huế, sông Hương “trở thành người tình dịu dàng và chung thủy với cố đô”. Sông Hương là người con gái đẹp “nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại”. Sông đã thay đổi hình hài, làm mềm đi nét nữ tính của mình. Sông Hương đã bộc lộ được nét lịch lãm và tài hoa, đã thay đổi hình dáng “mềm như tấm lụa”, màu sắc “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím” để dòng chảy trôi đi thực chậm. Sông Hương mang vẻ đẹp trầm mặc như triết lí, như cổ thi được đặt trong mối quan hệ với vẻ đẹp của người con gái Di - gan. Khi ra khỏi vùng núi, sông Hương như một nàng tiên được đánh thức bỗng bừng lên sức trẻ và niềm khao khát của tuổi thanh xuân để chuyển dòng liên tục. Dòng sông có ý thức kiếm tìm về thành phố, “vui tươi hẳn lên” khi tìm đúng đường về, sông Hương còn là “người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya” ru mọi người vào giấc ngủ yên bình. Khi chảy vào thành phố Huế, sông Hương như đã tìm thấy mình khi gặp thành phố thân yêu, sông Hương đã vui tươi hẳn lên giữa những bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long. “Dòng sông kéo một nét thẳng thực yên tâm theo hướng Tây Bắc- Đông Nam, tự uốn một cánh cung rất nhẹ nhàng sang Cồn Hến”, dòng sông mềm mại hẳn đi như tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu. Sông Hương duy nhất thuộc về một thành phố, là niềm tự hào của xứ Huế, của con người Huế. Sông Hương đã đánh thức được linh hồn của dân tộc, khác hẳn với các dòng sông khác ở cảnh “lập lòe trong sương đêm những ánh lửa thuyền chài của một linh hồn Mô - tê xưa cũ”.

Sông Hương được cảm nhận rất riêng trong sự tìm tòi thú vị của các nhà văn, nó có chút lẳng lơ, kín đáo của tình yêu. Nhìn bằng con mắt hội họa, sông Hương và những chi lưu của nó tạo nên những nét cổ kính của cố đô. Qua cách cảm nhận âm nhạc, sông Hương như một điệu “slow” tình cảm dành riêng cho Huế, sâu lắng, trữ tình. Với cái nhìn đắm say của trái tim đa tình, sông Hương là người tình dịu dàng và chung thủy được nhìn nhận ở nhiều phương diện dưới các góc độ khác nhau. Dưới cái nhìn của Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương được đối sánh trong các ngành nghệ thuật, sông Hương về với Huế như hồn gặp xác, là tiếng nói của người con gái đi được nửa cuộc đời và tìm được người tình nhân đích thực. Sông Hương đã làm cho Huế đẹp một cách trầm lặng và có chút gì đó lẳng lơ, kín đáo.

Sông Hương là dòng sông lịch sử. Dòng sông được khơi gợi trong sách “Dư địa chí” của Nguyễn Trãi nó mang tên là Linh Giang. Dòng sông viễn châu đã chiến đấu oanh liệt để bảo vệ biên giới phía Nam Tổ quốc qua những thế kỉ trung đại. Dòng sông ấy còn vẻ vang soi bóng kinh thành Huế cùng người anh hùng Nguyễn Huệ. Nó đã chứng kiến Cách mạng tháng Tám, mùa xuân Mậu Thân 1986 bằng những chiến công rung chuyển. Sông Hương đã chứng kiến biết bao sự kiện lịch sử, mang đậm dấu ấn thời gian.

Không chỉ được nhìn ở dưới góc độ địa lí, lịch sử, sông Hương còn được nhìn dưới góc độ văn hóa và thơ ca. Từ góc độ văn hóa, trong cách nhìn với âm nhạc tác giả đã gắn sông Hương với một nền âm nhạc cổ điển Huế: “Sông Hương trở thành người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”. Từ đó, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã liên hệ đến việc nghe hát trên sông Hương. Nhà văn đã đưa ra một minh chứng rằng: “Toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế được sinh thành trên mặt nước của dòng sông này trong một khoang thuyền nào đó giữa tiếng nước rơi bán âm của những mái chèo khuya”. Từ góc nhìn văn hóa, người nghệ sĩ đã tưởng tượng về đại thi hào Nguyễn Du, về Kiều: “Trong như tiếng hạc bay qua – Đục như tiếng suối mới sa nửa vời”. Nhà văn đã đặt hình ảnh dòng sông trong mối quan hệ với tiếng chuông chùa ngân nga khi vào Huế để nhìn nhận. Từ âm thanh của cuộc sống, tác giả đã nói đến tiếng nước vỗ vào mạn thuyền hình thành lên những điệu hò dân gian. Nhiều lần, nhà văn đã liên tưởng đến truyện Kiều của Nguyễn Du đại thi hào đã từng có thời gian sống ở Huế, truyện Kiều ra đời từ mảnh đất có truyền thống nhã nhạc cung đình để hình thành nên cái nôi của văn chương, văn hóa.

Từ góc độ thơ ca, sông Hương không bao giờ lặp lại mình trong cảm hứng của những người nghệ sĩ. Mỗi nhà thơ đều có một khám phá riêng về nó. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã làm dậy lên những vần thơ biếc xanh của Tản Đà: “Dòng sông trắng - Lá cây xanh”. Hình ảnh này với câu chữ của tác giả cho thấy sự đồng cảm của Hoàng Phủ Ngọc Tường về một sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc. Đây là minh chứng thời gian của những tâm hồn nhạy cảm của các thi nhân. Nhà văn cũng làm sống dậy, sông Hương hùng tráng như “kiếm dựng trời xanh” trong khí phách của Cao Bá Quát. Sông Hương quan hoài trong nỗi sầu vạn cổ của thơ Bà Huyện Thanh Quan, có sức mạnh phục sinh của tâm hồn trong thơ Tố Hữu. Điều kì diệu là nhà văn đã nhìn thấy sông Hương trong mối quan hệ với Kiều. Cách so sánh, liên tưởng của tác giả trong mối liên hệ giữa các mạch nguồn thơ ca chảy tha thiết trong văn chương muôn thuở đã tạo nên một dấu ấn riêng về phong cách nghệ thuật của nhà văn giàu chất thơ.

