Top 35 mẫu Phân tích Việt Bắc

Sinx.edu.vn xin giới thiệu tới các em 35 mẫu Phân tích Việt Bắc giúp các em làm bài văn có nhiều cách phân tích Việt Bắc đa dạng hơn được điểm tốt trong môn Ngữ văn.

1 90 lượt xem


Nội dung bài viết

Phân tích Việt Bắc

I) Sơ đồ tư duy phân tích Việt Bắc

Sơ đồ tư duy phân tích Việt Bắc (Mẫu 1)

Phân tích bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu

 

Sơ đồ tư duy phân tích Việt Bắc (Mẫu 2)

II) Dàn ý phân tích Việt Bắc

Dàn ý phân tích Việt Bắc (Mẫu 1)

1. Mở bài

“Chín năm gian khó xây dựng Điện Biên
Nên hoa đỏ nên bài ca vang mãi”.

(Tố Hữu).

- Hành trình đấu tranh chống Pháp năm chín đầy khó khăn kết thúc bằng chiến thắng lịch sử, vào tháng 10 năm 1945, Trung ương Đảng và Chính phủ từ chiến khu Việt Bắc đã chuyển về thủ đô Hà Nội. Trong bữa tiệc chia tay tràn đầy cảm xúc với nhân dân Việt Bắc, Tố Hữu đã sáng tác bài thơ Việt Bắc.

- Bài thơ như là một khúc hát giao duyên, là lời nhắn gửi tâm tình giữa người ra đi và người ở lại, là sự thể hiện của tình cảm sâu lắng và niềm nhớ nhung của người ra đi. Việt Bắc thật sự là một trong những tác phẩm thơ đỉnh cao, phản ánh phong cách sáng tạo của Tố Hữu…

2. Thân bài

a) Hai mươi dòng thơ đầu: Kỉ niệm về cuộc kháng chiến hiện hữu tình thương quân dân

- Lời nhắn nhủ từ người Việt Bắc:

+ Bốn dòng thơ đầu với hai câu hỏi tĩnh lặng, người ở lại hỏi người ra đi có còn nhớ “ta” là người ở đây, hỏi nhớ “núi, suối” là nhớ miền đất đã từng sống chung, gắn bó 15 năm tình đồng bào. Câu hỏi không chỉ là lời nhắc nhở mà còn là lời tri ân, nhắn nhủ người ra đi rằng đừng quên quê hương tương tư.

→ Tình cảm chung, đạo lý nhân văn. Hiệu quả của việc sử dụng câu hỏi tu từ để thể hiện cảm xúc của người nói, người ở lại kín đáo tỏ ra sự nhớ nhung và tình yêu với người ra đi không bao giờ phai nhạt, được trân trọng.

+ Lời giải thích từ nhà thơ, tự nhắc nhở bản thân

- Tâm sự của người ở lại trong buổi chia tay

  • Bốn câu tiếp theo tái hiện bối cảnh của cuộc chia tay. “Bên bờ sông” đề cập đến địa điểm chia ly ở bến sông nào đó, tiếng hát phát ra, nhân vật ra đi và người ở lại chắc chắn, bàn tay nắm chặt không rời, cảm xúc không nói nên lời. Tất cả tạo nên một không khí tràn đầy cảm xúc, sâu lắng, và tình yêu thương đối với quê hương, nhân dân.
  • Từ “bâng khuâng, bồn chồn” mô tả trạng thái tinh thần hoang mang, bối rối vì tình cảm bị mắc kẹt lại. Diễn tả sự quan tâm và yêu thương của người ở lại đối với người ra đi, Việt Bắc.
  • “Áo chàm” là biểu tượng cho Việt Bắc, ẩn dụ cho tâm hồn chân thành, giản dị và sâu sắc của người Việt Bắc.

- Trong lúc chia tay, làm cho lại nhớ về những ngày tháng khó khăn ở chiến khu

  • “Mưa nguồn suối lũ”: Đất trời như một âm nhạc, đắm chìm trong cơn mưa gió bão bùng, mùa mưa của Việt Bắc làm cho cuộc sống trong rừng trở nên khó khăn hơn bao giờ hết.
  • “Những mây cùng mù”: Biện pháp kết hợp nhấn mạnh trời u ám và nặng nề, gian khổ đè nặng, ẩn dụ cho những ngày đầu của kháng chiến gian khó.
  • “Miếng cơm chấm muối”: Mô tả sự thiếu thốn ở mọi mặt trong chiến khu, cũng như những ước lệch.
  • Khi gian khó đến, cả người đi lẫn người ở đều chia sẻ, và trong những khoảnh khắc chia ly, lòng người ở lại bỗng trào dâng tiếc nuối và nhớ nhung. Biện pháp ẩn dụ 'rừng núi' chỉ đến người Việt Bắc, nỗi nhớ trở nên sâu sắc, và sử dụng đại từ 'ai' thể hiện phong cách dân gian mộc mạc.
  • Người Việt Bắc gợi lại kí ức lịch sử không thể quên, tự hào về mảnh đất anh hùng.

⇒ Hình thức đối thoại, đoạn thơ diễn tả tình cảm của người Việt Bắc dành cho cán bộ chiến sĩ một cách thắm thiết và mặn nồng.

b) Những tâm sự của người ra đi

- “Ta với mình, mình với ta”: Một khẳng định về lòng trung thành và mặn mà của người ra đi và người ở lại.

- Người ra đi tiếc nuối, nhớ về thiên nhiên, về trăng trong những buổi chiều tà, ánh nắng lẻ loi trong chiều sương, và rừng nứa bên bờ tre... nhớ về thời gian bốn mùa mà chúng ta đã cùng nhau trải qua.

- Kỷ niệm về những con người Việt Bắc: Dù gặp phải gian khó, đầy gian truân nhưng không bao giờ từ bỏ, họ đã cùng nhau vượt qua những khó khăn, chia sẻ niềm vui và nỗi buồn trong cảnh rét đói. Nhớ về những khoảnh khắc ấm áp bên đồng đội và đồng bào, cùng với những giai điệu hò hát, và hình ảnh đáng yêu của 'cô em gái' lao động.

- Hình ảnh đoàn kết, sức mạnh hào hùng trong cuộc chiến

- Kỷ niệm về những chiến công hào hùng, niềm hạnh phúc khi chiến thắng

⇒ Tình cảm của người chiến sĩ dành cho nhân dân và quê hương Việt Bắc cũng chính là tình cảm mà nhà thơ dành cho dân tộc, đất nước, và tình yêu cuộc sống kháng chiến.

c) Bức tranh tứ bình qua góc nhìn đầy tình thương của Tố Hữu

- Người ra đi trăn trở, tràn đầy lòng chân thành và sâu lắng.

  • “Hoa và con người”: hình ảnh niềm nhớ dành cho một đối tượng cụ thể
  • Đại từ nhân xưng 'mình-ta' thể hiện tình cảm gắn bó sâu đậm của người ra đi và người ở lại
  • Điểm nhấn từ 'ta về' lộ ý niệm, tình cảm lưu luyến, đau đớn trong lúc chia tay, làm dấy lên những kỷ niệm đã qua.

- Trong nỗi nhớ, bức tranh hiện lên với sự gắn kết giữa cảnh vật và con người

  • Cảnh thiên nhiên qua 4 mùa, thành bức tranh tứ bình được ghi lại bằng nét vẽ tỉ mỉ, hồn thơ cổ điển
  • Vẻ đẹp của mùa đông: thiên nhiên lấp lánh sắc đỏ tươi của hoa chuối, sự tương phản màu sắc tạo nên vẻ rực rỡ. Không gian trở nên tươi sáng, ấm áp nhờ sắc đỏ, khiến nỗi nhớ thêm phần mãnh liệt trong lòng người.
  • Mùa xuân, thiên nhiên Việt Bắc khoác lên mình gam màu xanh của núi rừng, đắp chéo dưới làn màu trắng tinh khôi của hoa mơ. Động từ “nở” và tính từ “trắng” mô tả đầy đủ sự tươi mới của mùa xuân. Trong cảnh này, con người lao động miệt mài, tạo nên bức tranh hài hòa.
  • Mùa hạ, Việt Bắc tỏa sáng với màu vàng tươi của rừng phách. Phong cảnh mùa hạ hiện ra với vẻ đẹp cổ điển, hữu tình lung linh.
  • Và cuối cùng là cảnh thu với vẻ đẹp của đêm trăng. Một hình ảnh huyền bí, hiền hòa và mơ mộng. Vẻ đẹp ấy mang theo những ước mơ tươi sáng cho tương lai.

- Đoạn thơ kết thúc bằng 'khúc hát của tình yêu thủy chung'. Đó là tiếng hát của người ở lại cũng như của người ra đi. Khúc hát đó là biểu tượng của sự hy vọng trân trọng, của tình yêu quê hương sâu sắc.

⇒ Đoạn thơ khai mở ra thế giới của vẻ đẹp: bức tranh thiên nhiên tươi đẹp, con người đẹp, cùng với tấm lòng đẹp đong đầy nỗi nhớ. Thể hiện tình quê hương, tình dân tộc cao đẹp của nhà thơ.

d) Vẻ đẹp của Việt Bắc trong những ngày đầy hào hùng ra trận.

- Bằng cách sử dụng bút pháp của sử thi, tác giả vẽ lên hình ảnh của đoàn quân hào hùng trên những con đường ra trận.

  • Điệp từ “đêm đêm” miêu tả thời gian kéo dài, từ “rầm rập” âm thanh phối hợp với nhịp thơ 2/2 mô tả bước chân hành quân mạnh mẽ, đều đặn.
  • Việc nói quá về “đất rung” thể hiện sức mạnh phi thường của đoàn quân.
  • Chân dung của đoàn quân đặc trưng cho dân tộc anh hùng.

- Dù đường hành quân gian nan, nguy hiểm, nhưng các chiến sĩ vẫn cảm nhận được vẻ đẹp của thiên nhiên, mây trời, niềm vui trong việc ngắm cảnh: thể hiện lòng yêu đời, lạc quan, tin vào tương lai.

  • Hoán dụ “mũ nan”: người chiến sĩ ra chiến trường mang theo tình yêu quê hương để thêm động lực chiến đấu
  • Hình ảnh súng và sao mang tính biểu tượng. Đầu súng tượng trưng cho chiến tranh, sao vẽ ra khung cảnh bình yên, tương lai tươi sáng hoặc ánh sao còn ẩn dụ cho ánh mắt người yêu.

- Hình ảnh của đoàn công nhân

  • Ánh đuốc sáng gợi lên không khí lao động nhiệt huyết, phá vỡ trở ngại. Ánh sáng ấy toát lên sức mạnh, quyết tâm và gieo lên niềm tin tươi sáng.
  • Hình ảnh “bước chân vượt đá” thể hiện sức mạnh vĩ đại của đoàn công nhân.
  • Đoàn công nhân mang vẻ đẹp của những anh hùng ra trận, sức mạnh của cuộc chiến nhân dân

- Đoàn quân ra trận gửi về nhiều chiến công vang dội, làm rung chuyển địa cầu.

  • Liệt kê các địa danh để thấy chiến thắng ấn tượng, phấn khích
  • Điệp từ “vui” diễn tả niềm hạnh phúc, phấn khích không ngừng trong chiến thắng

⇒ Đoạn thơ tái hiện chân dung Việt Bắc trong những ngày ra trận, đồng thời tôn vinh sự anh hùng của Việt Bắc và đất nước.

3. Kết bài Phân tích bài Việt Bắc

Bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu là một tác phẩm xuất sắc, thể hiện sự kết hợp độc đáo giữa cổ điển và hiện đại, cảnh và người, tình và lí, cũng như mang đậm chất thơ dân gian, sử thi anh hùng mà chỉ có Tố Hữu có thể tạo ra.

 

Dàn ý phân tích Việt Bắc (Mẫu 2)

1. Mở bài

“Chín năm làm một Điện Biên

Nên vành hoa đỏ nên thiên sử vàng”.

(Tố Hữu).

- Chặng đường kháng chiến chống Pháp đầy gian lao kết thúc với sự thắng lợi vẻ vang, vào thời gian 10.1945, trung ương Đảng và chính phủ từ chiến khu Việt Bắc dời về thủ đô Hà Nội. Trong buổi chia tay đầy lưu luyến với đồng bào Việt Bắc, Tố Hữu đã sáng tác bài thơ Việt Bắc.

- Bài thơ là khúc hát giao duyên, là lời nhắn gửi tâm tình giữa người về xuôi và người ở lại, lời giãi bày tình cảm thắm thiết và cả nỗi nhớ trùng điệp của người ra đi. Việt Bắc chính là một trong những tác phẩm thơ thể hiện tài năng đỉnh cao, phong cách của Tố Hữu…

2. Thân bài

a) Hai mươi câu thơ đầu: Kỉ niệm kháng chiến qua đó bộc lộ tình quân dân thắm thiết

- Lời nhắn nhủ của người Việt Bắc:

+ Bốn dòng thơ đầu có hai câu hỏi tu từ, người ở lại hỏi người ra đi có còn nhớ “ta” là người nơi đây, hỏi nhớ “núi, nguồn” là nhớ mảnh đất đã từng chung sống, gắn bó 15 năm nghĩa tình. Câu hỏi mượn cớ nhưng thực ra là nhắc nhở, nhắn nhủ người về xuôi đừng quên mảnh đất tình người.

→ Sự tình chung, tình cảm đạo lí. Hiệu quả của nghệ thuật câu hỏi tu từ để bộc lộ cảm xúc người nói, người ở lại kín đáo bộc lộ nỗi nhớ và tình yêu dành cho người về xuôi không phai mờ, trân trọng.

+ Lời giãi bày của nhà thơ, tự nhắc nhở mình

- Tâm sự của người về xuôi trong buổi chia tay

Bốn câu tiếp gợi ra khung cảnh chia tay. “Bên cồn gợi địa điểm chia tay ở bến sông nào đó, tiếng hát làm nền, nhân vật người đi kẻ ở bịn rịn, ban tay nắm chặt không rời, xúc động không nói nên lời. Tất cả tạo nên bầu không khí ngập tràn tình cảm, bin rịn, quyến luyến tình quân dân.

Từ láy “bâng khuâng, bồn chồn” lột tả tâm trạng xốn xang, xao xuyến vì tình cảm bị níu kéo lại. Diễn tả nỗi lòng thương mến của người ở lại dành cho con người, Việt Bắc.

“Áo chàm” hình ảnh ẩn dụ Việt Bắc. Tượng trưng cho tâm hồn chất phác, chân thành, sâu nặng của người Việt Bắc.

- Trong lúc chia tay, khơi gợi lại những tháng ngày gian khổ ở chiến khu

“Mưa nguồn suối lũ”: đất trời vần vũ, chìm trong mưa gió bão bùng, sự khắc nghiệt của mùa mưa Việt Bắc khiến cuộc sống trong rừng thêm khó khăn.

“Những mây cùng mù” biện pháp chêm xen nhấn mạnh bầu trời u ám nặng nề, gian khổ đè nặng, ẩn dụ những ngày đầu khó khăn của kháng chiến

“Miếng cơm chấm muối”: vừa tả thực vừa ước lệch chỉ những thiếu thốn mọi mặt ở chiến khu.

Khi gian khổ có nhau đến khi vui sướng người đi kẻ ở, giờ phút chia tay lòng người ở lại bỗng xôn ao vì tiếc nuối nhớ nhung. Biện pháp hoán dụ “rừng núi” chỉ người Việt Bắc, nỗi nhớ thêm kín đáo, đại từ “ai” phong cách dân gian mộc mạc

Người Việt Bắc nhắc đến kỉ niệm lịch sử khó quên, tự hào về mảnh đất anh hùng…

⇒ Hình thức đối thoại, đoạn thơ diễn tả tình cảm người Việt Bắc dành cho cán bộ chiến sĩ thắm thiết, mặn nồng.

b) Những tâm sự của người ra đi

- “Ta với mình, mình với ta” là một sự khẳng định tấm lòng thủy chung, một lòng mặn mà của người đi kẻ ở.

- Người ra đi luyến tiếc để nỗi nhớ vào thiên nhiên, nhớ về trăng vào những buổi chiều tà, nắng hiu hắt chiều sương, rừng nứa bờ tre… nhớ về thời gian bốn mùa cùng bên nhau

- Nhớ về con người Việt Bắc: dù có gian khó, gập ghềnh nhưng không chùn bước, cùng nhau chia sẻ ngọt bùi qua cơn đói rét. Nhớ về những kỉ niệm ấm áp bên bộ đội và đồng bào cùng các điệu hát, “lớp học I tờ”… hình ảnh mộc mạc của “cô em gái” lao động

- Nhớ hình ảnh đoàn kết, hào hùng xông pha đánh giặc

- Nhớ những chiến công lẫy lừng, niềm vui thắng trận

⇒ Tình cảm người chiến sĩ dành cho con người và quê hương Việt Bắc cũng là tình cảm nhà thơ dành cho nhân dân, đất nước, tình yêu cuộc sống kháng chiến

c) Bức tranh tứ bình qua cái nhìn đầy ưu ái của Tố Hữu

- Lời tâm sự của người đi tha thiết, sâu lắng.

“Hoa và người”: nỗi nhớ hướng đến đối tượng cụ thể

Đại từ nhân xưng “mình-ta” thể hiện tình yêu thương gắn bó sâu nặng của người đi kẻ ở

Điệp từ “ta về” đầu câu bộc lộ nỗi niềm xao xuyến, tâm trạng luyến lưu, vấn vương trong buổi chia tay, khơi gợi về quá khứ.

- Trong nỗi nhớ, bức tranh hiện ra có vẻ đẹp gắn bó giữa cảnh với người

Cảnh thiên nhiên gói lại trong 4 mùa, thành bộ tranh tứ bình ghi lại bởi bút pháp chấm phá, hồn thơ cổ điển

Vẻ đẹp mùa đông: thiên nhiên có nét chấm phá sắc đỏ thắm tươi của hoa chuối, sự tương phản màu sắc gợi vẻ rực rỡ. Không gian bỗng trong sáng, ấm áp nhờ sắc đỏ, khiến nỗi nhớ thêm rạo rực lòng người.

Đất trời vào xuân, thiên nhiên Việt Bắc khoác trên mình gam màu xanh lá của núi rừng điểm tô dưới sắc trắng tinh khôi của hoa mơ. Động từ “nở” cùng tính từ “trắng” gợi những đóa hoa đang khoe sắc, độ xuân thì. Trong cảnh xuân con người miệt mài lao động, tạo bức tranh hài hòa

Sang hè, Việt Bắc mang sắc vàng tươi xinh của rừng phách. Phong cảnh mùa hạ hiện ra cổ điển, hữu tình ngời sáng, lung linh

Sau cùng là cảnh thu với vẻ đẹp của đêm trăng. Một nét huyền ảo, hiền hòa, mộng mơ. Vẻ đẹp mang theo bao ước mơ tươi sáng ở tương lai

- Đoạn thơ khép lại bằng “khúc hát ân tình thủy chung”. Đó là tiếng hát của người ở lại, cũng là của người ra đi. Khúc hát của sự hy vọng thiết tha, tình quân dân đậm sâu.

⇒ Đoạn thơ mở ra thế giới của cái đẹp: bức tranh thiên nhiên đẹp, con người đẹp, trong đó là tấm lòng đẹp theo cùng nỗi nhớ đẹp. Thể hiện tình quân dân, tình đất nước cao đẹp của nhà thơ.

d) Còn lại: Việt Bắc rộng lớn trong tháng ngày ra trận hào hùng.

- Bút pháp sử thi tác giả khắc họa đoàn quân sục sôi khí thế trên những nẻo đường ra trận.

Điệp từ “đêm đêm” tả thời gian dài, từ láy “rầm rập” âm thanh phối hợp cùng nhịp thơ 2/2 gợi tả bước chân hành quân đều nhịp, chắc khỏe.

Biện pháp nói quá “đất rung” chứng tỏ sức mạnh đoàn quân phi thường.

Chân dung đoàn quân tiêu biểu cho dân tộc anh hùng.

- Đường hành quân gian lao, nguy hiểm nhưng chiến sĩ vẫn cảm nhận được vẻ đẹp thiên nhiên, mây trời, niềm vui ngắm cảnh: cho thấy lòng yêu đời, lạc quan, tin vào tương lai.

Hoán dụ “mũ nan”: người chiến sĩ ra chiến trường mang theo mối tình quân dân để tiếp thêm động lực chiến đấu

Hình ảnh súng và sao cụ thể mà giàu tính biểu tượng. đầu súng gợi cảnh chiến tranh, sao vẽ ra khung cảnh thanh bình, tương lai tươi sáng hay ánh sao còn ẩn dụ cho đôi mắt người yêu.

- Hình ảnh đoàn dân công

Ánh đuốc sáng gợi không khí lao động hăng say, phá đá mở đường. Anhs sáng đó toát lên sức mạnh, khí thế và gieo lên niềm tin tươi sáng.

Hình ảnh “bước chân nát đá” tô đậm sức mạnh vĩ đại của đoàn dân công.

Đoàn dân công có vẻ đẹp của anh hùng ra trận, sức mạnh của chiến tranh nhân dân

- Đoàn quân ra trận gởi về bao chiến công vang dội, làm chấn động địa cầu.

Liệt kê các địa danh để thấy chiến thắng dồn dập, tưng bừng

Điệp từ “vui” diễn tả niềm hồ hởi, phấn khích vô biên trong chiến thắng

⇒ Đoạn thơ tái hiện chân dung Việt Bắc trong những ngày ra trận, qua đó ca ngợi Việt Bắc anh hùng, đất nước anh hùng.

3. Kết bài

Việt Bắc là bài thơ xuất sắc ghi đậm dấu ấn của Tố Hữu. Nó không chỉ hài hào giữa cổ điển và hiện đại, cảnh và người, tình và lí mà còn là chất thơ dân gian, sử thi anh hùng ca đặc biệt chỉ có ở Tố Hữu.

 

Dàn ý phân tích Việt Bắc (Mẫu 3)

1. Mở bài

Giới thiệu về tác giả Tỗ Hữu, bài thơ Việt Bắc.

2. Thân bài

- Bốn câu thơ đầu là lời của người ở lại hỏi người ra đi có còn nhớ “ta”, hỏi nhớ “núi, nguồn” là nhớ mảnh đất đã từng chung sống, gắn bó mười lăm năm nghĩa tình.

- Câu hỏi tu từ mượn cớ nhưng thực ra là nhắc nhở, nhắn nhủ người về xuôi đừng quên mảnh đất tình người.

=> Sự tình chung, tình cảm đạo lí. Hiệu quả của nghệ thuật câu hỏi tu từ để bộc lộ cảm xúc người nói, người ở lại kín đáo bộc lộ nỗi nhớ và tình yêu dành cho người về xuôi không phai mờ, trân trọng.

- Bốn câu thơ tiếp khắc họa khung cảnh chia tay của đồng bào Việt Bắc và cán bộ chiến sĩ: ở một bến sông, có tiếng hát làm nền, người ra đi (cán bộ chiến sĩ) và người ở lại (đồng bào Việt Bắc) trở nên bịn rịn, ban tay nắm chặt không rời, xúc động không nói nên lời.

- Từ láy “bâng khuâng, bồn chồn” lột tả tâm trạng xốn xang, xao xuyến vì tình cảm bị níu kéo lại, diễn tả nỗi lòng thương mến của người ở lại dành cho con người, Việt Bắc.

- “áo chàm” hình ảnh ẩn dụ Việt Bắc tượng trưng cho tâm hồn chất phác, chân thành, sâu nặng của đồng bào Việt Bắc.

- 12 câu tiếp theo nhớ lại những tháng ngày gian khổ ở chiến khu:

  • Câu hỏi tu từ “Mình đi có nhớ những ngày” như một lời nhắc nhở phải ghi nhớ những ngày tháng chiến đấu gian khổ đã cùng trải qua.
  • “Mưa nguồn suối lũ”: đất trời vần vũ, chìm trong mưa gió bão bùng, sự khắc nghiệt của mùa mưa Việt Bắc khiến cuộc sống trong rừng thêm khó khăn.
  • “Những mây cùng mù”: biện pháp chêm xen nhấn mạnh bầu trời u ám nặng nề, gian khổ đè nặng, ẩn dụ những ngày đầu khó khăn của kháng chiến
  • 'Miếng cơm chấm muối”: vừa tả thực vừa ước lệch chỉ những thiếu thốn mọi mặt ở chiến khu.
  • Khi gian khổ có nhau đến khi vui sướng người đi kẻ ở, giờ phút chia tay lòng người ở lại bỗng xôn xao vì tiếc nuối nhớ nhung. Biện pháp hoán dụ “rừng núi” chỉ người Việt Bắc, nỗi nhớ thêm kín đáo, đại từ “ai” phong cách dân gian mộc mạ
  • Người Việt Bắc nhắc đến kỉ niệm lịch sử khó quên, tự hào về mảnh đất anh hùng.

=> Hình thức đối thoại, đoạn thơ diễn tả tình cảm người Việt Bắc dành cho cán bộ chiến sĩ thắm thiết, mặn nồng.

- “Ta với mình, mình với ta… Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu”: khẳng định tấm lòng thủy chung, một lòng mặn mà của người đi kẻ ở.

- Nỗi nhớ của người ra đi được so sánh với nỗi nhớ người yêu: Tình quân dân bỗng trở nên thắm thiết như tình yêu lứa đôi.

- Người ra đi luyến tiếc để nỗi nhớ vào thiên nhiên: nhớ về trăng vào những buổi chiều tà, nắng hiu hắt chiều sương, rừng nứa bờ tre, các địa danh quen thuộc như Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê…

- Nhớ về con người Việt Bắc: cùng nhau chia sẻ ngọt bùi qua cơn đói rét, kỉ niệm ấm áp bên bộ đội và đồng bào cùng các điệu hát, hình ảnh mộc mạc của “cô em gái” lao động…

- Bức tranh thiên nhiên và con người Việt Bắc được khắc họa:

  • Bức tranh mùa đông: màu xanh thẫm của núi rừng mang cảm giác thâm u, lạnh lẽo và có phần khắc nghiệt, màu đỏ tươi của hoa chuối và màu vàng nhạt của nắng điểm tô trên cái nền xanh thẳm của núi rừng đã phần nào xua tan cái lạnh lẽo thay; hình ảnh con người mang tầm vóc mạnh mẽ, chủ động tự tin trong lao động, sẵn sàng chinh phục thiên nhiên núi rừng Tây Bắc.
  • Bức tranh mùa xuân: sắc trắng của hoa mơ gợi bức tranh mùa xuân tươi đẹp, trong sáng, thanh khiết và đầy hy vọng; con người trong công việc lao động nhẹ nhàng, nhưng lại tôn lên nét đẹp của sự tài hoa, khéo léo và cần cù.
  • Bức tranh mùa hạ: sự kết hợp giữa sắc vàng và tiếng ve, khiến bức tranh thiên nhiên trở nên ấn tượng bởi sự rộn ràng, nhộn nhịp và rực rỡ; hình ảnh “cô em gái hái măng một mình” gợi ra sự thầm lặng trong lao động, hi sinh sinh vì kháng chiến và tình cảm trân trọng, gần gũi yêu thương của Tố Hữu đối với con người Việt Bắc.
  • Bức tranh mùa thu: vầng trăng gợi ra nhiều ý nghĩa, là những đêm thức trắng cùng trăng chờ giặc, là biểu trưng cho sự ấm no, sum vầy, cũng là biểu tượng cho sự gắn kết, thủy chung; con người Việt Bắc không còn là hình ảnh trong lao động mà là thông qua tiếng hát để thể hiện nỗi niềm tiếc nuối, ân tình thủy chung phút chia ly.

- Đường hành quân gian khổ:

  • Điệp từ “đêm đêm” tả thời gian dài, từ láy “rầm rập” âm thanh phối hợp cùng nhịp thơ 2/2 gợi tả bước chân hành quân đều nhịp, chắc khỏe.
  • Biện pháp nói quá “đất rung” chứng tỏ sức mạnh đoàn quân phi thường.
  • Chân dung đoàn quân tiêu biểu cho dân tộc anh hùng.
  • Hoán dụ “mũ nan”: người chiến sĩ ra chiến trường mang theo mối tình quân dân để tiếp thêm động lực chiến đấu
  • Hình ảnh súng và sao cụ thể mà giàu tính biểu tượng, đầu súng gợi cảnh chiến tranh, sao vẽ ra khung cảnh thanh bình, tương lai tươi sáng hay ánh sao còn ẩn dụ cho đôi mắt người yêu.

- Hình ảnh đoàn dân công:

  • Ánh đuốc sáng gợi không khí lao động hăng say, phá đá mở đường. Ánh sáng đó toát lên sức mạnh, khí thế và gieo lên niềm tin tươi sáng.
  • Hình ảnh “bước chân nát đá” tô đậm sức mạnh vĩ đại của đoàn dân công.
  • Đoàn dân công có vẻ đẹp của anh hùng ra trận, sức mạnh của chiến tranh nhân dân.

- Đoàn quân ra trận gởi về bao chiến công vang dội, làm chấn động địa cầu:

  • Liệt kê các địa danh để thấy chiến thắng dồn dập, tưng bừng
  • Điệp từ “vui” diễn tả niềm hồ hởi, phấn khích vô biên trong chiến thắng

3. Kết bài

Khẳng định giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ Việt Bắc.

Dàn ý phân tích Việt Bắc (Mẫu 4)

1. Mở bài

- Giới thiệu khái quát về tác giả Tố Hữu: là một nhà thơ lớn, một nhà thơ trữ tình chính trị, thơ ông luôn phản ánh những chặng đường đấu tranh gian khổ song cũng nhiều thắng lợi của dân tộc.

- Giới thiệu bài thơ Việt Bắc: hoàn cảnh sáng tác, nội dung chính của bài thơ.

2. Thân bài

2.1 Ý nghĩa nhan đề

- Việt Bắc là một địa danh – là cái nôi của cách mạng Việt Nam tiền khởi nghĩa, là cơ quan đầu não của cuộc kháng chiến chống Pháp.

- Việt Bắc là nơi lưu giữ nhiều kỉ niệm giữa cán bộ cách mạng và đồng bào nơi đây.

2.2 Lời của người ở lại (20 câu thơ đầu)

- Tám câu thơ đầu là tâm trạng lưu luyến bịn rịn trong buổi chia tay:

+ Bốn câu trên, sử dụng điệp cấu trúc “mình về mình co nhớ” là lời ướm hỏi, khơi gợi lại những kỉ niệm về “mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”, về thiên nhiên Việt Bắc nghĩa tình.

+ Cách xưng hô “mình - ta” như lời tâm tình của đôi lứa yêu nhau khiến cuộc chia tay trở nên thân mật, giản dị. Cách xưng hô còn gợi nhớ đến những câu đối đáp trong điệu hát giao duyên khiến những câu thơ nói về cách mạng không khô khan mà trở nên đằm thắm, sâu lắng.

+ Bốn câu thơ tiếp là nỗi lòng lưu luyến của cả người ở lại và ra đi thể hiện qua những từ ngữ diễn tả tâm trạng trực tiếp: “da diết”, “bâng khuâng”, “bồn chồn”; không khí buổi chia tay thân tình, gần gũi: “áo chàm”, “cầm tay nhau”.

- Mười hai câu tiếp theo, với việc sử dụng điệp từ “nhớ”, là lời nhắn nhủ dưới hình thức câu hỏi:

+ Nhớ đến thiên nhiên, núi rừng Việt Bắc trong những ngày kháng chiến: mưa nguồn, suối lũ, mây mù, trám bùi, măng mai.

+ Nhớ đến những ân tình trong khó khăn gian khổ: “miếng cơm chấm muối” nhưng vẫn “đậm đà lòng son”.

+ Nhớ đến quang thời gian hoạt động cách mạng: kháng Nhật, Việt Minh, Tân Trào, Hồng Thái, ...

+ Đại từ xưng hô “mình” thể hiện sự gắn bó, thân thiết giữa kẻ ở, người đi. Nó giống như cách xưng hô tâm tình, thủ thỉ chân thành.

2.3 Lời của người ra đi

- Bốn câu thơ tiếp khẳng định nghĩa tình thủy chung, mặn mà, “ta với mình, mình với ta”: thể hiện sự gắn bó, thấu hiểu nhau giữ người đi, kẻ ở.

- Người đi bày tỏ nỗi nhớ đến thiên nhiên Việt Bắc: “Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương”, “bản khói cùng sương”, “rừng nứa bờ tre”, ... thiên nhiên Việt Bắc qua bốn mùa xuân, hạ, thu, đông.

- Nhớ đến con người Việt Bắc:

+ Những con người dù gian khó, vất vả những vẫn có tâm lòng thủy chung, cùng chia sẻ mọi “đắng cay ngọt bùi” trong kháng chiến: “chia củ sắn lùi”, “bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng”.

+ Nhớ đến những kỉ niệm ấm áp giữa bộ đội và đồng bào Việt Bắc: “lớp họ i tờ”, “giờ liên hoan”, “ca vang núi đèo”.

+ Nhớ hình ảnh những con người mang vẻ đẹp mộc mạc, giản dị của người lao động: “người mẹ”, “cô em gái”.

- Nhớ hình ảnh quân dân Việt Bắc đoàn kết đánh giặc: “ta cùng đánh Tây”, “cả chiến khu một lòng”; khí thế hào hùng của quân dân ta trong các trận đánh: “rầm rập như là đất rung”, “quân đi điệp điệp trùng trùng”, “dân công đỏ đuốc từng đoàn”, ...

- Nhớ những chiến công, những niềm vui thắng trận: “tin vui thắng trận trăm miền ... núi Hồng”

- Nhận xét: nhịp thơ dồn dập như âm hưởng bước hành quân, hình ảnh kì vĩ... tất cả tạo nên một bức tranh sử thi hoành tráng để ca ngợi sức mạnh của nhân dân anh hùng.

2.4 Niềm tự hào, niềm tin gửi gắm Việt Bắc CM (16 câu thơ cuối)

- Nhớ hình ảnh tươi sáng nơi nguồn cội của cuộc cách mạng: ngọn cờ đỏ thắm, rực rỡ sao vàng, có trung ương Đảng, có chính phủ và có Bác Hồ.

- Đoạn thơ thể hiện niềm tin vào sức mạnh, khả năng lãnh đạo của Đảng trong các cuộc cách mạng, niềm tự hào vào những chiến công Việt Bắc.

3. Kết bài

- Khái quát giá trị nghệ thuật: sử dụng thể dân tộc: thể thơ lục bát để nói về tình cảm cách mạng, lối đối đáp, sử dụng đại từ xưng hô linh hoạt (mình – ta), ngôn từ mộc mạc, giàu sức gợi…

- Khái quát giá trị nội dung: bài thơ là bản anh hùng ca về cuộc kháng chiến, là bản tình ca về nghĩa tình cách mạng và kháng chiến.

Cảm nhận bài thơ Việt Bắc siêu hay (11 ...

III) Các bài văn mẫu phân tích Việt Bắc

Phân tích Việt Bắc (Mẫu 1)

Tố Hữu được mệnh danh là nhà thơ trữ tình chính trị xuất sắc nhất của văn học Việt Nam. Các tác phẩm thơ của ông có thể coi như bản lịch sử về thơ ghi chép lại những biến cố, những sự kiện trọng đại của lịch sử nước nhà. Việt Bắc là một trong vô số những bài thơ như vậy, khi lại những tình cảm của kẻ ở người đi, của mười lăm năm kháng chiến trường kì của dân tộc đã kết thúc thắng lợi.

Việt Bắc được sáng tác vào năm1954 khi Trung ương Đảng chuẩn bị rời chiến khu Việt Bắc về Hà Nội. Bởi vậy bài thơ là nỗi nhớ, nỗi lưu luyến, bịn rịn của những người cán bộ với nhân dân nơi đây. Bởi vậy ngay từ khổ thơ đầu tiên, Tố Hữu đã khẳng định:

“Mình về mình có nhớ ta

Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng

Mình về mình có nhớ không

Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn”

Với kết cấu theo lối đối đáp, giao duyên quen thuộc, đoạn thơ cho thấy cuộc chia tay giữa cán bộ và nhân dân Việt Bắc. Tình nghĩa đôi bên hết sức sâu nặng, đằm thắm, tha thiết, được thể hiện qua cặp đại từ “mình – ta” gợi nên nỗi lưu luyến, tha thiết trong giờ phút chia tay. Lời nhắn nhủ của người ở lại thật tình cảm, được thể hiện chủ yếu qua các từ láy và các câu hỏi: mình có nhớ ta, mình có nhớ không vang lên liên tiếp cho thấy nỗi nhớ day dứt khôn nguôi. Nỗi nhớ không to lớn, xa vời mà là với những sự vật hết sức gần gũi, thân quen: cây, sông, núi, nguồn. Mỗi địa điểm, mỗi không gian lại gắn liền với một kỉ niệm thiết tha, sâu nặng.

Đáp lại lời người ở lại, lời người ra đi cũng không kém phần da diết: “Tiếng ai tha thiết bên cồn/ Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi/ Áo chàm đưa buổi phân li/ Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”. Hàng loạt các từ láy giàu tình cảm, cảm xúc đã được Tố hữu vận dụng hết sức linh hoạt: tha thiết, bâng khuâng, bồn chồn, diễn tả nỗi xúc động chân thành, tha thiết của những người chiến sĩ cách mạng khi phải rời xa nơi mình đã gắn bó biết bao năm. Câu thơ cuối bị bỏ lửng với nhịp thơ như chậm lại, ngừng lại diễn tả sự vấn vương, không nỡ rời xa của người ra đi.

Mười hai câu tiếp theo là lời ứng đáp của người Việt Bắc, kể về một thời quá khứ với những kỉ niệm đẹp trong buổi đầu cách mạng kháng chiến chống Pháp:

“Mình đi, có nhớ những ngày …

Tân Trào, Hồng Thái mái đình, cây đa?”

Hàng loạt các không gian khác nhau lần lượt hiện ra, là không gian rừng núi, là không gian sinh hoạt cộng đồng, … tất cả những không gian này đều gắn bó chặt chẽ với người ra đi. Các địa điểm được gợi nhắc từ xa đến gần, đi từ những mưa nguồn suối lũ, mây mù – những địa điểm không xác định địa danh, cho đến những địa danh cụ thể - chiến khu, Tân Trào, Hồng Thái. Khiến lòng người ra đi cũng xúc động không thôi. Không chỉ nói đến những địa danh, họ còn đề cập đến cả cuộc sống thường ngày hết sức bình dị, thậm chí có phần khắc khổ trong những năm tháng chiến tranh đó, là bát cơm chấm muối, là chám bùi, là măng mai,… ấy vậy nhưng lại đậm đà sâu sắc tấm lòng. Đằng sau từng câu, từng chữ ấy ta còn thấy sự bâng khuâng, tiếc nuối của người ở lại, câu thơ cuối cùng của khổ thơ là một câu hỏi tu từ khiến cho nó càng trở nên da diết và khắc khoải hơn bao giờ hết.

Đáp lại tình cảm chân thành, thắm thiết của người ở lại, những chiến sĩ cách mạng cũng không ngần ngại, thể hiện tấm lòng biết ơn, tình cảm sâu nặng của bản thân với con người và tiên nhiên nơi đây: “Ta với mình, mình với ta/…./Chày đêm nện cối đều đều suối xa”. Khổ thơ là lời khẳng định chắc nịch tình cảm tha thiết, bền vững của người đi đối với người ở lại đó là tình cảm không thể đổi thay “Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu”. Và để khẳng định cho tình cảm chân thành đó, Tố Hữu cũng vô cùng tinh tế tái hiện lại kỉ niệm trong mười lăm năm kháng chiến gian khổ mà hết sức vui tươi, hào hùng: là bản khói cùng sương, là những địa danh quen thuộc Ngòi Thia, sông Đáy, là lớp học chữ trong những đêm trăng, là sự chia sẻ ngọt bùi, bát cơm phải sẻ nửa, tấm chăn phải đắp cùng, là niềm biết ơn vô hạn với người mẹ, mà rộng ra là với nhân dân đã nuôi dưỡng, đã tiếp thêm sức mạnh cho những người chiến sĩ. Đoạn thơ không chỉ tái hiện kỉ niệm những năm tháng vừa gian khổ, vừa hào hùng mà còn thể hiện lòng biết ơn sâu nặng đối với nhân dân Việt Bắc.

Ở khổ thơ tiếp theo là bức tranh đẹp đẽ nhất, thể hiện tài năng của một nhà thơ xuất chúng của Tố Hữu – bức tranh tứ bình:

“Ta về mình có nhớ ta …

Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.