“Ai đã đặt tên cho dòng sông ?” là bài kí đặc sắc về con sông Hương của xứ Huế qua đó đã thể hiện cái “tôi” cá nhân của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Đó là một cái “tôi” tài hoa, uyên bác. Sông Hương được miêu tả dưới nhiều góc độ khác nhau, sông Hương là dòng sông của âm nhạc, của thơ ca, của lịch sử gắn liền với những nét đặc sắc về văn hóa, về vẻ đẹp của con người xứ Huế. Cái tôi uyên bác được thể hiện ở sự vận dụng cái nhìn đa ngành, vận dụng kiến thức của nhiều lĩnh vực nghệ thuật để khắc họa vẻ đẹp của dòng sông. Sông Hương được tô đậm ở nét đẹp trữ tình, thơ mộng. Sông Hương được miêu tả qua chiều sâu văn hóa xứ Huế, nó như “người mẹ phù sa” bồi đắp cho vùng đất giàu truyền thống văn hóa từ bao đời nay. Sông Hương còn được cảm nhận qua lăng kính của tình yêu. Thủy trình của sông Hương là thủy trình có ý thức đi tìm người tình mong đợi, khi chảy giữa thành phố Huế, sông Hương mềm mại hẳn đi như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu. Trước khi đổ ra cửa biển, sông Hương như “người con gái dùng dằng chia tay người yêu”, thể hiện một nỗi niềm vương vấn một chút lẳng lơ kín đáo. Cái “tôi” của tác giả là một cái “tôi” nặng lòng với quê hương, xứ sở. Chắc hẳn, nhà văn phải yêu quê hương lắm thì mới có thể lột tả dòng sông quê hương một cách xuất sắc như vậy. Nhà thơ đã dành toàn bộ tâm huyết của mình để theo dõi toàn bộ thủy trình của dòng sông với vốn hiểu biết sâu rộng về các kiến thức liên quan. Nhà văn đã quan sát tỉ mỉ dòng sông từ trước khi vào thành phố rồi đến khi đổ ra bể dòng sông đã có những thay đổi ra sao. Cái “tôi” của Hoàng Phủ Ngọc Tường thật là một cái “tôi” đa phong cách, mang dấu ấn riêng biệt và giàu chất thơ. Nhà văn đã phát hiện và trân trọng vẻ đẹp của dòng sông và có những so sánh táo bạo với hình ảnh cô gái Di - gan, người mẹ phù sa, người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya. Nhà văn đã liên tưởng tới những nhà thơ khác cùng viết về sông Hương như Nguyễn Du, Tố Hữu, … nhà văn nhớ đến Kiều và muốn được đắm chìm trong những giai điệu ca Huế trên sông Hương. Tất cả những điều đó đã tạo nên một cái “tôi” riêng biệt mang đậm dấu ấn phong cách nghệ thuật Hoàng Phủ Ngọc Tường.

Đoạn trích là đoạn văn xuôi súc tích và đầy chất thơ về sông Hương. Dưới cái nhìn tài hoa, uyên bác của tác giả, sông Hương được khám phá ở nhiều góc độ khác nhau, từ địa lí lịch sử đến văn hóa, thơ ca. Nhà văn đã kết hợp linh hoạt giữa kể và tả sử dụng tài hoa các biện pháp tu từ nghệ thuật như nhân hóa, so sánh, ẩn dụ khiến cho con sông từ vật vô tri vô giác nay bỗng trở nên có hồn , có tính cách, có tâm trạng khi thì dịu dàng, đắm đuối khi lại mạnh mẽ, quyết liệt. Ngôn từ phong phú, đa dạng, giọng văn đầy biến hóa đã tạo nên tuyệt bút “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” mang nét riêng biệt trong văn phong của tác giả.

Tùy bút “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” đã thể hiện được tấm lòng yêu quê hương, yêu con người xứ Huế của nhà văn. Qua đó, cho thấy vốn hiểu biết sâu rộng và phong phú của nhà văn về các kiến thức văn hóa, nghệ thuật. Bài kí trên đã khẳng định được thành công của tác giả trên con đường văn học ở thể bút kí đồng thời cũng thể hiện cái “tôi” cá nhân riêng biệt, trữ tình. Nhà văn đã đem đến cho chúng ta một bài học về tình yêu thiên nhiên, quê hương đất nước. Bởi nếu có quê hương thì mới có chúng ta ngày hôm nay. Phải chăng vì thế mà trong thơ của Đỗ Trung Quân đã viết:

“Quê hương là gì hở mẹ
Mà cô giáo dạy phải yêu
Quê hương là gì hở mẹ
Ai đi xa cũng nhớ nhiều”

“Ai đã đặt tên cho dòng sông?” là một tìm tòi và thể hiện sự mới mẻ của Hoàng Phủ Ngọc Tường đối với thể loại bút kí. Qua đó, tác giả đã ngợi ca vẻ đẹp của thiên nhiên xứ Huế và khẳng định được tài năng uyên bác của mình. Chính vì thế mà sông Hương đã trở thành một dòng sông bất tử, luôn chảy trôi mãi cùng thời gian và trong tâm trí độc giả.

Phân tích Ai đã đặt tên cho dòng sông (Mẫu 32)

Bằng một trái tim nghệ sĩ đắm say, một vốn từ ngữ giàu có chính xác, gợi tả, một kho tri thức phong phú và một tấm lòng ân tình với sông Hương xứ Huế, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã sáng tác nên một thiên tuỳ bút rất hấp dẫn: “Ai đã đặt tên cho dòng sông” bằng những áng văn vừa đẹp đẽ sang trọng, vừa lấp lánh trí tuệ, vẫn mê đắm tài hoa.

“Ai đã đặt tên cho dòng sông” là một tuỳ bút đặc sắc, thể hiện phong cách tài hoa, uyên bác, giàu chất thơ của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Bài kí đã ca ngợi dòng sông Hương như một biểu tượng của Huế (đặc biệt là đoạn từ thượng nguồn đến thành phố Huế).

Trong con mắt của Hoàng Phủ Ngọc Tường, dòng sông Hương hiện lên như một cô gái đẹp, một vẻ đẹp rất Huế, rất độc đáo; vừa dịu dàng, vừa “phóng khoáng, man dại”. Ngay từ ngọn nguồn của dòng chảy, gắn liền với đại ngàn Trường Sơn hùng vĩ, sông Hương toát lên một vẻ đẹp tràn đầy sức sống, vừa hùng tráng, vừa trữ tình như một bản “trường ca của rừng già”, rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc vào đáy vực bí ẩn. Cũng có lúc nó trở nên dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên.

Bằng biện pháp nhân hoá đặc sắc, tác giả như đã hình tượng hoá con sông Hương: “Giữa lòng Trường Sơn, sông Hương đã sống một nửa cuộc đời của mình như một cô gái di gan phóng khoáng và man dại. Rừng già đã hun đúc cho nó một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng”.

Nhưng cũng chính rừng già nơi đây, với cấu trúc đặc biệt… đã chế ngự sức mạnh bản năng ở người con gái của mình để khi ra khỏi rừng, sông Hương nhanh chóng mang một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở thành “người mẹ phù sa của một vùng văn hoá xứ sở”. Tác giả cho rằng “người ta sẽ không hiểu được một cách đầy đủ bản chất của sông Hương với cuộc hành trình gian truân mà nó đã vượt qua, không hiểu thấu phần tâm hồn sâu thẳm của nó mà dòng sông hình như không muốn bộc lộ, đã đóng kín lại ở cửa rừng và ném chìa khoá trong những hang đá dưới chân núi Kim Phụng”. Cái điều mà sông Hương “không muốn bộc lộ đã đóng kín lại” đó, hình như giờ đây bằng một cách kín đáo, tác giả đã hé mở cho độc giả thấy được: sông Hương chính là người mẹ hiền hàng ngày, hàng giờ không ngừng duy trì “bồi đắp phù sa” màu mỡ cho cả một vùng văn hoá lịch sử đã được hình thành nơi đôi bờ sông Hương – xứ Huế.

Trước khi trở thành người tình dịu dàng và chung thuỷ của kinh thành Huế có hàng trăm năm văn hiến, sông Hương đã trải qua một hành trình đầy gian truân và những thử thách. Trong cái nhìn tinh tế, lãng mạn và rất phong tình của tác giả, toàn bộ thuỷ trình của dòng sông Hương tựa như cuộc tìm kiếm có ý thức người tình nhân đích thực của người con gái trong một câu chuyện tình yêu nhuốm màu cổ tích.

Đoạn tả sông Hương chảy xuôi về đồng bằng và ngoại vi thành phố bộc lộ một nét lịch lãm, tài hoa với những hình ảnh mỹ lệ, vốn ngôn ngữ giàu có, sự hiểu biết phong phú của tác giả. Giữa cánh đồng Châu Hoá đầy hoa dại, sông Hương là “cô gái đẹp ngủ mơ màng”. Nhưng ngay khi ra khỏi vùng núi, sông Hương bỗng bừng lên sức trẻ như “người đẹp bừng tỉnh sau một giấc ngủ dài” với niềm khát khao của tuổi thanh xuân trong sự “chuyển dòng liên tục”, rồi “vòng những khúc quanh đột ngột”, “vẽ một hình cung thật tròn”, “ôm lấy chân đồi Thiên Mụ”, “vượt qua”, “đi giữa âm vang”, “trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách”.

Vừa mạnh mẽ, vừa tình tứ mà dịu dàng kín đáo, đó là cái nét phẩm chất đẹp đẽ mang nét riêng của sông Hương – cô gái Huế được tác giả diễn tả bằng những nét vẽ, những hình ảnh cũng thật tình tứ, dịu dàng. Khi qua Vọng Cảnh, Tam Thai, Lưu Bảo “dòng sông mềm như tấm lụa”; khi qua “hai dãy đồi sừng sững như thành quách”, dòng sông ánh lên vẻ đẹp biến ảo với những phản quang nhiều màu sắc “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”. Khi qua bao lăng tẩm, đền đài mang niềm kiêu hãnh âm u được phong kín trong những rừng thông u tịch toả lan khắp cả một vùng thượng lưu “Bốn bề núi phủ , mây phong; Mảnh trăng thiên cổ bóng tùng Vạn Niên”, dòng sông Hương, mang vẻ đẹp “trầm mặc như triết lí, như cổ thi, kéo dài mãi đến lúc mặt nước phẳng lặng của nó bỗng sinh động bừng sáng lên khi gặp tiếng chuông Thiên Mụ ngân nga tận bờ bên kia giữa những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà”.

Tóm lại, với những nét bút giàu màu sắc hội hoạ tinh tế, với cảm xúc say đắm, ở đoạn này Hoàng Phủ Ngọc Tường đã tạo dựng được một bức tranh sông Hương thật đẹp bởi sự phối cảnh kì thú giữa nó với thiên nhiên xứ Huế đa dạng và rất hài hoà.

Từ đây như đã tìm đúng đường về, gặp lại thành phố thân yêu của mình “sông Hương vui tươi hẳn lên giữa những biển bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long, kéo một nét thẳng thực, yên tâm theo hướng Tây Nam – Đông Bắc. Phía đó, nơi cuối đường, nó đã nhìn thấy chiếc cầu trắng của thành phố in ngần lên nền trời, nhỏ nhắn như những vành trăng non”. Đúng là một hình ảnh so sánh rất độc đáo và thi vị. Nó không chỉ được vẽ bằng bàn tay hoạ sĩ tinh tế mà còn được vẽ bằng trái tim của một thi sĩ tài hoa, đa tình. Cũng với bút pháp ấy, dòng sông “uốn một cánh cung rất nhẹ sang Cồn Hến” khiến “dòng sông mềm hẳn đi như một tiếng vâng không nói ra của tình yêu”. Đúng là dòng sông Hương dịu dàng và kín đáo như chính cô gái Huế vậy! Nằm ngay giữa lòng thành phố yêu quý của mình, sông Hương được ví như sông Xen của Paris, sông Đa-nuýp của Bu-đa-pét, sông Nê-va của Pê-téc-bua. Nhưng Huế vẫn giữ nguyên dáng một đô thị cổ trải dọc hai bờ sông với “cây đa, cây cừa cổ thụ toả vầng lá u sầm xuống những xóm thuyền xúm xít, từ nơi ấy vẫn lập loè trong đêm sương những ánh lửa thuyền chài của một linh hồn xưa cũ mà không một thành phố hiện đại nào còn nhìn thấy được”. Phải chăng đây là nét độc đáo nhất của Huế? Bởi nó vẫn còn mang vẻ đẹp cổ kính nghìn xưa. Bằng cảm nhận âm nhạc, tác giả thấy con sông Hương của mình ở đây “có điệu chảy lặng lờ, đó là điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế, có thể cảm nhận được bằng thị giác qua trăm nghìn ánh hoa đăng bồng bềnh trong những đêm rằm tháng bảy từ điện Hòn Chén trôi về, qua Huế bỗng ngập ngừng như muốn đi muốn ở chao nhẹ trên mặt nước như vấn vương của một nỗi lòng”. Quả là một hình ảnh rất trữ tình, lãng mạn. Đúng như một nhà thơ đã viết về sông Hương – Huế:

“Con sông dùng dằng, con sông không chảy

Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu”

Hình như trong khoảnh khắc chững lại của sông nước ấy, sông Hương đã trở thành một người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya. Trong con mắt thi sĩ – nhạc sĩ của tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương đã trở thành con sông của “thơ ca nhạc hoạ”. Vì “toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế đã được sinh thành trên mặt nước của dòng sông này”. Từ đó, tác giả mường tượng thấy sau lớp sương khói của thời gian, hình như “Nguyễn Du đã bao năm lênh đênh trên quãng sông này, với một phiếm trăng sầu” để viết nên những trang Kiều tuyệt bút, với “những bản đàn đã đi suốt đời Kiều”. Trong đó, nổi bật nhất là bản “Tứ đại cảnh”, một bản nhạc cổ của Huế. Đây quả là một cuộc gặp gỡ kì thú giữa những tâm hồn nghệ sĩ cổ kim trên dòng sông Hương thơ mộng. Trong cái nhìn đắm say của trái tim đa tình Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương khi chảy vào lòng thành phố Huế bỗng hiện lên như “người tình rất dịu dàng và thuỷ chung”. Điều này được diễn tả trong một hình ảnh khá độc đáo, đầy phát hiện “Rời khỏi Kinh thành, sông Hương chếch về hướng Bắc, ôm lấy đảo Cồn Hến quanh năm mơ màng trong sương khói, đang xa dần thành phố để lưu luyến ra đi giữa màu xanh biếc của tre, trúc và những vườn cau vùng ngoại ô Vĩ Dạ. Và rồi như sực nhớ lại một điều gì chưa kịp nói, nó đột ngột đổi dòng rẽ sang hướng Đông Bắc để gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bao Vinh xưa cổ”, “vốn đang chảy giữa cánh đồng phù sa êm ái của nó, khúc quanh này thực bất ngờ biết bao. Có một cái gì rất lạ với tự nhiên và rất giống với con người ở đây”. Tác giả gọi đấy là “nỗi vương vấn, cả một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu”. Nhà văn hình dung sông Hương ở đây giống như nàng Kiều đã “chí tình trở lại tìm Kim Trọng của nó, để nói một lời thề ước trước khi về biển cả. Lời thề ấy vang vọng khắp lưu vực sông Hương thành giọng hò dân gian; ấy là tấm lòng người dân nơi Châu Hoá xưa mãi mãi chung tình với quê hương xứ sở”. Đây là một liên tưởng thật bất ngờ, thú vị, đậm màu sắc văn chương cổ điển của tác giả về dòng sông yêu quý của mình. Dòng sông Hương trong sâu thẳm của nó mang vẻ đẹp tâm hồn dân tộc. Bởi như Chế Lan Viên đã viết:

“Chạnh thương cô Kiều như đời dân tộc

Sắc tài sao mà lại lắm truân chuyên”

Và nhà thơ Ngô Viết Dinh cũng viết:

“Nghìn năm gửi lại một chữ trinh

Tâm hồn dân tộc kết tinh tim Kiều”

Gọi sông Hương là một áng văn trữ tình như một thiếu nữ dịu dàng, mơ mộng và kín đáo thì ai nấy đã rõ nhưng gọi sông Hương là một “thiên sử thi”, “một bản anh hùng ca” thì thật đáng ngạc nhiên. Đây là một phát hiện bất ngờ và thú vị nữa của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Qua “Dư địa chí” của Nguyễn Trãi và tài liệu khảo cổ học về thành cổ Hoá Châu, tác giả khám phá ra rằng sông Hường vốn có tên là Linh Giang, nghĩa là dòng sông thiêng đã đấu tranh oanh liệt để bảo vệ biên giới phía Nam của Tổ quốc Đại Việt qua những thế kỉ trung đại như Bạch Đằng, Như Nguyệt “Tự cổ huyết do hồng” ở phía Bắc. Thế kỉ XVIII, nó vẻ vang soi bóng Kinh thành Phú Xuân của anh hùng Nguyễn Huệ, nó sống hết lịch sử bi tráng của thế kỉ XIX với máu của những cuộc khởi nghĩa và từ đây sông Hương đi vào thời đại Cách mạng tháng tám, chiến dịch Mậu Thận và cuộc tổng tiến công hoàn toàn giải phóng dân tộc mùa xuân năm 1975 bằng những chiến công rung chuyển.

Như vậy, sông Hương đâu chỉ có vẻ đẹp mềm mại, duyên dáng, đầy trữ tình mà trong thời gian ngân vang của lịch sử, nó còn tiềm ẩn một sức mạnh quật cường, bất khuất của dân tộc, của “sử thi viết giữa màu lá cỏ xanh biếc”. “Khi nghe lời gọi, nó biết cách tự hiến đời mình làm một chiến công để rồi nó trở về với cuộc sống hình thường, làm một người con gái dịu dàng của đất nước”, của Huế thân yêu. Đúng là sử thi mà vẫn rất đỗi trữ tình, thơ mộng. Và đột nhiên, tác giả liên tưởng đến màu áo tím ẩn hiện thấp thoáng theo bóng cô dâu Huế “vẫn mặc sau tiết sương giáng”. Đấy cũng chính là màu của sương khói trên sông Hương, giống như tấm voan huyền ảo của tự nhiên, sau đó ẩn giấu khuôn mặt thực của dòng sông Hương – cô gái Huế.