Hai câu thơ đầu là lời ướm hỏi của người ra đi đối với người ở lại như thế nào và đồng thời cũng tự bộc lộ tình cảm, cảm xúc của mình. Tám câu thơ tiếp theo vẽ lên khung cảnh thiên nhiên đẹp đẽ và chân dung con người Việt Bắc dần dần hiện lên qua bốn mùa. Mùa đông vốn đươc mặc định coi là mùa lạnh lẽo, mùa của tàn tạ, héo úa, nhưng trong bức tranh của Tố Hữu ta không hề thấy cái cô đơn, lạnh lẽo mà thay vào đó là hình ảnh rực đỏ của hoa chuối trên nền xanh ngát của núi rừng. Màu sắc đỏ rực đó đã xua tan cái lạnh léo của mùa đông, làm ấm không gian của thiên nhiên núi rừng. Sau sắc đỏ rực rỡ của hoa chuối là đến sắc trắng tinh khôi của những rừng mơ bạt ngàn, đem lại cảm giác tinh khôi, mới mẻ cho khung cảnh thiên nhiên. Mùa hạ lại ngập tràn âm thanh tiếng ve và màu vàng óng của rừng phách đổ vàng, cả không gian ấm nóng của mùa hè. Cuối cùng là khung cảnh yên bình của ánh trăng dìu dịu.

Mỗi một câu thơ miêu tả khung cảnh thiên nhiên lại là chân dung của một con người Việt Bắc.Ở bức tranh nào con người cũng hiện lên vô cùng mạnh mẽ, chủ động. Là người dân đi rừng với cái rực sáng của dao gài thắt lưng, chinh phục thiên nhiên. Đến bức tranh mùa xuân, hình ảnh “người đan nón” uyển chuyển, đầy nữ tính chuốt từng sợi giang. Cô em gái hái măng một mình nhưng không hề đơn độc mà làm chủ khung cảnh thiên nhiên mùa hạ. Và cuối cùng là tiếng hát ngập tràn không gian trong mùa thu. Ở bất cứ bức tranh nào hình ảnh con người hiện lên cũng vô cùng chủ động, mãnh mẽ, họ không bị hòa lẫn vào thiên nhiên mà chủ động, làm chủ toàn bộ không gian.

Trong mạch hồi tưởng, tác giả nhớ về những năm kháng chiến hào hùng của các chiến sĩ, của nhân dân Việt Bắc tuy gian khổ mà cũng đầy hào hùng. Khi ấy không chỉ nhân dân Việt Bắc mà cả thiên nhiên cũng hợp lực để đánh tan kẻ thù xâm lược: “Núi giăng thành lũy sắt dày/ Rừng che bộ đội rừng vây quân thù”. Trải qua những năm tháng khó khăn, quân dân ta liên tiếp đạt được những thắng lợi, thành công vang dội: “Những đường Việt Bắc của ta/…/Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng”. Những đoàn xe ngày đêm ra trận, rạch tan sương mù tăm tối của Việt Bắc. câu thơ thực mà cũng vô cùng lãng mạn, không chỉ rạch tan cái tăm tối của Việt Bắc mà còn mở ra tương lai, hi vọng cho đất nước. Câu thơ “Đèn pha bật sáng như ngày mai lên” chính là thể hiện tinh thần, niềm tin ấy của tác giả.

Việt Bắc có thể coi như bản tổng kết về cuộc kháng chiến trường kì, vĩ đại của dân tộc ta. Không chỉ vậy bài thơ còn cho thấy tình cảm sâu nặng, chân thành , long biết ơn vô hạn của tác giả nói riêng và của chiến sĩ cách mạng nói chúng đối với nhân dân Việt Bắc. Đồng thời bài thơ cùng thể hiện tài năng nghệ thuật của Tố Hữu.

Phân tích Việt Bắc (Mẫu 2)

Tố Hữu nhà thơ trữ tình chính trị xuất sắc nhất của văn học Việt Nam. Các bài thơ của ông luôn hừng hực không khí chiến đấu, bám sát từng sự kiện lịch sử. Việt Bắc chính là một trong những bài thơ như vậy.

Tác phẩm ra đời sau khi ta chiến thắng Điện Biên Phủ, hiệp định Giơ ne vơ được ký kết, hòa bình được lập lại ở miền Bắc, một trang sử mới đã mở ra cho dân tộc. Tháng 10 năm 1954 các cơ quan Đảng và chính phủ của chúng ta từ chiến khu Việt Bắc trở về thủ đô Hà Nội, để tiếp tục gánh vác sứ mệnh lịch sử của đất nước. Nhân sự kiện cuộc chia tay đặc biệt này, chia tay giữa Việt Bắc với người về xuôi, Tố Hữu đã viết lên bài thơ Việt Bắc.

Mở đầu bài thơ là lời ướm hỏi và nhắc nhở của đồng bào với những người ra đi: “Mình về mình có nhớ ta/…/Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn”. Điệp từ nhớ luyến láy trong cấu trúc câu hỏi đồng dạng “Mình về mình có nhớ ta?/…/ Mình về mình có nhớ không?” khiến cho nỗi nhớ thêm phần da diết, khắc khoải. Kỉ niệm đầu tiên được nhắc tới chính là mười lăm năm khoảng thời gian Việt Bắc là căn cứ địa vững chắc cho cách mạng. Với kỉ niệm thứ hai, tác giả đã tái hiện chân thực không gian mình từ gắn bó là sông, núi, nguồn. Tâm trạng của thiên nhiên cũng chính là nỗi nhớ da diết của chính con người.

Những kỉ niệm sâu nặng nghĩa tình đã được Tố Hữu tái hiện không chỉ chân thực mà còn tràn đầy cảm xúc trong từng cặp lục bát. Có thể thấy điệp từ “nhớ” trở thành một sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ tác phẩm. Đó là nỗi nhớ về những tháng ngày gian khổ “mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù”; con người Việt Bắc nghèo khổ nhưng chung thủy, tình nghĩa, đồng cam cộng khổ cùng kháng chiến “miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai”, “hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son”. Đặc biệt nỗi nhớ được gói ghém trọn vẹn trong câu thơ hàm súc, giàu ý nghĩa: Mình đi, mình có nhớ mình? Chữ mình thứ ba là cách nói gần gũi, âu yếm, cho thấy sự gắn bó sâu đậm, khăng khít.

Sau những lời nhắn nhủ, nhắc nhở tha thiết của người ở lại là lời khẳng định thủy chung son sắt của cán bộ kháng chiến:

- Tiếng ai tha thiết bên cồn

Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi

Áo chàm đưa buổi phân li

Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…

Tố Hữu đã sử dụng vô cùng linh hoạt các từ láy “tha thiết” “Bâng khuâng, bồn chồn” giàu giá trị gợi cảm, diễn tả trạng thái tâm lí tình cảm hụt hẫng, bịn rịn, luyến tiếc, vương vấn. Trong đoạn thơ, đặc sắc nhất là hình ảnh áo chàm. Hình ảnh hoán dụ cho thấy cuộc tiễn đưa không chỉ của một người mà còn là còn của toàn thể dân Việt Bắc đối với cán bộ khi họ về xuôi. Và tình cảm lưu luyến đó sẽ là cơ sở để khẳng định sự ân tình, thủy chung son sắt của người ra đi với người ở lại: “Ta với mình, mình với ta/ Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh/ Mình đi, mình lại nhớ mình/ Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu…”. Câu thơ “Ta với mình/mình với ta” ngắt nhịp 3/3, mở đầu và kết thúc mỗi nhịp đều xuất hiện cặp đại từ mình – ta, cho thấy sự quấn quýt, gắn bó, không thể chia cắt.

Sáu câu thơ tiếp theo, một cách rất ngắn gọn, súc tích, Tố Hữu đã tái hiện lại khung cảnh Việt Bắc trong tâm tưởng: “Nhớ gì như nhớ người yêu/…/ Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy”. Hình ảnh so sánh “như nhớ người yêu” thật đặc sắc, cho thấy nỗi nhơ tha thiết, khắc khoải của chàng trai với cô gái, lấy hình ảnh so sánh đó đã thể hiện sự gắn bó tha thiết trong tình cảm. Những hình ảnh gợi cảm đầy thi vị: trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương, bản khói cùng sương, bếp lửa, rừng nứa, bờ tre... gợi nhớ những vẻ đẹp nên thơ rất riêng của miền rừng núi. Đặc biệt ông còn sử dụng linh hoạt các địa danh ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê nhấn mạnh hơn nữa nỗi nhớ của người ra đi với núi rừng, con người nơi ở lại. Những ngày chiến đấu đó tuy gian khổ, tuy vất vả nhưng đậm đà nghĩa tình: “Ta đi ta nhớ những ngày/…/Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng”. Bốn câu thơ là lời khẳng định, khi chia xa người ra đi sẽ không bao giờ quên đi những tháng ngày gắn bó, ta với mình đã đồng cam cộng khổ, cùng chia sẻ đắng cay và cùng chung hưởng ngọt bùi. Và sao có thể quên được người mẹ Việt Bắc nắng cháy lưng, vẫn địu con lên rẫy làm việc, cần mẫn chăm chỉ bẻ từng bắp ngô... đã gợi ra sự tần tảo chắt chiu, cần cù lao động của những bà mẹ trong kháng chiến đã đùm bọc, cưu mang chiến sĩ cách mạng. Và cả cảnh sinh hoạt cơ quan với những âm thanh quen thuộc trong lớp học, tiếng hát đầy lạc quan, vui tươi trong hoàn cảnh gian khổ. Đoạn thơ không chỉ đơn thuần là sự tái hiện những sự việc, những người, những khung cảnh mà chất chứa trong đó cả là nỗi nhớ, lòng biết ơn sâu nặng của những người chiến sĩ cách mạng với bà con Việt Bắc đã giúp đỡ họ.

Trong tác phẩm này, có lẽ đẹp đẽ nhất, tài hoa nhất chính là khi ngòi bút Tố Hữu tạo dựng lên bức tranh tứ bình đặc sắc: “Ta về mình có nhớ ta/…/ Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”. Mở đầu bức tranh là khung cảnh đặc trưng của mùa đông: Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi/ Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng. Gam màu chủ đạo trong bức tranh này là gam màu xanh. Trên nền xanh bát ngát ấy, nổi bật lên những bông “hoa chuối đỏ tươi” xua tan đi vẻ âm u, thổi hơi ấm. Sức nặng của hai câu thơ dồn vào hai chữ “đèo cao”, gợi lên tư thế hiên ngang của con người Việt Bắc trong công việc lao động. Tiếp đến là khung cảnh mùa xuân thanh khiết với rừng mơ nở trắng xóa: Ngày xuân mơ nở trắng rừng/ Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang. Núi rừng Việt Bắc đã ngập trong một màu trắng thanh khiết, tinh khôi của hoa mơ. Thấp thoáng trong rừng hoa mơ ấy, ta bắt gặp hình ảnh con người Việt Bắc trong lao động, mang vẻ đẹp cần mẫn và tài hoa phù hợp với thiên nhiên thơ mộng và thanh khiết. Cảnh mùa hạ lại đặc trưng bởi sắc vàng ấm nóng: Ve kêu rừng phách đổ vàng/ Nhớ người em gái hái măng một mình. Câu thơ trên chỉ có sáu âm tiết nhưng đã gợi ra cả một chuỗi vận động liên hoàn: tiếng ve kêu gọi mùa hè đến, mùa hè với sắc nắng chói chang của nó nhuộm vàng cả rừng phách. Hình ảnh con người hiện ra qua cách gọi “người em gái” khiến người Việt Bắc hiện lên thật thân thương, gần gũi. Con người hiện ra hết sức lặng lẽ: “người em gái” chỉ có “một mình” giữa rừng măng, lao động trong thầm lặng. Bức tranh cuối cùng là khung cảnh mùa thu: Rừng thu trăng rọi hòa bình/ Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung. Bức tranh mùa thu yên bình, hạnh phúc, biểu tượng cho hòa bình cũng là cái đích mà cách mạng hướng tới.

Trong dòng hồi tưởng, Tố Hữu cũng không quên nhớ về cuộc sống, chiến đấu đầy gian khổ. Đó là khi cách mạng còn non trẻ, lực lượng còn yếu, giặc đến truy đuổi thường xuyên, đây chính là thử thách lớn lao đối với ý chí của con người. Nhưng dù trong gian khổ ta vẫn không chịu khuất phục cả con người và rừng núi hợp sức đánh giặc: Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây. Kháng chiến ngày một lớn mạnh, ta giành chiến thắng hết trận này đến trận khác. Giọng thơ tràn ngập niềm tự hào, niềm vui. Khép lại đoạn thơ, tác giả cũng phác thảo ra một bản đồ vui toả rộng khắp đất nước báo tin chiến thắng. Nhịp thơ dồn dập, tươi vui, náo nức cùng với sự xuất hiện của một loạt các địa danh trăm miền gắn với các tin vui chiến thắng đã cho thấy tốc độ thần kì của thắng lợi. Chiến thắng ấy trải dài khắp mọi miền Tổ quốc tạo nên ngày hội chiến thắng của toàn thể dân tộc ta.

Việt Bắc có thể coi như một bản tổng kết lịch sử của cuộc cách mạng dân tộc. Bài thơ đã tái hiện chân thực vẻ đẹp thiên nhiên và con người Việt Bắc, cùng với đó là cuộc kháng chiến anh hùng, vĩ đại của dân tộc ta. Bài thơ có sự kết hợp hài hòa giữa chất trữ tình và chất chính trị, thể thơ lục bát dân tộc, giọng điệu linh hoạt, hình ảnh phong phú, giàu sức biểu cảm đã tạo nên một thi phẩm xuất sắc.

Phân tích Việt Bắc (Mẫu 3)

Năm 1954, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, hoà bình được lập lại. Chủ tịch Hồ Chí Minh, trung ương Đảng, cán bộ, bộ đội rời Việt Bắc trở về Thủ đô Hà Nội. Trong không khí chia tay đầy nhớ thương lưu luyến giữa nhân dân Việt Bắc và những người cán bộ cách mạng, nhà thơ Tố Hữu đã sáng tác bài thơ “Việt Bắc”. Với tầm nhìn của một nhà thơ cách mạng, một nhà tư tưởng, Tố Hữu đã phản ánh sâu sắc hiện thực kháng chiến mười lăm năm của Việt Bắc và dự báo những diễn biến tư tưởng trong hoà bình.

Đoạn trích bài thơ “Việt Bắc” miêu tả cuộc chia li đầy thương nhớ lưu luyến giữa Việt Bắc và những người cán bộ kháng chiến và gợi lại những kỉ niệm kháng chiến anh hùng mà đầy tình nghĩa. Tác giả đã chọn thể thơ lục bát và lối hát đối đáp như trong ca dao dân ca và hình tượng hoá Việt Bắc và những người cán bộ kháng chiến là Ta – Mình. Cuộc chia li giữa nhân dân Việt Bắc và những người chiến sĩ cách mạng như là cuộc chia tay của một đôi bạn tình đầy bịn rịn, nhớ nhung, lưu luyến.

Mở đầu là lời của Việt Bắc. Để cho Việt Bắc – người ở lại – mở lời trước là rất tế nhị, vì trong chia tay thì người ở lại thường không yên lòng đối với người ra đi:

“Mình về mình có nhớ ta

Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng

Mình về mình có nhớ không

Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?”

Bài thơ “Việt Bắc” có hai giai điệu chính. Câu thơ mở đầu “Mình về mình có nhớ ta” là giai điệu chính thứ nhất. Câu thơ mới đọc thoáng qua tưởng không có gì nhưng sâu sắc lắm. Một trăm cặp tình nhân chia tay cũng đều nói lời này. Tố Hữu mượn màu sắc của tình yêu mà phô diễn tình cảm cách mạng. Đại từ mình và ta đứng ở hai đầu câu thơ, đã thấy xa cách. Từ “nhớ” được điệp lại ba lần đã tạo ra âm hưởng chủ đạo của bài thơ: lưu luyến, nhớ thường, ân tình ân nghĩa. Người về lặng đi trước những câu hỏi nặng tình nặng nghĩa của Việt Bắc:

“Áo chàm đưa buổi phân li

Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…”

Việt Bắc lại hỏi:

“Mình đi, có nhớ những ngày

Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù

Mình về, có nhớ chiến khu

Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?”

Để cho Việt Bắc hỏi là một cách nhà thơ khơi gợi lại những ngày kháng chiến gian khổ. Chỉ vài hình ảnh “mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù” là khung cảnh rừng núi hiện lên ảm đạm trong những ngày đầu kháng chiến. Mình và Ta đã từng chịu chung gian khổ “miếng cơm chấm muối”, đã cùng chung lưng đấu cật để chống kẻ thù chung “mối thù nặng vai”.

Vẫn còn là lời hỏi của Việt Bắc, nhưng tứ thơ chuyển:

“Mình về, rừng núi nhớ ai

Trám bùi để rụng, măng mai để già.

Mình đi, có nhớ những nhà

Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son”

Biện pháp tu từ nhân hoá “rừng núi nhớ ai” nói lên tình cảm thắm thiết của Việt Bắc với những người kháng chiến. Mình về thì núi rừng Việt Bắc trống vắng “Trám bùi để rụng, măng mai để già”. Quả trám (trám xanh và trám đen) và măng mai là hai món ăn thường nhật của bộ đội và cán bộ kháng chiến. Mượn cái thừa để nói cái thiếu, thật hay! Hình thức đối lập giữa cái bên ngoài (hắt hiu lau xám) và bên trong (đậm đà lòng son) biểu hiện chân thật cuộc sống lam lũ, nghèo đói của người dân Việt Bắc, nhưng trong lòng thì thuỷ chung son sắt với cách mạng.

Cuối lời Việt Bắc hỏi người về:

“Mình đi, mình có nhớ mình

Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?”

Giai điệu chính thứ hai của bài thơ xuất hiện: “Mình đi, mình có nhớ mình”. Nếu giai điệu một là đạo lí của dân tộc với tư tưởng ân nghĩa thì giai điệu hai là cách mạng. Việt Bắc nhắn nhủ với người về là chẳng những “nhớ ta” mà còn phải “nhớ mình’, nói theo ngôn từ của tình yêu thì chẳng những phải “nhớ em” mà còn phải “nhớ anh” nữa. Cái “anh” mà hồi ở với em. Mình đã sống với Ta mười lăm năm, tình nghĩa biết mấy, anh hùng biết mấy! Mình với Ta viết lên những trang sử oai hùng của dân tộc “Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa”. Bây giờ xa cách, Mình về thành thị, nhớ đừng thay lòng đổi dạ với Ta, mà cũng đừng thay lòng đổi dạ với chính mình:

“Mình về thành thị xa xôi

Nhà cao, còn thấy núi đồi nữa chăng?

Phố đông, còn nhớ bản làng

Sáng đèn còn nhớ mảnh trăng giữa rừng?”

Để cho Việt Bắc ướm hỏi dè chừng như vậy là một cách khéo léo nhà thơ Tố Hữu dự báo những diễn biến tư tưởng trong hoà bình.

“Mình đi, mình có nhớ mình”

Đó là câu thơ hay nhất của bài thơ “Việt Bắc” mà cũng là một sáng tạo tuyệt vời của Tố Hữu. Đón hết những lời ân tình ân nghĩa của Việt Bắc, bây giờ người về mới mở lời. Lời người về cũng chí tình chí nghĩa:

“Ta với mình, mình với ta

Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh,

Mình đi, mình lại nhớ mình

Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu…”

Hai đại từ ta – mình cứ xoắn xuýt, quấn quýt “Ta với mình, mình với ta” thật là nồng nàn. Ý nghĩa lại không rạch ròi để rồi nhập lại làm một:

“Mình đi, mình lại nhớ mình”

(Trả lời cho câu hỏi: “Mình về mình có nhớ ta”)

Diễn ra ngôn ngữ của tình yêu là “Anh đi anh lại nhớ em”. Nỗi nhớ của người đi thật là dào dạt, nghĩa tình của người đi đối với Việt Bắc thật là bất tận “Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu”. Người đi trả lời như vậy hẳn làm yên lòng người ở lại – Việt Bắc.

Như vậy là biến tấu của giai điệu một đã hình thành và mở rộng đến vô cùng. Tất nhiên đấy chỉ là một thủ pháp để nhà thơ miêu tả mối quan hệ khăng khít giữa Việt Bắc và cách mạng, miêu tả lại bản anh hùng ca kháng chiến của quân dân Việt Bắc.

Để xua tan những hoài nghi của người ở lại, người về phải nói những lời thật nồng thắm, phải so sánh với những tình cảm cao quý nhất của con người:

“Nhớ gì như nhớ người yêu

Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương”

Từ “nhớ” được điệp lại trùng trùng và mỗi từ lại gợi lên không biết bao nhiêu kỉ niệm thân thương giữa Ta với Mình. Những chi tiết nhỏ nhặt đã được hồi tưởng (mà cái nhỏ trong tình yêu chính là cái lớn).

Thương nhau, chia củ sắn lùi

Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng”

Con người Việt Bắc trong lòng người về mới đáng yêu đáng quý làm sao:

“Nhớ người mẹ nắng cháy lưng

Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô.”

Một tiếng mõ trâu giữa rừng chiều, một tiếng chày đêm ngoài suối âm vang mãi trong lòng người ra về:

“Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều

Chày đêm nện cối đều đều suối xa…”

Nói gọn lại là người về nhớ thiên nhiên Việt Bắc tươi đẹp, thơ mộng hữu tình(1); nhớ con người Việt Bắc giản dị, tình nghĩa, thủy chung.

Từ giọng điệu anh hung ca. Cuộc kháng chiến anh hùng của ta và mình được tái hiện trong hòai niệm của người về:

“Nhớ khi giặc đến giặc lùng

Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây

Núi giăng thành lũy sắt dày

Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù.”

Thiên nhiên Việt Bắc như có linh hồn là nhờ tác giả sử dụng phép nhân hóa. Núi rừng Việt Bắc tươi đẹp đã trở thành lũy sắt bảo vệ và che chở cho bộ đội “vây”, “đánh” quân thù. Mỗi một tên núi, tên sông, tên phố, tên bản là một chiến công lừng lẫy của quân dân Việt Bắc. Rồi những đêm hành quân, những đoàn dân công, những đoàn xe vận tải tấp nập sôi động:

“Những đường Việt Bắc của ta

Đêm đêm rầm rập như là đất rung

Quân đi điệp điệp trùng trùng

Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan

Dân công đỏ đuốc từng đoàn

Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.

Nghìn đêm thăm thẳm sương dày

Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.”

Tác giả lại chuyển sang giọng điệu thơ trang trọng, thiêng liêng để diễn tả nỗi nhớ của người về đối với Trung ương Chính phủ – Cụ Hồ. Và hình ảnh của Việt Bắc trong trí nhớ của người về là quê hương cách mạng, là căn cứ địa kháng chiến, là niềm tin là hi vọng của cả dân tộc.

Người về cũng không quên trả lời câu hỏi gay cấn của Việt Bắc:

“Mình về mình lại nhớ ta

Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào” (2)

(Trả lời cho câu hỏi “Mình đi mình có nhớ mình”)

Nghĩa là người về muốn nhắn nhủ với Việt Bắc là dù xa cách dù về thành thị xa xôi thì người các bộ kháng chiến năm xưa vẫn giữ gìn và phát huy phẩm chất tốt đẹp của người cán bộ cách mạng.

Như vậy là với biến tấu của giai điệu hai, tác giả đã khép lại phần một của bài thơ”Việt Bắc”. Và chủ đề chung thủy – chung thủy với cách mạng của bài thơ “Việt Bắc” đã đạt đến độ sâu sắc ngay trong phần một này.

“Việt Bắc” là một kiệt tác của Tố Hữu mà cũng là kiệt tác của thơ ca cách mạng, thơ ca kháng chiến. Bài thơ thể hiện tài hoa nhiều mặt của nhà thơ Tố Hữu. Thể thơ lục bát được tác giả phô diễn những tình cảm, tư tưởng mới mà vẫn đậm đà bản sắc dân tộc. Lối hát đối đáp tạo ra giai điệu phong phú cho bài thơ. Nhiều biện pháp tu từ được tác giả vận dụng khéo léo. Ngôn ngữ trong sáng, nhuần nhị, và có nhiều nét cách tân (đặc biệt là hai đại từ Ta – Mình). Tiếng nói yêu thương – nét nổi bật trong phong cách thơ Tố Hữu – không có bài nào thấm thía hơn “Việt Bắc”. Bài thơ còn thể hiện tư tưởng mới mẻ với những dự báo sáng suốt được biểu hiện bằng hình ảnh phong phú và tấu lên băng âm nhạc làm say mê lòng người.

Phân tích Việt Bắc (Mẫu 4)

'Việt Bắc' là bài thơ kiệt tác của Tố Hữu, là một trong những thành tựu xuất sắc của thơ ca Việt Nam thời kháng chiến chống Pháp (1946 – 1954).

Ra đời trong một hoàn cảnh lịch sử hào hùng của dân tộc, sâu chiến thắng Điện Biên chấn động địa cầu, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, Thủ đô Hà Nội rợp đỏ bóng cờ trong ngày hội non sông (10 – 1954), bài thơ 'Việt Bắc' là tiếng hát nghĩa tình sắt son thủy chung của mình với ta, của chiến sĩ, cán bộ, đồng bào đối với chiến khu Việt Bắc với cách mạng và kháng chiến, đối với Đảng và Bác Hồ của miền xuôi và miền ngược; là khúc tráng ca anh hùng của một dân tộc thắng trận sau hơn ba ngàn ngày máu lửa.

Bài thơ 'Việt Bắc' mang tầm vóc một trường ca, dài 150 câu thơ lục bát, vừa mang âm điệu ca dao, dân ca đậm đà, vừa mang vẻ đẹp thơ ca cổ điển và thơ ca cách mạng dân tộc.

Mở đầu bài thơ là cảnh đưa tiễn của mình với ta, giữa kẻ ở với người về đã gợi ra một trời thương nhớ, lưu luyến, bồn chồn, thiết tha:

Mình về mình có nhớ ta

Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng

Mình về mình có nhớ không

Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?

Hình ảnh hoán dụ 'áo chàm' hiện lên trong buổi tiễn đưa đã tạo nên màu sắc Việt Bắc, màu sắc núi rừng chiến khu, màu thương nhớ của mối tình quân dân 'đậm đà lòng son' suốt mười lăm năm trời cách mạng và kháng chiến:

Áo chàm đưa buổi phân li

Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...

Có biết bao kỉ niệm sâu sắc ghi nhớ trong lòng, trải suốt một chặng đường dài gian lao và anh dũng, từ cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn năm 1940 đến chiến thắng Điện Biên và ngày miền Bắc được hoàn toàn giải phóng (mùa thu năm 1954). Những câu hỏi của người ở lại hòa theo tiếng hát cứ quyện vào hồn, thấm sâu vào lòng người cán bộ kháng chiến về xuôi: 'Mình về có nhớ... Mình đi có nhớ...'. Mình đi có nhớ những tháng ngày 'nhóm lửa' gian khổ: 'Mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù'. 'Mình về có nhớ chiến khu' thời đánh Pháp đuổi Nhật 'Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai'. Trong thiếu thốn gian lao, nợ nước thù nhà khắc sâu hồn người, càng chất chứa trong lòng, càng đè nặng đôi vai: 'Mày sẽ chết! Thằng giặc Pháp hung tàn – Băm xương thịt mày tan mới hả' ('Dọn về làng' – Nông Quốc Chấn). Mình đi..., mình về... có nhớ, nhớ trám bùi, nhớ măng mai, nhớ lau xám, nhớ những địa danh lịch sử, nhớ 'Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?'. Nhớ Việt Bắc là 'Nhớ khi kháng Nhật thuở còn Việt Minh', nhớ đồng bào của dân tộc tuy nghèo khổ thiếu thốn nhưng tình nghĩa thủy chung son sắt với cách mạng. Những ẩn dụ, tượng trưng trong thơ Tố Hữu thật rung động, mở ra một không gian thương nhớ mênh mông với bao tình nghĩa vơi đầy:

Mình đi có nhớ những nhà

Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son.

Xa dần Việt Bắc, trên đường về Thủ đô, về xuôi, người cán bộ kháng chiến mang theo bao nỗi nhớ, chất chứa dào dạt trong tâm hồn bao kỉ niệm đẹp và sâu sắc:

Mình đi mình lại nhớ mình

Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu....

Người đi, người về mang theo bao nỗi nhớ: nhớ mình, nhớ trăng lên đầu núi, nhớ nắng chiều lưng nương, nhớ bản khói cùng sương, nhớ bếp lửa, nhớ rừng nứa bờ tre, nhớ ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê,...

Một củ sắn lùi, một bát cơm sẻ nửa, chiếc chăn sui... trong những tháng ngày 'đắng cay ngọt bùi' ấy, người về có bao giờ quên. Sự đồng cam cộng khổ đã làm cho tình thương nỗi nhớ thêm bồi hồi da diết:

'Thương nhau chia củ sắn lùi,

Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng'.

Các từ ngữ: thương nhau, sẻ nửa, đắp cùng như những ngọn lửa thắp sáng vần thơ, làm cho tình đồng bào đồng chí, tình quân dân, tình cá nươcs thêm ấm áp.

Nhớ chiến khu, nhớ Việt Bắc, ta nhớ mình, nhớ người mẹ vất vả, tần tảo 'nắng cháy lưng, địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô'. Điệp ngữ 'nhớ sao' diễn tả bao da diết bồn chồn: nhớ sao lớp học i tờ, nhớ sao đuốc sáng những giờ liên hoan; nhớ tiếng hát giữa lưng đèo, vách núi, nhớ tiếng mõ rừng chiều, nhớ tiếng chày đêm nện cối... của khúc nhạc rừng chiến khu. 'Những hoa cùng người' của Việt Bắc trong bốn mùa đã trở thành mảnh tâm hồn của ta cùng với bao nỗi nhớ:

Ta về mình có nhớ ta,

Ta về ta nhớ những hoa cùng người,

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi,

Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.

Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.

Ve kêu rừng phách đổ vàng,

Nhớ cô em gái hái măng một mình.

Rừng thu trăng rọi hòa bình,

Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.

Đoạn thơ như một bài hành mang vẻ đẹp cổ điển. Thiên nhiên và con người Việt Bắc được điểm nhãn trong bức tranh tứ bình đẹp như gấm như thêu. Màu đỏ tươi của hoa chuối giữa rừng xanh mùa đông và con dao quắm của người đi nương, đi rẫy 'nắng ánh' trên đèo cao. Hoa mơ mùa xuân 'nở trắng rừng' và người thợ thủ công khéo léo đan nón 'chuốt từng sợi giang'. Rừng phách mùa hè 'đổ vàng' trong tiếng ve và hình ảnh cô gái Việt Bắc 'một mình' đi hái măng giữa rừng tre rừng trúc. Tiếng hát ân tình thủy chung của ai cất lên trong rừng thu dưới ánh trăng xanh hòa bình mát dịu. Tất cả đều trở thành nỗi nhớ của ta, của người cán bộ kháng chiến.

Tố Hữu đã sống hết mình với Việt Bắc nên ông mới viết thật hay về nỗi nhớ ấy. Cảnh sắc thiên nhiên đẹp rực rỡ, đẹp dịu dàng và đầy sức sống. Cảnh bốn mùa xuân, hạ, thu, đông, mùa nào cũng đẹp, một vẻ đẹp thơ mộng xinh tươi. Con người Việt Bắc được nói đến là con người lao động: người đi làm nương rẫy, người thợ thủ công, cô em gái hái măng, và ai đang cất cao tiếng hát – tất cả đều tượng trưng cho những đức tính tốt đẹp của đồng bào các dân tộc Việt Bắc như cần cù, khéo léo, lạc quan yêu đời. Đọc bài thơ 'Việt Bắc', ta không bao giờ quên được cảnh sắc thiên nhiên bốn mùa và những con người lao động đáng yêu ấy.

Nhớ Việt Bắc là nhớ chiến khu bất khả xâm phạm: 'Núi giăng thành lũy sắt dày'. Nhớ Việt Bắc là nhớ thế trận chiến tranh nhân dân thần kì: 'Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây'. Nhớ Việt Bắc là nhớ chiến khu với tất cả niềm tự hào về khôi đại đoàn kết dân tộc làm nên sức mạnh Việt Nam để chiến đấu và chiến thắng:

Mênh mông bốn mặt sương mù,

Đất trời ta cả chiến khu một lòng.

Tác giả đã sáng tạo nên những hình ảnh ẩn dụ và nhân hóa ngợi ca chiến khu Việt Bắc mang tầm vóc dũng sĩ hiên ngang – cái nôi của cách mạng 'dựng nên Cộng hòa'. 'Ai về ai có nhớ không?' – Ta nhớ nhiều và nhớ lắm. Nhớ những nẻo đường chiến dịch, nhớ những địa danh lịch sử mà bộ đội ta từng vào sinh ra tử, làm cho giặc Pháp bạt vía kinh hồn: 'nhớ Phủ Thông, đèo Giàng – Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng – Nhớ từ Cao Lạng nhớ sang Nhị Hà'. Cả một trời thương nhớ không bao giờ có thể quên. Ta về ta nhớ những con đèo, những dòng sông, những ngọn núi..., nay 'đã hóa tâm hồn' ta từ những tháng ngày gian khổ và oanh liệt.

Nhớ Việt Bắc là nhớ những nẻo đường chiến dịch, nhớ những đêm 'rầm rập' hành quân ra trận. Là nhớ những binh đoàn 'Quân đi điệp điệp trùng trùng' trong ánh sao đêm. Là nhớ những đoàn dân công vận tải 'Bước chân nát đá' theo ngọn đuốc đỏ rực, cùng ánh 'đèn pha bật sáng' của đoàn xe kéo pháo ra trận. Giọng thơ mang âm điệu anh hùng ca cất lên như những tiếng reo biểu lộ niềm vui trước khí thế chiến đấu và chiến thắng của quân và dân ta trong ba nghìn ngày khói lửa:

Những đường Việt Bắc của ta,

Đêm đêm rầm rập như là đất rung.

Quân đi điệp điệp trùng trùng

Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan

Dân công đỏ đuốc từng đoàn

Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay

Nghìn đêm thăm thẳm sương dày

Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.

'Ai về có nhớ không' – Ta về…, ta nhớ nhiều và nhớ lắm!' Nhớ Việt Bắc là nhớ 'thủ đô gió ngàn' của cuộc kháng chiến, là nhớ 'Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang', là nhớ 'Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào', là nhớ 'Quê hương cách mạng dựng nên Cộng hòa'…

Chiến khu Việt Bắc là nơi gửi gắm bao niềm tin của đồng bào và chiến sĩ trên mọi miền đất nước gần xa trong những năm dài chiến đấu gian khổ: 'Trông về Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi… Nhìn lên Việt Bắc mà nuôi chí bền'.

Việt Bắc là nơi hội tụ mọi chiến công, chiến thắng của quân và dân ta từ khắp các chiến trường báo về; niềm vui thắng trận dâng lên dào dạt:

Tin vui chiến thắng trăm miền

Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về,

Vui từ Đồng Tháp, An Khê,

Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.

Lời đối đáp tâm tình của mình, ta được thể hiện trong phần thứ hai bài thơ 'Việt Bắc' càng trở nên bồi hồi tha thiết; người ở, người về, miền xuôi và miền ngược càng gắn bó ân tình sâu nặng. Món quà Việt Bắc gửi về miền xuôi là đặc sản, là 'cây nhà lá vườn', là hương vị của núi rừng:

Mình về ta gửi về quê,

Thuyền nâu, trâu mộng với bè nứa mai.

Món quà ấy càng làm cho tình nghĩa mình – ta, tình non nước thêm bền đẹp, càng làm cho cuộc sống, cuộc đời thêm đậm đà sắt son: 'Chàm nâu thêm đậm, phấn son chẳng nhòa… Phên nhà lại ấm, mái đình lại vui'.

'Việt Bắc' là bài ca tình nghĩa. Có biết bao câu hỏi vang lên dồn dập như nhắc nhở, như khắc sâu những tình cảm tốt đẹp của quân dân, của cách mạng và kháng chiến, của mình với ta:

Nhà cao còn thấy núi đồi nữa chăng?

Sáng đèn còn nhớ mảnh trăng giữa rừng?

Bao giờ Việt Bắc tưng bừng thêm vui?

Hai chữ 'ngày mai' được điệp lại, mở ra một trời mơ ước bao la. Và đó cũng là niềm tin yêu của những tấm lòng ân tình, ân nghĩa thủy chung:

Ngày mai về lại thôn hương,

Rừng xưa núi cũ yêu thương lại về.

Ngày mai rộn rã sơn khê,

Ngược xuôi tàu chạy, bốn bề lưới giăng…

Việt Bắc sẽ đổi thay trong sự đổi thay của đất nước. Những nhà máy mới sẽ mọc lên. Phố phường sẽ mọc lên. Có nhiều mái trường ngói mới đỏ tươi cho tuổi thơ. Có 'Chợ vui trăm nẻo về khơi nguồn hàng'. Mối quan hệ đầy tình nghĩa giữa miền xuôi và miền ngược, sẽ trở nên sâu nặng, gắn bó thiết tha vô cùng. Muối Thái Bình, cày bừa Đông Xuất, mía đường tỉnh Thanh, chum vại Hương Canh… là đặc sản miền xuôi gửi lên miền ngược sẽ góp phần làm cho cuộc sống mới thêm ấm áp, đẹp tươi. Món quà miền xuôi gửi lên miền ngược là món quà tình nghĩa 'Ai lên mình gửi cho anh với nàng':

Chiếu Nga Sơn, gạch Bát Tràng,

Vải tơ Nam Định, lụa hàng Hà Đông.

Những món quà tình nghĩa ấy đã làm cho lời thề giữa mình với ta được khắc sâu, làm cho khúc tình ca non nước mãi mãi bền đẹp:

Nước trôi lòng suối chẳng trôi,

Mây đi mây vẫn nhớ hồi về non.

Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn…

Một trong những hình ảnh đẹp nhất được Tố Hữu tô đậm trong bài thơ là hình ảnh vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc. ông Cụ đã từng hoạt động bí mật tại Cao Bằng. Người đã đến với Tân Trào trong những ngày Quốc dân đại hội. Người đã sống và đi thuyền trên sông Đáy. Bác đã đi chiến dịch Biên giới… nay Bác về xuôi cùng đoàn quân thắng trận. Núi rừng Việt Bắc 'không nguôi nhớ Người', ngẩn ngơ 'trông theo bóng Người'. Bức chân dung lãnh tụ vừa cổ kính thiêng liêng vừa bình dị, gần gũi:

Mình về với Bác đường xuôi

Thưa giùm Việt Bắc không nguôi nhớ Người.

Nhớ Ông Cụ mắt sáng ngời

Áo nâu túi vải đẹp lạ thường!

Nhớ Người những sáng tinh sương

Ung dung yên ngựa trên đường suối reo

Nhớ chân Người bước lên đèo

Người đi, rừng núi trông theo bóng Người.

Nét vẽ nào cũng thần tình. Có núi rừng, có đèo cao, có suối reo… làm nền cho bức họa truyền thần. Có những nét chấm phá linh diệu về Ông Cụ: mắt sáng ngời, áo nâu túi vải đẹp tươi, phong thái ung dung khi ngồi trên yên ngựa trong tiếng suối reo, khi bước trên đèo cao… Thời gian là những sáng tinh sương. Thần thái của Người là thông minh tài trí, là giản dị, bình dị, là ung dung, thanh cao. Thiên nhân được nhân hóa: 'Người đi, rừng núi trông theo bóng Người' làm cho tình thương nhớ, lưu luyến và sự kính yêu ngưỡng mộ của nhân dân đối với Bác Hồ thêm đậm đà, sâu sắc. Đây là một trong những đoạn thơ hay nhất, đẹp nhất của Tố Hữu viết về vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc.

Bài thơ 'Việt Bắc' được khép lại trong tình non nước và lòng biết ơn Bác Hồ kính yêu. Đó là mối tình đời đời bất diệt:

Ngàn năm non nước mai sau

Đời đời ơn Bác càng sâu càng bền.

'Việt Bắc' là sự kết tinh nghệ thuật thơ ca dân gian và thơ ca cổ điển của dân tộc. Cách đối đáp giữa mình với ta theo lối ca dao dân ca được vận dụng sáng tạo. Tình lưu luyến, bồi hồi giữa kẻ ở người về gắn liền với bao kỉ niệm đắng cay, ngọt bùi trong suốt mười lăm năm trời, từ ngày 'kháng Nhật thưở còn Việt Minh' đến ngày chiến thắng giòn giã: 'Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về'. Hình ảnh quân dân kháng chiến, hình ảnh lãnh tụ kính yêu, cảnh sắc thiên nhiên thơ mộng, hùng vĩ, đẹp tươi… tất cả đã chung đúc một cách hài hòa, tuyệt đẹp làm nên tính dân tộc và tính hiện đại của bài thơ tuyệt bút này.

'Việt Bắc' là khúc tình ca cũng là bản anh hùng ca về cách mạng, về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến. Nó đã nâng cao tình yêu nước và niềm tự hào dân tộc. Tình ân nghĩa thủy chung là bài học sâu sắc đối với mỗi chúng ta, mãi mãi là hành trang của mỗi chúng ta.

'Thơ hay phải có dư vị văn chương' như có người đã nói. Trong những năm dài sống trong chế độ bao cấp, thiếu thốn đủ điều, có lúc phải ăn bo bo, nên khi đọc Việt Bắc, nhiều người chưa cảm thấy 'dư vị' của nó.

Bước sang thế kỉ XXI, đất nước ta đang đổi mới từng ngày từng giờ. Tuy đến nay (2008), Việt Bắc chưa có cảnh tượng 'Phố phường như nấm, như măng giữa trời', nhưng ai cũng cảm thấy lạc quan và hi vọng. Dự báo ấy chính là 'dư vị văn chương' của bài thơ 'Việt Bắc'.

Giải pháp phát triển du lịch vùng Việt ...

Phân tích Việt Bắc (Mẫu 5)

Tố Hữu là một trong những nhà thơ tiêu biểu của nền thơ ca Việt Nam nói chung và nền thơ ca cách mạng nói riêng, thơ của ông luôn song hành cùng với những cột mốc cách mạng của dân tộc. Đặc biệt, bài thơ Việt Bắc được in trong tập thơ cùng tên được xem là một đỉnh cao của thơ Tố Hữu và cùng là một tác phẩm xuất sắc của văn học Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Việt Bắc là mở đầu phần I của bài thơ Việt Bắc vốn dĩ viết về hoàn cảnh chia tay của quân và dân ta đầy lưu luyến, bịn rịn giữa kẻ ở - người đi, những con người đã từng gắn bó lâu dài (15 năm từ 1945 - 1954) với biết bao nghĩa tình sâu nặng sau chiến thắng 1954. Tác phẩm này chất chứa trọn vẹn phong cách thơ đặc trưng của Tố Hữu – bài ca trữ tình chính trị với tính đậm đà dân tộc được thể hiện đặc sắc qua cả nội dung và nghệ thuật.

Mở đầu là lời của Việt Bắc, là lời của người ở lại như thể hiện sự níu kéo đầy tiếc nuối với người ra đi:

“Mình về mình có nhớ ta?

Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.

Mình về mình có nhớ không?

Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?”

Câu hỏi tu từ “mình có nhớ ta”, “mình có nhớ không” tưởng chừng là không sâu sắc nhưng đây chính là lời ướm hỏi, nhắc nhở về kỉ niệm 15 năm ân tình, muốn khơi gợi kỉ niệm trong lòng của người ra đi. Những cặp tình nhân, những đôi trai gái khi xa nhau đều tha thiết mà nói lời này. Cặp đại từ mình – ta khiến liên tưởng đến những câu ca dao đối đáp trao duyên, ở đây Tố Hữu đã mượn hình thức đối đáp bình dị này, còn nội dung thì đổi mới sáng sự ý thức về cội nguồn, cội nguồn của những kỉ niệm trong những ngày tháng kháng chiến hay tình cảm quân dân. Cặp đại từ này cũng thể hiện được phần nào sự gắn bó thân mật đầy yêu thương của quân dân ta. “Mười lăm năm ấy” là quãng thời gian gắn bó giữa Việt Bắc với cán bộ cách mạng kết hợp với cụm từ chỉ sắc thái tâm trạng “thiết tha mặn nồng” thể hiện mối quan hệ này bao nhiêu ân tình, bao nhiêu kỉ niệm khó quên.

Điệp từ “nhớ” lặp đi lặp lại mang sự tha thiết, day dứt và trăn trở trong nỗi nhớ đối với những người, những kỉ niệm đã từng gắn bó. Nghệ thuật liệt kê kết hợp các cặp từ sóng đôi: cây – núi, sông – nguồn như muốn nhắn nhủ và khẳng định mối quan hệ này không thể tách rời như cây với núi, như sông với nguồn và đây cũng chính là hình ảnh cội nguồn của những kỉ niệm, những nỗi nhớ gắn bó với núi rừng Việt Bắc.

Ở những câu tiếp theo chính là lời đáp của người ra đi, lời của cán bộ cách mạng đối với Việt Bắc cũng bày tỏ tâm trạng bâng khuâng, lưu luyến trong buổi phân li:

“Tiếng ai tha thiết bên cồn

Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi

Áo chàm đưa buổi phân li

Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…”

Sử dụng các từ láy “tha thiết”, “bâng khuâng”, “bồn chồn” cùng với cử chỉ “cầm tay nhau” diễn tả tâm trạng xúc động, lưu luyến đến nghẹn ngào không nói nên lời. Dùng lối nói phiếm chỉ “tiếng ai” kết hợp hình ảnh hoán dụ “áo chàm” gợi hình ảnh đồng bào Việt Bắc, gần gũi, thân thương, nghĩa tình. Kết thúc bằng hình thức câu bỏ lửng “…”, nhịp thơ 3/3/2 thể hiện một tâm trạng không thể lý giải được, không đành lòng để cho người đi, làm chực trào nhớ thương những kỉ niệm. Buổi phân ly da diết đến nao lòng…

Những câu hỏi của Việt Bắc khiến những kỉ niệm ở vùng đất này ùa về dồn dập đến choáng ngợp:

“Mình đi, có nhớ những ngày

Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù?

Mình về, có nhớ chiến khu

Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?

Mình về, rừng núi nhớ ai

Trám bùi để rụng, măng mai để già

Mình đi, có nhớ những nhà

Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son

Mình về, còn nhớ núi non

Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh

Mình đi, mình có nhớ mình

Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?”

Gợi kỉ niệm về những ngày tháng gian khổ với “mưa nguồn suối lũ”, “mây cùng mù”, rồi những kỉ niệm về những ngày đầu cách mạng gian khổ, cùng nhau chia ngọt sẻ bùi, đồng cam cộng khổ “ miếng cơm chấm muối , mối thù nặng vai”. Có như không mà nhắc đến tình cảm ân tình, thủy chung, ấm áp “hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son”, gợi nhớ đến những cao trào cách mạng, những địa danh thiêng liêng của lịch sử đất nước “nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh”, “Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa”.

Lời Việt Bắc hỏi chính là để đánh thức, nhắc nhở người về xuôi đừng quên những kỷ niệm. Song bên cạnh đó cũng là để bày tỏ tâm trạng. Sự nhớ thương, trống vắng trong lòng kẻ ở lại: “rừng núi nhớ ai”, “trám bùi để rụng, măng mai để già”, những điệp ngữ “mình đi – có nhớ”, “mình về - có nhớ”,… vang lên một cách dồn dập liên tiếp đã nói lên điều đó. Sự lo âu, băn khoăn liệu người ra đi có còn nhớ, có còn giữ những kỉ niệm xưa hay là sẽ chối bỏ, sẽ lãng quên: “mình đi, mình có nhớ mình?”. Nghệ thuật nhân hóa cùng hoàng loạt điệp ngữ kết hợp cùng bao hoài niệm tha thiết đã cho thấy hình ảnh người ở lại bâng khuâng thương nhớ với cảm giác chưa nguôi đầy lưu luyến trong phút chia li.

“Ta với mình, mình với ta

Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh

Mình đi, mình lại nhớ mình

Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu...

Nhớ gì như nhớ người yêu

Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương

Nhớ từng bản khói cùng sương

Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.

Nhớ từng rừng nứa bờ tre

Ngòi Thia sông Ðáy, suối Lê vơi đầy

Ta đi, ta nhớ những ngày

Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi...”

Hai đại từ ta – mình cứ ở gần nhau mà quấn quýt không rời “Ta với mình, mình với ta” thật là nồng nàn. Không phân ý nghĩa ra là riêng mà nhập thành một khẳng định sự thủy chung son sắt. Nguồn với nước dào dạt bao nhiêu thì ta với mình nghĩa tình bấy nhiêu, và ai cũng biết nguồn với nước là bất tận “Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu”.. Phép điệp cấu trúc kết hợp với điệp ngữ đặt ở đầu câu: nhớ gì, nhớ từng… khẳng định người ra đi không quên bất cứ một hình ảnh nào ở Việt Bắc, ở thiên nhiên Việt Bắc và ở con người nơi đây.

Thiên nhiên Việt Bắc là một thiên nhiên mênh mông, hùng vĩ, đầy sức sống, là một thiên nhiên vừa hiện thực vừa thơ mộng mang nét đặc trưng của Việt Bắc: trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương,… Hình ảnh thiên nhiên luôn hòa quyện thắm thiết với con người. Nhớ con người Việt Bắc luôn gắn bó với thiên nhiên, luôn chăm chỉ, gần gũi, tràn đầy năng lượng, sức sống luôn lạc quan, yêu đời, yêu lao động. Con người đầy ân tình, đồng cam cộng khổ gắn bó với chiến sĩ cách mạng. Cũng nhớ người Việt Bắc lam lũ đầy cơ cực, vất vả. Nhớ con người Việt Bắc như vậy thể hiện sự xót xa của tác giả với những cực khổ của đồng bào Việt Bắc. Rồi lại nhớ cuộc sống và những ngày tháng sinh hoạt ở chiến khu. Dù cuộc sống kháng chiến có gian khổ, thiếu thốn nhưng vẫn lạc quan, yêu đời: những sinh hoạt học tập, liên hoan,.. không gian thanh bình, êm đềm.

Một trong những đặc sắc của Việt Bắc chính là bức tranh tứ bình đầy màu sắc. Qua lời kể của các anh chiến sĩ bức tranh thiên nhiên hiện lên một cách sinh động, đầy rực rỡ:

“Ta về, mình có nhớ ta

Ta về ta nhớ những hoa cùng người

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.

Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang

Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình

Rừng thu trăng rọi hòa bình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.”

Người ra đi khẳng định nỗi nhớ trong lòng mình, hình ảnh “hoa cùng người” cho thấy thiên nhiên và con người Việt Bắc luôn gắn bó hài hòa là đối tượng của nỗi nhớ. Mùa đông nơi đây là màu xanh bạt ngàn của núi rừng Việt Bắc, đâu đó được điểm tô và thắp sáng bởi màu đỏ tươi của hoa chuối, câu thơ tả cảnh mùa đông nhưng không hề có cảm giác lạnh lẽo, ảm đạm. Hình ảnh “hoa chuối đỏ tươi” như xua đi cái lạnh lẽo nơi núi rừng mang lại cảm giác ấm áp, gần gũi, thân thương. Nơi đây hình ảnh con người xuất hiện với tư thế bản lĩnh đầy tự tin nơi đèo cao, con dao đi rừng phản quang bởi ánh mặt trời chiếu vào làm hình ảnh của con người rực sáng trở thành trung tâm bức tranh. Mùa xuân thơ mộng với màu trắng tinh khiết của hoa mơ, cả núi rừng tràn ngập một màu trắng. “Nở trắng rừng” tạo ấn tượng mạnh mẽ, dường như màu sắc vận động khoác lên Việt Bắc một tấm áo mới. Hình ảnh đầy sức sống bừng dậy cho thấy tâm trạng náo nức khi mùa xuân tới.

Thời gian này con người Việt Bắc hiện lên bởi hình tượng chăm chỉ, cần mẫn, khéo léo tạo ra những sản phẩm làm giàu cho Việt Bắc đóng góp cho kháng chiến. Xuân qua thì hè đến, hình ảnh thơ mang âm thanh rộn ràng của ve và màu vàng rực rỡ của hoa phách, tiếng ve vang động như khiến cho rừng cây đổ vàng đồng loạt. Con người Việt Bắc xuất hiện giữa tiếng ve và màu sắc rực rỡ của hoa phách trong tư thế lao động đời thường gợi cảm giác trữ tình thơ mộng. Mùa thu được gợi lên bởi những hình ảnh đậm chất cổ điển mang phong vị thơ Đường, không khí thanh bình, yên ả vẻ đẹp thơ mộng, êm đềm cùng với ánh trăng. Con người xuất hiện cùng tiếng hát ân tình thủy chung gợi sự lạc quan yêu đời và tình cảm ân tình, gắn bó.

“Nhớ khi giặc đến giặc lùng

Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây

Núi giăng thành lũy sắt dày

Rừng che bộ đội rừng vây quân thù

Mênh mông bốn mặt sương mù

Ðất trời ta cả chiến khu một lòng.

Ai về ai có nhớ không?

Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng

Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng

Nhớ từ Cao-Lạng nhớ sang Nhị Hà...”

Vào giai đoạn đầu khi cách mạng còn yếu thì thiên nhiên Việt Bắc với rừng núi mênh mông, hùng vĩ trở thành bạn của quân dân ta, chở che cho bộ đội ta, cùng quân và dân ta “ vây”, “đánh” giặc. Tố Hữu sử dụng biện pháp nhân hóa khiến thiên nhiên Việt Bắc sinh động hơn, có hồn hơn. Chiến công của Việt Bắc là phải nhớ đến mỗi tên sông, tên núi, tên phố,.. Một Việt Bắc với khí thế chiến đấu hào hùng, sôi động của cuộc kháng chiến chống giặc, một tinh thần đoàn kết – một sự anh dũng, kiên cường trong chiến đấu

Việt Bắc trưởng thành với khí thế hào hùng, sôi động của cuộc chiến đấu:

“Những đường Việt Bắc của ta

Ðêm đêm rầm rập như là đất rung

Quân đi điệp điệp trùng trùng

Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan

Dân công đỏ đuốc từng đoàn

Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.

Nghìn đêm thăm thẳm sương dày

Ðèn pha bật sáng như ngày mai lên.

Tin vui chiến thắng trăm miền

Hoà Bình, Tây Bắc, Ðiện Biên vui về

Vui từ Ðồng Tháp, An Khê

Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.”

Từ quá khứ, tác giả mở ra một hình ảnh đoàn quân ngày càng lớn mạnh, nối tiếp liên tục hành quân trong đêm khuya ở một không gian vô cùng rộng lớn. Nghệ thuật so sánh kết hợp với những từ láy đã diễn tả lực lượng đông đảo , sự lớn mạnh cùng khí thế hào hùng của quân đội ta. Nếu hình ảnh đoàn quân “điệp điệp, trùng trùng” như gợi tưởng tới những dãy núi, nối tiếp nhau không dứt là một hình ảnh có tính mạnh mẽ thì hình ảnh ẩn dụ “ánh sao đầu súng” là một tứ thơ đẹp, trữ tình để liên tưởng đến lý tưởng cách mạng soi sáng dẫn đường và thiên nhiên Việt Bắc như người bạn đồng hành với các chiến sĩ cách mạng. Những bó đuốc đỏ rực của đoàn dân công soi đường kết hợp với hình ảnh phóng đại “bước chân nát đá” thể hiện sức mạnh lực lượng đông đảo và tinh thần quyết tâm cùng trái tim rực cháy đạt bằng mọi gian khổ chông gai. Là một bức tranh về ban đêm mà không hề tối tăm, ánh sáng đèn pha xua đi bóng tối, nghệ thuật so sánh “như ngày mai lên” kết hợp với nhịp thơ mạnh mẽ dồn dập đã thể hiện được niềm tin tưởng lạc quan vào tương lai tươi sáng của đất nước. Nhớ Việt Bắc cùng nhớ đến niềm vui chiến thắng, tin thắng trận từ mọi nơi trên đất nước báo về đây cùng từ đây mà lan truyền ra. Nghệ thuật liệt kê các địa danh gắn liền cùng với chiến thắng, nhịp điệu thơ sôi nổi, giọng thơ náo nức say mê thể hiện niềm tự hào vui sướng chiến thắng.

“Ai về ai có nhớ không?

Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang.

Nắng trưa rực rỡ sao vàng

Trung ương, Chính phủ luận bàn việc công

Ðiều quân chiến dịch thu đông

Nông thôn phát động, giao thông mở đường

Giữ đê, phòng hạn, thu lương

Gửi dao miền ngược, thêm trường các khu...

Ở đâu u ám quân thù

Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi

Ở đâu đau đớn giống nòi

Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền.

Mười lăm năm ấy ai quên

Quê hương cách mạng dựng nên Cộng hoà

Mình về mình lại nhớ ta

Mái đình Hồng Thái cây đa Tân Trào.”

Nhớ Việt Bắc là cơ quan đầu não của cách mạng. Là nơi diễn ra toàn bộ những cuộc tham mưu, và nơi dẫn chủ trương của Đảng và Chính phủ tỏa đi khắp nước, chỉ đạo cho con đường cách mạng. Cả dân tộc Việt Nam, những con người yêu đất nước đều gửi gắm những niềm tin, niềm hi vọng và sự mong đời vào nơi này. Việt Bắc là căn cứ địa vững chắc, nơi khai sinh những con người, những địa danh mãi mãi đi vào lịch sử dân tộc: Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào. Người về xuôi muốn nhắn nhủ với Việt Bắc dù có trở về và cách xa nơi đây thì những gì đẹp nhất của người chiến sĩ cách mạng sẽ luôn được giữ gìn và phát huy.

Vị trí của Việt Bắc cũng như của của Tổ Hữu trong nền thơ ca Việt Nam là chuyện không thể bàn cãi. Bài ca vừa là sự hào hùng về kháng chiến vừa là sự nghĩa tình trong tình cảm cách mạng quân dân này được Tố Hữu gửi gắm toàn bộ tâm tư tình cảm cũng như phong cách thơ ca của ông vào. Biến hóa và sáng tạo thể thơ lục bát, vừa dân dã lại vừa hiện đại. Sử dụng cách đối đáp trong ca dao dân gian một cách bình dị, nhẹ nhàng mà tha thiết. Vừa nhấn mạnh ý vừa tạo ra nhịp thơ cân xứng có nhạc điệu, thấm sâu vào tâm tư bằng cách sử dụng những tiểu đối. Lời ăn tiếng nói đầy mộc mạc và giản dị, ngôn ngữ giàu hình ảnh, đặc biệt cặp đại từ mình – ta quen thuộc đầy sáng tạo. Các biện pháp tu từ: nhân hóa, liệt kê,… được sử dụng tinh tế và khéo léo. Tất cả đưa ta vào quá khứ cùng với những kỷ niệm ngọt ngào, tha thiết và tình nghĩa da diết, son sắt, thủy chung.

Phân tích Việt Bắc (Mẫu 6)

Tố Hữu được biết đến là lá cờ đầu trong thơ ca cách mạng Việt Nam. Hồn thơ Tố Hữu là sự kết hợp hài hòa giữa cuộc đời cách mạng và cuộc đời thơ. Chính vì vậy mà đọc các tác phẩm thơ của Tố Hữu người đọc có thể thấy được những dấu mốc lịch sử quan trọng của đất nước. Nói về các tác phẩm thơ Tố Hữu có người đã ví nó như một thước phim quay chậm những trang sử vẻ vang của dân tộc. “Việt Bắc” là một trong những bài thơ như thế.

“Việt Bắc” được sáng tác vào năm 1954 khi cuộc kháng chiến chống Pháp vừa kết thúc thắng lợi. Đây là lúc mà các cơ quan trung ương Đảng và chính phủ từ Việt Bắc trở về Hà Nội. Tố Hữu đã tái hiện lại cuộc chia tay đầy lưu luyến giữa những người cán bộ với nhân dân Việt Bắc sau thời gian dài sống, chiến đấu và gắn bó cùng nhau trải qua mọi gian khổ. Trong bài thơ tác giả sử dụng thể thơ lục bát truyền thống của dân tộc kết hợp lối hát đối đáp như ca dao dân ca để tái hiện cuộc chia tay đầy lưu luyến giữa những người chiến sĩ cách mạng và nhân dân Việt Bắc.

Người ở lại bao giờ cũng dành nhiều tình cảm, nhiều nhớ thương cho người ra đi vì thế mà ngay mở đầu Việt Bắc nhà thơ đã để người ở lại mở đầu rất tinh tế:

“Mình về mình có nhớ ta

Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng

Mình về mình có nhớ không

 Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?”

Câu mở lời đầu tiên giống lời chia tay của những cặp tình nhân đầy ý nhị mà sâu sắc. Nhà thơ đã khéo léo mượn sắc màu tình yêu để thể hiện tình cách mạng. Cách sắp xếp câu chữ, “mình” mở đầu câu thơ, “ta” kết thúc câu thơ cũng gián tiếp thể hiện được sự xa cách, nhớ nhung. Chữ “nhớ” được nhắc lại ba lần đã mở ra dòng cảm xúc lưu luyến, nhớ nhung, tình nghĩa của toàn bài thơ.

Đáp lại tấm lòng của người ở lại, người đi cũng đã thể hiện tình cảm của mình:

“Nhớ khi giặc đến giặc lùng

Rừng cây núi đá ta cùng đánh tây

Núi giăng thành lũy sắt dày

 Rừng che bộ đội rừng vây quân thù”

Tiếng lòng của người ở lại khiến người ra đi không khỏi bồn chồn, xúc động. Tất cả điều đó đã khơi dậy rất nhiều kỉ niệm khó quên trong tâm trí của người chiến sĩ. Nỗi niềm ấy khiến cho cuộc chia ly trở nên bịn rịn, lưu luyến. Nó như một sợi dây níu kéo người ở và người đi. Mười lăm năm dài đằng đẵng đã gắn kết người với người lại với nhau. Họ đã cùng nhau chung sống, cùng nhau trải qua biết bao khó khăn, chia sẻ cho nhau từng miếng cơm, manh áo để đến giờ phút chia ly cảm xúc trào ra thành câu chữ:

“Ta với mình, mình với ta

 Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh”

Lúc này, “ta với mình” – “mình với ta” như hòa quyện làm một, cộng hưởng cùng nhau thành một khối thống nhất, không tách rời. Hai chữ “đinh ninh” như một sự khẳng định chắc chắn về tình cảm mà người ra đi dành cho những người ở lại. Đó là một thứ tình cảm thiêng liêng, cao quý không gì có thể thay thế được.

Trở về cuộc sống thành thị, rời xa Việt Bắc, những người cán bộ chiến sĩ mang theo một nỗi nhớ núi rừng, nhớ những ngày gian khổ, nhớ những kỷ niệm kháng chiến gian khó mà nghĩa tình. Một bức tranh tứ bình nhiều màu đã làm hiện lên một bức tranh sinh vùng cao sinh động với những hình ảnh gần gũi, quen thuộc. Trong bức tranh ấy có màu xanh của núi rừng, màu đỏ của hoa chuối, sắc trắng tinh khôi của hoa mơ. Không chỉ là màu sắc, bức tranh còn rộn rã âm thanh tiếng ve, còn là ánh sáng lấp lánh của ánh trăng hiền hòa. Trong bức tranh sinh động đó, hình ảnh con người được hiện lên trong hình ảnh lao động khỏe khoắn: “Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”, “Nhớ cô em gái hái măng một mình”. Hình ảnh con người hiện lên thật giản dị, mộc mạc giữa núi rừng. Thiên nhiên nhiều màu sắc cùng hình ảnh lao động đã làm nên một đoạn thơ trữ tình nhất trong Việt Bắc.

Trong nỗi nhớ của mình, tác giả không chỉ nhớ đến thiên nhiên, con người mà còn nhớ cả những năm tháng chiến đấu oanh liệt:

“Nhớ khi giặc đến giặc lùng

Rừng cây núi đá ta cùng đánh tây

Núi giăng thành lũy sắt dày

 Rừng che bộ đội rừng vây quân thù”

Giọng điệu tha thiết đã chuyển sang giọng hào hùng, khí thế. Tố Hữu đã nhân hóa núi rừng Việt Bắc trở thành một sinh thể có linh hồn, thành bức tường bảo vệ vững chắc cho nhân dân Việt Bắc cùng những người cán bộ kháng chiến khỏi vòng vây của quân thù. Rồi Việt Bắc còn hiện lên với những cuộc hành quân sôi động. Ở cuối bài thơ, người đi đã trả lời câu hỏi của người ở:

“Mình về mình lại nhớ ta

 Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào”

Qua lời đáp này người đi muốn nhắn ngủ với người ở lại rằng dù cuộc sống thành thị có sung túc, đủ đầy thì tình cảm với những người dân nơi đây vẫn luôn còn mãi. Như vậy tác giả đã khép lại bài thơ bằng tấm chân tình của người ở lại. Kết cấu đầu cuối tương ứng này một lần nữa khẳng định tấm lòng thủy chung son sắc của người đi và người ở.

Người ta gọi “Việt Bắc” là một điển hình của thơ ca cách mạng bởi nó là sự kết hợp của chất trữ tình và chính trị. Không chỉ vậy, bài thơ còn thể hiện rất rõ tính dân tộc qua việc sử dụng thể thơ truyền thống cùng lối hát đối đáp quen thuộc, giản dị, gần gũi. Chính bởi những điều đó mà bài thơ đã khơi gợi được những tình cảm cao đẹp nhất của truyền thống dân tộc là tấm lòng thủy chung son sắc.

“Việt Bắc” không chỉ là câu chuyện nhỏ chứa đựng câu chuyện lớn. Nó không chỉ kể về cuộc chia tay giữa người cán bộ kháng và đồng bào Việt Bắc mà nó còn cho người đọc thấy được mười lăm năm chiến đấu khó khăn, gian khổ mà hào hùng của dân tộc. Bởi lẽ đó mà đã bao năm nay Việt Bắc vẫn luôn có một vị trí nhất định trong tâm chí độc giả.

Phân tích Việt Bắc (Mẫu 7)

Đất nước Việt Nam đã trải qua những năm đấu tranh kháng chiến để giữ gìn độc lập tự do, có những con người thầm lặng góp sức tinh thần trong chiến đấu qua những lời thơ, lời văn thể hiện. Trong các tác phẩm văn chương đó có thể kể đến bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu. Tác phẩm là tấm chân tình trong buổi chia tay đầy lưu luyến giữa tình cảm giữa nhân nhân Việt Bắc và cán bộ cách mạng.

Những bài thơ lớn của Tố Hữu đều sáng tác vào những điểm mốc của lịch sử cách mạng Việt Nam. Bài thơ “Việt Bắc” – kiệt tác của Tố Hữu cúng được sáng tác trong một thời điểm trọng đại của đất nước.

Tố Hữu là một nhà thơ – chiến sĩ. Ông làm thơ trước hết vì sự nghiệp của dân tộc, của Đảng. Thơ ông biểu hiện lẽ sống lớn, tình cảm, niềm vui lớn của dân tộc và cách mạng. Cảm hứng trong thơ Tố Hữu hướng về nhân dân, cách mạng, cảm hứng lịch sử hào hùng của dân tộc, chứ không phải cảm hứng đời tư tư của chính tác giả.

Năm 1954, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, hoà bình được lập lại. Chủ tịch Hồ Chí Minh, trung ương Đảng, cán bộ, bộ đội rời Việt Bắc trở về Thủ đô Hà Nội. Trong không khí chia tay đầy nhớ thương lưu luyến giữa nhân dân Việt Bắc và những người cán bộ cách mạng, nhà thơ Tố Hữu đã sáng tác bài thơ “Việt Bắc”.

Việt Bắc được Tố Hữu sáng tác vào tháng 12 năm 1945 nhân một sự kiện lịch sử là trung ương Đảng và Chính phủ rời chiến khu về thủ đô Hà Nội. Bài thơ Việt Bắc là đỉnh cao của thơ Tố Hữu và cũng là một thành tựu quan trọng, đóng góp to lớn cho thơ ca kháng chiến chống Pháp.

Phân tích bài thơ Việt Bắc ta sẽ thấy được tình cảm gắn bó thân thiết giữa người đi và người ở lại, giữa miền xuôi và miền ngược, giữa người cán bộ với thủ đô kháng chiến, với nhân nhân Việt Bắc.

Với tầm nhìn của một nhà thơ cách mạng, một nhà tư tưởng, Tố Hữu đã phản ánh sâu sắc hiện thực kháng chiến mười lăm năm của Việt Bắc và dự báo những diễn biến tư tưởng trong hoà bình.

Tình yêu thiên nhiên, đất nước qua phân tích bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu đã được thể hiện một cách sâu sắc qua sự gắn bó với núi rừng Việt Bắc qua bao năm tháng chiến đấu với nhân dân nơi này. Một tình cảm gắn bó thân thiết như những người máu mủ ruột già.

Nỗi nhớ của tác giả là nỗi nhớ của một người cán bộ sắp phải xa Việt Bắc trở về xuôi. Hình ảnh của Việt Bắc đã hiện lên rất mộc mạc nhưng đã ôm trọn nỗi nhớ của Tố Hữu.

Đó là hình ảnh “Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương”, những hình ảnh bản làng mờ mờ trong sương khói, bếp lửa hồng thắp sáng trong đêm, hay những “rừng nứa bờ tre, ngòi Thia, sông Đáy”, tiếng “Chày đêm nện cối đều đều suối xa”…tất cả những nét đẹp bình dị của một vùng rừng núi hoang vui nhưng vẫn ấm áp tình thương, đặc biệt đó là những trái tim con người nơi đây khiến Tố Hữu nhớ nhất, mang đậm nghĩa tình nhất.

Ta về, mình có nhớ ta

Ta về, ta nhớ những hoa cùng người

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.

Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.

Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình

Rừng thu trăng rọi hòa bình

 Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.

Tố Hữu sử dụng thành công lối đối đáp “ta”, “mình”. “ ta về mình có nhớ ta. Ta về ta nhớ những hoa cùng người”. Nỗi nhớ không sao quên, không nỡ xa cách nơi mà đã từng gắn bó yêu thương với bao kỉ niệm, cùng dân sống và chiến đấu. Ấn tượng của tác giả về con người Việt Bắc luôn cần cù trong lao động, thủy chung trong tình nghĩa.

Qua đó thể hiện thiên nhiên Việt Bắc với những cảnh đẹp phong phú, đa dạng, thay đổi theo từng mùa. Gắn với cảnh tượng đẹp đó là những con người là những con người thật giản dị, đi làm nương rẫy, trồng khoai, trồng sắn…Nhưng tất cả đều góp công, góp sức để chung tay làm nên sức mạnh to lớn, kết thành làn sóng xây nên cuộc kháng chiến trường kì.

Trong hồi tưởng của Tố Hữu Việt Bắc hiện lên đó là hình ảnh những mái nhà” hắt hiu lau xám, đậm đà tình son”, hình ảnh người mẹ “địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô”.

Thương nhau, chia củ sắn lùi

 Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng.

Câu thơ trữ tình vang lên tạo nên sự đằm thắm gắn bó giữa tình đồng chí và nhân dân.

Những hình ảnh chiến đấu hào hùng, những hoạt động sôi nổi, tinh thần sục sôi chiến đấu âm vang trong những câu thơ trong phân tích bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu đậm chất sử thi đã miêu tả một cách hùng tráng.

Những đường Việt Bắc của ta

Đêm đêm rầm rập như là đất rung

Quân đi điệp điệp trùng trùng

Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan

Dân công đỏ đuốc từng đoàn

 Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.

Một dân tộc đã vượt qua bao gian khó hi sinh đã tạo nên những chiến công, kì tích: Phù Thông, đèo Giàng, sông Lô, Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên…Tố Hữu đã đi sâu vào để giải thích cội nguồn sức mạnh chung một lòng để giành những thắng lợi vẻ vang ấy.

Đó là sức mạnh toàn dân, toàn quân kháng chiến, sự gắn bó giữa con người và thiên nhiên:

Nhớ khi giặc đến giặc lùng

Rừng cây núi đá ta cùng đánh

Tây Núi giăng thành lũy sắt dày

Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù

Mênh mông bốn mặt sương mù

 Đất trời ta cả chiến khu một lòng.

Bằng những lời thơ trang trọng tha thiết, Tố Hữu đã nhấn mạnh được hình ảnh và vai trò của Việt Bắc đối với cách mạng. Nơi đây như quê hương, chiến khu đã nuôi dưỡng nên sức mạnh trong kháng chiến trường kì của nhân dân ta:

Mình về, có nhớ núi non

Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh

Mình đi, mình có nhớ mình

 Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa?

Những câu thơ mang đậm nét trữ tình, ca dao sâu lắng về nghĩa tình dân tộc. trong cuộc kháng chiến vĩ đại ấy đã có cụ Hồ soi sáng, có “trung ương, chính phủ luận bàn việc công”, những con người tài giỏi, những lý tưởng cao đẹp, những con đường đúng đắn sáng suốt ấy đã tạo nên sự thắng lợi.

Ở đâu đau đớn giống nò

Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền

Mười lăm năm ấy, ai quên

 Quê hương Cách mạng dựng nên Cộng hòa

Tố Hữu từ tình yêu đối với Việt Bắc đã đặt niềm tin vững chắc vào một ngày mai tươi sáng, đặt niềm tin vào sức mạnh của toàn nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ. Nhà thơ đã vẽ nên một bức tranh tươi đẹp của dân tộc:

Ngày mai rộn rã sơn khê

Ngược xuôi tàu chạy, bốn bề lưới giăng

 Than Phấn Mễ, thiếc Cao Bằng

Những hình ảnh chính là mơ ước khát vọng không chỉ của những người cán bộ kháng chiến mà còn cả nhân dân, tác giả không vì có cái mới mà quên đi những cái cũ, luôn nghĩ về nhau giữa miền xuôi và miền ngược.

Mình về thành thị xa xôi

Nhà cao còn thấy núi đồi nữa chăng?

Phố đông còn nhớ bản làng

 Sáng đèn còn nhớ mảnh trăng giữa rừng?

Đây cũng chính là lời tác giả muốn nhắc nhở đừng để sự thay đổi của môi trường, khi về thủ đô lại quên đi nghĩa tình năm xưa. Những lời thơ của Tố Hữu đến ngày nay vẫn còn giữ nguyên những giá trị đó.

Hai câu thơ tạo ra tương quan đối lập giữa bóng tối và ánh sáng: nếu câu trên khắc họa bóng đêm đen tối thăm thẳm gợi kiếp sống nô lệ của cả dân tộc dưới ách đô hộ của kẻ thù thì câu dưới lại bừng lên ánh sáng của niềm tin vào ngày mai chiến thắng huy hoàng, tương lai tốt đẹp. Thực ra trong đoạn thơ trên người ta đều nhận thấy sự đối lập này: Tố Hữu đã sử dụng cả một hệ thống từ chỉ ánh sáng như ánh sao, đỏ đuốc, lửa bay, bật sáng tương phản với một hệ thống chỉ bóng tối như đêm đêm, nghìn đêm, thăm thẳm – với xu thế ánh sáng lấn át bóng tối dường như tác giả có dụng ý nêu bật xu thế của dân tộc ta trước mọi kẻ thù hắc ám, đồng thời khẳng định những ngày tươi sáng, hạnh phúc nhất định sẽ tới với dân tộc ta.

Có những tác phẩm văn học chỉ giúp chúng ta thấy được một phần nhỏ cuộc sống hoặc nói về một nhân vật cụ thể nào đó, nhưng với bài thơ Việt Bắc, ta lại thấy được toàn bộ hình ảnh của cả dân tộc Việt Nam. Cả bài thơ như một bản nhạc nhịp nhàng, nhẹ nhàng, tha thiết được viết lên như một khúc tình ca và trường ca cho cuộc kháng chiến chống thực dân pháp, về những con người quên mình vì sự độc lập tự do của đất nước. Qua bài thơ Việt Bắc, tác giả cũng thể hiện tấm chân tình của mình với người dân Việt Bắc, những cán bộ cách mạng hết lòng vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. Bài thơ cũng nhắc nhở lớp trẻ chúng ta phải biết ghi nhớ những công ơn của các Anh hùng của dân tộc, những trang sử hào hùng đẫm máu và nước nước.

Phân tích Việt Bắc (Mẫu 8)

Tố Hữu (1920 – 2002) tên thật là Nguyễn Kim Thành, quê Phù Lai, xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên – Huế. Ông xuất thân trong một gia đình nhà nho nghèo ham thích văn chương. Chính truyền thống gia đình và cảnh sắc thơ mộng của xứ Huế cùng những nét văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc góp phần quan trọng trong việc hình thành hồn thơ Tố Hữu.

Tố Hữu là một nhà thơ lớn của văn học Việt Nam hiện đại. Một nhà thơ được đánh giá là người mở đường, là cánh chim đầu đàn của thơ ca cách mạng. Có thể nói ở Tố Hữu, con người chính trị với con người nhà thơ thống nhất là một, sự nghiệp thơ gắn liền với sự nghiệp cách mạng và trở thành một bộ phận của sự nghiệp cách mạng. Con đường thơ của ông luôn song hành với các giai đoạn cách mạng, phản ánh những chặng đường cách mạng đồng thời thể hiện sự vận động của tư tưởng và nghệ thuật của nhà thơ.

Bài thơ Việt Bắc được Tố Hữu sáng tác trong thời kì dân ta đánh thắng quân giặc ở trận Điện Biên Phủ, năm 1954, khi chiến dịch Điện Biên Phủ thắng lợi ông đã bắt tay vào sáng tác tác phẩm này, nhằm ca ngợi sự nghiệp cách mạng, xây dựng cuộc sống mới. Bài thơ được coi là tiếng hát nghĩa tình sắt son thủy chung của mình với ta, của chiến sĩ, cán bộ, đồng bào đối với chiến khu Việt Bắc với cách mạng và kháng chiến, đối với Đảng và Bác Hồ.

Mở đầu bài thơ là cuộc chia tay của những người kháng chiến và những người dân nơi đây; là sự chia li của kẻ đi, người ở đầy lưu luyến, bồi hồi:

Mình về mình có nhớ ta

Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.

Mình về mình có nhớ không

Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?

Tiếng ai tha thiết bên cồn

Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi

Áo chàm đưa buổi phân ly

 Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...

Hai khổ thơ nói lên tình quân dân đậm đà. Họ đã có 'mười lăm năm' gắn bó, 'thiết tha mặn nồng' bên nhau. Mười lăm năm – một quãng thời gian dài, biết bao nhiêu kỷ niệm. Họ đã vào sinh ra tử với nhau, cùng nhau sống, chiến đấu vì tổ quốc. Ở mảnh đất Việt Bắc ấy, tình quân dân chan hòa nồng thắm. Nhà thơ sử dụng hai ngôi xưng 'mình' và 'ta' thể hiện sự gắn bó keo sơn với nhau, mình với ta tuy hai mà là một. Cái tình cảm ấy giống như những người thân trong gia đình mình vậy.

Bốn câu thơ đầu là lời của người ở, những người dân Việt bắc hỏi đầy lưu luyến rằng người chiến sĩ có còn nhớ mười lăm năm thiết tha mặn nồng ấy. Không biết rằng những người chiến sĩ về có còn nhớ không, nhớ con người, nhớ núi rừng nơi đây.

Và ở bốn câu thơ sau, những người chiến sĩ cách mạng cũng như đáp lại những ân tình của bà con Việt Bắc. Trong lòng người chiến sĩ ấy cũng lưu luyến những kỉ niệm nơi đây không khác gì so với người dân. Các chiến sĩ như cảm nhận được sự tha thiết trong câu hỏi của những người dân ấy. Lòng các chiến sĩ bâng khuâng, bồn chồn không muốn bước. Có thể nói các từ láy ấy đã thể hiện phần nào cảm xúc trong lòng người chiến sĩ. Nghệ thuật hoán dụ với hình ảnh “áo chàm” chính là để chỉ người dân Việt Bắc bịn rịn trong màu áo ấy đưa tiễn các chiến sĩ về với thủ đô. Kẻ ở người đi mà cầm tay nhau nhưng lại không biết nói lên điều gì. Có lẽ không cần nói mà cả hai đều biết được những ý nghĩa trong lòng nhau. Dường như mọi lưu luyến đều nằm trong cái nắm tay nghĩa tình ấy.

Khổ thơ thứ ba, tiếp tục là nỗi lòng của người ở lại:

Mình đi, có nhớ những ngày

Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù

Mình về, có nhớ chiến khu

Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?

Mình về, rừng núi nhớ ai

Trám bùi để rụng, măng mai để già

Mình đi, có nhớ những nhà

Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son

Mình về, còn nhớ núi non

Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh

Mình đi, mình có nhớ mình

 Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?