Với tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường, vẻ đẹp của sông Hương không hề đơn điệu mà biến hoá đa dạng. Vì vậy, mỗi phong cách thơ đều có thể khám phá được những chất thơ khác nhau của nó. Từ xanh biếc thường ngày nó bỗng thay màu thực bất ngờ “dòng sông trắng – lá cây xanh” trong cái nhìn tinh tế của Tản Đà; từ tha thướt mơ màng, nó chợt nhiên hùng tráng lên như “kiếm dựng trời xanh” trong khí phách Cao Bá Quát; từ nỗi quan hoài vạn cổ với bóng chiều bảng lảng trong hồn thơ Bà Huyện Thanh Quan; nó đột khởi thành sức mạnh phục sinh của tâm hồn trong thơ Tố Hữu.

Bằng một tình cảm thiết tha với Huế, với một vốn văn hoá phong phú và một kho từ ngữ giàu có đậm chất thơ, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã khắc hoạ được một dòng sông như một công trình nghệ thuật tuyệt vời của tạo hoá, một vẻ đẹp rất thơ, khơi nguồn cho cảm hứng thi ca và gắn liền với nền âm nhạc cổ điển Huế, tạo nên bề dày lịch sử văn hoá của cố đô. Nhờ đó, sông Hương đã trở thành dòng sông bất tử chảy mãi trong trí nhớ và tình cảm của độc giả, bồi đắp phù sa màu mỡ làm xanh tươi thêm tình yêu đối với quê hương đất nước.

Hoàn cảnh ra đời Ai đã đặt tên cho dòng ...

Phân tích Ai đã đặt tên cho dòng sông (Mẫu 33)

Trên khắp dải đất hình chữ S với ba miền: Bắc, Trung, Nam, vùng miền nào cũng đã từng để thương, để nhớ cho biết bao các nhà văn, nhà thơ có tâm hồn lãng mạn, bay bổng. Trong đó đặc biệt phải nói đến khúc giữa của dải đất này với miền Trung của xứ Huế mộng mơ.

Thiên nhiên, con người xứ Huế có lẽ luôn nổi bật với nét đẹp nhẹ nhàng và mê đắm, nhưng mấy ai biết rằng, điều làm nên nét đẹp đó chính là nhờ một phần vào nét đặc trưng của dòng sông Hương bao quanh thành phố này. Hoàng Phủ Ngọc Tường với bài kí Ai đã đặt tên cho dòng sông là một tác phẩm viết rất hay, rất sâu sắc về Hương giang - biểu tượng cho thiên nhiên và con người xứ Huế.

Bài kí Ai đã đặt tên cho dòng sông được in trong tập bút kí cùng tên, gồm có 8 bài kí, được tác giả viết ngay sau chiến thắng mùa xuân năm 1975, khi cả nước đang tưng bừng xây dựng chủ nghĩa xã hội. Còn với Hoàng Phủ Ngọc Tường, lòng yêu nước, tinh thần dân tộc thường gắn với tình yêu thiên nhiên, yêu truyền thống văn hóa của dân tộc.

Sông Hương được tác giả miêu tả với ba trạng thái ở ba khúc khác nhau: khi ở thượng nguồn, rồi ở trong lòng và ngoại vi thành phố, thêm một chút đôi nét về văn hóa xứ sở. Với khúc thượng nguồn, Hương giang được nhà văn miêu tả với vẻ đẹp của một 'cô gái Di gan phóng khoáng và man dại', biện pháp nghệ thuật nhân hóa làm cho dòng sông hiện lên như là một cô gái đầy nữ tính, khi mãnh liệt, cháy bỏng, khi thì lại trầm mặc, êm đềm.

Hoàng Phủ Ngọc Tường nhìn dòng sông dưới con mắt của 'một kẻ si tình', ông yêu, ông mến cái vẻ đẹp đầy man dại, độc đáo ấy của sông Hương. Dòng sông còn được miêu tả như một bản trường ca của rừng già 'Giữa rừng già, dòng sông là một bản trường ca, nó rầm rộ giữa những bóng cây đại ngàn, nó mãnh liệt vượt qua những ghềnh thác, rồi nó cuộn xoáy như cơn lốc vào đáy vực bí ẩn'.

Với mỗi một dòng sông, khúc thượng nguồn là nơi nước chảy xiết nhất, mãnh liệt nhất, cho nên Hương giang cũng như vậy, nguồn nước của nó dồi dào, mạnh mẽ đủ để chảy vào bao quanh cả thành phố Huế của nó. Vừa là bản trường ca của rừng già, sông Hương vừa là 'một người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở', chính sông Hương đã cung cấp lượng phù sa giàu có cho người dân nơi đây, cho thiên nhiên xứ Huế.

Nhà văn đã thể hiện được sự hiểu biết và gắn bó sâu sắc của mình với dòng sông của mảnh đất quê hương, bởi ông sinh ra và lớn lên tại thành phố này. Tình yêu dành cho xứ Huế khiến cho cô gái ấy không muốn mở lòng mình ra, chỉ dành trọn tình yêu cho xứ Huế mà trái tim nàng 'đã đóng kín lại ở cửa rừng và ném chìa khóa trong những hang đá dưới chân núi Kim Phụng'

Vượt qua khúc thương nguồn, sông Hương tìm về với thành phố thân yêu của nó. Sông Hương theo dòng thủy trình đã tìm về thành phố Huế như một sự tìm kiếm có ý thức 'từ ngã ba tuần sông Hương theo hướng Nam Bắc qua điện Hòn Chén; vấp Ngọc Trản, nó chuyển hướng sang Tây Bắc, vòng qua thềm đất bãi Nguyệt Biều, Lương Quán rồi đột ngột vẽ một hình cung thật tròn về phía đông bắc, ôm lấy chân đồi Thiên Mụ, xuôi dần về Huế.'