Lời thơ như lời tâm sự da diết của người dân Việt Bắc dành cho các chiến sĩ bộ đội và đó cũng là lời nhắc nhở gửi đến người đi. Điệp từ “nhớ” lặp đi lặp lại mang nhiều sắc thái ý nghĩa: nhớ là nỗi nhớ, là lời nhắc nhớ. Hàng loạt những câu hỏi tu từ bày tỏ tình cảm tha thiết đậm đà của Việt Bắc. Tình cảm lưu luyến của người đưa tiễn, gửi đi nỗi nhớ mong, gửi lại niềm thương theo cách:

Thuyền về có nhớ bến chăng

 Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền.

Việt Bắc nhắc người cán bộ chiến sĩ đừng quên những năm tháng gian lao vất vả, hoạt động chiến đấu trong điều kiện trang bị tiếp tế còn thô sơ, thiếu thốn. Đó là những tháng ngày cùng chịu chung cảnh thiên nhiên khắc nghiệt: 'mưa nguồn', 'suối lũ', mây mù; hay là những tháng ngày gian khổ bát cơm chấm muối nhưng vẫn chan chứa biết bao tình cảm.

Cảm xúc thương nhớ xa vắng thả vào không gian rừng núi, gợi nỗi niềm dào dạt:

Mình về, rừng núi nhớ ai

 Trám bùi để rụng, măng mai để già.

Hình ảnh “Trám bùi để rụng, măng mai để già” gợi nỗi buồn thiếu vắng – “Trám rụng, măng già” không ai thu hái. Nỗi bùi ngùi như thúc vào lòng kẻ ở lại.

Tiễn người về sau chiến thắng và chính trên cái nền của sự chiến thắng đó, đã làm cho nỗi buồn nhớ trở nên trong sáng. Việt Bắc vẫn “một dạ khăng khăng đợi thuyền”, đồng thời nhắc nhở khéo léo tấm “lòng son” của người cán bộ chiến sĩ. Xin đừng quên thời kì “kháng Nhật, thuở còn Việt Minh”, đừng quên cội nguồn cách mạng, đừng quên chăm lo giữ gìn sự nghiệp cách mạng.

Mình đi, mình có nhớ mình

 Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa.

Đoạn thơ trên là nỗi lòng thương nhớ, là lời tâm tình của Việt Bắc. Đoạn thơ trên tiêu biểu sắc thái phong cách Tố Hữu, giọng điệu thơ ngọt ngào truyền cảm, mang đậm phong vị ca dao. dân gian, đề cập đến con người và cuộc sống kháng chiến. Thông qua hình tượng Việt Bắc, tác giả ca ngợi phẩm chất cách mạng cao đẹp của quân dân ta, khẳng định nghĩa thủy chung son sắt của người cán bộ, chiến sĩ đối với Việt Bắc.

Khúc tráng ca anh hùng của một dân tộc thắng trận sau hơn ba ngàn ngày máu lửa.

Đáp lại những ân tình của người ở lại, lời người đi cũng tha thiết không kém:

Ta với mình, mình với ta

Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh

Mình đi, mình lại nhớ mình

Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu...

Nhớ gì như nhớ người yêu

Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương

Nhớ từng bản khói cùng sương

Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.

Nhớ từng rừng nứa bờ tre

Ngòi Thia sông Ðáy, suối Lê vơi đầy

Ta đi, ta nhớ những ngày

Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi...

Thương nhau, chia củ sắn lùi

Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng

Nhớ người mẹ nắng cháy lưng

Ðịu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô

Nhớ sao lớp học i tờ

Ðồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan

Nhớ sao ngày tháng cơ quan

Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.

Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều

 Chày đêm nện cối đều đều suối xa...

Người ra đi, khẳng định, đinh ninh rằng lòng mình trước sau như trước, luôn mặn mà. Và cái nghĩa tình đó còn được so sánh với nước trong nguồn, dạt dào, vô tận, không bao giờ cạn. Và những người chiến sĩ vẫn mãi đinh ninh một lời thề sắc son với người dân Việt Bắc. Từng kỉ niệm gắn bó như được thuật lại trong từng câu nói của người ra đi. Từ kỉ niệm về bát cơm thì sẻ nửa, chăn sui đắp cùng. Nhớ cả những người mẹ Việt Bắc với dáng hình địu con lên nương hái bắp. Một vẻ đẹp cần cù chịu thương chịu khó của nhân dân. Không những thế cả những giây phút cùng nhau học cái chữ quốc ngữ nữ. Đó là thái độ trật tự nghiêm túc của tất cả mọi người. Và những giờ liên hoan trong ánh đuốc lập lòe, những ngày tháng ấy như mãi khắc sâu vào trong tâm trí của người ra đi. Để mãi khi về đến thủ đô gió ngàn vẫn không sao quên tiếng mõ rừng chiều cùng chày đêm nện cối. Qua đây ta thấy được những tấm lòng của cả hai bên dành cho nhau vô cùng nồng ấm và tha thiết.

Các anh chiến sĩ lại kể tiếp về những hình ảnh thiên nhiên nơi đây hiện lên qua những lời kể ấy thật sự rất đẹp. Những câu thơ như vẽ lên một bức tranh tứ bình nơi đây, bốn mùa thiên nhiên hiện lên vô cùng đẹp:

Ta về, mình có nhớ ta

Ta về ta nhớ những hoa cùng người

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.

Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang

Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình

Rừng thu trăng rọi hòa bình

 Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.

Có thể nói, con người, cảnh thiên nhiên núi rừng Việt Bắc đã in đậm trong lòng các chiến sĩ cách mạng. Khi trở về thủ đô, họ nhớ tất cả những gì gắn với Việt Bắc. Đó là những con người chân chất, hiền hậu của núi rừng: cô em gái hái măng một mình, đó là cảnh thiên nhiên tươi đẹp hùng vĩ của Việt Bắc. Có lẽ đây là đoạn thơ hay nhất đẹp nhất, trữ tình nhất trong bài Việt Bắc.

Và thế rồi không ai bảo ai cả kẻ ở người đi đều nhớ đến những ngày ráo riết chuẩn bị hành quân cho cuộc chiến đấu chống lại chiến dịch của thực dân Pháp. Khi ấy chính là lúc tình quân dân thể hiện rõ nhất:

Nhớ khi giặc đến giặc lùng

Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây

Núi giăng thành lũy sắt dày

Rừng che bộ đội rừng vây quân thù

Mênh mông bốn mặt sương mù

Ðất trời ta cả chiến khu một lòng.

Ai về ai có nhớ không?

Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng

Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng

 Nhớ từ Cao-Lạng nhớ sang Nhị Hà...

Đó là những tháng ngày các chiến sĩ và người dân cùng vào sinh ra tử, cùng nhau chiến đấu chống giặc. Những tháng ngày đó, núi rừng Việt Bắc đã che chắn cho bộ đội khỏi vòng vây quân thù, người dân Việt Bắc đã bên cạnh, gắn bó, giúp đỡ, sẻ chia ngọt bùi với các bộ đội. Hơn bao giờ hết, tình quân dân thật đẹp biết bao. Lại một lần nữa, những chiến sĩ bộ đội khẳng định tình cảm sắt son của mình qua các điệp từ 'nhớ'. Người đi nhớ: Phủ Thông, đèo Giàng, sông Lô, phố Ràng, Cao-Lạng, Nhị Hà.

Việt Bắc - Tác giả: Tố Hữu

Phân tích Việt Bắc (Mẫu 9)

Thơ Tố Hữu là những vần thơ thể hiện tiếng nói của dân tộc, của tâm hồn những con người gắn bó sâu sắc với sự nghiệp cách mạng, với quê hương, với đất nước. Trong những vần thơ ấy ta sẽ bắt gặp những tình cảm mến thương sâu sắc, trữ tình, xuất phát từ một trái tim trung thành với dân tộc với nhân dân và tiêu biểu hơn cả là bài thơ Việt Bắc, một trong những bài thơ hay nhất của Tố Hữu.

Tố Hữu (1920-2002), tên khai sinh là Nguyễn Duy Thành, quê ở xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế, cái nôi của văn học dân gian. Tố Hữu là nhà thơ lớn, là người tiên phong của nền thơ ca cách mạng Việt Nam, thơ ông luôn gắn bó với những chặng đường cách mạng của dân tộc. Phong cách thơ mang tính trữ tình chính trị vô cùng sâu sắc, hướng đến những cái tôi chung với lẽ sống lớn, tình cảm lớn, niềm vui lớn, cái tôi trong thơ của ông luôn nhân danh Đảng, cộng đồng dân tộc, những vần thơ ấy vừa giàu nhạc điệu lại mang tính dân tộc đậm đà.

Ngày 7/5/1954, chiến dịch Điện Biên Phủ thắng lợi, gây chấn động địa cầu đã mở ra cho nước ta một trang sử mới một kỷ nguyên mới. Sau khi kí hiệp định Giơ-ne-vơ (7/1954), miền Bắc hoàn toàn được giải phóng, Pháp rút quân về nước. Tháng 10/1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra chỉ thị toàn bộ các cơ quan trung ương Đảng và Chính phủ từ Việt Bắc dời về thủ đô. Từ đây, những người chiến sĩ cách mạng chia tay với miền rừng núi bạt ngàn để về xuôi, bước sang một trang mới của cách mạng đất nước, Việt Bắc đã ra đời trong một hoàn cảnh đặc biệt như vậy.

Mở đầu bài thơ với giọng thơ trữ tình, êm đềm tha thiết, nhà thơ đã thể hiện tình cảm của người ở lại dành cho người ra đi.

“Mình về mình có nhớ ta

Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.

Mình về về mình có nhớ không

 Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?

Tác giả sử dụng cặp xưng hô “mình-ta”, ở đây không phải đang nói đến xưng hô giữa những đôi lứa yêu nhau hay cặp vợ chồng nào đó mà là lời đối đáp của những người cách mạng với người dân Việt Bắc. Cách xưng hô ấy vừa mang tính dân tộc đậm đà lại thể hiện được tính trữ tình chính trị sâu sắc trong thơ Tố Hữu, như tiếng nói trong tình yêu đôi lứa, thể hiện sự gắn bó sâu sắc của người đi kẻ ở, đầy ngậm ngùi, lưu luyến. “Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”, sự gắn bó ấy không phải chỉ trong những năm kháng chiến chống Pháp mà xuất phát từ những năm kháng chiến chống Nhật, tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn (1940). Một khoảng thời gian dài chiến đấu gian khổ, càng làm cho tình cảm giữa những người chiến sĩ cách mạng và người dân Việt Bắc thêm sắt son, mặn nồng, thấm đượm ân tình. Mười lăm năm là quãng thời gian không ngắn cũng chẳng dài nhưng nó đủ khiến cho những cảm xúc biến thành hoài niệm, không thể nào lãng quên, như Chế Lan Viên từng viết “Khi ta ở đất chỉ là nơi đất ở/Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn”. “Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?” , và đặc biệt nỗi nhớ ấy đã lan tỏa khắp núi rừng, phải yêu, phải gắn bó, phải sống một trái tim chân tình biết mấy mới có thể có những cảm xúc thiết tha đến vậy?

“Tiếng ai tha thiết bên cồn

Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi

Áo chàm đưa buổi phân li

 Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…”

Từ phiếm chỉ “ai”, gợi nhiều cảm xúc, ở đây “ai” có thể là người ra đi, cũng có khi là người ở lại. Từ láy “tha thiết” được lấy lại từ từ “thiết tha” đã khắc họa rõ ràng hơn tình cảm của người ra đi và người ở lại, từ “bâng khuâng” và “bồn chồn” chất chứa nhiều tâm tình, ở đó có niềm vui toàn thắng, niềm vui được về lại quê hương, đoàn tụ với gia đình; và ở đó cũng ẩn chứa nhiều nỗi buồn, phải chia tay mảnh đất thấm đẫm nghĩa tình. “Áo chàm đưa buổi phân ly”, hình ảnh chiếc áo có phần cổ điển, truyền thống thể hiện sự quyến luyến, là hình ảnh hoán dụ của con người Việt Bắc, là màu áo nâu giản dị, hiền hòa, thể hiện vẻ đẹp tâm hồn, linh hồn của người dân và núi rừng Tây Bắc, đang đưa tiễn người chiến sĩ cách mạng. Câu “Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…”, nhịp thơ 3/4 như tạo một khoảng lặng giữa lúc phân li ngậm ngùi, nhìn nhau mà nghẹn lòng, ngập ngừng không muốn nói điều chi, để cảm xúc ấy phiêu lãng, len lỏi trong tâm hồn, thành kỷ niệm khó phai.

“Mình đi, có nhớ những ngày

Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù

Mình về, có nhớ chiến khu

Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?

Mình về, rừng núi nhớ ai

 Trái bùi để rụng măng mai để già.”

Sau mỗi cụm từ “Mình đi”, “Mình về”, nhà thơ đã tinh tế đặt một dấu phẩy, đây chính là giây phút, là khoảnh khắc ngưng đọng, để kỷ niệm ùa về trong tâm tưởng. Những kỷ niệm ấy ngự trị trong từng khoảnh khắc thời gian “những ngày”, không gian “chiến khu”. Những hình ảnh “mưa nguồn suối lũ”, “những mây cùng mù”, “miếng cơm chấm muối”, là hình ảnh ẩn dụ cho những khó khăn gian khổ của người làm cách mạng những năm đầu kháng chiến nơi núi rừng Việt Bắc, và chính những khó khăn ấy đã khiến cho nghĩa tình quân dân trở nên thắm thiết, keo sơn. Biện pháp nhân hóa “rừng núi nhớ ai” như thổi vào khung cảnh núi rừng nỗi nhớ nhung dạt dào, sâu thẳm, từ phiếm chỉ “ai” thấm đẫm bao cảm xúc ân tình. Những cụm từ “trái bùi để rụng”, “măng mai để già” đã thể hiện nỗi buồn sâu thẳm, vắng lặng khi người cách mạng về xuôi để lại núi rừng Tây Bắc chênh vênh, lạ lẫm khi nhịp sống đột ngột thay đổi từ đông vui về vắng vẻ đìu hiu.

“Mình đi, có nhớ những nhà

Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son

Mình về còn nhớ núi non

Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh

Mình đi mình có nhớ mình

 Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa?”

Nỗi nhớ ấy càng được thể hiện rõ ràng hơn với từ “những nhà”, nghệ thuật đối lập trong câu thơ “Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son”, khẳng định một chân lý rằng càng khó khăn gian khổ, thì tình nghĩa quân dân lại càng thêm đoàn kết gắn bó, sắt son một lòng. Những người ở lại nhắc về kỷ niệm xưa cũ từ những ngày đầu mới quen, từ những năm còn kháng chiến chống Nhật để kỷ niệm càng thêm khắc sâu vào tâm hồn người đi. Từ “mình” được lặp lại trong câu thơ “Mình đi mình có nhớ mình” đã gợi nhắc đến câu ca dao “Ta với mình tuy hai mà một” càng khẳng định sự gắn bó thiết tha. Những địa danh vô cùng quen thuộc với người ra đi và cả người ở lại “Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa?”, gợi nhắc lại những kỷ niệm xưa cũ, hào hùng, sâu sắc tình cảm sâu sắc của những người chiến sĩ cách mạng với người dân Tây Bắc.

“Ta với mình, mình với ta

Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh

Mình đi, mình lại nhớ mình

Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu...

Nhớ gì như nhớ người yêu

Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương

Nhớ từng bản khói cùng sương

Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.

Nhớ từng rừng nứa bờ tre

 Ngòi Thia sông Ðáy, suối Lê vơi đầy”

Lối đối đáp “mình-ta” tiếp tục được sử dụng, kết cấu “Ta với mình, mình với ta” tạo nên lời đồng vọng tha thiết. Đến đây, ta cũng là mình, mình cũng như ta. Câu thơ “Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh” đã thể hiện tình cảm thủy chung son sắt mà người cách mạng dành cho mảnh đất Việt Bắc nghĩa tình, như một lời thề trong tình yêu đôi lứa. Biện pháp so sánh trong câu “Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu...”, đã thể hiện một điều vô cùng thiêng liêng và sâu sắc: Nghĩa tình của con người Việt Bắc thật trong trẻo, đong đầy không có bao giờ có thể vơi cạn như tình yêu thương của lòng mẹ hiền với con cái của mình. Nhà thơ đã so sánh nỗi nhớ ở đây giống như nỗi nhớ người yêu, để trữ tình hóa tình cảm cách mạng, tình quân dân để tất cả trở nên tha thiết hơn, dịu ngọt hơn. Và cũng bởi lẽ nỗi nhớ trong tình yêu là nỗi nhớ thẳm sâu và tha thiết nhất, từ nỗi nhớ ấy, Việt Bắc hiện ra với một không gian thật thơ mộng, câu thơ “Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương” đã thể hiện nỗi nhớ lan tỏa trong không gian và ngự trị trong từng khoảnh khắc của thời gian, cả đêm lẫn ngày. Hình ảnh “Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.” gợi về một miền Việt Bắc mến thương, nồng nàn, ấm áp. Điệp ngữ “nhớ từng” cho chúng ta những cảm nhận như nhà thơ đang lật giở từng trang ký ức, Tố Hữu đã liệt kê những địa danh “sông Đáy, suối Lê” và đến hai tiếng vơi đầy khép lại đoạn thơ thì đây không chỉ còn đơn thuần là địa danh mà là nơi đong đầy kỷ niệm: Bao nhiêu nước, bao kỷ niệm đầy vơi, bao nghĩa tình ấm áp ngọt ngào.

“Ta đi, ta nhớ những ngày

Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi...

Thương nhau, chia củ sắn lùi

Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng

Nhớ người mẹ nắng cháy lưng

Ðịu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô

Nhớ sao lớp học i tờ

Ðồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan

Nhớ sao ngày tháng cơ quan

Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.

Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều

 Chày đêm nện cối đều đều suối xa...”

Cụm từ “Ta đi ta nhớ…” là lời tâm sự chân thành và là lời nhắn nhủ tha thiết của người đi dành cho những người ở lại, của người cách mạng dành cho mảnh đất Việt Bắc anh hùng, cụm từ “Mình đây ta đó…” kết hợp với “đắng cay ngọt bùi” càng nhấn mạnh hơn những ân tình sâu thẳm. Hai tiếng “thương nhau”, thật nhẹ nhàng nhưng cũng thật sâu lắng, người đi kẻ ở “Thương nhau chia củ sắn lùi”, “Bát cơm xẻ nửa, chăn sui đắp cùng” đã thể hiện những tình cảm đùm bọc, chia sẻ, gắn bó khăng khít đậm đà nghĩa tình quân dân, chính sức mạnh đoàn kết ấy đã tạo nên chiến thắng Điện Biên Phủ lẫy lừng. Nhà thơ đã khắc họa hình ảnh người mẹ “Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô”, đây là một hình ảnh đẹp, gợi nhiều cảm xúc, từ “cháy” rất giàu hình tượng nhấn mạnh nỗi vất vả gian lao của người mẹ trong kháng chiến. Tác giả sử dụng điệp ngữ “Nhớ sao” là nỗi nhớ đầy cảm xúc cùng với đó là những hoạt động ở chiến khu Việt Bắc: Lớp học i tờ, những giờ liên hoan, ca vang núi đèo, đã tạo nên một không khí vui tươi thấm đẫm tình đoàn kết quân dân, thể hiện tinh thần lạc quan cách mạng, niềm tin cách mạng nhất định thắng lợi: Dù bom đạn, chiến tranh, đau thương, gian khổ, quân và dân vẫn gắn bó với nhau trong khúc nhạc hân hoan, rộn ràng. Đoạn thơ rất giàu nhạc điệu là khúc ca ca ngợi cuộc sống vẫn đẹp, nghĩa tình vẫn sâu chan chứa trong lòng người cách mạng và núi rừng Việt Bắc thân thơ. Câu thơ cuối khép lại với tiếng mõ, tiếng chày, tiếng suối xa gợi nhiều cảm xúc mênh mang, lan tỏa.

“Ta về, mình có nhớ ta

Ta về ta nhớ những hoa cùng người

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.

Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang

Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình

Rừng thu trăng rọi hoà bình

 Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.”

Bức tranh tứ bình hiện lên thật đẹp đẽ, câu hỏi tu từ “Ta về mình có nhớ ta”, chất chứa bao nỗi niềm, là cái cớ để người ra đi bộc lộ bao nỗi nhớ nhung, bao yêu thương. Cụm từ “những hoa cùng người” có kết cấu như một thành ngữ, trong nỗi nhớ của người ra đi, hoa là biểu tượng cho thiên nhiên, một bức tranh thiên nhiên đẹp và thơ mộng. Mở đầu bức tranh là mùa đông Việt Bắc, là mùa đông với “hoa chuối đỏ tươi” điểm xuyết trên nền xanh bạt ngàn của núi rừng, tạo nên một bức tranh vô cùng sinh động và nhiều màu sắc, tạo cảm giác ấm áp xua đi cái lạnh cắt da cắt thịt ở mảnh đất Việt Bắc.

Con người hiện ra trong tư thế lao động, rất đẹp rất kỳ vĩ, con người như chiếm lĩnh đỉnh cao, hình ảnh được tạo nên bằng nghệ thuật hội tụ ánh sáng của nhiếp ảnh. Mùa xuân hiện ra với cảnh “mơ nở trắng rừng”, vô cùng thơ mộng, tạo nên một bức tranh đẹp, ấm áp, lung linh, hình ảnh con người cũng trong trong tư thế lao động “chuốt từng sợi giang”, động từ “chuốt”, thể hiện một công việc cần cù, kiên nhẫn, tỉ mỉ, khắc họa vẻ đẹp của con người Việt Nam trong kháng chiến. Tiếp đến là mùa hạ thật sinh động và tràn đầy sức sống, cảnh thiên nhiên có thêm tiếng ve rộn rã ngân vang núi rừng và tràn đầy sắc vàng của rừng phách. Hình ảnh “cô em gái hái măng một mình” thật đẹp và thơ mộng biết bao. Khép lại bức tranh tứ bình là cảnh mùa thu, mùa thu hòa bình, mùa thu của cách mạng tháng tám thành công, mùa thu năm 1954, tất cả đã được tượng trưng trong một vầng trăng rất đẹp. Câu thơ “Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung” vừa khép lại bức tranh tứ bình về cảnh và người Việt Bắc, đồng thời cũng khép lại khúc tình ca hào hùng về cuộc kháng chiến.

Trong nỗi nhớ của người ra đi và người ở lại đều không thể không nhắc đến những ngày đầu của cuộc kháng chiến, đó là khi “Giặc đến giặc lùng”, từ “lùng” đã thể hiện sự nguy hiểm của quân thù. “Rừng cây núi đá ta cùng đánh tây” cùng với “Đất trời ta cả chiến khu một lòng” đã thể hiện sự gắn bó sâu sắc của thiên nhiên và con người trong cuộc kháng chiến. Ở đây, thiên nhiên đã trở thành một sinh thể có linh hồn, chở che cho bộ đội, bủa vây quân thù, hình ảnh “Núi giăng thành lũy sắt dày” kết hợp với kết cấu trùng điệp “Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù”, giàu sức gọi, góp phần thể hiện cho sức mạnh của dân tộc, sức mạnh không thể bị hủy diệt. Điệp từ “nhớ” kết hợp với những cụm từ “nhớ từ”, “nhớ sang”, những địa danh gắn liền với những chiến công, tất cả cho ta cảm nhận về nỗi nhớ trải dài khắp chiến khu Việt Bắc. Lời thơ mạnh mẽ, hình ảnh thơ sinh động cùng việc sử dụng những biện pháp nghệ thuật tu từ đã giúp nhà thơ khẳng định sức mạnh vĩ đại của dân tộc, đồng cũng bộc lộ nỗi nhớ và niềm tri ân sâu sắc đối với núi rừng Việt Bắc thấm đẫm tình thương.

“Những đường Việt Bắc của ta

Ðêm đêm rầm rập như là đất rung

Quân đi điệp điệp trùng trùng

Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan

Dân công đỏ đuốc từng đoàn

Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.

Nghìn đêm thăm thẳm sương dày

Ðèn pha bật sáng như ngày mai lên.

Tin vui chiến thắng trăm miền

Hoà Bình, Tây Bắc, Ðiện Biên vui về

Vui từ Ðồng Tháp, An Khê

 Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.”

Câu thơ “Những đường Việt Bắc của ta” đã thể hiện sự gắn bó sâu sắc của mảnh đất Việt Bắc, của chiến khu Việt Bắc với nhân dân với đất nước bởi đây là quê hương cách mạng là trái tim của cả nước trong những tháng ngày kháng chiến chống Pháp. Biện pháp nghệ thuật tu từ so sánh “như là đất rung” kết hợp với hình ảnh “quân đi điệp điệp trùng trùng” đã thể hiện sức mạnh vĩ đại của đoàn quân ra tiền tuyến, đoàn quân dài như vô tận rất kỳ vĩ và hào hùng.

Câu thơ “Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan” đã kết hợp ba biện pháp nghệ thuật tu từ ẩn dụ, nhân hóa, hoán dụ, hình ảnh “ánh sao đầu súng” gợi nhắc đến hình ảnh “đầu súng trăng treo” trong thơ của Chính Hữu và “súng ngửi trời” trong thơ Quang Dũng thể hiện tầm cao của người lính, đây là một hình ảnh đẹp và rất giàu chất thơ. Hình ảnh đoàn dân công vô cùng mạnh mẽ, đông đúc “đỏ đuốc từng đoàn”, “bước chân nát đá”, gợi nhắc đến thành ngữ “Chân cứng đá mềm” khẳng định sức mạnh và sự vững chãi, bền bỉ của con người Việt Nam trước bão tố chiến tranh. Trong đêm tối của chiến tranh, quân và dân ta luôn hướng về ngày mai, luôn nuôi dưỡng niềm tin mãnh liệt về một ngày mai chiến thắng. Và cuối cùng tin vui đã về trên khắp đất nước, những người chiến sĩ về Hà Nội, về miền xuôi, nhưng vẫn đọng lại trong trái tim họ biết bao kỷ niệm, biết bao yêu thương, họ mang theo niềm vui toàn thắng trong những ngày cuộc kháng chiến khép lại.

“Ai về ai có nhớ không?

Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang.

Nắng trưa rực rỡ sao vàng

Trung ương, Chính phủ luận bàn việc công

Ðiều quân chiến dịch thu đông

Nông thôn phát động, giao thông mở đường

Giữ đê, phòng hạn, thu lương

Gửi dao miền ngược, thêm trường các khu...

Ở đâu u ám quân thù

Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi

Ở đâu đau đớn giống nòi

Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền.

Mười lăm năm ấy ai quên

Quê hương cách mạng dựng nên Cộng hoà

Mình về mình lại nhớ ta

 Mái đình Hồng Thái cây đa Tân Trào.”

Những câu thơ cuối cùng khép lại đoạn trích là quang cảnh Việt Bắc sau chiến thắng Điện Biên Phủ, khắp nơi hân hoan trong những màu sắc rực rỡ vui tươi của nắng vàng, của cờ đỏ. Trung ương Đảng và Chính phủ thu xếp trở về thủ đô, trong không khí nhộn nhịp, miền Bắc ngày một đổi mới với chính sách mới của Đảng và nhà nước “Giữ đê, phòng hạn, thu lương/Gửi dao miền ngược, thêm trường các khu...”. Đồng thời đoạn thơ cũng là lời ngợi ca những công lao vĩ đại của Bác Hồ kính yêu, là lời tri ân sâu sắc với miền núi rừng Việt Bắc thân thương, dù mai này đã về thủ đô nhưng trong tim những người chiến sĩ cách mạng luôn giữ một góc trong tim dành cho Việt Bắc, dành cho “Mái đình Hồng Thái cây đa Tân Trào”.

Cả đoạn trích như một bản nhạc nhịp nhàng, tha thiết được hòa tấu bởi là khúc tình ca và khúc trường ca về cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, về những con người kháng chiến anh hùng. Thông qua khúc nhạc đẹp đẽ, hào hùng ấy nhà thơ đã bộc lộ được những tình cảm tha thiết, sâu đậm của mình dành cho vùng núi rừng Việt Bắc, ngợi ca tình đồng chí, nghĩa tình đồng bào. Qua đó, tác giả cũng nhắn nhủ đến người đọc đừng quên những trang sử hào hùng của dân tộc, những trang sử thấm đẫm máu và nước mắt, cũng là những những trang sử thấm đượm tình cách mạng, lòng yêu nước sâu sắc.

Phân tích Việt Bắc (Mẫu 10)

Tố Hữu được biết đến như một nhà tiên phong, lá cờ đầu trong phong trào văn học cách mạng ở Việt Nam. Tố Hữu là một nhà thơ trữ tình - chính trị. Chính vì vậy các tác phẩm của ông đều mang âm hưởng cách mạng, gắn với những sự kiện lịch sử lớn của dân tộc. Và không nằm ngoài quy luật đó, Việt Bắc được ra đời để đánh dấu sự kết thúc vẻ vang sau cuộc kháng chiến chống Pháp với chiến thắng Điện Biên Phủ và hòa bình lập lại ở miền Bắc. Đến với Việt Bắc, ta như được xem lại những thước phim quay chậm về một thời kì vàng son của lịch sử hào hùng nước nhà.

Ngay từ đầu bài thơ, tác giả đã thể hiện tình cảm của người ở lại dành cho người ra đi một cách đầy tinh tế qua những câu hỏi tu từ:

“ Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?”

Câu mở lời đầu tiên giống như lời chia tay của những cặp đôi yêu nhau đầy ý nhị mà sâu sắc. Nhà thơ đã vô cùng khéo léo khi mượn sắc màu của tình yêu đôi lứa để thể hiện tình cách mạng. Cách sắp xếp câu chữ một cách tinh tế, “mình” mở đầu câu thơ và “ta” kết thúc câu thơ như gián tiếp thể hiện sự xa cách, nhớ nhung. Từ “nhớ” được nhắc lại những ba lần đã mở ra dòng cảm xúc lưu luyến, tràn đầy sự nhớ nhung, tình nghĩa của toàn bài thơ.

Để đáp lại tấm lòng của người ở lại, người đi cũng đã thể hiện những tâm tư, tình cảm của mình qua những câu thơ tiếp theo:

“ Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”

Áo chàm” hình ảnh hoán dụ hiện lên trong buổi chia ly đã tạo nên màu sắc của Việt Bắc, màu sắc của núi rừng chiến khu, màu thương nhớ của mối tình quân dân thắm thiết “đậm đà lòng son” suốt mười 15 năm trời gắn bó cùng nhau chiến đấu.

Tiếng lòng của người ở lại đã khiến người đi không khỏi bồn chồn, bâng khuâng, xúc động. Tất cả điều đó dường như đã khơi dậy rất nhiều kỉ niệm khó quên trong tâm trí của người chiến sĩ cách mạng. Nỗi niềm ấy khiến cho cuộc chia ly càng trở nên bịn rịn, lưu luyến hơn. Nó như một sợi dây níu kéo cả người ở và người đi lại với nhau. Mười lăm năm chung sống, gắn bó, chiến đấu dài đằng đẵng đã gắn kết người với người lại với nhau. Họ đã cùng nhau trải qua biết bao nhiêu khó khăn, chia sẻ cho nhau từng miếng cơm, từng manh áo để đến giờ phút chia ly này cảm xúc trào ra thành từng câu chữ:

“Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh”

Lúc này không có sự phân biệt giữ mình với ta nữa mà “ta với mình” – “mình với ta” như hòa quyện lại làm một, hòa vào nhau thành một khối thống nhất, không tách rời. Hai chữ “đinh ninh” tưởng chừng là mơ hồ nhưng lại là một sự khẳng định chắc chắn về tình cảm sâu sắc mà người đi dành cho những người ở lại. Đó là một thứ tình cảm thiêng liêng, cao quý không gì so sánh cũng chẳng có gì có thể thay thế được.

Rời xa Việt Bắc, trở về với cuộc sống nơi phồn hoa đô thị nhưng những người cán bộ chiến sĩ vẫn mang theo một nỗi nhớ núi rừng, nhớ những ngày khó khăn, gian khổ, nhớ những kỷ niệm kháng chiến vất vả mà đầy nghĩa tình. Một bức tranh tứ bình nơi chiến khu với nhiều màu sắc đã làm hiện lên một bức tranh thiên nhiên vùng cao sinh động với những hình ảnh gần gũi, đơn sơ, quen thuộc.

“ Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hoà bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung 

Mùa đông trở lên ấm áp hơn, rực rỡ hơn với màu đỏ tươi của hoa chuối. Đất trời khi vào xuân thì nơi đây lại khoác lên mình tấm áo choàng màu xanh mát của núi rừng, điểm tô trên cái nền xanh ấy là màu trắng tinh khôi của hoa mơ, khung cảnh thiên nhiên thật tươi mát, tràn đầy nhựa sống. Động từ “nở” kết hợp với tính từ “trắng” tạo ra một khung cảnh tuyệt đẹp của những bông hoa tinh khôi đang khoe sắc thắm. Trong cảnh xuân tươi đẹp ấy con người vẫn đang miệt mài lao động làm cho bức tranh càng trở lên hài hòa. Mùa hè tới thì bức tranh này không chỉ có màu sắc, mà nó còn rộn rã âm thanh tiếng ve, thiên nhiên nơi đây cũng chuyển mình mang theo một gam màu vàng tươi của rừng phách khi chuẩn bị bước sang thu. Sau cùng, khi tiết trời sang thu, nơi đây trở lên lung linh huyền ảo hơn dưới ánh trăng mờ mờ ảo ảo, vẻ đẹp ấy dường như mang theo bao ước mơ về một tương lai tươi sáng hơn. Trong bức tranh sinh động đó, con người được hiện lên trong hình ảnh lao động khỏe khoắn:

“Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”

“Nhớ cô em gái hái măng một mình”

Hình ảnh con người lao động hiện lên giữa bức tranh thiên nhiên ấy thật giản dị, mộc mạc, điều đó đã làm nên một đoạn thơ trữ tình nhất trong Việt Bắc.

Trong nỗi nhớ của mình, tác giả không chỉ dừng lại ở nỗi nhớ con người, nhớ vẻ đẹp thiên nhiên mà còn nhớ cả những năm tháng chiến đấu oanh liệt:

“Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh tây
Núi giăng thành lũy sắt dày
Rừng che bộ đội rừng vây quân thù 

Giọng điệu từ nhẹ nhàng, tha thiết đã chuyển sang một giọng thơ hào hùng, đầy khí thế. Tố Hữu đã nhân hóa núi rừng Việt Bắc từ một khu rừng vô tri vô giác trở thành một sinh thể như có linh hồn, thành một bức tường vững chãi bảo vệ cho nhân dân Việt Bắc cùng những người chiến sĩ cách mạng khỏi vòng vây của quân thù. Rồi nhớ những cuộc hành quân đầy gian lao nhưng cũng rất sôi động. Cụm từ “đất rung” thể hiện sức mạnh phi thường của đoàn quân, dù hành quân đêm ngày nhưng họ vẫn giữ sự khỏe khoắn, nhịp điệu trong từng bước đi. Đường hành quân có bao khó khăn, hiểm nguy nhưng những người chiến sĩ vẫn mặc kệ chẳng lo sợ, họ vẫn lạc quan, yêu đời, vẫn cảm nhận vẻ đẹp thiên nhiên, mây trời, ngắm cảnh trời đất. Hai hình ảnh súng và sao mang tính biểu tượng sâu sắc. Súng – hình ảnh gợi lên cảnh chiến tranh, nhưng sao lại vẽ ra một khung cảnh thanh bình, yên ả trong tương lai. Ánh sao ở đây còn ẩn dụ cho đôi mắt người yêu.

Ở cuối đoạn thơ, người đi đã trả lời câu hỏi của người ở lại:

“ Mình về mình lại nhớ ta
Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào”

Qua lời đáp này người đi muốn nhắn nhủ với người ở lại rằng dù họ ở nơi thành thị sung túc, đủ đầy thì tình cảm mà họ dành cho người ở lại vẫn luôn còn mãi. Như vậy tác giả đã khép lại đoạn thơ bằng tấm chân tình sắt son của người ở lại. Kết cấu đầu cuối tương ứng này được tác giẳ một lần nữa sử dụng để khẳng định tấm lòng thủy chung một lòng sắt son của người đi và người ở.

Người ta nói “Việt Bắc” là một bài thơ điển hình của thơ ca cách mạng vì nó có sự kết hợp giữa chất trữ tình và chính trị. Không chỉ vậy, bài thơ với việc sử dụng thể thơ truyền thống cùng lối hát đối đáp quen thuộc, giản dị, gần gũi đã thể hiện rất rõ tính dân tộc. Chính bởi những điều đó mà Việt Bắc đã khơi gợi được những tình cảm cao đẹp nhất của truyền thống dân tộc đó là tấm lòng thủy chung son sắc một lòng.

“Việt Bắc” quả thật là câu chuyện nhỏ chứa đựng câu chuyện lớn. Nó không chỉ kể về cuộc chia ly thấm đẫm nỗi nhớ, sự lưu luyến giữa người chiến sĩ cách mạng và đồng bào Việt Bắc mà nó còn cho người đọc thấy được sự gian khổ, khó khăn, vất vả trong mười lăm năm chiến đấu hào hùng của dân tộc. Cũng bởi lẽ đó mà đã bao năm nay bài thơ Việt Bắc vẫn luôn có một vị trí nhất định trong tâm trí của độc giả.

Phân tích Việt Bắc (Mẫu 11)

Tố Hữu là nhà thơ tiêu biểu của nền thơ ca cách mạng Việt Nam. Một trong những bài thơ của ông phải kể đến Việt Bắc. Tác phẩm là khúc hùng ca và cũng là khúc tình ca về cách mạng, về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến.

Chiến thắng Điện Biên Phủ thắng lợi. Tháng 7 năm 1954, Hiệp định Giơ-ne-vơ về Đông Dương được kí kết. Hòa bình lập lại, miền Bắc bắt tay vào xây dựng một cuộc sống mới. Một trang sử mới của đất nước được mở ra. Tháng 10 năm 1954, những người kháng chiến từ căn cứ miền núi trở về miền xuôi, Trung ương Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về lại thủ đô. Nhân sự kiện có tính lịch sử này, Tố Hữu đã sáng tác bài thơ Việt Bắc.

Bốn câu thơ đầu là lời của người ở lại hỏi người ra đi có còn nhớ “ta”, hỏi nhớ “núi, nguồn” nghĩa là có còn nhớ mảnh đất đã từng chung sống, gắn bó mười lăm năm nghĩa tình. Câu hỏi tu từ mượn cớ nhưng thực ra là nhắc nhở, nhắn nhủ người về xuôi đừng quên mảnh đất tình người.

Tiếp đến là lời của người ra đi trước cuộc chia tay. Ở một bến sông, có tiếng hát làm nền. Nhân vật người đi kẻ ở bịn rịn, ban tay nắm chặt không rời, xúc động không nói nên lời. Từ láy “bâng khuâng, bồn chồn” lột tả tâm trạng xốn xang, xao xuyến vì tình cảm bị níu kéo lại. Từ “áo chàm” hình ảnh ẩn dụ cho người dân Việt Bắc. Người ra đi bắt đầu kể lại về những ngày tháng ở chiến khu Việt Bắc. Khi gian khổ có nhau đến khi vui sướng người đi kẻ ở, giờ phút chia tay lòng người ở lại bỗng xôn xao vì tiếc nuối nhớ nhung. Nỗi nhớ của người ra đi được so sánh với nỗi nhớ người yêu, để thấy được tình quân dân bỗng trở nên thắm thiết như tình yêu lứa đôi. Người ra đi luyến tiếc để nỗi nhớ vào thiên nhiên: nhớ về trăng vào những buổi chiều tà, nắng hiu hắt chiều sương, rừng nứa bờ tre, các địa danh quen thuộc như Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê… Người ra đi nhớ về con người Việt Bắc đã cùng nhau chia sẻ ngọt bùi qua cơn đói rét, kỉ niệm ấm áp bên bộ đội và đồng bào cùng các điệu hát, hình ảnh mộc mạc của “cô em gái” lao động… Có thể khẳng định, tình cảm người chiến sĩ dành cho con người và quê hương Việt Bắc cũng là tình cảm nhà thơ dành cho nhân dân, đất nước, tình yêu cuộc sống kháng chiến.

Tiếp đến, Tỗ Hữu khắc họa khung cảnh thiên nhiên và con người Việt Bắc. Hai câu thơ đầu tiên vẫn là lời đối đáp quen thuộc của người ra đi và người ở lại. “Ta” - “mình” cho thấy tình cảm gắn bó tha thiết giữa người lính với đồng bào Việt Bắc. Ở đây, người ra đi đã hỏi người ở lại: “Ta về mình có nhớ ta” đồng thời bộc lộ nỗi nhớ về “hoa cùng người”. Bức tranh đầu tiên được khắc họa là bức tranh mùa đông. Khung cảnh núi rừng Việt Bắc vào mùa đông hiện ta qua vài nét chấm phá đặc trưng của thơ ca cổ điển. Hai gam màu chủ đạo trong bức tranh đó là “xanh” của cây cối và “đỏ” của hoa chuối. Và trong bức tranh núi rừng đó, con người bỗng xuất hiện với công việc lao động sản xuất - gợi ra hình ảnh những con người Việt Bắc khỏe khoắn. Đông qua, xuân đến, núi rừng Việt Bắc tràn ngập trong sắc trắng của hoa “mơ”. Sắc trắng của hoa mơ bao phủ khắp núi rừng khiến cho bức tranh thiên nhiên tràn đầy sinh khí, ấm áp và thơ mộng. Giữa thiên nhiên đó, con người xuất hiện với công việc “đan nón” đầy tinh tế “chuốt từng sợi giang”. Sự tỉ mỉ, cẩn thận gợi cho người đọc hình ảnh về con người Việt Bắc đầy tâm huyết với công việc mình đang làm. Xuân qua, thiên nhiên Việt Bắc lại đến với mùa hè. Hình ảnh “ve kêu rừng phách đổ vàng” được Tố Hữu sử dụng thật khéo léo. Nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác qua từ “đổ vàng” khiến người đọc cảm nhận được thiên nhiên thay đổi vốn qua thính giác nay biến thành thị giác. Trong thiên nhiên ấy, con người xuất hiện đơn độc. “Nhớ cô em gái hái măng một mình”. Cuối cùng là bức tranh mùa thu với hình ảnh “rừng thu trăng rọi hòa bình”. Ánh trăng thanh bình của một đêm mùa thu lịch sử với nhân dân Việt Nam. Đặc biệt, trong bức tranh mùa thu, con người xuất hiện không phải với công việc lao động nữa, mà xuất hiện với “tiếng hát”. Có thể hiểu đó là tiếng hát mừng chiến thắng của đồng bào Việt Bắc. Cũng có thể hiểu đó là tiếng hát chia tay đầy lưu luyến của đồng bào Việt Bắc dành cho cán bộ kháng chiến. Giờ phút chia tay này, những kỉ niệm về năm tháng kháng chiến gian khổ lại ùa về. Biết bao năm cùng nhau lao động, chiến đấu - chia ngọt sẻ bùi.

Tố Hữu đã tái hiện lại khung cảnh ra trận đầy hào hùng. Đường hành quân gian lao, nguy hiểm nhưng chiến sĩ vẫn cảm nhận được vẻ đẹp thiên nhiên, mây trời, niềm vui ngắm cảnh: cho thấy lòng yêu đời, lạc quan, tin vào tương lai. Hình ảnh đoàn dân công với ánh đuốc sáng gợi không khí lao động hăng say, phá đá mở đường. Ánh sáng đó toát lên sức mạnh, khí thế và gieo lên niềm tin tươi sáng. Hình ảnh “bước chân nát đá” tô đậm sức mạnh vĩ đại của đoàn dân công. Đoàn dân công có vẻ đẹp của anh hùng ra trận, sức mạnh của chiến tranh nhân dân. Đoạn thơ tái hiện chân dung Việt Bắc trong những ngày ra trận, qua đó ca ngợi Việt Bắc anh hùng, đất nước anh hùng.

Xuân Diệu quan niệm: “Thơ là hiện thực, thơ là cuộc đời, thơ còn là thơ nữa”. Và nhà thơ Tố Hữu đã đem hiện thực ấy vào trong trang viết của mình một cách tự nhiên. Quả thực văn học chân chính nằm ngoài sự băng hoại của thời gian, và tác phẩm Việt Bắc vẫn còn sống mãi với thời gian. Bài thơ Viết Bắc chính là khúc hùng ca và cũng là khúc tình ca về cách mạng, về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến.

Phân tích Việt Bắc (Mẫu 12)

Tố Hữu là người đại diện xuất sắc của thơ ca cách mạng Việt Nam và cũng là nhà thơ có phong cách riêng trong sáng tác. Tố Hữu có giọng thơ trữ tình đằm thắm, các sáng tác của ông luôn gắn liền với các chặng đường quan trọng của lịch sử dân tộc. Vì vậy, thơ Tố Hữu vừa đậm đà tính dân tộc nhưng không tách rời tính hiện đại.

Bài thơ Việt Bắc là đỉnh cao của thơ Tố Hữu và cũng là thành tựu xuất sắc của thơ ca kháng chiến chống Pháp. Bài thơ ra đời nhân một sự kiện lịch sử: tháng 10 năm 1954, những người kháng chiến rời căn cứ miền núi trở về miền xuôi. Từ điểm xuất phát ấy, bài thơ ngược về quá khứ để tưởng nhớ một thời cách mạng và kháng chiến gian khổ mà anh hùng, để nói lên nghĩa tình gắn bó thắm thiết với Việt Bắc, với Đảng và Bác Hồ, với đất nước và nhân dân - tất cả là nguồn sức mạnh tinh thần to lớn để dân tộc ta vững vàng bước tiếp trên con đường cách mạng. Nội dung ấy được thể hiện bằng hình thức đậm tính dân tộc. Bài thơ rất tiêu biểu cho phong cách thơ Tố Hữu.

Hoàn cảnh sáng tác tạo nên một sắc thái tâm trạng đặc biệt, đầy xúc động bâng khuâng: Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay… Đó là cuộc chia tay của những người từng sống gắn bó suốt mười lăm năm ấy, có biết bao kỉ niệm ân tình, từng sẻ chia mọi cay đắng ngọt bùi, nay cùng nhau gợi lại những hồi ức đẹp đẽ, khẳng định nghĩa tình thuỷ chung và hướng về tương lai tươi sáng. Chuyện ân tình cách mạng đã được Tố Hữu khéo léo thể hiện như tâm trạng của tình yêu lứa đôi.

Diễn biến tâm trạng như trong tình yêu lứa đôi được tổ chức theo lối đối đáp quen thuộc của ca dao, dân ca, bên hỏi, bên đáp, người bày tỏ tâm sự, người hô ứng, đồng vọng. Hỏi và đáp đều mở ra bao nhiêu kỉ niệm về một thời cách mạng và kháng chiến gian khổ mà anh hùng, mở ra bao nhiêu nỗi niềm nhớ thương. Thực ra, bên ngoài là đối đáp, còn bên trong là độc thoại, là sự biểu hiện tâm tư, tình cảm của chính nhà thơ, của những người tham gia kháng chiến.

Qua hồi tưởng của chủ thể trữ tình, cảnh và người Việt Bắc hiện lên thật đẹp. Nỗi nhớ thiết tha của người cán bộ sắp về xuôi đã khắc sâu thiên nhiên núi rừng Việt Bắc với vẻ đẹp vừa hiện thực, vừa thơ mộng, thi vị, gợi rõ những nét riêng biệt, độc đáo, khác hẳn những miền quê khác của đất nước. Chỉ những người đã từng sổng Việt Bắc, coi Việt Bắc cũng là quê hương thân thiết của mình mới có nỗi nhớ thật da diết, những cảm nhận thật sâu sắc, thấm thía về ánh nắng ban chiều, ánh trăng buổi tối, những bản làng mờ trong sương sớm, những bếp lửa hồng trong đêm khuya, những núi rừng sông suối mang những cái tên thân thuộc - tất cả là khoảng thời gian và không gian lóng lánh kỷ niệm:

Nhớ gì như nhớ người yêu

...

Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy.

Nhưng có lẽ đẹp nhất trong nỗi nhớ về Việt Bắc là sự hoà quyện thắm thiết giữa cảnh với người, là ấn tượng không thể phai mờ về những người dân Việt Bắc cần cù trong lao động, thuỷ chung trong nghĩa tình:

Ta về, mình có nhớ ta

...

Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung

Có thể thấy thiên nhiên Việt Bắc hiện lên với bao vẻ đẹp thật đa dạng, phong phú, sinh động, thay đổi theo từng thời tiết, từng mùa.

Gắn bó với từng khung cảnh ấy là hình ảnh những con người bình thường người đi làm nương rẫy, người đan nón, người hái măng,… Bằng những việc làm tưởng chừng nhỏ bé của mình, họ đã góp phần tạo nên sức mạnh vĩ đại của cuộc kháng chiến. Chính nghĩa tình của nhân dân với cán bộ, bộ đội, sự đồng cảm và san sẻ, cùng chung mọi gian khổ và niềm vui, cùng gánh vác mọi nhiệm vụ nặng nề, khó khăn,… tất cả càng làm Việt Bắc thêm ngời sáng trong tâm trí của nhà thơ. Việt Bắc - đó là hình ảnh những mái nhà “hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son”, là hình ảnh người mẹ trong cái “nắng cháy lưng - Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô”, là những tháng ngày đồng cam cộng khổ:

Thương nhau, chia củ sắn lùi

Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng,…

Có thể nói, âm hưởng trữ tình vang vọng suốt bài thơ đã tạo nên khúc ca ngọt ngào, đằm thắm của tình đồng chí, nghĩa đồng bào, của tình yêu thiên nhiên, yêu đất nước, yêu đời.

Theo dòng hồi tưởng của chủ thể trữ tình, bài thơ dẫn người đọc vào khung cảnh Việt Bắc chiến đấu với không gian núi rừng rộng lớn, những hoạt động tấp nập, những hình ảnh hào hùng, những âm thanh sôi nổi, dồn dập, náo nức. Cách mạng và kháng chiến đã xua tan vẻ âm u, hiu hắt của núi rừng, đồng thời khơi dậy sức sống mạnh mẽ của thiên nhiên và con người Việt Bắc. Bài thơ tràn đầy âm hưởng anh hùng ca, mang dáng vẻ một sử thi hiện đại, bởi vì chỉ cần phác họa khung cảnh hùng tráng ở Việt Bắc, Tố Hữu đã cho thấy khí thế vô cùng mạnh mẽ của cả một dân tộc đứng lên chiến đấu vì Tổ quốc độc lập, tự do:

Những đường Việt Bắc của ta

...

Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.

Dân tộc ấy đã vượt qua bao thiếu thốn, gian khổ, hi sinh để lập nên những kì tích, những chiến công gắn với những địa danh: Phủ Thông, đèo Giàng, sông Lô, phố Ràng, Hoà Bình, Tây Bắc, Điện Biên,… Nhưng Tố Hữu không chỉ miêu tả khí thế hào hùng của cuộc kháng chiến mà còn đi sâu lí giải những cội nguồn sức mạnh đã dẫn tới chiến thắng. Đó là sức mạnh của lòng căm thù: 'Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai', sức mạnh của tình nghĩa thuỷ chung: 'Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi', sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, của sự hoà quyện gắn bó giữa con người với thiên nhiên - tất cả tạo thành hình ảnh đất nước đứng lên:

Nhớ khi giặc đến giặc lùng

...

Đất trời ta cả chiến khu một lòng.

Đặc biệt, với những lời thơ trang trọng mà thiết tha, Tố Hữu đã nhấn mạnh, khẳng định Việt Bắc là quê hương của Cách mạng, là căn cứ địa vững chắc, là đầu não của cuộc kháng chiến, nơi hội tụ bao tình cảm, suy nghĩ, niềm tin và hi vọng của mọi người Việt Nam yêu nước. Trong những năm tháng đen tối trước Cách mạng, hình ảnh Việt Bắc hiện dần từ mờ xa (mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù) đến xác định như một chiến khu kiên cường, nơi nuôi dưỡng bao sức mạnh đấu tranh, nơi khai sinh những địa danh sẽ mãi mãi đi vào lịch sử dân tộc:

Mình về, còn nhớ núi non

...

Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa

Trong những ngày kháng chiến gian lao, Việt Bắc là nơi có Cụ Hồ sáng soi, có Trung ương, Chính phủ luận bàn việc công. Để khẳng định niềm tin yêu của cả nước với Việt Bắc, Tố Hữu lại dùng những vần thơ rất mộc mạc, giản dị mà thắm thiết nghĩa tình :

Ở đâu đau đớn giống nòi

...

Quê hương cách mạng dựng nên cộng hoà.

Nghệ thuật biểu hiện của bài thơ đậm đà tính dân tộc. Điểm đáng chú ý trước hết là Tố Hữu đã phát huy được nhiều thế mạnh của thể lục bát truyền thống. Cấu tứ của bài thơ là cấu tứ ca dao với hai nhân vật trữ tình là ta và mình, người ra đi và người ở lại hát đối đáp với nhau. Trong cuộc hát đối đáp chia tay lịch sử này, người ở lại lên tiếng trước, nhớ về một thời xa hơn, thời đấu tranh gian khổ trước Cách mạng, sau đó người ra đi nối tiếp nhớ lại kỉ niệm thời chín năm kháng chiến.

Nhà thơ rất chú ý sử dụng kiểu tiểu đối của ca dao, chẳng những có tác dụng nhấn mạnh ý mà còn tạo ra nhịp thuyên chuyển, cân xứng, hài hoà, làm cho lời thơ dễ nhớ, dễ thuộc, thấm sâu vào tâm tư:

Mình về rừng núi nhớ ai

Trám bùi để rụng măng mai để già;

Điều quân chiến dịch thu đông

Nông thôn phát động giao thông mở đường

Về ngôn ngữ thơ, Tố Hữu chú ý sử dụng lời ăn tiếng nói của nhân dân rất giản dị mộc mạc nhưng cũng rất sinh động để tái hiện lại một thời cách mạng và kháng chiến đầy gian khổ mà dạt dào tình nghĩa. Đó là thứ ngôn ngữ rất giàu hình ảnh cụ thể:

Nghìn đêm thăm thẳm sương dày;

Nắng trưa rực rỡ sao tràng;…

và cũng là thứ ngôn ngữ rất giàu nhạc điệu:

Chày đêm nện cối đều đều suối xa;

Đêm đêm rầm rập như là đất rung;…

Đặc biệt, thơ Tố Hữu sử dụng rất nhuần nhuyễn phép trùng điệp của ngôn ngữ dân gian:

Mình về, mình có nhớ ta;

Mình về, có nhớ chiến khu;

Nhớ sao lớp học i tờ;

Nhớ sao ngày tháng cơ quan;

Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều,…

Tất cả tạo ra một giọng điệu trữ tình nghe thiết tha, êm ái, ngọt ngào như âm hưởng lời ru, đưa ta vào thế giới của kỉ niệm và tình nghĩa thuỷ chung.

Bài thơ là khúc ca ân nghĩa, là hồi tưởng đầy xúc động và ân tình của Tố Hữu về chặng đường mười lăm năm đã qua của đất nước (từ khởi nghĩa Bắc Sơn năm 1940 đến hoà bình lập lại năm 1954), từ đó mà hướng về tương lai tươi sáng, nhắc nhớ tâm nguyện thuỷ chung. Viết về nghĩa tình dân tộc và hướng về đồng bào mình, Tố Hữu đã phát huy được hình thức nghệ thuật mang tính dân tộc, trong đó nổi bật là cách sử dụng thể thơ lục bát và ngôn ngữ thơ đậm sắc thái dân gian. Có thể coi Việt Bắc là khúc tình ca và cũng là khúc hùng ca về cách mạng, về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến mà cội nguồn sâu xa của nó là tình yêu quê hương đất nước, là niềm tự hào về sức mạnh của nhân dân, là truyền thống ân nghĩa, đạo lí thuỷ chung của dân tộc Việt Nam.

Qua những miền di sản Việt Bắc

Phân tích Việt Bắc (Mẫu 13)

Tố Hữu được coi là lá cờ đầu của cách mạng Việt Nam, ông là nhà kiệt xuất ở nhiều lĩnh vực khác nhau, ở Tố Hữu ông luôn đặt lợi ích chung, nghĩ cho vận mệnh của đất nước để hoạt động cách mạng, không chỉ trên chiến trường kháng chiến, Tố Hữu còn dùng tài năng nghệ thuật, ngòi bút của mình để sáng tác thơ ca, văn chương phục vụ cách mạng. Chính bởi vì vậy, thơ Tố Hữu giàu tính trữ tình chính trị – đó cũng chính là phong cách thơ của ông. Tác phẩm nổi bật nhất phong cách thơ ấn tượng đó của Tố Hữu là bài thơ Việt Bắc – được ví như khúc ca tâm tình của người Việt Bắc và các cán bộ lãnh đạo kháng chiến. Trong đó, nổi bật lên là đoạn thơ khắc họa nỗi lòng sâu sắc, tình nghĩa ân tình thủy chung của nhà thơ với mảnh đất Việt Bắc thân yêu:

“Mình đi, có nhớ những ngày

Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa?”

Việt Bắc được sáng tác bởi ngòi bút của Tố Hữu vào năm 1954 khi Trung ương Đảng và các cán bộ cốt lõi của cách mạng Việt Nam tạm biệt mảnh đất Việt Bắc về thủ đô Hà Nội, những ngày tháng đấu tranh gian khổ tạm thời khép lại, thay vào đó là những ngày tháng hoài niệm, nhớ nhung mảnh đất Việt Bắc và con người nơi đó, một khung cảnh với tâm trạng buồn lâng lâng, những lưu luyến kỉ niệm bịn rịn giữa người đi – kẻ ở.

Mở đầu đoạn thơ là hàng loạt câu hỏi rất ngọt ngào, chứa nhiều những cảm xúc dâng trào, sự yêu thương và nhớ nhung vô thời hạn của ngày tháng đấu tranh chiến đấu đầy gian khổ của cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta:

“Mình đi, có nhớ những ngày

Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù

Mình về, có nhớ chiến khu

Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai”

Đoạn thơ này cho ta thấy được tâm trạng của người ở dành cho người ra đi, tất cả như một câu hỏi, hỏi rằng có còn nhớ đến nơi này hay không, có nhớ mảnh đất Việt Bắc, những kỉ niệm ngày tháng chiến đấu gian khổ, về thời tiết, mưa nguồn, những ngày lũ lụt sương mù bao phủ trên khắp núi rừng, nhớ chiến khu nơi sống và chiến đấu đầy cực khổ, những bữa ăn thiếu thốn nhưng vô cùng giản dị, chỉ có miếng cơm chấm với muối nhưng họ không hề nhụt chí, tâm lí bảo vệ tổ quốc, mang trên mình sứ mệnh của cả dân tộc là giành lại độc lập và sự ấm no cho nhân dân, đó là mục tiêu cao nhất của mỗi chiến sẽ và là mục tiêu hàng đầu của đất nước lúc bấy giò. Để cho người ở lại hỏi là vì nhà thơ muốn khơi gợi lại những ngày kháng chiến gian khổ. Nhớ thiên nhiên Việt Bắc “mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù”, câu thơ đã đặc tả được cảnh thiên nhiên hoang sơ, thời tiết khắc nghiệt nơi núi rừng Việt Bắc. Tuy khung cảnh có chút ảm đạm nhưng vẫn mang đậm chất trữ tình, thơ mộng, phóng khoáng và hùng vĩ.

Tiếp mạch cảm xúc, vẫn là những lời hỏi của Việt Bắc nhưng ẩn chứa trong vần thơ lại là lời bộc bạch tâm sự của người ở lại, bày tỏ tình cảm lưu luyến với cán bộ về xuôi:

“Mình về, rừng núi nhớ ai

Trám bùi để rụng, măng mai để già”

Những câu thơ tiếp theo của Tố Hữu thật đáng để cho con người phải suy nghĩa, “nhớ ai” ai ở đây là câu nói của người ở lại dành cho người ra đi, nhấn mạnh nỗi buồn, thương nhớ, tình cảm thắm thiết vô cùng tình cảm thủy chung của nhân dân Việt Bắc giành cho các cán bộ chiến sĩ của ta. Họ đi rồi núi rừng nhớ họ, cảnh vật và con người nơi đây thiếu đi hình bóng họ, giờ đây chỉ còn là những kỉ niệm mãi in sâu trong tâm chí. Những món ăn dân giã của mảnh đất Tây Bắc, trám, măng đều đã già không còn bóng dáng những người lính đi hái trám bẻ măng. Nỗi buồn da diết và đầm ấm vô cùng những kỉ niệm đẹp đó.

Nhân dân Việt Bắc vẫn tiếp tục hỏi, nhưng ở đoạn thơ này lời hỏi được nhấn mạnh hơn, thể hiện cụ thể và rõ ràng hơn: “Cán Bộ về xuôi có nhớ cảnh vật Việt Bắc, con người Việt Bắc, nhớ những năm tháng cùng nhau kháng chiến hay không?”

“Mình đi, có nhớ những nhà

Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son

Mình về, có nhớ núi non

Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh.”

Từ đầu đến giờ, tác giả chỉ tập chung khắc họa nỗi nhớ của người ở lại giành cho người ra đi, họ lo rằng các chiến sĩ về với Hà Nội sẽ quên nơi này, quên những kỉ niệm gắn bó. Ngoài ra, nhân dân Việt Bắc còn muốn biết thêm rằng: Cán bộ về xuôi có nhớ núi non, nhớ thiên nhiên Việt Bắc hùng vĩ hay không? Có nhớ khoảng thời gian cùng nhau “kháng Nhật, thuở còn Việt Minh hay không”? Chính nghĩa tình của đồng bào Việt Bắc đối với bộ đội, với Cách Mạng; sự đồng cảm cùng san sẻ mọi gian khổ, niềm vui, cùng gánh vác nhiệm vụ nặng nề, khó khăn làm cho Việt Bắc – quê hương của cách mạng, cội nguồn nuôi dưỡng cho cách mạng – càng thêm ngời sáng trong tâm trí nhà thơ nói riêng và trong lòng người đọc nói chung.

Cuối đoạn thơ một hình ảnh hiện lên cũng rất đỗi thiêng liêng và đáng quý, một hình ảnh tràn đầy kỉ niệm mỗi khi nhắc lại với các địa danh lịch sử:

“Mình đi, mình có nhớ mình

Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa.”

Nhắc đến đây, tác giả muốn nói đến những kỉ niệm đã trải qua cùng với các địa danh lịch sử với những chiến thắng vang dội, hay những ngày tháng cùng nhau nghĩ cách, chiến lược để dành thắng lợi cho dân tộc. Ta đặt ra một vấn đề có tính thời sự, sợ rằng mọi người sẽ ngủ quên trên chiến thắng, quên đi quá khứ hào hùng của mình, thậm chí sẽ phản bội lại lý tưởng cao đẹp của bản thân. Nhà thơ Tố Hữu đã hình dung trước được diễn biến tâm lý của con người sau chiến thắng, đây quả là câu thơ mang tính trừu tượng và triết lý sâu sắc.

Chỉ với mười hai câu thơ trong khổ 3 của bài Việt Bắc, Tố Hữu đã đưa ta vào thế giới của hoài niệm và kỉ niệm, vào một thế giới êm ái, ngọt ngào, du dương của tình nghĩa cách mạng. “Giọng thơ tâm tình ngọt ngào tha thiết và nghệ thuật biểu hiện giàu tính dân tộc” của Tố Hữu đã góp phần tạo nên sự thành công cho bài Việt Bắc.

Phân tích Việt Bắc (Mẫu 14)

Tố Hữu nhà thơ trữ tình chính trị xuất sắc nhất của văn học Việt Nam. Các bài thơ của ông luôn hừng hực không khí chiến đấu, bám sát từng sự kiện lịch sử. Việt Bắc chính là một trong những bài thơ như vậy.

Tác phẩm ra đời sau khi ta chiến thắng Điện Biên Phủ, hiệp định Giơ ne vơ được ký kết, hòa bình được lập lại ở miền Bắc, một trang sử mới đã mở ra cho dân tộc. Tháng 10 năm 1954 các cơ quan Đảng và chính phủ của chúng ta từ chiến khu Việt Bắc trở về thủ đô Hà Nội, để tiếp tục gánh vác sứ mệnh lịch sử của đất nước. Nhân sự kiện cuộc chia tay đặc biệt này, chia tay giữa Việt Bắc với người về xuôi, Tố Hữu đã viết lên bài thơ Việt Bắc.

Mở đầu bài thơ là lời ướm hỏi và nhắc nhở của đồng bào với những người ra đi: “Mình về mình có nhớ ta/…/Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn”. Điệp từ nhớ luyến láy trong cấu trúc câu hỏi đồng dạng “Mình về mình có nhớ ta?/…/ Mình về mình có nhớ không?” khiến cho nỗi nhớ thêm phần da diết, khắc khoải.

Kỉ niệm đầu tiên được nhắc tới chính là mười lăm năm khoảng thời gian Việt Bắc là căn cứ địa vững chắc cho cách mạng. Với kỉ niệm thứ hai, tác giả đã tái hiện chân thực không gian mình từ gắn bó là sông, núi, nguồn. Tâm trạng của thiên nhiên cũng chính là nỗi nhớ da diết của chính con người.

Những kỉ niệm sâu nặng nghĩa tình đã được Tố Hữu tái hiện không chỉ chân thực mà còn tràn đầy cảm xúc trong từng cặp lục bát. Có thể thấy điệp từ “nhớ” trở thành một sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ tác phẩm. Đó là nỗi nhớ về những tháng ngày gian khổ “mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù”; con người Việt Bắc nghèo khổ nhưng chung thủy, tình nghĩa, đồng cam cộng khổ cùng kháng chiến “miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai”, “hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son”.

Đặc biệt nỗi nhớ được gói ghém trọn vẹn trong câu thơ hàm súc, giàu ý nghĩa: Mình đi, mình có nhớ mình? Chữ mình thứ ba là cách nói gần gũi, âu yếm, cho thấy sự gắn bó sâu đậm, khăng khít. Sau những lời nhắn nhủ, nhắc nhở tha thiết của người ở lại là lời khẳng định thủy chung son sắt của cán bộ kháng chiến:

Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…

Tố Hữu đã sử dụng vô cùng linh hoạt các từ láy “tha thiết” “Bâng khuâng, bồn chồn” giàu giá trị gợi cảm, diễn tả trạng thái tâm lí tình cảm hụt hẫng, bịn rịn, luyến tiếc, vương vấn. Trong đoạn thơ, đặc sắc nhất là hình ảnh áo chàm. Hình ảnh hoán dụ cho thấy cuộc tiễn đưa không chỉ của một người mà còn là còn của toàn thể dân Việt Bắc đối với cán bộ khi họ về xuôi.

Và tình cảm lưu luyến đó sẽ là cơ sở để khẳng định sự ân tình, thủy chung son sắt của người ra đi với người ở lại: “Ta với mình, mình với ta/ Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh/ Mình đi, mình lại nhớ mình/ Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu…”. Câu thơ “Ta với mình/mình với ta” ngắt nhịp 3/3, mở đầu và kết thúc mỗi nhịp đều xuất hiện cặp đại từ mình – ta, cho thấy sự quấn quýt, gắn bó, không thể chia cắt.

Sáu câu thơ tiếp theo, một cách rất ngắn gọn, súc tích, Tố Hữu đã tái hiện lại khung cảnh Việt Bắc trong tâm tưởng: “Nhớ gì như nhớ người yêu/…/ Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy”. Hình ảnh so sánh “như nhớ người yêu” thật đặc sắc, cho thấy nỗi nhớ tha thiết, khắc khoải của chàng trai với cô gái, lấy hình ảnh so sánh đó đã thể hiện sự gắn bó tha thiết trong tình cảm.

Những hình ảnh gợi cảm đầy thi vị: trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương, bản khói cùng sương, bếp lửa, rừng nứa, bờ tre... gợi nhớ những vẻ đẹp nên thơ rất riêng của miền rừng núi. Đặc biệt ông còn sử dụng linh hoạt các địa danh ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê nhấn mạnh hơn nữa nỗi nhớ của người ra đi với núi rừng, con người nơi ở lại. Những ngày chiến đấu đó tuy gian khổ, tuy vất vả nhưng đậm đà nghĩa tình: “Ta đi ta nhớ những ngày/…/Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng”.

Bốn câu thơ là lời khẳng định, khi chia xa người ra đi sẽ không bao giờ quên đi những tháng ngày gắn bó, ta với mình đã đồng cam cộng khổ, cùng chia sẻ đắng cayvà cùng chung hưởng ngọt bùi. Và sao có thể quên được người mẹ Việt Bắc nắng cháy lưng, vẫn địu con lên rẫy làm việc, cần mẫn chăm chỉ bẻ từng bắp ngô... đã gợi ra sự tần tảo chắt chiu, cần cù lao động của những bà mẹ trong kháng chiến đã đùm bọc, cưu mang chiến sĩ cách mạng.

Và cả cảnh sinh hoạt cơ quan với những âm thanh quen thuộc trong lớp học, tiếng hát đầy lạc quan, vui tươi trong hoàn cảnh gian khổ. Đoạn thơ không chỉ đơn thuần là sự tái hiện những sự việc, những người, những khung cảnh mà chất chứa trong đó cả là nỗi nhớ, lòng biết ơn sâu nặng của những người chiến sĩ cách mạng với bà con Việt Bắc đã giúp đỡ họ.

Trong tác phẩm này, có lẽ đẹp đẽ nhất, tài hoa nhất chính là khi ngòi bút Tố Hữu tạo dựng lên bức tranh tứ bình đặc sắc: “Ta về mình có nhớ ta/…/ Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”. Mở đầu bức tranh là khung cảnh đặc trưng của mùa đông: Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi/ Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng. Gam màu chủ đạo trong bức tranh này là gam màu xanh. Trên nền xanh bát ngát ấy, nổi bật lên những bông “hoa chuối đỏ tươi” xua tan đi vẻ âm u, thổi hơi ấm.

Sức nặng của hai câu thơ dồn vào hai chữ “đèo cao”, gợi lên tư thế hiên ngang của con người Việt Bắc trong công việc lao động. Tiếp đến là khung cảnh mùa xuân thanh khiết với rừng mơ nở trắng xóa: Ngày xuân mơ nở trắng rừng/ Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang. Núi rừng Việt Bắc đã ngập trong một màu trắng thanh khiết, tinh khôi của hoa mơ.

Thấp thoáng trong rừng hoa mơ ấy, ta bắt gặp hình ảnh con người Việt Bắc trong lao động, mang vẻ đẹp cần mẫn và tài hoa phù hợp với thiên nhiên thơ mộng và thanh khiết. Cảnh mùa hạ lại đặc trưng bởi sắc vàng ấm nóng: Ve kêu rừng phách đổ vàng/ Nhớ người em gái hái măng một mình.

Câu thơ trên chỉ có sáu âm tiết nhưng đã gợi ra cả một chuỗi vận động liên hoàn: tiếng ve kêu gọi mùa hè đến, mùa hè với sắc nắng chói chang của nó nhuộm vàng cả rừng phách. Hình ảnh con người hiện ra qua cách gọi “người em gái” khiến người Việt Bắc hiện lên thật thân thương, gần gũi.

Con người hiện ra hết sức lặng lẽ: “người em gái” chỉ có “một mình” giữa rừng măng, lao động trong thầm lặng. Bức tranh cuối cùng là khung cảnh mùa thu: Rừng thu trăng rọi hòa bình/ Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung. Bức tranh mùa thu yên bình, hạnh phúc, biểu tượng cho hòa bình cũng là cái đích mà cách mạng hướng tới.

Trong dòng hồi tưởng, Tố Hữu cũng không quên nhớ về cuộc sống, chiến đấu đầy gian khổ. Đó là khi cách mạng còn non trẻ, lực lượng còn yếu, giặc đến truy đuổi thường xuyên, đây chính là thử thách lớn lao đối với ý chí của con người. Nhưng dù trong gian khổ ta vẫn không chịu khuất phục cả con người và rừng núi hợp sức đánh giặc: Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây. Kháng chiến ngày một lớn mạnh, ta giành chiến thắng hết trận này đến trận khác.

Giọng thơ tràn ngập niềm tự hào, niềm vui. Khép lại đoạn thơ, tác giả cũng phác thảo ra một bản đồ vui toả rộng khắp đất nước báo tin chiến thắng. Nhịp thơ dồn dập, tươi vui, náo nức cùng với sự xuất hiện của một loạt các địa danh trăm miền gắn với các tin vui chiến thắng đã cho thấy tốc độ thần kì của thắng lợi. Chiến thắng ấy trải dài khắp mọi miền Tổ quốc tạo nên ngày hội chiến thắng của toàn thể dân tộc ta.

Việt Bắc có thể coi như một bản tổng kết lịch sử của cuộc cách mạng dân tộc. Bài thơ đã tái hiện chân thực vẻ đẹp thiên nhiên và con người Việt Bắc, cùng với đó là cuộc kháng chiến anh hùng, vĩ đại của dân tộc ta. Bài thơ có sự kết hợp hài hòa giữa chất trữ tình và chất chính trị, thể thơ lục bát dân tộc, giọng điệu linh hoạt, hình ảnh phong phú, giàu sức biểu cảm đã tạo nên một thi phẩm xuất sắc.

Phân tích Việt Bắc (Mẫu 15)

Chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi là một sự kiện lịch sử quan trọng trong trường kì kháng chiến của dân tộc ta. Nhờ sự kiện trọng đại này mà tháng bảy năm 1954, hiệp định Giơnevơ được kí kết, hòa bình lặp lại, miền Bắc được giải phóng và bắt tay vào sự nghiệp xây dựng cuộc sống mới. Vì thế mà, các cơ quan trung ương Đảng rời chiến khu Việt Bắc về Hà Nội. Trong phút chia ly bâng khuâng lưu luyến, Tố Hữu đã viết bài thơ Việt Bắc để bộc lộ nỗi lòng mình.

Ai trong chúng ta cũng biết, Tố Hữu là một nhà thơ quen thuộc của kháng chiến. Con đường thơ của ông gắn liền với con đường cách mạng. Với giọng thơ tâm tình ngọt ngào, các sáng tác của ông đều chạm đến tim người đọc. Và 'Việt Bắc' cũng không ngoại lệ. Bài thơ 'Việt Bắc' được viết theo lối đối đáp giữa người đi và kẻ ở lại trong giờ phút chia tay đầy lưu luyến sau nhiều năm gắn bó. Mở đầu bài thơ là lời người ở lại.

'Mình về mình có nhớ ta
...
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn'

Trong cuộc chia tay, người ở lại như nhạy cảm với hoàn cảnh đổi thay đã lên tiếng để gợi nhắc cho người ra đi những kỉ niệm gắn bó. Người ở lại hỏi về không gian: 'nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn', hỏi về thời gian: 'mười lăm năm ấy…'. Điệp ngữ 'mình có nhớ' tạo cho đoạn thơ một giai điệu lưu luyến không nguôi. Người ở lại như đang nhắc nhở người ra đi về đạo lý uống nước nhớ nguồn. Nghe những lời của người ở lại, người ra đi cũng chùn bước, 'bước đi một bước giây hai lại dừng'. Trong cuộc chia tay thật tế nhị và sâu sắc người ra đi nghẹn ngào khó nói lên lời:'Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay'. Cái cầm tay ấy chất chứa bao nỗi niềm của người ra đi. Từng câu thơ lục bát nhịp nhàng diễn tả một thoáng ngập ngừng của tác giả. Chút ngập ngừng ấy tạo ra một phút lặng cho chuỗi câu hỏi tiếp theo vang lên dồn dập hơn. Bằng những lời mà người ở lại tiếp tục hỏi, người ở lại đã gợi nhớ những ngày ở chiến khu Việt Bắc. Mười hai dòng thơ được chia thành sáu câu hỏi như khơi sâu vào những kỉ niệm. Kỉ niệm đầu tiên là những ngày đầu gian khổ, vất vả của chiến khu, của kháng chiến:'rừng cây núi đá', 'mênh mông bốn mặt sương mù', 'mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù'… Những hình ảnh vừa chỉ đặc trưng của thiên nhiên những ngày khắc nghiệt đồng thời là những ngày gian nan, vất vả. Rồi tiếp theo lại là cảnh vật, con người Việt Bắc – những con người ân nghĩa thủy chung, đồng cam cộng khổ: 'miếng cơm chấm muối mối thù nặng vai', 'hắt hiu lau xám đậm đà lòng son'. Rồi kỉ niệm về mảnh đất chiến khu từ khi kháng Nhật thuở còn Việt Minh. Chỉ bằng vài câu thơ, Tố Hữu đã chứng minh Việt Bắc là một căn cứ địa vững chắc với những địa danh đã đi vào lịch sử: Tân Trào, Hồng Thái. Mười hai câu thơ tiếp theo này không chỉ gợi kỉ niệm cũ với người ra đi, nó còn thể hiện tài năng nghệ thuật trong thơ của Tố Hữu. Trong các câu thơ sáu tiếng, cứ một câu 'mình đi', kế một câu 'mình về' đều chỉ một hướng của người về xuôi. Nhà thơ đã khéo léo vận dụng ngôn ngữ tiếng việt để tạo ra sự đa nghĩa. Hấp dẫn người đọc cũng là nghệ thuật đối 'đi – về' kết hợp với động từ 'có nhớ' tạo âm điệu vừa êm ái vừa réo rắt trong sự tiếc nuối vừa ân nghĩa thủy chung. Đặc biệt đan xen những câu hỏi nhưng không dùng để hỏi mà để độc thoại nội tâm: 'mình về rừng núi nhớ ai – trám bùi để rụng măng mai để già'. . Trước những gợi nhớ kỉ niệm của người ở lại, người ra đi cũng khẳng định nghĩa tình không bao giờ thay đổi: 'Ta với mình mình với ta – Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh'. Cặp đại từ 'mình – ta' đan xen khăng khít như sự gắn bó của người ra đi đối với người ở lại. Sự thủy chung ấy còn được so sánh với nước trong nguồn: 'nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu'. Câu thơ đã khẳng định sự thủy chung mãi mãi bền chặt sắc son như tình yêu đôi lứa, như nước trong nguồn không bao giờ cạn. Tác giả đã khai thác rất đắt từ 'mình'. Trong tiếng việt, từ 'mình' là chỉ bản thân hoặc người khác, xưng hô giữa vợ chồng. Nhưng trong tác phẩm, 'mình' vừa là người ở lại vừa là người ra đi: 'mình đi mình lại nhớ mình'. Cách sử dụng đa thanh đa nghĩa này đã làm tăng tính nghệ thuật cho bài thơ.

Sau màn đối đáp của người ra đi và người ở lại, người ra đi bộc bạch nỗi lòng mình. Đó là nỗi nhớ khôn nguôi. Đầu tiên là nhớ về Việt Bắc. Nỗi nhớ ấy cồn cào:'nhớ gì như nhớ người yêu'. Người ra đi nhớ về cảnh sắc thiên nhiên thanh bình yên ả và thơ mộng. Với những hình ảnh: 'ánh trăng', 'nắng chiều', 'núi đèo', 'bếp lửa bập bùng'…. và con người nghĩa tình thủy chung sâu nặng: 'bát cơm xẻ nửa chăn sui đắp cùng'. Nhà thơ cũng không quên hình ảnh người mẹ Việt Bắc: 'nhớ người mẹ nắng cháy lưng – địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô'. Không chỉ có cảnh sắc thiên nhiên con người nơi đây mà những kỉ niệm về cuộc sống của đồng bào, cán bộ ấm áp tình quân dân khó khăn gian khổ nhưng vẫn lạc quan yêu đời cũng ùa về: 'nhớ sao lớp học i tờ – đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan – nhớ sao ngày tháng cơ quan – gian nan đời vẫn ca vang núi đèo'.

Nối tiếp dòng hồi ức của người ra đi là bức tranh tứ bình tuyệt mĩ. Cảnh và người đan xen với nhau qua bốn cặp lục bát, thể hiện qua bốn mùa. Mùa đông xuất hiện giữa bạt ngàn sắc xanh nổi bật với 'hoa chuối đỏ tươi'. Mùa xuân không gian bừng sáng bởi sắc 'mơ' thanh khiết, mùa hạ là 'rừng phách đổ vàng' trong âm thanh của tiếng ve. Mùa thu là ánh trăng dịu hiền hòa vào tiếng hát ân tình thủy chung. Một bức tranh đẹp đầy sống động đã hiện ra trước mắt người đọc chỉ bằng vài lời thơ của Tố Hữu.