Nó tìm về nơi mà nó phải thuộc về, cũng như dòng sông Xen của Pari hay sông Đa - nuýp của Buđapet chỉ chảy trong lòng một thành phố duy nhất. Tâm trạng của người con gái mộng mơ 'vui tươi hẳn lên giữa những biền bãi xanh biếc' khi nó được gặp người tình của mình, chính là thành phố Huế. Về với miền đất quen thuộc, Hương giang được ví với 'tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya', khơi gợi ra một nét đẹp đặc trưng của cố đô Huế, đó là nhã nhạc cung đình Huế.

Làm sao người đọc có thể quên được những lời hát tình tứ, những điệu nhạc du dương vốn đã trở thành nền văn hóa thi ca trên những con thuyền xuôi dòng Hương giang trong những đêm trăng sáng hờ hững, thơ mộng. Phải yêu thiên nhiên, yêu quê hương của mình lắm thì nhà văn mới có thể cảm nhận sâu sắc về dòng sông Hương đến như vậy. Hương giang nhảy 'điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế', nó muốn gắn chặt với nơi đây lâu nhất có thể.

Nhưng dù có chậm rãi đến như thế nào thì cũng đến lúc sông Hương phải từ biệt thành phố để tiếp tục thủy trình của mình. Hình ảnh chia tay của người con gái ấy được miêu tả với tâm trạng đầy lưu luyến, bịn rịn: 'Rời khỏi kinh thành, sông Hương chếch về hướng chính bắc, ôm lấy đảo Cồn Hến quanh năm mơ màng trong sương khói, đang xa dần thành phố để lưu luyến ra đi giữa màu xanh biếc của tre trúc và của những vườn cau vùng ngoại ô Vĩ Dạ.

'Cả một hành trình vượt bao gian nan để gặp được người tình của mình, Hương giang chẳng nỡ lìa xa tình yêu mãnh liệt của nó, cho nên nó đột ngột chuyển dòng, để được gặp lại thành phố một lần nữa ở thị trấn Bao Vinh xưa cổ. Tại đây, sông Hương nói lời thề của mình dành cho thành phố: '“Còn non, còn nước, còn dài, còn về, còn nhớ…”.

Lời tạm biệt của dòng sông với xứ Huế gợi liên tưởng đến cảnh chia ly của những đôi tình nhân, cũng bịn rịn, thắm thiết không nỡ rời xa. Thương mến và giàu tình cảm đến như vậy, làm sao người đọc và thành phố này có thể lãng quên đi người con gái thủy chung, son sắt ấy?

Cuối cùng, nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường miêu tả dòng sông Hương với vẻ đẹp gắn liền với những nét đẹp văn hóa của dân tộc. Sông Hương là dòng sông của lịch sử, đã cùng các vị vua Hùng trải qua thời kì khó khăn dựng nước và giữ nước, nó là chứng nhân cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và Mĩ xâm lược, đặc biệt là sự kiện Xuân Mậu Dần năm 1968.

Biết bao tội ác của quân giặc được sông Hương nhớ mãi và găm vào trái tim mình. Cùng với đó là những hình ảnh bất khuất, kiên cường của cả dân tộc không thể nào quên. Sông Hương vẫn cứ ở đó, trầm mặc khi bình thường và man dại khi cần thiết, nó sẽ tiếp tục theo chân thành phố và cả dân tộc trong những năm tháng tiếp theo của tương lai. Yêu biết bao vẻ đẹp của con sông trữ tình và mộng mơ ấy!

Với bài bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã làm hiện lên trước mắt người đọc hình ảnh một dòng sông Hương với vẻ đẹp thật nữ tính, làm mê đắm không chỉ với người dân xứ Huế mà còn cả những người lữ khách từng đặt chân tới nơi đây. Đọc tác phẩm, người đọc muốn xách ba lô lên và đi ngay, để được thăm thú và ngắm nhìn người con gái tình tứ với quê hương, với xứ sở thân yêu của nó, cũng như lòng chung thủy bền vững của con người trong tình yêu.

Phân tích Ai đã đặt tên cho dòng sông (Mẫu 34)

Tác phẩm “Ai đã đặt tên cho dòng sông” là một bài bút kí nổi tiếng của tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường. Ông là một nhà văn mang nặng ân tình với xứ Huế. Tác phẩm của ông đã lột tả được hết vẻ đẹp và linh hồn của dòng sông Hương, con sông mang đậm đặc trưng và dấu ấn của xứ Huế mộng mơ.

“Ai đã đặt tên cho dòng sông” được tác giả trình bày dưới dạng ký, thể loại văn ghi lại cảm xúc cũng như tình cảm của con người một cách sâu sắc và súc tích nhất. Thể loại này đưa bài kí vào lòng người đọc một cách nhẹ nhàng nhưng cũng rất chân thành.

Qua giọng văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường, dòng sông Hương hiện lên thật ấn tượng, với một vẻ đẹp thơ mộng đến ngỡ ngàng. Con sông này chính là dòng chảy duy nhất qua thành phố Huế, chính vì điều đó nên nó mang một đặc trưng riêng của xứ Huế mà không nơi nào có được. Có lẽ không chỉ tác giả mà những người dân xứ Huế cũng rất tự hào vì điều này.

Dưới ngòi bút tinh tế, sâu sắc cùng tình yêu tha thiết của Hoàng Phủ Ngọc Tường, con sông đã trở nên lộng lẫy, mê hoặc người đọc. Con sông hiện lên với nhiều góc độ, nhiều khía cạnh, với chiều dài của thời gian và chiều sâu của không gian. Và dù cho dưới góc độ nào thì sông Hương vẫn rất đẹp và nên thơ như thế.

Đầu tiên, tác giả muốn nói đến sông Hương ở vùng thượng nguồn. Đó là một vẻ đẹp mà không lẫn vào đâu được. Hình ảnh “một cô gái di gan phóng khoáng và man dại; tự do và trong sáng” được tác giả ưu ái khiến cho bóng dáng ấy đi vào lòng người đọc một cách chân thực nhất. Sông Hương còn được tác giả vẽ lên một cách đầy mê hoặc, đó là sông Hương như bản trường ca của rừng già; rầm rộ và mãnh liệt nhưng có lúc lại “dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi của màu đỏ hoa đỗ quyên rừng”.