Cuộc kháng chiến đầy gian khổ mà hào hùng là kỉ niệm khó phai mờ trong lòng người ra đi. Người ra đi nhớ về những ngày gian khổ mà Việt Bắc – mảnh đất anh hùng thiên nhiên cùng chiến sĩ đánh giặc: 'rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây'; nhớ về những chiến thắng vang dội gắn liền với các địa danh: 'Phủ Thông, đèo Giàng', 'nhớ sông Lô nhớ phố Ràng – nhớ từ Cao – Lạng, nhớ sang Nhị – Hà'. Người ra đi còn nhớ bức tranh Việt Bắc ra quân. Trên khắp nẻo đường Việt Bắc, khí thế ra trận 'đêm đêm rầm rập như là đất rung', lực lượng quân đội với sức mạnh đoàn quân 'điệp điệp trùng trùng' nối đuôi nhau xung trận rất đẹp trong tư thế 'ánh sao đầu súng'. Cuộc hành quân toàn dân toàn diện mang khí thế quyết chiến: 'dân công đỏ đuốc từng đoàn – bước chân nát đá muôn tàn lửa bay'. Với khí thế xung trận ấy, những chiến công vang dội liên tiếp diễn ra: 'tin vui chiến thắng trăm miền'. Với những chiến thắng ấy đã đưa đến khẳng định cuối cùng đó là sự đúng đắn của đường lối cách mạng của Đảng. Chính vì thế mà phần cuối của bài thơ Tố Hữu đã dùng để tuyên truyền đường lối ấy, đồng thời khẳng định Việt Bắc là cái nôi của cách mạng, là niềm tin, niềm tự hào.

Khép lại bài thơ là một cảm xúc khó quên. Bài thơ Việt Bắc không chỉ là bài thơ tiêu biểu của thi ca kháng chiến mà còn là tác phẩm thể hiện rõ nét phong cách thơ của Tố Hữu. Với thể thơ lục bát được sử dụng sáng tạo, sự thành công của cặp đại từ ' mình – ta', bài thơ đã có một chỗ đứng vững trong lòng người đọc và nền thi ca cách mạng Việt Nam.

Phân tích Việt Bắc (Mẫu 16)

Là một trong những biểu tượng của thơ ca kháng chiến, với tư cách là một nhà thơ – chiến sĩ, Tố Hữu đã đóng góp vào văn học cách mạng nói chung và văn học Việt Nam nói riêng nhiều tác phẩm có giá trị với một phong cách nghệ thuật đặc biệt. Và có thể nói, “Việt Bắc” là một trong những tác phẩm đặc sắc của ông. Bài thơ này được viết vào tháng 10 năm 1954, nhân dịp trung ương Đảng và Chính phủ cùng các chiến sĩ từ căn cứ miền núi trở về miền xuôi.

“Việt Bắc” với việc sử dụng cặp từ nhân xưng “mình” – “ta” cùng với cấu trúc đối thoại thường thấy trong ca dao, dân ca giúp người đọc hình dung cuộc chia ly giữa nhân dân và trung ương Đảng, Chính phủ như là cuộc chia tay của một cặp đôi, đầy cảm xúc, nhớ nhung, thương tiếc và qua đó làm cho nỗi lòng của nhân vật trở nên phong phú, đầy đủ và sâu sắc nhất. Có thể nói, bài thơ được chia thành hai phần, một phần là lời của người ở và một phần là lời của người đi.

Tám dòng thơ đầu của bài thơ là lời đối đáp đầu tiên giữa người ra đi và người ở lại. Qua những dòng thơ ấy, ta có thể tưởng tượng được cảnh tượng buồn bã khi nhân dân Việt Bắc chia tay những người cán bộ:

Mình về mình có nhớ không
Mười lăm năm đầy mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhớ nguồn.

Bằng cách sử dụng câu hỏi “mình về mình có nhớ…” như một cấu trúc điệp, người ở lại gợi lại những kỷ niệm sâu sắc trong khoảng thời gian “mười lăm năm đầy mặn nồng” – mười lăm năm tình thương, mười lăm năm kết nối, mười lăm năm hy sinh mà nhân dân Việt Bắc và những người cán bộ đã cùng nhau trải qua. Trước sự ấm ức và chân thành đó của nhân dân, của người ở lại, người ra đi không thể giấu được lòng. Có lẽ, không ai có thể quên khung cảnh của những người “áo chàm” tiễn cán bộ ra đi, tay trong tay, lời nói nào cũng thốt ra, dù làm gì có thể nói được giữa những người ở và người đi. Khung cảnh ấy được mô tả rõ ràng qua những từ ngữ như “bâng khuâng”, “bồn chồn”, “tay nắm tay nhưng không biết nên nói gì hôm nay”,…

Nếu tám dòng thơ đầu tiên của bài thơ là lời đối đáp đầu tiên giữa người ra đi và người ở lại thì phần còn lại của bài thơ là lời đối đáp thứ hai. Phần đầu của lời đối đáp thứ hai là lời của người ở lại với mười hai dòng thơ. Có vẻ như, trong tâm trạng của người ở lại, câu hỏi “có nhớ” luôn là một điều quan trọng, luôn là một điều luôn hiện diện trong họ và chủ đề của toàn bộ bài thơ. Nếu ở lời đối đáp đầu tiên, câu hỏi “có nhớ” của người ở lại chỉ là một câu hỏi, thì ở đây, người ở lại đã mô tả lại một cách cụ thể, chi tiết những kỷ niệm trong những năm tháng mười lăm. Đó là những kỷ niệm dù khó khăn, gian khổ nhưng tràn đầy tình nghĩa và lòng lạc quan, niềm tin giữa cán bộ và nhân dân. Đặc biệt, ở đây, câu hỏi “có nhớ” lại được nhắc lại nhiều lần như một điều khắc sâu vào trái tim, vào tâm hồn của cả người ra đi và người ở lại.

Và sau đó, trước lời của người ở lại, người ra đi đã khẳng định một cách mạnh mẽ về tình yêu, về cảnh vật ở đây, lời đối đáp của người ra đi như một lời thề trung thành không ngừng – lời thề về một tình yêu không bao giờ phai nhạt, sâu sắc:

Mình với ta, ta với mình
Tình ta mặn mà sau trước, đầy tin yêu
Đi về lại nhớ về mình
Ngọn suối nước nghĩa tình vẫn đong đầy.

Và sau đó, trong câu trả lời của mình, người ra đi đã mô tả một cách chân thực và sâu sắc từng kỷ niệm, từng ấn tượng của mình về thiên nhiên, về con người và về những năm tháng gian khó mà tráng lệ, những tình cảm giữa người ra đi và người ở lại. Trước hết, đó là kỷ niệm về thiên nhiên Việt Bắc. Trong cảm nhận của người ra đi, thiên nhiên Việt Bắc hiện lên trước mắt, mang đầy những đặc điểm riêng của núi rừng Việt Bắc – một bức tranh thiên nhiên mơ mộng, huyền bí, gần gũi và thân quen. Đó là ánh trăng thanh bình giữa dãy núi bao la, mênh mông với hình ảnh đậm đà thơ “trăng lên đỉnh núi”. Đó là “ánh nắng chiều dịu dàng” – ánh nắng ấm áp, êm đềm mỗi buổi chiều. Đó là những làng quê mờ ảo trong màn sương, có những ngọn lửa bừng lên trong đêm tối và cả những khu rừng sậy, bãi tre, dòng suối Lê – những hình ảnh độc đáo, là linh hồn của núi rừng Tây Bắc.

Nhớ từng hơi khói cùng sương
Bếp lửa sáng rợp, thương nhớ từng sớm tối
Nhớ từng rừng sậy, bãi tre
Con suối Thia, dòng Đáy, suối Lê chảy mãi.

Không chỉ dừng lại ở đó, bức tranh thiên nhiên Việt Bắc trong ký ức của người ra đi còn là một bức tranh bốn mùa, để trong đó, người đọc có thể cảm nhận được sự thay đổi của thiên nhiên, của cảnh vật Việt Bắc qua từng mùa trong năm. Mùa đông, thiên nhiên Việt Bắc hiện ra với vẻ hài hòa giữa màu xanh của rừng cây xòe và màu đỏ của những bông hoa chuối rừng – “rừng xanh, hoa chuối đỏ” – sự kết hợp đẹp mắt ấy làm cho bức tranh mùa xuân ở đây thêm phần đẹp mắt, ấm áp và tràn đầy sức sống. Xuân về, đông qua, thiên nhiên Việt Bắc lại bao trùm mình trong màu trắng của hoa mơ – loài hoa đặc trưng, biểu tượng của mùa xuân trên vùng đất Việt Bắc. Sắc trắng của hoa mơ tỏa sáng khắp không gian của núi rừng – “mùa xuân hoa mơ nở trắng rừng”. Và sau đó, mùa hè đến, thiên nhiên ở đây nhanh chóng, đột ngột thay đổi. Dường như, tiếng “ve kêu” làm cho “rừng sậy vàng rực”, rừng sậy đã thay đổi, đã thức tỉnh để chào đón mùa hè. Đặc biệt, trong bức tranh đó, hình ảnh mùa thu với ánh trăng yên bình gợi lên trong chúng ta nhiều cảm xúc, nhiều ấn tượng.

Nhớ về Việt Bắc, người ra đi không chỉ nhớ về vẻ đẹp đặc biệt của thiên nhiên mà còn nhớ về những con người trân quý ở nơi này. Đó là hình ảnh những người mẹ kháng chiến vất vả, kiên cường, khó khăn nhưng chịu khó, cần cù:

Nhớ mẹ nắng cháy lưng
Đưa con ra rẫy, bẻ từng bắp ngô.

Mặc dù gian khổ, vất vả nhưng những người ở đây vẫn sống chung thủy, đoàn kết, họ luôn chia sẻ với nhau, chia ngọt chia khó, luôn lạc quan, yêu cuộc sống để cùng nhau vượt qua những thách thức của cuộc kháng chiến.

Thương nhau, chia cắt củ sắn
Bát cơm chia đều, chăn trải đắp chung
(…)
Nhớ những ngày tháng tại cơ quan
Cuộc sống gian nan vẫn vang lên từng dãy núi.

Hình ảnh con người Việt Bắc mỗi mùa một công việc khác nhau nhưng luôn hiện diện trong lao động, trong việc chăm sóc quê hương, đất nước. Người đọc không thể quên được hình ảnh tỉ mỉ, cẩn thận của “người đan nón từng sợi chiếu”, là hình ảnh của “cô em gái đi hái măng một mình” và cũng là “tiếng hát thân thương vang vọng” đọng lại trong lòng người ra đi với bao niềm suy tư và tình nghĩa. Vì thế, trong ký ức của người ra đi, hình ảnh thiên nhiên và con người Việt Bắc hiện lên vô cùng đẹp đẽ.

Đặc biệt, nhớ về Việt Bắc, người ra đi còn nhớ về một Việt Bắc hùng vĩ trong cuộc kháng chiến. Bằng những từ ngữ thơ mộng, mạnh mẽ, nhanh chóng, rộn rã đã diễn đạt sự hùng mạnh của Việt Bắc trong những năm tháng kháng chiến. Sử dụng các hình ảnh, ngôn từ để để lại ấn tượng sâu sắc trong tâm trí người đọc. Nhớ về Việt Bắc trong kháng chiến là nhớ về một không gian “các con đường Việt Bắc của chúng ta” – một không gian mở rộng, bao la, vô tận, một bối cảnh rộng lớn. Trên nền không gian mở rộng, bao la ấy, hình ảnh quân và dân ta hiện lên rất rõ, rất đẹp, rất mạnh mẽ. Khí thế đó hiện diện rõ nét qua hình ảnh của những đội quân liên tiếp ra trận, những đội quân này liên tiếp theo sau những đội quân khác tạo thành một hàng dài, tiếp tục “quân đi, đoàn điều, trống đánh trùng điệp”, “dân quân đỏ đuốc từng đội” đồng thời còn là hình ảnh của “đèn pha sáng rực”. Tất cả, tất cả những hình ảnh ấy kết hợp với nhau, bổ sung cho nhau để tạo nên một Việt Bắc với khí thế mạnh mẽ, rộn ràng, dường như tất cả cùng nhau ra trận, mọi người cùng đánh giặc, mọi nhà cùng đánh giặc – hình ảnh một Việt Bắc hùng vĩ, anh dũng trong những năm tháng chống Pháp. Không chỉ nhớ về khí thế hùng mạnh của Việt Bắc, người ra đi còn nhớ và tái hiện lại những chiến thắng rực rỡ, lẫy lừng của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến đẫm máu chống lại sự xâm lược của thực dân Pháp.

Tin tức chiến thắng khắp nơi
Hào hứng tại Hà Bình, Tây Bắc, Điện Biên
Ở Đồng Tháp, An Khê, niềm vui lan tỏa
Nụ cười nở trên Việt Bắc, qua đèo De, qua núi Hồng.

Thêm vào đó, trong mười sáu câu thơ cuối của bài thơ, tác giả còn nhấn mạnh vai trò quan trọng của Việt Bắc trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Việt Bắc không chỉ là một địa danh, mà còn là biểu tượng của sự đoàn kết, của lòng yêu nước, là nguồn cảm hứng vô tận cho quân và dân ta trong cuộc chiến.

Nơi mọi lúc sợi sáng tương lai
Vẻ lấp lánh của Cụ Hồ soi sáng
Ở những nơi khó khăn, đau khổ
Vẫn nhìn về Việt Bắc để tìm niềm tin và sức mạnh.

Cuối cùng, hai câu kết thúc bài thơ lại một lần nữa khẳng định lòng trung thành với nhân dân, với đất nước cách mạng.

Nỗi nhớ về chúng ta mãi mãi
Mái nhà ấm áp ở Hồng Thái, cây đa Tân Trào.

Tóm lại, bài thơ dùng cặp từ nhân xưng “mình” – “ta” và cấu trúc đối đáp quen thuộc tạo nên một câu chuyện chia tay đầy xúc động giữa cán bộ và nhân dân Việt Bắc. Đây như một bản tình ca về cuộc kháng chiến chống Pháp và tình đoàn kết giữa con người trong cuộc chiến khó khăn đó. Đồng thời, qua đoạn trích, chúng ta hiểu hơn về phong cách thơ của Tố Hữu.

Du Lịch Việt Bắc - Sắc Hương Vùng Việt ...

Phân tích Việt Bắc (Mẫu 17)

Năm 1954, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, hoà bình được lập lại. Chủ tịch Hồ Chí Minh, trung ương Đảng, cán bộ, bộ đội rời Việt Bắc trở về Thủ đô Hà Nội. Trong không khí chia tay đầy nhớ thương lưu luyến giữa nhân dân Việt Bắc và những người cán bộ cách mạng, nhà thơ Tố Hữu đã sáng tác bài thơ “Việt Bắc”. Với tầm nhìn của một nhà thơ cách mạng, một nhà tư tưởng, Tố Hữu đã phản ánh sâu sắc hiện thực kháng chiến mười lăm năm của Việt Bắc và dự báo những diễn biến tư tưởng trong hoà bình.

Đoạn trích bài thơ “Việt Bắc” miêu tả cuộc chia li đầy thương nhớ lưu luyến giữa Việt Bắc và những người cán bộ kháng chiến và gợi lại những kỉ niệm kháng chiến anh hùng mà đầy tình nghĩa. Tác giả đã chọn thể thơ lục bát và lối hát đối đáp như trong ca dao dân ca và hình tượng hoá Việt Bắc và những người cán bộ kháng chiến là Ta – Mình. Cuộc chia li giữa nhân dân Việt Bắc và những người chiến sĩ cách mạng như là cuộc chia tay của một đôi bạn tình đầy bịn rịn, nhớ nhung, lưu luyến.

Mở đầu là lời của Việt Bắc. Để cho Việt Bắc – người ở lại – mở lời trước là rất tế nhị, vì trong chia tay thì người ở lại thường không yên lòng đối với người ra đi:

“Mình về mình có nhớ ta

Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng

Mình về mình có nhớ không

 Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?”

Bài thơ “Việt Bắc” có hai giai điệu chính. Câu thơ mở đầu “Mình về mình có nhớ ta” là giai điệu chính thứ nhất. Câu thơ mới đọc thoáng qua tưởng không có gì nhưng sâu sắc lắm. Một trăm cặp tình nhân chia tay cũng đều nói lời này. Tố Hữu mượn màu sắc của tình yêu mà phô diễn tình cảm cách mạng. Đại từ mình và ta đứng ở hai đầu câu thơ, đã thấy xa cách. Từ “nhớ” được điệp lại ba lần đã tạo ra âm hưởng chủ đạo của bài thơ: lưu luyến, nhớ thường, ân tình ân nghĩa. Người về lặng đi trước những câu hỏi nặng tình nặng nghĩa của Việt Bắc:

“Áo chàm đưa buổi phân li

 Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…”

Việt Bắc lại hỏi:

“Mình đi, có nhớ những ngày

Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù

Mình về, có nhớ chiến khu

 Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?”

Để cho Việt Bắc hỏi là một cách nhà thơ khơi gợi lại những ngày kháng chiến gian khổ. Chỉ vài hình ảnh “mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù” là khung cảnh rừng núi hiện lên ảm đạm trong những ngày đầu kháng chiến. Mình và Ta đã từng chịu chung gian khổ “miếng cơm chấm muối”, đã cùng chung lưng đấu cật để chống kẻ thù chung “mối thù nặng vai”.

Vẫn còn là lời hỏi của Việt Bắc, nhưng tứ thơ chuyển:

“Mình về, rừng núi nhớ ai

Trám bùi để rụng, măng mai để già.

Mình đi, có nhớ những nhà

 Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son”

Biện pháp tu từ nhân hoá “rừng núi nhớ ai” nói lên tình cảm thắm thiết của Việt Bắc với những người kháng chiến. Mình về thì núi rừng Việt Bắc trống vắng “Trám bùi để rụng, măng mai để già”. Quả trám (trám xanh và trám đen) và măng mai là hai món ăn thường nhật của bộ đội và cán bộ kháng chiến. Mượn cái thừa để nói cái thiếu, thật hay! Hình thức đối lập giữa cái bên ngoài (hắt hiu lau xám) và bên trong (đậm đà lòng son) biểu hiện chân thật cuộc sống lam lũ, nghèo đói của người dân Việt Bắc, nhưng trong lòng thì thuỷ chung son sắt với cách mạng.

Cuối lời Việt Bắc hỏi người về:

“Mình đi, mình có nhớ mình

 Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?”

Giai điệu chính thứ hai của bài thơ xuất hiện: “Mình đi, mình có nhớ mình”. Nếu giai điệu một là đạo lí của dân tộc với tư tưởng ân nghĩa thì giai điệu hai là cách mạng. Việt Bắc nhắn nhủ với người về là chẳng những “nhớ ta” mà còn phải “nhớ mình’, nói theo ngôn từ của tình yêu thì chẳng những phải “nhớ em” mà còn phải “nhớ anh” nữa. Cái “anh” mà hồi ở với em. Mình đã sống với Ta mười lăm năm, tình nghĩa biết mấy, anh hùng biết mấy! Mình với Ta viết lên những trang sử oai hùng của dân tộc “Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa”. Bây giờ xa cách, Mình về thành thị, nhớ đừng thay lòng đổi dạ với Ta, mà cũng đừng thay lòng đổi dạ với chính mình:

“Mình về thành thị xa xôi

Nhà cao, còn thấy núi đồi nữa chăng?

Phố đông, còn nhớ bản làng

 Sáng đèn còn nhớ mảnh trăng giữa rừng?”

Để cho Việt Bắc ướm hỏi dè chừng như vậy là một cách khéo léo nhà thơ Tố Hữu dự báo những diễn biến tư tưởng trong hoà bình.

“Mình đi, mình có nhớ mình”

Đó là câu thơ hay nhất của bài thơ “Việt Bắc” mà cũng là một sáng tạo tuyệt vời của Tố Hữu. Đón hết những lời ân tình ân nghĩa của Việt Bắc, bây giờ người về mới mở lời. Lời người về cũng chí tình chí nghĩa:

“Ta với mình, mình với ta

Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh,

Mình đi, mình lại nhớ mình

 Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu…”

Hai đại từ ta – mình cứ xoắn xuýt, quấn quýt “Ta với mình, mình với ta” thật là nồng nàn. Ý nghĩa lại không rạch ròi để rồi nhập lại làm một:

“Mình đi, mình lại nhớ mình”

(Trả lời cho câu hỏi: “Mình về mình có nhớ ta”)

Diễn ra ngôn ngữ của tình yêu là “Anh đi anh lại nhớ em”. Nỗi nhớ của người đi thật là dào dạt, nghĩa tình của người đi đối với Việt Bắc thật là bất tận “Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu”. Người đi trả lời như vậy hẳn làm yên lòng người ở lại – Việt Bắc.

Như vậy là biến tấu của giai điệu một đã hình thành và mở rộng đến vô cùng. Tất nhiên đấy chỉ là một thủ pháp để nhà thơ miêu tả mối quan hệ khăng khít giữa Việt Bắc và cách mạng, miêu tả lại bản anh hùng ca kháng chiến của quân dân Việt Bắc.

Để xua tan những hoài nghi của người ở lại, người về phải nói những lời thật nồng thắm, phải so sánh với những tình cảm cao quý nhất của con người:

“Nhớ gì như nhớ người yêu

 Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương”

Từ “nhớ” được điệp lại trùng trùng và mỗi từ lại gợi lên không biết bao nhiêu kỉ niệm thân thương giữa Ta với Mình. Những chi tiết nhỏ nhặt đã được hồi tưởng (mà cái nhỏ trong tình yêu chính là cái lớn).

“Thương nhau, chia củ sắn lùi

 Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng”

Con người Việt Bắc trong lòng người về mới đáng yêu đáng quý làm sao:

“Nhớ người mẹ nắng cháy lưng

 Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô.”

Một tiếng mõ trâu giữa rừng chiều, một tiếng chày đêm ngoài suối âm vang mãi trong lòng người ra về:

“Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều

 Chày đêm nện cối đều đều suối xa…”

Nói gọn lại là người về nhớ thiên nhiên Việt Bắc tươi đẹp, thơ mộng hữu tình(1); nhớ con người Việt Bắc giản dị, tình nghĩa, thủy chung.

 Từ giọng điệu anh hung ca. Cuộc kháng chiến anh hùng của ta và mình được tái hiện trong hòai niệm của người về:

“Nhớ khi giặc đến giặc lùng

Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây

Núi giăng thành lũy sắt dày

 Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù.”

Thiên nhiên Việt Bắc như có linh hồn là nhờ tác giả sử dụng phép nhân hóa. Núi rừng Việt Bắc tươi đẹp đã trở thành lũy sắt bảo vệ và che chở cho bộ đội “vây”, “đánh” quân thù. Mỗi một tên núi, tên sông, tên phố, tên bản là một chiến công lừng lẫy của quân dân Việt Bắc. Rồi những đêm hành quân, những đoàn dân công, những đoàn xe vận tải tấp nập sôi động:

“Những đường Việt Bắc của ta

Đêm đêm rầm rập như là đất rung

Quân đi điệp điệp trùng trùng

Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan

Dân công đỏ đuốc từng đoàn

Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.

Nghìn đêm thăm thẳm sương dày

 Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.”

Tác giả lại chuyển sang giọng điệu thơ trang trọng, thiêng liêng để diễn tả nỗi nhớ của người về đối với Trung ương Chính phủ – Cụ Hồ. Và hình ảnh của Việt Bắc trong trí nhớ của người về là quê hương cách mạng, là căn cứ địa kháng chiến, là niềm tin là hi vọng của cả dân tộc.

Người về cũng không quên trả lời câu hỏi gay cấn của Việt Bắc:

“Mình về mình lại nhớ ta

 Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào” (2)

(Trả lời cho câu hỏi “Mình đi mình có nhớ mình”)

Nghĩa là người về muốn nhắn nhủ với Việt Bắc là dù xa cách dù về thành thị xa xôi thì người các bộ kháng chiến năm xưa vẫn giữ gìn và phát huy phẩm chất tốt đẹp của người cán bộ cách mạng.

Như vậy là với biến tấu của giai điệu hai, tác giả đã khép lại phần một của bài thơ”Việt Bắc”. Và chủ đề chung thủy – chung thủy với cách mạng của bài thơ “Việt Bắc” đã đạt đến độ sâu sắc ngay trong phần một này.

“Việt Bắc” là một kiệt tác của Tố Hữu mà cũng là kiệt tác của thơ ca cách mạng, thơ ca kháng chiến. Bài thơ thể hiện tài hoa nhiều mặt của nhà thơ Tố Hữu. Thể thơ lục bát được tác giả phô diễn những tình cảm, tư tưởng mới mà vẫn đậm đà bản sắc dân tộc. Lối hát đối đáp tạo ra giai điệu phong phú cho bài thơ. Nhiều biện pháp tu từ được tác giả vận dụng khéo léo. Ngôn ngữ trong sáng, nhuần nhị, và có nhiều nét cách tân (đặc biệt là hai đại từ Ta – Mình). Tiếng nói yêu thương – nét nổi bật trong phong cách thơ Tố Hữu – không có bài nào thấm thía hơn “Việt Bắc”. Bài thơ còn thể hiện tư tưởng mới mẻ với những dự báo sáng suốt được biểu hiện bằng hình ảnh phong phú và tấu lên băng âm nhạc làm say mê lòng người.

Phân tích Việt Bắc (Mẫu 18)

Tố Hữu là một nhà thơ lớn trong nền văn học Việt Nam nói chung và trong mảng văn học cách mạng nói riêng, là lá cờ đầu của thơ ca cách mạng và kháng chiến. Ở Tố Hữu có sự thống nhất hài hòa giữa cuộc đời cách mạng và cuộc đời thơ. Chính vì vậy có thể nói rằng, qua các tác phẩm của ông, ta không chỉ thấy được thế giới tâm hồn tình cảm, thấy được phong cách nghệ thuật độc đáo của ngòi bút thơ Tố Hữu mà qua đó dường như nhà văn đã phản ánh một cách rõ nét nhất những dấu mốc lịch sử quan trọng xuyên suốt quá trình kháng chiến bảo vệ nền độc lập dân tộc, người đọc vì thế mà có thể thấy được trọn vẹn những trang sử vẻ vang của đất nước như những thước phim quay chậm. Cùng phân tích bài thơ Việt Bắc bạn sẽ rõ.

Bài thơ được sáng tác vào tháng mười năm 1954, ngay sau khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp vừa kết thúc thắng lợi, các cơ quan trung ương của Đảng và Chính phủ từ Việt Bắc – thủ đô gió ngàn của dân tộc trở về Hà Nội. Tố Hữu cũng là một trong những cán bộ kháng chiến từng sống và gắn bó với người dân và thiên nhiên Việt Bắc, nay trở về chia tay đầy ngậm ngùi và lưu luyến, nhà thơ xúc động viết nên bài thơ này.

Bài thơ được viết theo thể lục bát, thể thơ truyền thống của dân tộc mang âm hưởng nhẹ nhàng uyển chuyển thấm đẫm chất trữ tình của những câu ca dao. Trong cảm xúc lắng đọng ngậm ngùi của buổi chia li, việc sử dụng thể thơ này để biểu đạt tình cảm và hồi tưởng lại những kỉ niệm gắn bó với núi rừng Việt Bắc, người dân Việt Bắc là hoàn toàn hợp lí.

Tác giả mở đầu bài thơ bằng một loạt những câu hỏi tu từ:

Mình về mình có nhớ ta?

Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.

Mình về mình có nhớ không?

Nhìn cây nhớ suối nhìn sông nhớ nguồn.

Tiếng ai tha thiết bên cồn

Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi

Áo chàm đưa buổi phân li

Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…

Mình đi có nhớ những ngày

Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù

Mình về có nhớ chiến khu

Miếng cơm chấm muối mối thù nặng vai?

Mình về rừng núi nhớ ai

Trám bùi để rụng, măng mai để già

Mình đi có nhớ những nhà

Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son

Mình về còn nhớ núi non

Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh

Mình đi mình có nhớ mình

 Tân Trào, Hồng Thái mái đình cây đa?

Những kỉ niệm đó giờ đây chỉ còn là những kỉ niệm trong dòng kí ức… chầm chậm trôi… Những câu hỏi cứ nối tiếp nhau xuất hiện làm nên một điệp khúc thấm đẫm tâm trạng của nhân vật trữ tình. Cũng chính qua những dòng thơ này mà khung cảnh núi rừng Việt bắc đại ngàn hiện ra rõ nét nhất. Đó là núi non hùng vĩ, những con sông, những cơn mưa ào ạt đổ về nguồn mây mù khói tỏa… Nhưng giữa bức tranh đó nổi bật nhất chính là cuộc sống sinh hoạt và chiến đấu hết sức gian lao, khổ cực nhưng vô cùng gắn bó, đoàn kết, thắm tình nghĩa như những người con cùng chung một dòng máu giữa cán bộ kháng chiến và nhân dân Việt Bắc. Cuộc sống chiến đấu tuy vất vả và khó khăn nhưng nhờ có sự ủng hộ và nâng đỡ tinh thần của những con người chân chất nơi núi rừng đại ngàn đó nên tất cả đã trở thành những kỉ niệm đẹp đẽ không thể nào quên trong trái tim của hai phía.

Chân bước đi mà lòng còn ở lại…trái tim gắn bó hơn mười năm giờ đây một phần đã thuộc về đất, về người, về núi rừng nơi đây giờ phải chia xa làm sao cho nỡ. Người chiến sĩ bước đi trong ngậm ngùi thương nhớ. Những câu hỏi của đồng bào Việt Bắc không chỉ thể hiện được sự lưu luyến nuối tiếc mà còn như muốn khắc sâu hơn nữa những ngày tháng kỉ niệm đó.

Cách xưng hô “mình – ta” cũng là cách xưng hô rất gần gũi thân mật thể hiện sự gắn bó máu thịt giữa quân và dân, chính vì vậy mà lời thơ như lời tâm tình thủ thỉ, giọng thơ mang âm hưởng nhẹ nhàng mà đằm thắm thiết tha. Hình ảnh áo chàm trong câu thơ: “Áo chàm đưa buổi phân li…” là hình ảnh hoán dụ chỉ đồng bào Việt Bắc đang bịn rịn trong chia li. Bàn tay đan chặt bàn tay, người đi kẻ ở, họ không biết nói gì ngoài việc trao cho nhau những cái nắm tay nồng ấm. Cái bắt tay này ta cũng đã từng gặp trong thơ của Chính Hữu:

Áo anh rách vai

Quần tôi có vài mảnh vá

Chân không giày

 Thương nhau tay nắm lấy bàn tay…

Đúng, họ không có gì trao cho nhau giữa trời khuya lạnh giá ngoài tình đồng chí đồng đội keo sơn gắn bó. Cái bắt tay giản đơn thôi nhưng đã giúp người chiến sĩ vượt qua những khó khăn thiếu thốn của buổi đầu kháng chiến. Ở đây cái nắm tay này diễn ra trong bối cảnh chia li, chính vì vậy nó có ý nghĩa như một minh chứng cho tình cảm nồng thắm quân dân.

Trước tình cảm tha thiết cùng với sự bày tỏ nỗi nhớ nhung đặc biệt ấy, người chiến sĩ cũng dần trải lòng ra qua từng câu chữ:

Ta với mình, mình với ta

Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh

Mình đi mình lại nhớ mình

Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu

Nhớ gì như nhớ người yêu

Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương

Nhớ từng bản khói cùng sương

Sớm khuya bếp lửa người thương đi về

Nhớ từng rừng nứa bờ tre

Ngòi Thia sông Đáy, suối Lê vơi đầy

Ta đi ta nhớ những ngày

Mình đây ta đó đắng cay ngọt bùi….

Thương nhau chia củ sắn lùi

Bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng

Nhớ người mẹ nắng cháy lưng

Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô

Nhớ sao lớp học i tờ

Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan

Nhớ sao ngày tháng cơ quan

Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.

Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều

 Chày đêm nện cối đều đều suối xa…

Những kí ức như ào ạt dội về, mỗi kỉ niệm đều vô cùng rõ nét như mới diễn ra ngày hôm qua vậy. Người chiến sĩ đã khẳng định tấm lòng son sắt thủy chung, tình cảm dạt dào và nghĩa tình sâu nặng như nguồn nước trong mát đổ về bản làng. Người chiến sĩ còn nhớ đến vầng trăng tròn đầy sau những rặng núi xa sau bản, nhớ những vạt nắng vàng như màu mật đổ xuống những cánh đồng ruộng bậc thang ngào ngạt mùi lúa chín, nhớ những sáng tinh sương mịt mù trong mây và khói tỏa, nhớ từng dòng suối cánh rừng… Thiên nhiên núi rừng Việt Bắc lại một lần nữa hiện lên qua từng câu thơ hết sức hùng vĩ thơ mộng khiến cho ai đi xa mà chẳng nhớ về.

Anh còn thấy xao xuyến bồi hồi khi nhớ lại hương vị của củ sắn lùi, bắt cơm sẻ nửa tuy bình dị nhưng nồng thắm nghĩa tình. Hình ảnh người mẹ địu con lên rẫy làm việc là hình ảnh tiêu biểu cho phong trào nuôi quân của hậu phương nơi núi rừng Việt Bắc. Nhớ những lớp học i tờ, nhớ khúc hát ca vang rừng núi của đoàn dân quân… Những kỉ niệm ấy quả thực vô cùng đẹp đẽ và đã trở thành một phần máu thịt của anh. Chẳng cần những lời nói chia tay lưu luyến nhưng qua việc tái hiện lại một loạt các câu hỏi như thế ta cũng đủ thấy được tình cảm sâu đậm, sự gắn bó tha thiết giữa những người cán bộ và người dân.

Ta về mình có nhớ ta

Ta về ta nhớ những hoa cùng người

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng

Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang

Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình

Rừng thu trăng rọi hòa bình

 Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.

Chỉ qua một vài câu thơ mà nhà thơ đã tái hiện lại một cách chân thực và rõ nét nhất thiên nhiên Việt Bắc qua bốn mùa xuân hạ thu đông nhưng nhà thơ lại chọn miêu tả mùa đông trước phải chăng là những cán bộ chiến sĩ đến vào mùa đông và cũng ra đi vào mùa đông, mùa đông là mùa của gặp gỡ và chia phôi cho nên nó khắc sâu vào trong lòng người nhất. Mùa đông – mùa của những cánh rừng bạt ngàn màu xanh tươi mát, của những bông hoa chuối đỏ tươi. Con người hiện lên trong bức tranh thơ mộng đó đang trong tư thế sẵn sàng chinh phục tự nhiên: “Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”. Đông qua xuân về, bức tranh Việt Bắc lại khoác lên mình màu áo mới. Đó chính là sắc trắng tinh khiết của hoa mơ, con người trong lao động hết sức cần cù miệt mài. Thu về là những cánh rừng trắng xóa màu hoa mơ chuyển sang màu hổ phách cùng tiếng ve kêu như thúc giục lòng người. Hình ảnh người con gái Việt Nam hái măng một mình cũng thật thơ mộng làm sao. Kết thúc bức tranh bốn mùa là ánh trăng hòa bình cùng với những câu hát say đắm thủy chung.

Có thể nói rằng chỉ qua một vài câu thơ nhưng dòng chảy cuộc sống như đang ngưng tụ lại trên từng câu chữ. Con người và thiên nhiên Việt Bắc như là trung tâm trong bức tranh bốn mùa đó. Những nàng tiên đại diện cho sắc màu bốn mùa như đang lướt nhẹ trên những câu chữ vậy.

Sau những câu thơ miêu tả thiên nhiên người chiến sĩ nhắc đến những hoạt động cách mạng vô cùng sôi nổi của mình:

Nhớ khi giặc đến giặc lùng

Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây

Núi giăng thành lũy sắt dày

Rừng che bộ đội rừng vây quân thù

Mênh mông bốn mặt sương mù

Đất trời ta cả chiến khu một lòng

Ai về ai có nhớ không?

Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng

Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng

 Nhớ từ Cao Lạng nhớ sang Nhị Hà…

Những kí ức ùa về trong tâm trí là khi bộ đội đánh giặc. Khi quân giặc đến, không chỉ bộ đội ta mà cả núi rừng thiên nhiên hoang dã cùng đồng lòng đồng sức đánh giặc. Đối với quân và dân ta, rừng dang bàn tay âu yếm che chở và bảo vệ, những tán lá rừng xanh mát như một thứ ngụy trang khiến cho bộ đội yên lòng chiến đấu và chiến thắng quân thù. Còn đối với quân giặc, rừng lại như một vùng địa thế hiểm trở như một ma trận bao vây khiến chúng có thể rơi vào rất nhiều cạm bẫy. Khi ấy thiên nhiên núi rừng Việt Bắc đã góp phần làm nên chiến thắng, làm nên những trang sử vẻ vang của dân tộc.

Nhưng trên tất cả tình dân quân thể hiện rõ nhất trong đoạn thơ:

Những đường Việt Bắc của ta

Đêm đêm rầm rập như là đất rung

Quân đi điệp điệp trùng trùng

Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ man

Dân công đuốc đỏ từng đoàn

Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay

Nghìn đêm thăm thẳm sương dày

Đèn pha bật sáng như ngày mai lên

Tin vui chiến thắng trăm miền

Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về

Vui từ Đồng Tháp An Khê

 Vui lên Việt Bắc đèo De núi Hồng.

Khí thế của đoàn quân vô cùng mạnh mẽ được thể hiện thông qua hình ảnh so sánh “đêm đêm rầm rập như là đất nung”, qua những từ ngữ gợi hình gợi tả “điệp điệp trùng trùng”, qua hình ảnh hoán dụ ánh sao đầu súng và mũ nan – những hình ảnh biểu tượng cho bộ đội và những người dân Việt Bắc. Ngọn đuốc trên tay quân dân không chỉ thắp sáng lên cả bầu trời Việt Bắc khi ấy mà nó còn thắp lên cả những thế hệ, thắp lên tương lai, thắp lên niềm tin và hi vọng về một chiến thắng không xa. Sức mạnh của cả một đoàn quân khí thế đến nỗi có thể làm cho đá nát lửa bay không một thế lực nào có thể ngăn cản được. Bằng nghệ thật phóng đại cường điệu, nhà thơ Tố Hữu dường như đã tái hiện lại bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ để rồi giờ đây chỉ qua những dòng thơ ngắn gọn, ta như trở về với một thời hào hùng của cha ông. Giữa bóng tối vây quanh ngọn đèn pha như thắp lên niềm tin niềm hi vọng của quân dân về một tương lai tốt đẹp hơn.

Cuối cùng, sau những tháng ngày chiến đấu gian lao và khổ cực quân và dân ta đã giành được thắng lợi vô cùng vẻ vang. Hạnh phúc vỡ òa không từ ngữ nào có thể diễn tả. Từ Hòa Bình Tây Bắc hay Điện Biên, nhân dân như vui cùng một niềm hạnh phúc. Điều này chứng tỏ sự gắn bó máu thịt sự đoàn kết không thể nào phá rời của quân và dân ta khi đất nước gặp khó khăn.

Trong niềm thương nhớ nuối tiếc khi chia xa, nhà thơ cất lên những giai điệu hào hùng ca ngợi tổ quốc ca ngợi Đảng và Chính phủ Việt Nam:

Ai về ai có nhớ không?

Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang

Nắng trưa rực rỡ sao vàng

Trung ương, Chính phủ luận bàn việc công

Điều quân chiến dịch thu đông

Nông thôn phát động giao thông mở đường

Giữ đê, phòng hạn, thu lương

Gửi dao miền ngược, thêm trường các khu

Ở đâu u ám quân thù

Nhìn lên Việt Bắc cụ Hồ sáng soi

Ở đâu đau đớn giống nòi

Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền

Mười lăm năm ấy ai quên

Quê hương cách mạng dựng nên Cộng hòa

Mình về mình lại nhớ ta

 Mái đình Hồng Thái cây đa Tân Trào.

Ngày hôm qua ấy mãi ở trong lòng người chiến sĩ cách mạng, tồn tại như một phần kí ức không thể nào tách rời. Hình ảnh ngọn cờ sao vàng như một minh chứng cho những thắng lợi vẻ vang của dân tộc. Hình ảnh Bác Hồ như một biểu tượng tiếp thêm dũng khí và nghị lực cho quân dân ta tiếp tục chiến đấu và chiến thắng. Bác như tiếp thêm cho chúng ta ý chí lòng can đảm bởi chỉ có ý chí mới vượt qua được những chông gai thử thách và khó khăn đang đợi chờ phía trước.

Mình về thành thị xa xôi

Nhà cao còn thấy núi đồi nữa chăng?

Phố đông còn nhớ bản làng

Sáng đèn còn nhớ mảnh trăng giữa rừng?

Mình đi ta hỏi thăm chừng

 Bao giờ Việt Bắc tưng bừng thêm vui?