Hơn thế nữa, sông Hương là dòng sông duy nhất thuộc về thành phố Huế. Chính vì thế nên vẻ đẹp của sông Hương là vẻ đẹp vang bóng một nền văn hóa trải qua nhiều thăng trầm nhưng cũng rất đỗi bí ẩn, quyến rũ của cố đô Huế. Trong con mắt của Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương như “người con gái dịu dàng, đằm thắm, mềm mại trong lòng Huế”. Dòng sông thật đẹp và lãng mạn biết bao.

Để rồi khi sông Hương về với thành phố mộng mơ, rời xa thượng nguồn thì con sông lại trở nên mê đắm hơn bao giờ hết. Cô gái digan hoang dại ấy đã “vượt qua một lòng vực sâu dưới chân núi Ngọc Trản, để sắc nước trở nên xanh thẫm, trầm mặc như triết lý….; cho đến khi gặp được tiếng chuông Thiên Mụ, nghe âm thanh bát ngát tiếng gà, từ ấy sông Hương rạng rỡ như nắng mới, nàng uốn một cánh cung thật nhẹ, đến khi giáp mặt với thành phố, đường cong ấy làm cho nàng như mềm hẳn đi, như một tiếng vang không nói ra của tình yêu.”

Những câu văn thật nhẹ nhàng nhưng vô cùng tình tứ, lãng mạn được tác giả dùng để miêu tả vẻ đẹp của sông Hương khi về với thành phố Huế. Những đường nét mềm mại, mê đắm của sông Hương khiến cho tất cả ai khi đọc cũng đều cảm thấy sửng sốt, ngỡ ngàng, và cứ thế sông Hương len lỏi vào trong lòng người đọc một cách chân thực nhất.

Không chỉ vậy, đối với cố đô Huế, sông Hương còn là một nhân chứng đã cùng chứng kiến biết bao đổi thay, cùng những thăng trầm của thành phố Huế. Sông Hương cứ thế tồn tại như vậy, trải qua biết bao sự việc, cùng những năm tháng không thể nào quên của cố đô Huế nói riêng và thành phố Huế nói chung.

Chỉ với những câu văn giản dị, tinh tế, cùng với tình yêu chân thành tha thiết đối với mảnh đất và con người xứ Huế, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã đem đến cho người đọc hình ảnh dòng sông Hương thơ mộng, lãng mạn hơn bao giờ hết. Dòng sông Hương trong văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường khiến cho ai đã từng đọc qua đều mong muốn được một lần đặt chân đến nơi đây, để được đắm mình trong những gì nên thơ nhất của xứ Huế.

Phân tích Ai đã đặt tên cho dòng sông (Mẫu 35)

Trước hết, tác giả dẫn ta trở về với khúc sông thượng nguồn để khám phá. Trước khi về với vùng châu thổ êm đềm, sông Hương có nét đẹp hoang sơ và dữ dội, hùng tráng. Nhà văn đã ví dòng sông như một cô gái Di-gan “phóng khoáng và man dại”. Bởi rừng già ở thượng nguồn đã hun đúc nên bản lĩnh gan dạ cùng tâm hồn tự do, trong sáng cho dòng sông Hương

Tới khi ra khỏi rừng già, sông Hương đã thu lại vẻ dữ dội mà chuyển mình dịu dàng, trí tuệ, mang vẻ đẹp kín đáo, lắng sâu của người con gái. Vẻ đẹp sông Hương hiện lên với hai nét tính cách: vừa phóng khoáng, man dại, vừa dịu dàng, thơ mộng, đắm say

Ra khỏi rừng, sông Hương như bừng tỉnh sau một giấc ngủ dài để hiện lên vóc dáng và sức sống mới. Nó “chuyển dòng liên tục”, “uốn mình theo những đường cong thật mềm”. Sông Hương chảy trôi qua ngã ba Tuần, điện Hòn Chén, vấp Ngọc Trản, bãi đất Nguyệt Biều, Lương Quán rồi chuyển hướng về phía Đông Bắc, ôm lấy chân chùa Thiên Mụ và xuôi dần về Huế.

Tất cả những nơi nó chảy qua đã nhuốm một vẻ đẹp “trầm mặc như triết lí, như cổ thi” cho chính dòng sông. Và kéo dài bằng tiếng chuông chùa Thiên Mụ vang ngân

Đến thành phố, sông Hương như tìm thấy chính mình. Nó “vui tươi” hẳn lên giữa những biển bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long. Ở đoạn văn này, tác giả liên tưởng sông Hương như người con xa xứ háo hức được trở lại mảnh đất quê hương để ngắm nhìn xứ Huế từ xa và nhìn thấy chiếc cầu trắng của thành phố in trên bầu trời nhỏ nhắn như vầng trăng non.

Trước khi hòa vào biển cả, ở cửa biển Thuận An, sông Hương lại đẹp đến nao lòng trong dáng vẻ lẳng lơ, kín đáo khi ngoặt một khúc quanh rồi vươn tay lưu luyến ôm lấy lần cuối thành phố Huế thân yêu. Những so sánh tài hoa của tác giả giúp ta nhận ra vẻ đẹp độc đáo, sâu sắc của Hương giang giống như nàng Kiều trong đêm tình tự quyết chí đi tìm Kim Trọng để rơi một lời thề chung thủy, sắt son.

Trong hành trình khám phá vẻ đẹp sông hương từ thượng nguồn đến vùng hạ lưu, Hoàng Phủ Ngọc Tường còn khám phá ra sông Hương mang vẻ đẹp của một vùng văn hóa truyền thống. Từ góc nhìn lịch sử, tác giả điểm lại dấu ấn dòng sông trong lịch sử dân tộc: thế kỷ XV ở Dưa địa chí của Nguyễn Trãi, thế kỷ XVIII qua chiến thắng của anh hùng Nguyễn Huệ, thế kỷ XIX với máu của các cuộc khởi nghĩa, đi vào thời đại của Cách mạng tháng Tám bằng những chiến công rung chuyển.

Với cái nhìn xuyên suốt ấy, dòng Hương giang thơ mộng đã tham gia, trải nghiệm cùng những bước thăng trầm của lịch sử dân tộc. Sông Hương là vậy, ta thấy nó biết cách tự hiến đời mình làm một chiến công, để rồi nó trở về với cuộc sống bình thường, làm một người con gái dịu dàng của đất nước.

Kết thúc phần một của bài ký, tác giả cất lên câu hỏi không phải để hỏi nguồn gốc của một danh xưng địa lý thông thường mà là một sự nhấn mạnh, ẩn chứa niềm tự hào sâu sắc về dòng sông quê hương. Đồng thời, gợi mở cho người đọc những hướng trả lời khác nhau bằng trải nghiệm văn hóa của bản thân.

Bài tùy bút đã thể hiện một bút pháp nghệ thuật độc đáo, tài hoa và phong tình của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Tác giả đã thể hiện chất thơ quyến rũ làm say lòng người khi ghé thăm. Những tri thức về địa lý, văn hóa, thi ca, âm nhạc của ông đã chung đúc thành trang văn tuyệt bút.

Phân tích Ai đã đặt tên cho dòng sông (Mẫu 36)

Hoàng Phủ Ngọc Tường là một trí thức yêu nước, có vốn hiểu biết sâu rộng trên nhiều hình vực. Ông chuyên về thể loại bút kí. Nét đặc sắc trong sáng tác của Hoàng Phủ Ngọc Tường là ở sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và tính trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với suy tư đa chiều được tổng hợp từ vốn kiến thức sâu rộng về triết học, văn hoá, lịch sử, địa lí, lối hành văn hướng nội súc tích, mê đắm và tài hoa. Ai đã đặt tên cho dòng sông? là bài bút kí xuất sắc, viết tại Huế 1981, in trong tập sách cùng tên của ông.

Tác phẩm đã miêu tả cảnh quan thiên nhiên sông Hương, sự gắn bó của con sông với lịch sử và văn hoá của xứ Huế, của đất nước. Qua đó nhà văn bộc lộ niềm tự hào tha thiết, sâu lắng dành cho dòng sông Hương, cho xứ Huế thân yêu và cũng là cho đất nước.

Sông Hương nhìn từ cội nguồn là dòng chảy có mối quan hệ sâu sắc với dãy Trường Sơn. Trong mối quan hệ đặc biệt này, sông Hương tựa như một bản trường ca của rừng già với nhiều tiết tấu hùng tráng, dữ dội: khi rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, lúc mãnh liệt vượt qua ghềnh thác, khi cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực sâu, lúc dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng.

Với cái nhìn được nhân hoá, sông Hương tựa cô gái Digan phóng khoáng và man dại với một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng. Theo tác giả, nếu chỉ mải mê nhìn ngắm khuôn mặt kinh thành mà không chú ý tìm hiểu sông Hương từ nguồn cội, người ta khó mà hiểu hết các vẻ đẹp trong phần tâm hồn sâu thẳm của dòng sông mà chính nó đã không muốn bộc lộ.

Như vậy, ở thượng nguồn, sông Hương có thể chất mạnh, toát lên vẻ đẹp của một sức sống mãnh liệt, hoang dại, đầy cá tính. Sông Hương khi chảy về kinh thành Huế lại mang nhiều vẻ đẹp đa dạng, gắn bó với đặc trưng văn hoá, không gian kinh thành Huế.

Trước khi trở thành người tình dịu dàng và chung thuỷ của cố đô, sông Hương đã trải qua một hành trình đầy gian truân và nhiều thử thách. Trong cái nhìn tinh tế và lãng mạn của tác giả, toàn bộ thuỷ trình của dòng sông tựa như một cuộc tìm kiếm có ý thức người tình nhân đích thực của người con gái trong một câu chuyện tình yêu nhuốm màu cổ tích.

Vừa mạnh mẽ vừa dịu dàng, sông Hương có lúc “mềm như tấm lụa” khi qua Vọng Cảnh. Tam Thai, Lựu Bảo; có khi ánh lên “những phản quang nhiều màu sắc sớm xanh, trưa vàng, chiều tím” lúc qua những dãy đồi núi phía tây nam thành phố và mang vẻ đẹp trầm mặc khi qua bao lăng tẩm, đền đài mang niềm kiêu hãnh âm u được phong kín trong những rừng thông u tịch cho đến lúc bừng sáng, tươi tắn và trẻ trung khi gặp “tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga tận bờ bên kia, giữa những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà”…

Hai bút pháp kể và tả được kết hợp nhuần nhuyễn và tài hoa trong đoạn văn đã làm nổi bật một sông Hương đẹp bởi phối cảnh kì thú giữa nó với thiên nhiên xứ Huế phong phú mà hài hoà.

Sông Hương khi chảy trong Huế, như đã tìm thấy chính mình khi gặp thành phố thân yêu, sông Hương “vui tươi hẳn lên giữa những bến bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long”, dòng sông “kéo một nét thẳng thực yên tâm theo hướng tây nam – đông bắc”, rồi “uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến Cồn Hến” khiến dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói là của tình yêu”.

Sông Hương trong mối quan hệ với lịch sử dân tộc lại mang vẻ đẹp của một bản hùng ca ghi dấu những thế kỉ vinh quang từ thuở còn là một dòng sông biên thùy xa xôi của đất nước các vua Hùng, thuở nó mang tên là Linh Giang (dòng sông thiêng) trong sách Dư địa chí của Nguyễn Trãi

Trích đoạn bài kí Ai đã đặt tên cho dòng sông đã gợi ra vẻ đẹp của Huế, của tâm hồn người Huế qua sự quan sát sắc sảo của Hoàng Phủ Ngọc Tường về dòng sông Hương. Ông xứng đáng là một thi sĩ của thiên nhiên, một cuốn từ điển sống về Huế, một cây bút giàu lòng yêu nước và tinh thần dân tộc. Bài kí góp phần bồi dưỡng tình yêu, niềm tự hào đối với dòng sông và cũng là với quê hương đất nước.

1 69 lượt xem