Lời thơ như lời băn khoăn day dứt khôn nguôi của người dân Việt Bắc đối với người chiến sĩ cách mạng trong giờ phút chia tay. Các hình ảnh hoán dụ như nhà cao, núi đồi, phố đông, sáng đèn, mảnh trăng giữa rừng là các hình ảnh tượng trưng cho cuộc sống nơi thành thị và nơi núi rừng. Đối lập giữa một bên là cuộc sống sung túc và đủ đầy và một bên là cuộc sống dân dã nghèo khổ nhưng đầy ắp kỉ niệm nơi núi rừng thiên nhiên, tác giả đã diễn tả sự băn khoăn trong lòng người dân rằng liệu hoàn cảnh sống thay đổi, những người cán bộ có thay lòng đổi dạ, có lãng quên quá khứ, lãng quên đi những con người đã cùng kề vai sát cánh trong những tháng ngày gian khó, đang ngày đêm nhớ nhung và mong chờ họ trở về thăm. Đáp lại, người cán bộ bày tỏ:

Đường về đây đó gần thôi

Hôm nay rời bản về nơi thị thành

Nhà cao chẳng khuất núi xanh

Phố đông càng giục chân nhanh bước đường

Ngày mai về lại thôn hương

Rừng xưa núi cũ yêu thương lại về

Ngày mai rộn rã sơn khê

 Ngược xuôi tàu chạy bốn bề núi giăng…

Người cán bộ cách mạng đã khẳng định tấm lòng son sắt thủy chung của mình: dù hoàn cảnh sống có thay đổi nhưng lòng luôn hướng về Việt Bắc, con tim luôn dạt dào nỗi nhớ và tình cảm dành cho con người và thiên nhiên nơi đây. Dù sống trong nhà cao nhưng sẽ không quên được những rặng núi xanh mát. Vào một ngày không xa họ sẽ trở về thăm lại bản làng, tình cảm lại trở về tươi mới vẹn nguyên như thuở ban đầu.

Trong những giây phút chia li cuối cùng, lời nhắn cuối cùng mà người dân Việt Bắc muốn nhắn nhủ là:

Mình về với Bác đường xuôi

Thưa giùm Việt Bắc không nguôi nhớ người

Nhớ ông Cụ mắt sáng ngời

Áo nâu túi vải đẹp tươi lạ thường

Nhớ Người những sáng tinh sương

Ung dung yên ngựa trên đường suối reo

Nhớ chân Người bước lên đèo

 Người đi rừng núi trông theo bóng Người.

Hình ảnh Bác lại một lần nữa hiện lên trong bài thơ. Chỉ có điều Bác hiện lên không phải như một biểu tượng đẹp tiếp thêm cho người chiến sĩ cách mạng ý chí và niềm tin, không phải là một biểu tượng cho sức mạnh đánh tan quân thù nữa mà Bác hiện lên trong những câu thơ này là một con người hết sức đời thường: mắt sáng ngời, áo nâu túi vải trong tư thế ung dung trên yên ngựa vào mỗi sáng tinh sương. Quả thật hình ảnh Bác hiện lên như một ông tiên trong những câu chuyện cổ, rất bình dị nhưng vẫn đẹp một cách phi thường. Giờ đây con người đó đã đi xa cả rừng núi như dõi theo từng bước đi của Người.

Kết thúc bài thơ là hai câu thơ với âm hưởng tươi sáng:

Cầm tay nhau hát vui chung

 Hôm sau mình nhé hát cùng thủ đô.

Hai câu cuối bài thơ mang âm hưởng tươi vui chính vì vậy mà dù đề tài có viết về cảnh chia tay nhưng không hề gây cho người đọc cảm giác buồn bã đau thương hay nuối tiếc mà trái lại vẫn tươi vui trong sáng, mở ra một tương lai huy hoàng, một viễn cảnh tương lai khi đất nước phát triển đi lên không ngừng. Khúc ca cuối bài khép lại bài thơ như là lời ngợi ca sức sống của Tổ quốc, cũng chính là khúc ca chia tay đầy tin tưởng.

Bài thơ Việt Bắc khép lại nhưng để lại trong lòng người đọc những dư vị khó phai. Có được thành công như vậy trước hết là phải kể đến những nét đặc sắc về nghệ thuật. Bài thơ mang tính dân tộc được thể hiện khá rõ xuyên suốt bài thơ. Thể thơ lục bát – một thể thơ quen thuộc trong dân gian được nhà thơ sử dụng hết sức thành công, âm hưởng nhẹ nhàng tinh tế in sâu vào tâm trí mỗi người. Chất văn xuôi cũng được đưa vào trong thơ và được vận dụng sáng tạo linh hoạt, những hình ảnh so sánh, những cách nói ví von cũng góp phần tạo nên giọng điệu của bài thơ.

Bài thơ Việt Bắc không chỉ tái hiện lại được không khí vào những năm kháng chiến chống Pháp mà còn đưa người đọc ngược dòng thời gian để tìm về với những nét đẹp trong tâm hồn người quân dân: vẻ đẹp của tấm lòng thủy chung son sắt, vẻ đẹp của sự đoàn kết gắn bó, rộng hơn nữa đó chính là ý thức trách nhiệm đối với Tổ quốc với nhân dân. Cũng từ đó mà ta thấy được tài năng và khả năng giao cảm tinh tế với cái đẹp của thiên nhiên, của con người Việt Bắc của Tố Hữu. Để làm được điều đó Tố Hữu đã trải qua một thời gian dài sống và gắn bó với người dân, với thiên nhiên núi rừng Việt Bắc.

Bài Việt Bắc của Tố Hữu cùng với những bài thơ khác cùng thời, cùng đề tài như Đồng chí của Chính Hữu, Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật, đã góp phần rất lớn vào trong chủ đề thơ ca cách mạng không những có tác dụng cổ vũ động viên tinh thần người chiến sĩ mà còn như những tấm gương phản chiếu về một thời đại vẻ vang của dân tộc, để cho thế hệ sau mãi tự hào từ đó mà càng thấy được.

Phân tích Việt Bắc (Mẫu 19)

Tố Hữu một hồn thơ dân tộc, một nhà thơ lớn trong nền văn học Việt nam. Có thể nói những tác phẩm của ông không chỉ thể hiện tư tưởng,lẽ sống của bản thân mình mà qua đó ta còn thấy được những sự kiện quan trọng của cách mạng nước nhà. Tháng 10- 1954 sau khi chiến thắng Điện Biên Phủ bộ đội ta phải chuyển lực lượng thủ đô và chia tay với chiến khu Việt bắc. Kẻ ở người đi lòng không khỏi nhớ thương nuối tiếc tình quân dân trong mười lăm năm khánh chiến. nhân sự kiện trọng đại cùng với tâm trạng nỗi niềm ấy Tố Hữu đã viết bài thơ Việt bắc.

Mở đầu bài thơ Việt bắc là cuộc chia tay của những người kháng chiến và những người dân nơi đây:

“Mình về mình có nhớ ta

Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.

Mình về mình có nhớ không

Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?

Tiếng ai tha thiết bên cồn

Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi

Áo chàm đưa buổi phân ly

Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay… ”

Tám câu thơ đầu là khung cảnh cũng như tâm trạng của cuộc chia tay. Bao giờ cũng vậy “Khi ta ở chỉ là nơi đất ở/ Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn”.

Sau bao nhiêu năm chung sống ở mảnh đất Việt bắc, sống trong tình quân dân chan hòa nồng thắm ấy thế mà nay những người chiến sĩ đành phải cất bước ra đi. Mảnh đất gắn bó như thế bây giờ cũng phải chia tay. Cặp xưng hô mình ta thể hiện sự gần gũi thân thiết của cản bộ và người dân. Cái tình cảm ấy giống như những người thân trong gia đình mình vậy. Bốn câu thơ đầu là lời của người ở, những người dân Việt bắc hỏi đầy lưu luyến rằng người chiến sĩ có còn nhớ mười lăm năm thiết tha mặn nồng ấy. Không biết rằng những người chiến sĩ về có còn nhớ không, nhớ con người, nhớ núi rừng nơi đây. Những người chiến sĩ cách mạng cũng như đáp lại những ân tình ấy. Trong lòng người chiến sĩ ấy cũng lưu luyến những kỉ niệm nơi đây không khác gì so với người dân. Các chiến sĩ như cảm nhận được sự tha thiết trong câu hỏi của những người dân ấy. Lòng các chiến sĩ bâng khuâng, bồn chồn không muốn bước. Có thể nói các từ láy ấy đã thể hiện phần nào cảm xúc trong lòng người chiến sĩ. Nghệ thuật hoán dụ với hình ảnh “áo chàm” chính là để chỉ người dân Viêt Bắc bịn rịn trong màu áo ấy đưa tiễn các chiến sĩ về với thủ đô. Kẻ ở người đi mà cầm tay nhau nhưng lại không biết nói lên điều gì. Có lẽ không cần nói mà cả hai đều biết được những ý nghĩa trong lòng nhau.

Thế rồi trong hoàn cảnh ấy toàn thể những con người ở lại cất lên lời nói để nhắc lại những kỉ niệm trong mười lăm năm thiết tha mặn nồng ấy:

“Mình đi, có nhớ những ngày

Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù

Mình về, có nhớ chiến khu

Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?

Mình về, rừng núi nhớ ai

Trám bùi để rụng, măng mai để già

Mình đi, có nhớ những nhà

Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son

Mình về, còn nhớ núi non

Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh

Mình đi, mình có nhớ mình

Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?”

Vẫn tiếng gọi mình thiết tha những người dân Việt bắc nhắc lại những ngày mưa nguồn suối lũ về, cả trời đất mây mù che kín. Khoảng khắc khó khăn ấy người dân luôn có những chiến sĩ kề bên. Hay người chiến sĩ kia về thì có nhớ đến chiến khu hay không, chiến khu ấy nghèo chỉ có cơm chấm muối thế nhưng nó tràn đầy những niềm yêu thương cưu mang đùm bọc của nhân dân nơi đây. Và trong hoàn cảnh chiến tranh khó khăn như thế miếng cơm chấm muối kia là đã quá đầy đủ rồi. Mối thù nặng vai người chiến sĩ, người dân như san sẻ gánh nặng ấy cho người chiến sĩ. Những người chiến sĩ về Hà Nội có còn nhớ đến rừng núi đất trời nơi đây. Và bây giờ trám bùi thì để rụng còn măng mai để già. Những gì của thiên nhiên Việt bắc vốn là để cho những chiến sĩ cách mạng thì giờ đây người đi những thứ ấy lại để rụng để già. Những từ nhớ như điệp đi điệp lại nhiều lần như vang vào trong lòng người những nhớ thương không muốn rời. Cặp xưng hô mình ta như biến hóa thành nhiều nghĩa, cứ lúc thì chỉ người ở lại nhưng lúc lại chỉ người ra đi. Điều đó thể hiện sự yêu thương gắn bó của những con người nơi đây với các anh chiến sĩ. Kẻ ở như thâu tóm cả thiên nhiên và con người Việt Bắc với những tình cảm của một tấm lòng son sắc không phai. Những địa danh được nhắc đến như chứng minh cho những trận chiến thắng mà các anh chiến sĩ đã lập nên tại đây.

Trước những lời chia tay thương nhớ thiết tha ấy, người chiến sĩ cách mạng cũng như trải lòng mình nói lên những tâm tư tình cảm gắn bó:

“Ta với mình, mình với ta

Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh

Mình đi, mình lại nhớ mình

Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu…

Nhớ gì như nhớ người yêu

Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương

Nhớ từng bản khói cùng sương

Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.

Nhớ từng rừng nứa bờ tre

Ngòi Thia sông Ðáy, suối Lê vơi đầy

Ta đi, ta nhớ những ngày

Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi…

Thương nhau, chia củ sắn lùi

Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng

Nhớ người mẹ nắng cháy lưng

Ðịu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô

Nhớ sao lớp học i tờ

Ðồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan

Nhớ sao ngày tháng cơ quan

Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.

Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều

Chày đêm nện cối đều đều suối xa… ”

Tố Hữu cũng học cách nói dân dã như chính những người nhân dân nơi đây vậy. Dù người chiến sĩ cách mạng ra đi thế nhưng trong lòng vẫn không thể nào quên được những kỉ niệm tình cảm ấy. Nghĩa tình giữa kẻ ở và người đi tựa như nước trong con suối kia vậy. Nó dào dạt ào ạt mãi mãi. Và những người chiến sĩ vẫn mãi đinh ninh một lời thề sắc son với người dân Việt Bắc. Từng kỉ niệm gắn bó như được thuật lại trong từng câu nói của người ra đi. Từ kỉ niệm về bát cơm thì sẻ nữa, chăn sui đắp cùng. Nhớ cả những người mẹ Việt Bắc với dáng hình địu con lên nương hái bắp. Một vẻ đẹp cần cù chịu thương chịu khó của nhân dân. Không những thế cả những giây phút cùng nhau học cái chữ quốc ngữ nữ. Đó là thái độ trật tự nghiêm túc của tất cả mọi người. Và những giờ liên hoan trong ánh đuốc lập lòe, những ngày tháng ấy như mãi khắc sâu vào trong tâm trí của người ra đi. Để mãi khi về đến thủ đô gió ngàn vẫn không sao quên tiếng mõ rừng chiều cùng chày đêm nện cối. Qua đây ta thấy được những tấm lòng của cả hai bên dành cho nhau vô cùng nồng ấm và tha thiết.

Các anh chiến sĩ lại kể tiếp về những hình ảnh thiên nhiên nơi đây hiện lên qua những lời kể ấy thật sự rất đẹp. Những câu thơ như vẽ lên một bức tranh tứ quý nơi đây, bốn mùa thiên nhiên hiện lên vô cùng đẹp:

“Ta về, mình có nhớ ta

Ta về ta nhớ những hoa cùng người

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.

Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang

Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình

Rừng thu trăng rọi hòa bình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung. ”

Có thể nói rằng xưng hô mình ta lại một lần nữa được thay đổi, Ta ở đây chính là những người chiến sĩ cách mạng. Còn mình chính là những người dân ở lại. Những người chiến sĩ ấy cũng đã hỏi những người ở lại rằng có nhớ họ không. Hỏi như thế nhằm thể hiện sự lưu luyến yêu thương với mảnh đất và con người ở đây. Không biết rằng họ có nhớ không còn những người chiến sĩ lại nhớ cả hoa cùng người. Hoa kia chính là để chỉ cho thiên nhiên Việt bắc. Sau câu hỏi và sự bày ỏ tình cảm của mình ấy những người chiến sĩ nhắc đến những cảnh vật và hoạt động của con người Việt Bắc gắn liền với bốn màu xuân hạ, thu, đông. Thế nhưng nhà thơ lại chọn miêu tả thiên nhiên và con người nơi đây vào mùa đông trước bởi vì họ đến đây vào mùa đông và ra đi cũng vào mùa đông. Mùa đông hiện lên với hình ảnh của những hình ảnh của rừng xanh và màu đỏ tươi của ho chuối. Con người hiện lên với vẻ đẹp kiên cường chinh phục tự nhiên. Đến mùa xuân thì cảnh Việt bắc hiện lên với hình ảnh hoa mơ trắng tinh khiết khắp rừng, con người thì hiện lên với vẻ đẹp của sự cần mẫn trong lao động. Mùa xuân qua đi mùa hè lại đến thiên nhiên được thay từ màu trắng hoa mơ thành màu vàng của rừng phách. Người con gái hái măng một mình. Đến mùa thu thiên nhiên lại ngập tràn trong ánh trăng rằm soi sáng. Người chiến sĩ nhớ đến những người nhân dân việt bắc với khúc hát ân tình thủy chung. Như vậy qua từng ấy câu thơ thiên nhiên và con người Việt bắc hiện lên thật đẹp như đang níu giữ bước chân người ra đi.

Thế rồi hàng loạt những địa danh gắn liền với những hoạt động cách mạng của những người chiến sĩ được nhà thơ liệt kê ra như để khắc sâu vào trong tâm thảm mỗi người chiến sĩ về tình quân dân đã làm nên chiến thắng vang dội:

“Nhớ khi giặc đến giặc lùng

Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây

Núi giăng thành lũy sắt dày

Rừng che bộ đội rừng vây quân thù

Mênh mông bốn mặt sương mù

Ðất trời ta cả chiến khu một lòng.

Ai về ai có nhớ không?

Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng

Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng

Nhớ từ Cao - Lạng nhớ sang Nhị Hà… ”

Chính thiên nhiên cũng như đang che chở cho những người con Việt nam. Những núi đá dựng thành chiến hào thành quách để che chở cho người chiến sĩ và nhân dân nơi đây khỏi những bom đạn của quân thù. Và khi ấy cả bộ đội cả dân quân đều cùng nhau làm nên lịch sử. Trên dưới một lòng quyết tâm đánh địch. Người về nhưng trong vẫn nhớ đến những khoảng khắc đánh trận và những địa danh kia.

Và thế rồi không ai bảo ai cả kẻ ở người đi đều nhớ đến những ngày ráo riết chuẩn bị hành quân cho cuộc chiến đấu chống lại chiến dịch của thực dân Pháp. Khi ấy chính là lúc tình quân dân thể hiện rõ nhất:

“Những đường Việt Bắc của ta

Ðêm đêm rầm rập như là đất rung

Quân đi điệp điệp trùng trùng

Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan

Dân công đỏ đuốc từng đoàn

Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.

Nghìn đêm thăm thẳm sương dày

Ðèn pha bật sáng như ngày mai lên.

Tin vui chiến thắng trăm miền

Hòa Bình, Tây Bắc, Ðiện Biên vui về

Vui từ Ðồng Tháp, An Khê

Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng. ”

Đó là cảnh hành quân của những người chiến sĩ và nhân dân Việt Bắc. Tất cả đồng lòng như một, Ánh sao để chỉ người chiến sĩ còn mũ nan chính là những người dân quân Việt bắc. Cả hai cùng đồng lòng trong chiến dịch Điện Biên Phủ. Những đoàn dân quân với những ngọn đuốc trên tay như soi sáng cả bầu trời Việt bắc. Ngọn đuốc ấy như một lý tưởng quyết tâm chiến đấu để bảo vệ đất nước đánh đuổi kẻ thù. Khí thế của tất thẩy với sức mạnh giống như là nát đá. Bằng biện pháp nghệ thuật phóng đại sức mạnh của nhân dân ta như được thể hiện rõ hơn. Nghìn đêm nhân dân ta phải sống trong cảnh khó khăn vất vả, cuộc sống khó khăn như đêm tối vậy. Thế rồi hình ảnh “đèn pha” bật sáng như lên thể hiện một niềm tin vào tương lai tươi sáng của những nhân dân ta. Họ đã sống trong khốn khổ để bật phá rũ bùn đứng dậy đấu tranh vì một niềm tin vào tự do hạnh phúc. Bọn giặc kia sẽ phải cút ra khỏi đất nước ta trả lại cho nhân dân ta một cuộc sống tự do và toàn vẹn lãnh thổ. Vậy là sau bao nhiêu khổ cực khó khăn nhân dân ta đã dành được chiến thắng. Tin vui ấy vui trăm mình. Từ Hòa Bình, đến Tây Bắc và Điện Biên cũng như chung vui với niềm chiến thắng ấy. Tất cả những địa danh ấy đều như thể hiện niềm vui của cả nước.

Để kết cho niềm vui lẫn niềm nhớ thương lưu luyến không muốn rời ấy nhà thơ cất lên những niềm tự hào về dân tộc. Đồng thời đó cũng là những giây phút nhớ về cảnh sinh hoạt đảng, biết bao nhiêu việc bàn luận ở hang động núi rừng:

Ai về ai có nhớ không?

Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang.

Nắng trưa rực rỡ sao vàng

Trung ương, Chính phủ luận bàn việc công

Ðiều quân chiến dịch thu đông

Nông thôn phát động, giao thông mở đường

Giữ đê, phòng hạn, thu lương

Gửi dao miền ngược, thêm trường các khu…

Ở đâu u ám quân thù

Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi

Ở đâu đau đớn giống nòi

Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền.

Mười lăm năm ấy ai quên

Quê hương cách mạng dựng nên Cộng hòa

Mình về mình lại nhớ ta

Mái đình Hồng Thái cây đa Tân Trào. ”

Ngày những người chiến sĩ trở về với miền xuôi nghe trong lòng vẫn bâng khuâng nhớ đến những ngày tháng cùng nhau kháng chiến. Những cuộc họp những niềm vui đều được thể hiện trong những câu thơ cuối này. Lá cờ đỏ sao vàng như chứng minh cho thắng lợi của nhân dân ta. Ở đâu còn rợp bóng quân thù thì ở đó có Đảng và Bác Hồ. Chính vì thế mà tất cả hãy trông về miền Bắc mà nuôi chí bền. Vì chỉ khi có chí mới làm nên được mọi việc, thắng trận ngay cả khi quân thù có đủ điều kiện hơn ta về mọi mặt. Mười lăm năm kháng chiến sẽ còn mãi trong lòng những người chiến đấu và cả nhân dân ở đây nữa. Bao nhiêu gian khổ là bấy nhiêu tình cảm.

Như vậy nhà thơ Tố Hữu đã thể hiện những tâm sự của mình nói riêng và của tất cả những chiến sĩ và nhân dân Việt bắc nói chung. Mười lăm năm kháng chiến với biết bao nhiêu kỉ niệm và giờ đây khi phải xa nhau thấy lòng mình thật muốn vỡ òa trong nức nở. Chân không muốn rời xa. Qua đây ta thấy được tình nghĩa đoàn kết keo sơn của con người Việt Nam mà cụ thể đó là tình quân dân. Để đạt được những thắng lợi trên mặt trận ấy thì không thể nào quên ơn những người nhân dân Việt Bắc được.

Phân tích Việt Bắc (Mẫu 20)

Tố Hữu là một nhà thơ lớn trong văn học Việt Nam, đặc biệt là trong văn học cách mạng. Trong các tác phẩm của ông, ta thấy được sự kết hợp giữa đời sống cách mạng và thơ ca. Ông phản ánh rõ những bước ngoặt lịch sử trong cuộc chiến bảo vệ độc lập dân tộc, tạo ra những tác phẩm độc đáo gợi lên những cảm xúc sâu lắng trong lòng người đọc.

Bài thơ được viết vào năm 1954, ngay sau khi cuộc chiến chống Pháp kết thúc. Tố Hữu, một trong những cán bộ tham gia kháng chiến, trở về từ Việt Bắc, nơi ông đã sống và làm việc, để viết về cuộc chia tay cảm xúc này.

Bài thơ được viết theo thể lục bát, một thể thơ truyền thống của Việt Nam, thể hiện tình cảm một cách uyển chuyển và sâu lắng. Việc sử dụng thể thơ này phản ánh chính xác cảm xúc và kỷ niệm của Tố Hữu về Việt Bắc.

Tác giả khởi đầu bài thơ bằng một chuỗi câu hỏi tĩnh lặng:

Mình về có nhớ ta?
Mười lăm năm vẫn đọng mặn mồ hương.
Mình đi có nhớ không?
Nhìn cây nhớ suối, dòng sông nhớ nguồn.
Tiếng ai thanh thả trong chiều mộng mị
Bồn chồn trong lòng, bước chân lẻ loi
Áo chàm đưa buổi chia li
Điều gì muốn nói trao đôi tay hôm nay…
Mình đi có nhớ những ngày
Mưa rừng suối lũ, mây sông mù
Mình về có nhớ chiến khu
Miếng cơm muối đắng, mối thù nặng vai?
Mình đi có nhớ những rừng núi
Trám lá bắt rụng, măng già
Mình về có nhớ những mái nhà
Đất trời lụa khói, lòng son đậm đà
Mình về còn nhớ núi non
Ký ức kháng Nhật, hồi còn Việt Minh
Mình đi mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa?

Những kỷ niệm ấy bây giờ chỉ là dòng kí ức… chậm rãi trôi… Những câu hỏi liên tiếp nhau tạo nên một giai điệu tràn ngập tâm trạng của nhân vật trầm lặng. Thông qua những câu thơ này, cảnh núi rừng Việt Bắc hiện ra sắc nét nhất. Đó là những ngọn núi hùng vĩ, những dòng sông, những trận mưa dồn dập ùa về, làn khói mù bay… Trong bức tranh ấy, cuộc sống và chiến đấu chật vật, khổ cực nhưng gắn bó, đoàn kết, tình thân như những dòng máu chung giữa cán bộ kháng chiến và nhân dân Việt Bắc. Cuộc sống chiến đấu mặc dù gian nan nhưng nhờ sự ủng hộ và đoàn kết của những con người chân chất ở núi rừng đại ngàn kia mà tất cả trở thành những kỷ niệm đẹp không thể nào quên trong lòng hai bên.

Bước đi nhưng lòng vẫn ở lại… trái tim gắn bó hơn mười năm giờ một phần đã thuộc về đất, về người, về núi rừng ở đây giờ phải chia xa thế nào mới là lòng. Người chiến sĩ bước đi trong nỗi nhớ thương. Những câu hỏi của người Việt Bắc không chỉ thể hiện sự lưu luyến mà còn muốn khắc sâu hơn những kỷ niệm ấy.

Cách sử dụng “mình – ta” là cách gọi rất thân mật thể hiện mối quan hệ máu thịt giữa quân và dân, từ đó lời thơ như lời thổ lộ tâm tư, giọng thơ mang dáng dấp nhẹ nhàng và chân thành. Hình ảnh áo chàm trong câu thơ: “Áo chàm đưa buổi chia li…” là hình ảnh ẩn dụ chỉ người Việt Bắc đang trong cảnh buồn bã khi chia tay. Bàn tay gắn chặt, người đi và người ở, họ không biết nói gì ngoài việc đưa tay cho nhau và cảm nhận sự ấm áp từ đôi bàn tay đó. Hành động này đã xuất hiện trong thơ của Chính Hữu:

Áo anh rách bờ vai
Quần tôi thấm đẫm một vài vết vá
Chân không vương giày
Thương nhau nắm chặt bàn tay nhau…

Đúng, giữa bóng đêm lạnh giá, họ không có gì để trao nhau ngoài tình đồng chí đồng đội sắt son. Cái bắt tay đơn giản ấy đã giúp người chiến sĩ vượt qua những gian khó ban đầu của cuộc chiến. Tại đây, việc nắm tay diễn ra trong bối cảnh chia ly, chứng tỏ tình đồng đội mạnh mẽ.

Trước tình cảm sâu lắng và nỗi nhớ đặc biệt, người chiến sĩ dần bày tỏ tấm lòng qua từng lời:

Ta và mình, mình và ta
Lòng ta đong đầy tình đồng chí đồng đội
Mình đi mình về, mình về mình nhớ
Nước nghĩa tình bấy nhiêu, nhớ bấy nhiêu
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng sáng trên đỉnh núi, nắng chiều trải bóng
Nhớ từng tia nắng trong sương
Bên bếp lửa, người thương trở về
Nhớ từng khu rừng, từng đám tre
Suối Lê, ngòi Thia, đầy nước trong lành
Ta đi ta nhớ, nhớ mỗi ngày
Mình ở đây, mình ở đó, niềm vui, nỗi buồn…
Chia nhau củ sắn, gối nửa chăn
Bát cơm chung, người ơi đắp nồi
Nhớ mẹ nắng cháy lòng
Mang con ra ruộng, bẻ từng bắp ngô
Nhớ lớp học, tiếng thầy trò
Đuốc sáng đêm, giờ liên hoan
Nhớ thời gian ở cơ quan
Cuộc sống khó khăn, tiếng ca vang núi đèo
Nhớ tiếng mõ vang cả buổi chiều
Chày đánh gạo, cối xay nước, suối xa…

Kí ức ùa về, mỗi chi tiết như còn nguyên trong tâm trí, như vừa xảy ra ngày hôm qua. Người chiến sĩ khẳng định lòng trung thành, tình đồng đội sâu nặng như nguồn nước trong mát đổ về làng. Họ nhớ đến vầng trăng tròn soi sáng sau những ngọn núi xa, nhớ những tia nắng vàng như mật ruồi xuống những cánh ruộng bậc thang, nhớ những buổi sáng trong mây và khói, nhớ từng dòng suối bên rừng… Thiên nhiên núi rừng Việt Bắc lại hiện lên trong từng câu thơ, khiến cho những ai đi xa cũng không quên được.

Anh vẫn cảm thấy xúc động và rộn ràng khi nhớ lại hương vị của củ sắn lùi, chia cơm sẻ nửa dù giản dị nhưng đong đầy tình thân. Hình ảnh người mẹ đang địu con ra rẫy là biểu tượng cho phong trào nuôi quân của hậu phương nơi núi rừng Việt Bắc. Nhớ những lớp học, nhớ tiếng hát vang rừng núi của đoàn dân quân… Những kỷ niệm đó thật sự tuyệt vời và đã trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống của anh. Dù không cần lời nói chia tay nhưng qua việc tái hiện một loạt câu hỏi như thế, chúng ta cũng có thể cảm nhận được tình cảm sâu lắng, sự gắn bó chặt chẽ giữa những người cán bộ và nhân dân.

Ta về mình còn nhớ ta
Ta về nhớ hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ thắm
Đèo cao nắng rọi gắn lưng
Xuân tới rừng trắng hoa nở
Nhớ người đan nón từng sợi giang
Vẻo kêu rừng ngút vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ tiếng hát ân tình thủy chung.

Chỉ qua một vài câu thơ, nhà thơ đã tái hiện một cách chân thực và rõ ràng nhất thiên nhiên Việt Bắc qua bốn mùa xuân hạ thu đông. Tuy nhiên, ông lại chọn miêu tả mùa đông trước hết, có lẽ bởi vì đó là mùa mà các chiến sĩ đến và rời đi, là mùa của gặp gỡ và chia ly, nên nó ảnh hưởng sâu sắc nhất. Mùa đông - mùa của những cánh rừng xanh tươi mát, của những bông hoa chuối đỏ rực. Con người hiện lên trong bức tranh mơ màng, sẵn sàng chinh phục tự nhiên: “Đèo cao nắng rọi gắn lưng”. Đông qua xuân về, bức tranh Việt Bắc lại khoác lên mình sắc trắng tinh khôi của hoa mơ, con người trong lao động cần cù và miệt mài. Thu về là những cánh rừng trắng mịn, màu hoa mơ biến thành màu hổ phách cùng với tiếng ve kêu như đang thúc giục trái tim con người. Hình ảnh cô gái Việt hái măng một mình cũng thật đẹp đẽ và mơ mộng. Kết thúc bức tranh bốn mùa là ánh trăng thanh bình cùng với những câu hát trung thành và say đắm.

Có thể nói rằng chỉ qua một vài câu thơ, dòng chảy cuộc sống như dừng lại trên từng dòng chữ. Con người và thiên nhiên Việt Bắc như là trung tâm của bức tranh bốn mùa ấy. Những nàng tiên biểu trưng cho màu sắc của bốn mùa như lướt nhẹ trên những dòng chữ.

Sau những câu thơ miêu tả về thiên nhiên, người chiến sĩ nhắc đến những hoạt động cách mạng sôi nổi của mình:

Khi nhớ lại những lúc giặc xâm lược
Rừng núi Việt Bắc chúng ta cùng chiến đấu với quân xâm lược
Núi che chở bằng thành lũy sắt dày
Rừng là nơi bộ đội ta che chở, bao vây quân thù
Mênh mông sương mù khắp nơi
Trên đất Việt Bắc, chúng ta chiến đấu một lòng
Người về có nhớ không?
Chúng ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng
Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng
Nhớ từ Cao Lạng sang Nhị Hà…

Kí ức về những trận đánh với giặc lại ùa về trong tâm trí. Khi kẻ thù xâm nhập, không chỉ bộ đội mà cả núi rừng hoang dã cũng đoàn kết đánh giặc. Đối với quân và dân ta, rừng là bàn tay che chở và bảo vệ, những tán lá xanh mát như một bức tường ngụy trang giúp bộ đội an tâm chiến đấu và đánh bại quân thù. Nhưng đối với quân địch, rừng là một mê cung nguy hiểm, một vùng đất khó khăn khiến chúng dễ bị bắt giam. Thiên nhiên núi rừng Việt Bắc đã đóng góp vào chiến thắng và viết nên những trang sử hào hùng của dân tộc.

Nhưng trên hết, tình đoàn kết của quân dân được thể hiện rõ nhất trong đoạn thơ này:

Nhớ những con đường Việt Bắc của chúng ta
Đêm đêm sôi động như đất rung
Quân điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ non
Ngọn lửa dân công đuốc đỏ
Bước chân gãy vụn, lửa bay khắp nơi
Hàng nghìn đêm sương dày đặc
Đèn pha chiếu sáng như ngày mai
Tin vui chiến thắng tràn ngập
Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui mừng
Vui từ Đồng Tháp An Khê
Vui lên Việt Bắc qua đèo De đến núi Hồng.

Sức mạnh của quân đội được thể hiện mạnh mẽ qua hình ảnh “đêm đêm sôi động như đất rung”, “điệp điệp trùng trùng”, “ánh sao đầu súng bạn cùng mũ non” - hình ảnh biểu tượng cho quân đội và nhân dân Việt Bắc. Ngọn lửa dân công không chỉ chiếu sáng cả bầu trời Việt Bắc mà còn chiếu sáng cho tương lai, niềm tin và hy vọng vào một chiến thắng sắp tới. Sức mạnh của một quân đội có thể làm cho đá nát, lửa bay, không có sức lực nào có thể ngăn cản. Từ những dòng thơ ngắn gọn, ta lại được chứng kiến một trang sử hào hùng của dân tộc, một thời kỳ vĩ đại đã qua nhưng vẫn sống mãi trong tâm trí và lòng người.

Cuối cùng, sau những tháng ngày gian khổ và chiến đấu, quân dân ta đã giành được chiến thắng vẻ vang. Hạnh phúc tràn đầy không thể diễn tả bằng lời. Từ Hòa Bình Tây Bắc hay Điện Biên, mọi người như hòa mình trong niềm vui. Điều này chứng tỏ sự đoàn kết của quân dân khi đất nước gặp khó khăn.

Khi chia xa, niềm thương nhớ nuối tiếc, nhà thơ hát vang lên bài ca về tổ quốc, Đảng và Chính phủ Việt Nam:

Ai về có nhớ không?
Ngọn cờ đỏ gió lồng cửa hang
Nắng trưa rực rỡ sao vàng
Trung ương, Chính phủ bàn việc công
Điều quân chiến dịch thu đông
Nông thôn phát động giao thông mở đường
Giữ đê, phòng hạn, thu lương
Gửi dao miền ngược, thêm trường các khu
Ở đâu u ám quân thù
Nhìn lên cụ Hồ sáng soi
Ở đâu đau đớn giống nòi
Trông về Việt Bắc nuôi chí bền
Mười lăm năm ấy ai quên
Quê hương cách mạng dựng nên Cộng hòa
Mình về lại nhớ quê nhà
Mái đình Hồng Thái cây đa Tân Trào.

Những ngày qua vẫn còn mãi trong lòng người chiến sĩ cách mạng, như một phần ký ức không thể nào quên. Hình ảnh ngọn cờ sao vàng là minh chứng cho chiến thắng vẻ vang của dân tộc. Hình ảnh Bác Hồ là biểu tượng của sức mạnh và nghị lực cho quân dân tiếp tục chiến đấu và chiến thắng. Bác Hồ truyền cho chúng ta ý chí và lòng can đảm, vượt qua mọi khó khăn thử thách.

Về thành thị xa xôi
Nhà cao còn thấy núi đồi không?
Phố đông còn nhớ bản làng
Sáng đèn còn nhớ mảnh trăng giữa rừng?
Chúng ta đi, liệu có nhớ
Bao giờ Việt Bắc lại vui?

Lời thơ phản ánh sự băn khoăn, day dứt của người dân Việt Bắc khi phải chia xa người chiến sĩ cách mạng. Các hình ảnh như nhà cao, núi đồi, phố đông, sáng đèn, mảnh trăng giữa rừng tượng trưng cho cuộc sống thành thị và núi rừng. Tác giả diễn tả sự băn khoăn liệu hoàn cảnh sống thay đổi, những người cán bộ có quên đi những người đã cùng gắn bó trong thời gian khó khăn. Trong khi đó, người cán bộ khẳng định:

Đường về đây gần thôi
Hôm nay rời bản về thành phố
Nhà cao vẫn nhìn thấy núi xanh
Phố đông cứ thúc giục bước chân
Ngày mai trở lại quê hương
Rừng xưa núi cũ gợi nhớ
Ngày mai sơn khê rộn ràng
Ngược xuôi tàu chạy khắp núi đèo…

Người cán bộ cách mạng khẳng định tấm lòng son sắt thủy chung: dù sống trong nhà cao nhưng vẫn nhớ những rặng núi xanh mát. Họ sẽ trở về thăm lại bản làng, tình cảm vẫn nguyên như ban đầu.

Trong giây phút chia ly cuối cùng, lời nhắn cuối cùng của người dân Việt Bắc là:

Mình về với Bác trên đường
Thưa Việt Bắc không nguôi nhớ
Nhớ ông Cụ mắt sáng ngời
Áo nâu túi vải tươi thường
Nhớ Người sáng tinh sương
Ung dung yên ngựa trên đường suối reo
Nhớ chân Người bước lên đèo
Người đi rừng núi trông theo bóng Người.

Trong bài thơ, hình ảnh Bác không chỉ là biểu tượng của niềm tin và sức mạnh, mà còn là hình ảnh của một con người đời thường, một ông tiên bình dị với áo nâu túi vải, mắt sáng ngời trên yên ngựa sương sớm. Bây giờ, người ấy đã đi xa, nhưng vẫn theo dõi từng bước đi của Người.

Bài thơ kết thúc với hai câu thơ mang ý nghĩa tươi sáng:

Cầm tay nhau hát vui chungHôm sau hãy cùng hát với thủ đô.

Mặc dù đề cập đến cảnh chia tay, nhưng bài thơ vẫn tràn đầy sự tươi vui, mở ra một tương lai huy hoàng cho đất nước. Khúc ca cuối như là lời ca ngợi sức sống của Tổ quốc và là lời chia tay đầy tin tưởng.

Bài thơ để lại những ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc với nghệ thuật sắc sảo. Thể thơ lục bát và chất văn xuôi được vận dụng linh hoạt, tạo nên giọng điệu đặc biệt của bài thơ.

Bài thơ Việt Bắc không chỉ tái hiện không khí kháng chiến chống Pháp mà còn đưa người đọc trở về với tấm lòng son sắt, lòng đoàn kết và trách nhiệm đối với Tổ quốc. Tố Hữu đã giao cảm tinh tế với vẻ đẹp của thiên nhiên và con người Việt Bắc.

Bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu, cùng với những tác phẩm khác, như Đồng chí của Chính Hữu, Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật, đã cổ vũ tinh thần người chiến sĩ và là tấm gương về vẻ vang của dân tộc.

Những điểm đến nên làm thương hiệu của ...

Phân tích Việt Bắc (Mẫu 21)

Đất nước Việt Nam đã trải qua những năm kháng chiến, với những người dân đã âm thầm đóng góp tinh thần qua lời thơ, lời văn. Trong số các tác phẩm đó, có bài thơ 'Việt Bắc' của Tố Hữu. Đây là một biểu hiện chân thành trong buổi chia tay đầy lưu luyến giữa nhân dân Việt Bắc và các cán bộ cách mạng.

Các tác phẩm lớn của Tố Hữu thường được viết vào những giai đoạn quan trọng của lịch sử cách mạng Việt Nam. 'Việt Bắc' - một kiệt tác của Tố Hữu, cũng được sáng tác vào một thời điểm quan trọng của đất nước.

Tố Hữu không chỉ là một nhà thơ mà còn là một chiến sĩ. Ông sáng tác thơ với mục đích cao cả, vì sự nghiệp của dân tộc, của Đảng. Thơ của ông thường thể hiện sự sống lớn, tình yêu của dân tộc và cách mạng. Tinh thần trong thơ của Tố Hữu luôn hướng về nhân dân, về cách mạng, về sự hào hùng lịch sử của dân tộc.

Năm 1954, sau khi chiến thắng cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, hoà bình được thiết lập. Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng trung ương Đảng và bộ đội đã rời Việt Bắc, quay về Thủ đô Hà Nội. Trong không khí chia tay đầy nhớ nhung giữa nhân dân và cán bộ cách mạng, nhà thơ Tố Hữu đã sáng tác bài thơ 'Việt Bắc'.

Bài thơ 'Việt Bắc' được Tố Hữu viết vào tháng 12 năm 1945, nhân dịp trung ương Đảng và Chính phủ rời chiến khu, trở về thủ đô Hà Nội. Đây là một trong những tác phẩm cao nhất của thơ Tố Hữu, đồng thời cũng là một thành tựu quan trọng, đóng góp to lớn cho thơ ca kháng chiến chống Pháp.

Qua việc phân tích bài thơ 'Việt Bắc', chúng ta có thể nhìn thấy sự gắn bó thân thiết giữa những người ra đi và những người ở lại, giữa miền xuôi và miền ngược, giữa những người cán bộ và thủ đô kháng chiến, với nhân dân ở Việt Bắc.

Với tầm nhìn của một nhà thơ cách mạng, một nhà tư tưởng, Tố Hữu đã sâu sắc phản ánh hiện thực của mười lăm năm kháng chiến ở Việt Bắc và dự báo những diễn biến tư tưởng trong thời gian hòa bình.

Tình yêu thiên nhiên, đất nước trong bài thơ 'Việt Bắc' của Tố Hữu được thể hiện một cách sâu sắc qua sự gắn bó với núi rừng của Việt Bắc trong suốt những năm tháng chiến đấu với nhân dân nơi đây. Một tình cảm gắn bó thân thiết như những người con của vùng đất này.

Nỗi nhớ trong tâm trí của tác giả là nỗi nhớ của một người cán bộ sắp phải rời xa Việt Bắc, quay về phía Nam. Hình ảnh của Việt Bắc hiện lên rất mộc mạc nhưng đã ôm trọn nỗi nhớ trong lòng của Tố Hữu.

Hình ảnh 'Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương', những bức tranh về bản làng mờ mờ trong sương khói, ánh lửa ấm áp chiếu sáng trong đêm, hay 'rừng nứa bờ tre, ngòi Thia, sông Đáy', tiếng 'Chày đêm nện cối đều đều suối xa'... tất cả những nét đẹp bình dị của một vùng rừng núi hoang vắng nhưng vẫn đong đầy tình thương, đặc biệt là những trái tim con người ở đây khiến Tố Hữu nhớ mãi, mang trong mình nhiều ý nghĩa nhất.

Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.

Tố Hữu sử dụng thành công lối đối đáp 'ta', 'mình'. 'ta về mình có nhớ ta. Ta về ta nhớ những hoa cùng người'. Nỗi nhớ không phai mờ, không dễ xóa nơi mà đã từng gắn bó, yêu thương với bao kỷ niệm, cùng dân sống và đấu tranh. Ấn tượng của tác giả về con người Việt Bắc luôn chăm chỉ trong lao động, trung thành trong tình bạn.

Thiên nhiên Việt Bắc được Tố Hữu phản ánh rất sâu sắc, với cảnh đẹp phong phú, đa dạng, thay đổi theo từng mùa. Đi kèm với cảnh đó là những con người đơn giản, làm ruộng, trồng cây sắn... Nhưng tất cả đều đóng góp, hợp sức để tạo nên một sức mạnh lớn mạnh mẽ, góp phần xây dựng cuộc chiến tranh kháng chiến.

Trong ký ức của Tố Hữu, Việt Bắc hiện lên với hình ảnh những căn nhà 'hắt hiu lau xám, đậm đà tình son', hình ảnh của người mẹ 'đứng ôm con đi rẫy bẻ từng bắp ngô'.

Thương nhau, chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng.

Câu thơ trữ tình vang lên tạo nên sự đằm thắm gắn bó giữa tình đồng chí và nhân dân.

Những hình ảnh chiến đấu hào hùng, những hoạt động sôi nổi, tinh thần sục sôi chiến đấu âm vang trong những câu thơ trong phân tích bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu đậm chất sử thi đã miêu tả một cách hùng tráng.

Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.

Một dân tộc đã vượt qua bao gian khó hi sinh đã tạo nên những chiến công, kỳ tích: Phù Thông, đèo Giàng, sông Lô, Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên…Tố Hữu đã đi sâu vào để giải thích cội nguồn sức mạnh chung một lòng để giành những thắng lợi vẻ vang ấy.

Đây là sức mạnh toàn dân, toàn quân trong cuộc kháng chiến, sự liên kết chặt chẽ giữa con người và thiên nhiên:

Nhớ lúc kẻ thù tới tấn công
Rừng cây núi đá ta cùng đấu tranh
Thành lũy sắt dày trên Tây Núi
Rừng che khu vực quân đội, rừng vây quân thù
Sương mù bao phủ khắp nơi
Trên trời dưới đất, tất cả hướng chiến khu đều cùng lòng.

Bằng những từ ngữ trang trọng và chân thành, Tố Hữu đã nhấn mạnh hình ảnh và vai trò quan trọng của Việt Bắc trong cuộc cách mạng. Nơi này như một quê hương, nơi chiến khu đã nuôi dưỡng một sức mạnh vững mạnh trong cuộc kháng chiến kiên cường của dân tộc ta:

Khi ta về, ta có nhớ núi non
Nhớ thời còn chiến đấu với Nhật, thời Việt Minh
Khi ta đi, ta vẫn nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái nhà, cây đa nào?

Những câu thơ chứa đựng tình cảm sâu sắc, lời ca dao về lòng yêu nước. Trong cuộc kháng chiến vĩ đại ấy, đã có Chủ tịch Hồ Chí Minh soi sáng, đã có trung ương và chính phủ thảo luận về công việc cùng nhau, đã có những con người tài năng, những lý tưởng cao đẹp, những con đường đúng đắn, minh bạch đã tạo ra chiến thắng vẻ vang ấy.

Ở nơi nào cảm xúc đau đớn như con người Việt Bắc
Nhìn về hướng Việt Bắc để nuôi lên tinh thần kiên định
Mười lăm năm ấy, ai có thể quên được
Quê hương của Cách mạng đã xây dựng nên Cộng hòa

Từ tình yêu sâu đậm với Việt Bắc, Tố Hữu đã đặt niềm tin mạnh mẽ vào một tương lai tươi sáng, vào sức mạnh của toàn bộ nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ. Nhà thơ đã tạo ra một bức tranh rực rỡ về dân tộc:

Ngày mai sẽ rộn ràng khắp sơn cước
Con tàu lướt trên dòng, khắp mọi nơi mạng lưới được dựng lên
Than Phấn Mễ, sông Cao Bằng nổi tiếng

Những hình ảnh này là ước mơ, khát vọng không chỉ của những người lính kháng chiến mà còn của toàn bộ nhân dân. Tác giả không quên những điều truyền thống khi tạo ra cái mới, luôn nhớ đến sự liên kết giữa miền dưới và miền trên.

Khi ta trở về thành phố xa lạ
Có còn nhìn thấy dãy núi xa xa không?
Trong đám đông, có còn nhớ về quê hương?
Khi đèn sáng, có còn nhớ về ánh trăng giữa rừng?

Đây cũng là cách tác giả muốn nhắc nhở đừng để sự thay đổi của môi trường khi trở về thủ đô làm cho ta quên đi nghĩa tình xưa. Những bài thơ của Tố Hữu vẫn giữ nguyên những giá trị đó cho đến ngày nay.

Hai câu thơ tạo ra sự tương phản giữa bóng tối và ánh sáng: trong khi câu trên miêu tả bóng tối đen tăm của cuộc sống nô lệ dưới thời đô hộ của kẻ thù, câu dưới lại toả sáng niềm tin vào một tương lai tươi sáng, chiến thắng vẻ vang. Thực tế, trong đoạn thơ này, Tố Hữu sử dụng một hệ thống từ chỉ ánh sáng như ánh sao, đỏ đuốc, lửa bay, để tương phản với một hệ thống từ chỉ bóng tối như đêm đêm, nghìn đêm, thăm thẳm – với xu hướng ánh sáng lấn át bóng tối, tác giả có ý muốn nêu bật sự mạnh mẽ của dân tộc ta trước mọi kẻ thù tối tăm, đồng thời khẳng định rằng những ngày sáng sủa, hạnh phúc sẽ đến với dân tộc ta.

Có những tác phẩm văn học chỉ mô tả một phần nhỏ cuộc sống hoặc một nhân vật cụ thể, nhưng với bài thơ Việt Bắc, chúng ta thấy được toàn bộ hình ảnh của dân tộc Việt Nam. Cả bài thơ như một bản nhạc nhẹ nhàng, tha thiết, viết ra như một khúc tình ca và trường ca cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, về những con người hy sinh vì độc lập tự do của đất nước. Qua bài thơ Việt Bắc, tác giả cũng thể hiện tấm lòng của mình với người dân Việt Bắc, những cán bộ cách mạng tận tụy vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. Bài thơ cũng nhắc nhở thế hệ trẻ phải nhớ công ơn của những anh hùng dân tộc, những trang sử hào hùng đầy máu và nước mắt.

Phân tích Việt Bắc (Mẫu 22)

Văn học kháng chiến đến ngày nay vẫn chiếm một vị trí quan trọng đối với nền văn học Việt Nam. “Việt Bắc” của Tố Hữu được đánh giá là tác phẩm đồ sộ, nhiều ý nghĩa sâu sắc, là tiếng nói của quân dân ta trong kháng chiến trường kỳ. Phân tích Việt Bắc, ta sẽ thấy được tình cảm sắt son, đoàn kết một lòng của nhân dân qua ngòi bút tài hoa, trữ tình của tác giả.

Tố Hữu là nhà thơ hiện đại lớn, được mệnh danh là ngọn cờ đầu của phong trào thơ Cách mạng Việt Nam. Cuộc đời nghệ thuật của ông luôn song hành cùng những chặng đường Cách mạng của dân tộc, khiến thơ ông mang tính biên niên sử, hào hùng nhưng vẫn vô cùng sâu sắc. Lời thơ Tố Hữu giản dị, ấm áp nhưng đậm chất chính trị.

Bài thơ “Việt Bắc” sáng tác sau khi chiến thắng thực dân Pháp, là một trong những tác phẩm nổi bật nhất của Tố Hữu. Trong đầu những năm 40 của thế kỉ trước, Việt Bắc là căn cứ địa quan trọng của cuộc chiến. Nơi đây, nhân dân ta cùng với các chiến sĩ cùng sống, đùm bọc và chiến đấu. Đến năm 1954, sau chiến thắng vang dội, Trung ương Đảng và Chính phủ rời căn cứ địa Việt Bắc về Hà Nội. Nhân sự kiện trọng đại ấy của dân tộc, tác giả Tố Hữu đã sáng tác bài thơ “Việt Bắc”. Thông qua lời thơ, tác giả đã gợi lại tình quân dân thắm thiết, ân tình và sâu nặng trong cuộc kháng chiến, là tiếng lòng của quân dân ta trong máu lửa, gian lao.

Trước hết, tác giả đưa ra lời của người ở lại, là tiếng lòng của nhân dân Việt Bắc khi cán bộ, chiến sĩ về xuôi. Với thể thơ lục bát, lời thơ như tâm tình, thủ thỉ, lưu luyến không thôi:

“Mình về mình có nhớ ta

Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng

Mình về mình có nhớ không

 Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn”

Phân tích Việt Bắc để thấy những câu thơ chính là tâm trạng của người ở lại trong sự níu kéo và tiếc nuối khi phải chia xa. Họ phải xa những người chiến sĩ Cách mạng đã bao nhiêu năm gắn bó. Tác giả sử dụng hai đại từ xưng hô “ta” và “mình” vô cùng khéo léo. Nó đã thể hiện sự gắn bó khăng khít, son sắt và chung thủy của cán bộ và nhân dân. Ở đây, Tố Hữu đưa ra quãng thời gian cụ thể là “mười lăm năm ấy”. Đó là quãng thời gian rất dài, gắn liền với cuộc đấu tranh ác liệt của quân và nhân dân ta với thực dân Pháp tàn bạo. Đó cũng chính là quãng thời gian mà tình cảm giữa quân và dân vô cùng tha thiết, mặn nồng. Giờ đây, cả người ra đi và người ở lại tràn ngập nỗi nhớ thương, nhìn đâu đâu cũng thấy bóng dáng của những điều xưa cũ, còn vẹn nguyên và tinh khôi ở trong lòng. Tố Hữu dường như đã gieo vào lòng người đọc cái cảm giác vấn vương một cách lạ lùng.

Tâm trạng quyến luyến, bịn rịn của người ở lại khiến cho người ra đi không khỏi bồn chồn. Dường như không ai muốn rời bước chân đi:

“Tiếng ai tha thiết bên cồn

Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi

Áo chàm đưa buổi phân li

 Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”

Những lời tâm tình, thủ thỉ của người ở lại đã khiến cho người về xuôi không đành lòng bước đi. Những lời tâm sự ấy giờ đây khiến những thương nhớ và kỉ niệm như chực trào, không thể nào quên. Tất cả tâm trạng ấy được tác giả gói gọn trong hai từ “bâng khuâng”. Nó như dùng dằng, níu kéo chẳng muốn bước đi, lại như nỗi buồn man mác khi nghĩ tới cảnh chia xa. Cảm xúc ấy khó mà có thể diễn tả bằng lời một cách dễ dàng.

Lúc này đây chính tâm trạng của người ra đi và người ở lại đều không thể lý giải được là tại sao lại như vậy. Phải chăng tình yêu đã quá lớn và kỉ niệm đã quá đầy để có thể quay mặt bước đi. Suốt 15 năm sống và gắn bó với mảnh đất nơi đây, đồng đội và đồng bào đã phải trải qua bao nhiêu cay đắng, ngọt bùi, san sẻ cho nhau từng bữa cơm giấc ngủ. Những năm tháng gian khổ ấy đâu chỉ kể với nhau trong vài câu chữ như thế này, nhưng chính câu chữ đã khiến cho cảm xúc tràn ra, không thể thôi nhớ và thôi mong. Người ra đi đã đáp trả lại tình cảm người ở lại:

“Ta với mình, mình với ta

 Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh”

“Ta” và “mình” dường như hòa quyện với nhau thành một thể thống nhất, không tác rời nhau. Người ra đi một mực khẳng định rằng “mặn mà đinh ninh”. Hai từ “đinh ninh” như ghim chặt vào lòng người đọc tấm lòng son sắt và thủy chung trước sau như một. Đó là tình cảm hết sức thiêng liêng và cao cả.

Phân tích Việt Bắc mới biết khi nhớ về núi rừng việt bắc tác giả nhớ tất thảy thiên nhiên và con người nơi đây. Mọi thứ hiện lên đều rất sống động, đậm nghĩa, vẹn tình. Chỉ với vài bước phác họa bức tranh tứ bình về thiên nhiên và con người nơi đây hiện lên một cách vẹn tròn, ý nghĩa, tươi đẹp nhất :

“Ta về mình có nhớ ta

Ta về ta nhớ những hoa cùng người

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Đèo cao ánh nắng dao gài thắt lưng

Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang

Ve kêu rừng phách đổ vang

Nhớ cô em gái hái măng một mình

Rừng thu trăng rọi hòa bình

 Nhớ cô em gái hái măng một mình”

Một bức tranh tứ bình tuyệt đẹp, sống động và tinh khôi và núi rừng Việt Bắc. Trong bức tranh ấy không chỉ có hình ảnh thiên nhiên tươi đẹp, hùng vĩ mà còn xuất hiện thêm hình ảnh con người chân chất, mộc mạc nhưng lại tình cảm và ý nghĩa biết bao. Có lẽ đây là đoạn thơ hay nhất, đẹp nhất, trữ tình nhất trong toàn bộ bài thơ Việt Bắc. Nó chính là điểm sáng để cả bài thơ tràn đầy tình yêu thương và tinh thần lạc quan nhất.

Điệp từ “nhớ” được tác giả sử dụng lặp đi lặp lại rất nhiều lần trong suốt tác phẩm. Nó đã khiến cho nỗi nhớ trong cả bài thơ dường như tràn ra lênh láng, cảm xúc của tác giả cũng như vỡ òa, dội lên mãnh liệt, tràn lên mặt chữ.

Nhà thơ Tố Hữu không chỉ nhớ đến cảnh vật và con người Việt Bắc mà hơn hết, ông còn nhớ những cuộc chiến tranh ác liệt gian khổ đã diễn ra trong suốt quãng thời gian dài:

“Nhớ khi giặc đến giặc lùng

Rừng cây núi đá ta cùng đánh tây

Núi giăng thành lũy sắt dày

 Rừng che bộ đội rừng vây quân thù”

Đến đây, giọng thơ không còn tha thiết, thủ thỉ tâm tình nữa mà trở nên hào hùng, vang dội vô cùng khi nói đến cuộc chiến oanh liệt của quân dân ta. Những trận chiến ấy xảy ra giữa núi rừng Việt Bắc, để lại từng dấu ấn nơi đây. Và không chỉ con người đồng lòng, mà thiên nhiên dường như cũng đang sát cánh bên người chiến sĩ để “vây quân thù”.

Qua những vần thơ này, dường như hào khí Đông A lại trỗi dậy, mãnh liệt và tràn đầy niềm tự hào. Để đến tận mai sau, chiến thắng vẻ vang và tình đoàn kết đồng lòng sẽ mãi mãi được khắc ghi và nhắc lại.

Với thể thơ lục bát, giọng thơ trữ tình cùng các hình ảnh độc đáo, “Việt Bắc” đã khắc họa thành công sự kiện quan trọng của dân tộc. Hơn cả, bài thơ đã tái hiện được một chặng đường hào hùng, tình cảm sắt son, gắn bó của quân và dân – yếu tố quan trọng mang tới chiến thắng vẻ vang của nhân dân ta. Đó là những con người nhỏ bé nhưng phi thường, hết lòng vì dân, vì nước, vì Cách mạng, đoàn kết, thuỷ chung với lý tưởng cao đẹp.

Phân tích Việt Bắc (Mẫu 23)

Nhà thơ Nguyễn Đình Thi đã nhận xét về thơ Tố Hữu: “Và trong lửa của thơ anh, có biết bao thương yêu dịu dàng đối với đất nước quê hương và những con người của đất quê hương. Từ cuộc sống hiện đại, thơ anh ngày càng bắt nguồn trở lại vào hồn thơ cổ điển của dân tộc”. Quả thực vậy, Tố Hữu không phải một nhà thơ đi tìm cái mới ở những chốn xa xăm và lạ lẫm. Ông khơi nguồn cho sự mới ngay trên cái nền truyền thống của thơ ca dân tộc, để biểu đạt tình cảm yêu thương tình nghĩa từ ngàn đời. Điều này được thể hiện rất rõ qua “Việt Bắc”.

“Việt Bắc” được sáng tác vào năm 1954. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” của quân và dân ta, Hiệp định Giơ - ne - vơ về Đông Dương được kí kết. Dân tộc Việt Nam bước sang trang sử mới hòa bình và tự do. Vào tháng 10 năm 1954, Trung ương Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về lại thủ đô. Nhân dịp ấy, Tố Hữu đã sáng tác bài thơ. Tác phẩm là khúc ca ân tình về kháng chiến, con người Việt Nam trong cách mạng.

Bốn câu thơ đầu là lời ướm hỏi ngọt ngào của người ở lại:

Mình về mình có nhớ ta?

Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.

Mình về mình có nhớ không?

Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn.

Hai đại từ “Mình” và “ta” được lặp lại nhiều lần khiến lời thơ trở thành lời đối thoại, lời tâm tình tha thiết. Tố Hữu đã vận dụng cách xưng hô thân mật quen thuộc trong những câu ca dao, dân ca truyền thống để diễn tả nghĩa tình cách mạng. “Mình” - người cán bộ về xuôi, “ta” - người dân Việt Bắc. “Mình” và “ta” đã trải qua những ngày tháng không thể nào quên: “Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”. Cụm từ “thiết tha mặn nồng” diễn tả sự gắn bó, tình sâu nghĩa nặng giữa người chiến sĩ cách mạng và nhân dân Việt Bắc. Câu hỏi tu từ “Mình về mình có nhớ ta?”, “Mình về mình có nhớ không?” vừa bộc lộ sự quyến luyến, nhớ nhung lại vừa mang âm điệu của một lời dặn dò tình nghĩa. Dù hôm nay các chiến sĩ cách mạng trở về thủ đô nhưng đừng bao giờ quên đi khoảng thời gian gắn bó “Mười lăm năm ấy”, hãy mãi khắc ghi hình ảnh con người và thiên nhiên Việt Bắc trong lòng. Câu thơ “Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn” gợi nhắc đến truyền thống “Uống nước nhớ nguồn” quý báu ngàn đời của dân tộc. Núi rừng Việt Bắc đã cưu mang, che chở cho cán bộ cách mạng. Nhờ có những người dân nơi đây mà kháng chiến mới thắng lợi vẻ vang, hòa bình được lập lại. Ân tình ấy không thể nào quên!

Trước những lời dặn dò của người ở lại, người ra đi chưa trả lời trực tiếp mà lại thể hiện cảm xúc bằng những lời độc thoại nội tâm:

Tiếng ai tha thiết bên cồn

Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi

Áo chàm đưa buổi phân ly

Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…

Đại từ phiếm chỉ “Ai” chỉ người dân Việt Bắc.Những từ láy “tha thiết”, “bâng khuâng”, “bồn chồn” diễn tả tâm trạng lưu luyến, bịn rịn, không nỡ rời xa của người chiến sĩ cách mạng. Trong đó, “Bâng khuâng” gợi lên cảm giác hoài niệm. Dường như người chiến sĩ đang chìm đắm trong dòng cảm xúc, hồi tưởng lại những kỉ niệm khi gắn bó với nơi thủ đô gió ngàn. Từ “bồn chồn” cho thấy sự đan xen của nhiều dòng cảm xúc, dâng lên như lớp lớp sóng trào trong lòng tác giả. Tố Hữu đã rất tinh tế khi tạo ra sự hô ứng cho hai khổ thơ. Nếu ở bên trên, người ở lại nói “thiết tha” thì đến đây, người ra đi lại nói “tha thiết”. Điều này tạo nên một mạch ngầm tri âm giữa người đi và kẻ ở, cho thấy sự đồng điệu trong cảm xúc. Không chỉ vậy, các hình ảnh như “cồn”, “áo chàm” còn gợi không khí, con người, cảnh vật nơi núi rừng. Màu áo chàm được hoán dụ để khắc họa bản sắc trang phục của đồng bào Việt Bắc. Ngày người chiến sĩ về xuôi, cả thiên nhiên và nhân dân Việt Bắc cùng tiễn bước. Cụm từ “biết nói gì” không phải là đôi bên đều không có gì để nói mà có ý nghĩa rằng cả người ra đi và người ở lại đều quá xúc động, không thể nói hết cho thỏa niềm thương nhớ. Im lặng dường như trở thành một thứ ngôn ngữ đặc biệt giúp con người thể hiện tình cảm một cách kín đáo mà sâu sắc. Tất cả những nhớ thương, lưu luyến được gửi vào cái cầm tay nặng ân tình.

Đoạn thơ đầu đã khắc họa khung cảnh chia tay đầy xúc động giữa người dân Việt Bắc với các cán bộ cách mạng. Qua đó, nhà thơ ca ngợi tình cảm thủy chung, son sắt của con người Việt Nam trong những năm kháng chiến gian lao.

Tiếp nối cho mạch cảm xúc nhớ thương tha thiết, người ở lại gợi nhắc những kỉ niệm cũ của một thời vận động đấu tranh cách mạng gian khổ:

Mình đi, có nhớ những ngày

Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù

Câu hỏi một lần nữa vang lên “Mình đi, có nhớ những ngày” nhưng thực chất lại dùng để khơi gợi kỉ niệm, bày tỏ sự gắn bó giữa người đi và người ở. Tất cả những kỉ niệm đồng hiện, vẫn còn vẹn nguyên như vừa mới hôm qua. Mưa, suối, mây mù đều là những hình ảnh đặc trưng cho thiên nhiên Việt Bắc. Thiên nhiên nơi ấy hùng vĩ, nên thơ mà cũng rất hoang vu, dữ dội. Mảnh đất có mưa rừng xối xả, suối lũ cuốn xiết ấy đã “che bộ đội”, “vây quân thù” trong suốt những năm kháng chiến gian lao.

Mình về, có nhớ chiến khu

Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai

Mình về, rừng núi nhớ ai

Trám bùi để rụng, măng mai để già

Mình đi, có nhớ những nhà

Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son

Người ở lại còn nhắc đến kí ức những ngày ở chiến khu. Đời sống tại chiến khu Việt Bắc vô cùng thiếu thốn, họ phải ăn cơm chấm muối cùng trám bùi và măng mai. Những lớp lá lau xám biến thành mái nhà đơn sơ, tạm bợ. Từ láy “hắt hiu” được đảo lên đầu câu giúp gợi tả chân thực, xúc động hình ảnh những mái tranh bạc màu qua mưa nắng. Đáng quý hơn cả chính là con người Việt Bắc đã đồng cam cộng khổ với những người chiến sĩ, một lòng trung thành với cách mạng. Tố Hữu đã rất tài tình khi sử dụng nghệ thuật tiểu đối giữa “Miếng cơm chấm muối” với “mối thù nặng vai”, “Hắt hiu lau xám” với “đậm đà lòng son”. Dù cuộc sống sinh hoạt cực khổ trăm bề nhưng vì “mối thù nặng vai” với thực dân mà con người sẵn sàng hi sinh để đất nước được độc lập. Dẫu những mái tranh nghèo có trở nên hắt hiu vì sương gió thì tấm lòng của con người với cách mạng,quê hương vẫn luôn thắm đỏ như màu cờ Tổ quốc. Giờ đây, khi người chiến sĩ về xuôi, những tháng này ấy đã trở thành một góc kỉ niệm không thể nào phai nhạt. Nỗi nhớ khiến lòng người ở lại nặng trĩu. Trám bùi biết để cho ai? Măng mai giờ già cỗi vì không còn người hái?

Bốn câu thơ cuối đoạn là nỗi nhớ về quá trình kháng chiến gắn với những mốc lịch sử trọng đại của dân tộc:

Mình về, còn nhớ núi non

Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh

Mình đi, mình có nhớ mình

Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa

Vào năm 1940, phát xít Nhật xâm chiếm đất nước ta. Đến năm 1941, Chủ tịch Hồ Chí Minh về nước, phát động cao trào kháng Nhật cứu quốc. Trải qua biết bao vất vả, tháng 12 năm 1944, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân được thành lập tại cây đa Tân Trào. Cuối cùng, vào tháng 8 năm 1945, quốc dân đại hội đã phát động tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Cách mạng Tháng 8 thành công, lịch sử dân tộc bước sang trang mới vẻ vang. Có thể thấy, tất cả những mốc thời gian và địa điểm được nhắc đến trong đoạn thơ đều là những mốc son chói lọi với toàn dân tộc. Những câu thơ như một thước phim gợi lại quá trình chiến đấu của quân và dân Việt Nam rất đáng tự hào. Nhà thơ đảo ngữ “Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa” có dụng ý nhấn mạnh vào những địa danh quan trọng, có ý nghĩa lịch sử to lớn. Điệp từ “có nhớ” ngân vang, kết hợp với cách xưng hô “mình” - “ta” mang đến cảm xúc tự hào xen lẫn xúc động cho cả đoạn thơ.

Sau khi lắng nghe nỗi lòng, những kỉ niệm sống dậy trong tâm trí người dân thì đến đây, người cán bộ cách mạng mới cất tiếng:

Ta với mình, mình với ta

Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh

Mình đi, mình lại nhớ mình

Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu…

“Ta” chỉ người đi, “mình” chỉ người ở lại. Âm hưởng trữ tình của những câu ca dao lan tỏa khắp lời thơ. Cặp từ xưng hô được hoán đổi vị trí rất nhuần nhị ở câu thơ đầu. Người chiến sĩ khảng khái khẳng định: “Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh”. Dù “trước” hay “sau”, quá khứ hay tương lai thì tấm lòng ân tình mà người chiến sĩ dành cho con người, thiên nhiên Việt Bắ cũng chẳng khi nào thay đổi. Con người vẫn một lòng một dạ hướng về nhau như dòng nước chảy ra biển lớn vẫn nhớ về nguồn cội. Các từ láy “mặn mà”, “đinh ninh” có ý nghĩa khẳng định mạnh mẽ tấm lòng của cán bộ cách mạng. Cặp từ chỉ quan hệ tăng tiến “bao nhiêu” - “bấy nhiêu” vừa khẳng định tình cảm của con người, vừa gợi nhớ đạo lí “Uống nước nhớ nguồn” của dân tộc. Lời thơ của Tố Hữu khiến ta nhớ đến những câu ca dao xưa:

Muối mặn ba năm còn mặn

Gừng cay chín tháng còn cay

Dù ai xuyên tạc lá lay

Sắt son nguyệt giữ lòng này thuỷ chung.

Nỗi nhớ trong lòng người chiến sĩ đằm sâu, da diết biết mấy! Người chiến sĩ cũng bày tỏ sự lưu luyến với cuộc sống ở chiến khu Việt Bắc:

Nhớ gì như nhớ người yêu

Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương

Nhớ từng bản khói cùng sương

Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.

Nhớ từng rừng nứa bờ tre

Ngòi Thia sông Ðáy, suối Lê vơi đầy

Nỗi nhớ thiên nhiên, con người Việt Bắc được cụ thể hóa, so sánh với nỗi nhớ người yêu hết sức nồng nàn, cháy bỏng. Nhớ người yêu xuất hiện trong những câu ca dao xưa bao giờ cũng là nỗi nhớ cồn cào, khắc khoải nhất. Tố Hữu lấy nỗi nhớ ấy để diễn tả tự nhiên, chân thực, sinh động nỗi nhớ Việt Bắc. Trong nỗi nhớ ấy, ta tìm thấy ánh trăng yên ả thanh bình nhô lên sau dãy núi, thấy lưng nương rực rỡ trong ráng chiều, thấy cả rừng nứa bờ tre thân thương hồn hậu. Không gian Việt Bắc bao la, khoang đạt, thơ mộng, hiền hòa, đẹp tuyệt mĩ như được bàn tay danh họa vẽ nên. Phải là con người gắn bó, hòa mình với cảnh vật nơi đây thì mới có thể viết nên những câu thơ tinh tế đến vậy. Bên cạnh đó, tác giả còn nhắc đến những địa danh trong khu căn cứ địa như “Ngòi Thia”, “sông Ðáy”, “suối Lê”. Trung tâm của nỗi nhớ tập trung vào hình ảnh “người thương đi về”. Trạng từ chỉ thời gian “Sớm khuya” và hình ảnh giản dị “bếp lửa” cho ta thấy phẩm chất cần cù, chịu thương chịu khó của nhân dân. Cách gọi “người thương” sao mà thân thương, trân quý đến thế! Điệp từ “nhớ”, “nhớ từng” lặp lại nhiều lần tựa như điệp khúc về nỗi nhớ cứ ngân lên không dứt trong tâm hồn con người.

Ta đi, ta nhớ những ngày

Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi

Thương nhau, chia củ sắn lùi

Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng

Nhớ người mẹ nắng cháy lưng

Ðịu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô

Những câu thơ tiếp theo vẫn là tiếng nói giãi bày của người đi. Những rung động nghĩa tình được thể hiện qua câu thơ: “Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi”. Thành ngữ “Đắng cay ngọt bùi” được vận dụng một cách nhuần nhuyễn vào câu thơ, bao quát những khó khăn gian khổ và cả niềm vui, hạnh phúc của con người. Câu thơ được chia thành hai vế đối xứng với nhịp 4/4, hài hòa giữa hình thức biểu đạt và nội dung ý nghĩa. Dù “đây” hay “đó”, dù gian nan hay yên ấm thì tấm lòng người về xuôi vẫn mãi gắn kết keo sơn với người ở lại. Tình cảm khăng khít ấy được bồi đắp qua từng ngày “chia củ sắn lùi”, “Bát cơm sẻ nửa”, “chăn sui đắp cùng”. Hai câu thơ trở thành biểu tượng cho sự đồng cam cộng khổ và nghĩa tình nhân dân trong kháng chiến. Câu thơ “Nhớ người mẹ nắng cháy lưng/Ðịu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô” vừa diễn tả sự khắc nghiệt của tự nhiên vừa làm nổi bật sự chăm chỉ, tảo tần của những người phụ nữ Việt Bắc. Mẹ địu con lên rẫy như cõng cả mặt trời nắng bỏng trên lưng. Mẹ nuôi con, mẹ nuôi bộ đội, mẹ góp sức của mình vào kháng chiến, thật đáng cảm phục!

Con người và thiên nhiên Việt Bắc là thế, mạnh mẽ mà nồng ấm nghĩa tình. Chính vì vậy, tác giả đã nhìn thấy ở họ niềm lạc quan, yêu đời, tin vào tương lai:

Nhớ sao lớp học i tờ

Ðồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan

Nhớ sao ngày tháng cơ quan

Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo

Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều

Chày đêm nện cối đều đều suối xa

Điệp ngữ “Nhớ sao” lặp lại ba lần diễn tả nỗi nhớ thường trực, nỗi bồi hồi xao xuyến. Nhà thơ nhớ đến những lớp bình dân học vụ ngân vang tiếng đọc bài của đồng bào Việt Bắc, những buổi liên hoan văn nghệ được tổ chức ngay giữa đồng khuya dưới ánh sáng của đuốc. Tiếng hát say đời, ham lao động vang khắp núi đèo. Đặc biệt, nhà thơ còn lồng vào đó âm thanh của chày giã gạo ngoài suối xa vọng lại vào đêm. Tố Hữu đã thật sự nắm bắt được cái thần, cái hồn của thiên nhiên Việt Bắc.

Đoạn thơ tiếp theo là chứa đầy màu sắc về thiên nhiên, con người Việt Bắc. Trong đó, hai câu thơ đầu có ý nghĩa khái quát cảm xúc của toàn đoạn:

Ta về, mình có nhớ ta

Ta về ta nhớ những hoa cùng người

Nhà thơ vẫn sử dụng cách xưng hô “Ta” - “mình” thân thuộc, gần gũi. Hai chữ “Ta về” được ngắt riêng như một nốt nhạc quãng ngắt lưu luyến, ngập ngừng trong bản tình ca cách mạng. Câu hỏi tu từ “Ta về, mình có nhớ ta” mang âm hưởng trữ tình ngọt ngào của ca dao, dân ca. Câu hỏi ấy không chỉ hướng về phía người ở lại mà còn hướng về chính người chiến sĩ. Người cán bộ cách mạng tự khẳng định tình cảm ân nghĩa thủy chung của lòng mình với thiên nhiên, con người Việt Bắc. Vậy người ra đi nhớ điều gì? Người ra đi nhớ “những hoa cùng người”. “hoa” ở đây có nghĩa là thiên nhiên đẹp đẽ, tươi sáng, hùng vĩ của Việt Bắc. Hòa với nét đẹp của hoa là vẻ đẹp của “người”. Con người và thiên nhiên Việt Bắc hòa quyện, gắn bó khăng khít, làm nên cái hồn cho mảnh đất này.

Những câu thơ sau là bức tranh tứ bình đầy ấn tượng:

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng

Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang

Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình

Rừng thu trăng rọi hoà bình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.

Thiên nhiên Việt Bắc hiện lên đầy sức sống, đẹp đẽ, tươi sáng đến lạ thường. Cảnh rừng Việt Bắc trong mùa đông vẫn thật xanh tươi, căng tràn sức sống: “Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi”. Trên cái nền xanh thẳm của núi rừng là sắc đỏ rực rỡ tựa muôn ngàn đốm lửa của những bông hoa chuối. Thiên nhiên đang tự mình thắp lên những ngọn lửa để sưởi ấm trong trời đông rét ngọt. Mùa đông trong thơ Tố Hữu không những không hề héo úa, lụi tàn mà còn lấp lánh ước mơ, hi vọng. Đến mùa xuân, bao nhiêu mầm sống được ấp ủ bấy lâu đã thỏa sức bung nở. Khung cảnh như thay màu áo mới. Màu trắng tinh khôi, trong trẻo của hoa mơ bao phủ khắp đất trời. Hai chữ “trắng rừng” cho thấy sức sống âm thầm mà mãnh liệt vô cùng. Dường như mải đắm mình trong bạt ngàn hoa trắng, ta giật mình ngỡ ngàng khi hạ đã về tự bao giờ. Câu thơ “Ve kêu rừng phách đổ vàng” gợi lên bản tình ca mùa hè sôi nổi, rạo rực. Đây là vẻ đẹp đặc trưng của Việt Bắc. Chữ “đổ” là nhãn tự của cả câu thơ, diễn tả sự giao hòa của tạo vật. Ve kêu đến đâu, rừng phách ngả vàng đến đó. Sắc màu thời gian như đổ xuống cảnh vật, đẹp đẽ và diệu kì. Đến mùa thu, điều tác giả nhớ nhất chính là “Rừng thu trăng rọi hoà bình”. Ánh trăng mơ màng, dịu dàng chiếu rọi xuống cảnh vật. Mọi ngóc ngách trong rừng đều chảy tràn ánh trăng, huyền ảo như bước ra từ trang cổ tích. Thiên nhiên Việt Bắc đáng yêu, bình yên quá đỗi khiến người ta say đắm không thể nào quên.

Đi liền với nỗi nhớ thiên nhiên, tác giả còn nhớ về con người Việt Bắc rất mực thân thương. Họ hiện lên trong tư thế hài hòa, làm chủ tự nhiên. Câu thơ: “Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng” mang màu sắc “rất Việt Bắc” (Xuân Diệu). Nhân dân Việt Bắc thường gài chiếc dao vào thắt lưng khi đi làm nương rẫy. Trên tầm cao của đèo, ánh nắng chiếu vào dao tạo nên phản quang lấp lánh. Con người không nhỏ nhoi, đơn độc trước cái cao, dốc của đèo mà trái lại, càng mạnh mẽ và hào hùng. Trong khung cảnh mùa xuân, tác giả miêu tả cụ thể về người đan nón. Động từ “chuốt” có nghĩa là trau chuốt, làm cho bóng, cho mượt. Chữ “từng” gợi tả sự tỉ mỉ, cần cù, khéo léo, tài hoa của con người Việt Bắc khi lao động. Thiên nhiên có hoa mơ nở trắng rừng, con người lại có chiếc nón trắng thể hiện tấm lòng tha thiết gắn bó với quê hương, đất nước. Người dân gửi cả tấm lòng mình vào công việc thủ công, sáng tạo ra những vật phẩm mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc. Đến khi hạ về, tác giả phát hiện ra giữa sắc vàng óng ả của rừng phách là “cô em gái hái măng một mình”. Sự hiệp vần “hái “ với “gái” khiến câu thơ đậm tính nhạc hấp dẫn. Người con gái Việt Bắc thật trẻ trung, tươi tắn, xinh đẹp. Dẫu cô gái đang đi hái măng một mình, làm công việc lao động vất vả giữa rừng nhưng chẳng hề lẻ loi, cô độc. Con người làm chủ tự nhiên và cuộc đời, bộc lộ rõ nét hồn nhiên, đáng yêu đến lạ. Cuối cùng, tác giả nhớ đến tiếng hát “ân tình thủy chung” dưới đêm trăng trong mùa thu. Đó không chỉ là tiếng hát trong trẻo vang lên trong đêm thanh mà còn là tiếng lòng ân nghĩa vẹn tròn giữa “ta” và “mình”. Tiếng hát khép lại đoạn thơ nhưng tình người thì mãi còn vang vọng.

Nhớ khi giặc đến giặc lùng

Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây

Núi giăng thành luỹ sắt dày

Rừng che bộ đội rừng vây quân thù

Mênh mông bốn mặt sương mù

Ðất trời ta cả chiến khu một lòng.

Đoạn thơ diễn tả nỗi nhớ về những ngày đầu kháng chiến, sức mạnh đại đoàn kết dân tộc và những chiến công của quân dân ta. Hai câu thơ đầu đậm chất tự sự, thuật tả lại thực tế kháng chiến.Những từ “lùng”, “đến” cho thấy sự dã man, tàn bạo của giặc, chúng quyết tâm tiêu diệt những người chiến sĩ yêu nước của ta. Quân đội ta đã dựa vào địa thế hiểm yếu của núi rừng Việt Bắc để chống giặc. Cách diễn đạt “ta cùng đánh Tây” cho thấy sự đồng lòng giữa con người và thiên nhiên. “Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù” chính là như thế! Tinh thần đoàn kết “Ðất trời ta cả chiến khu một lòng” trở thành yếu tố quyết định làm nên sự toàn thắng của đất nước ta. Khổ thơ không chỉ vừa đậm chất hiện thực lại giàu tính trữ tình, ca ngợi tinh thần thép, ý chí kiên cường của con người Việt Nam. Có sự che chở của nhân dân và núi rừng Việt Bắc, quân ta liên tiếp gặt hái được thắng lợi:

Ai về ai có nhớ không?

Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng

Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng

Nhớ từ Cao-Lạng nhớ sang Nhị Hà

Điệp từ “nhớ” được lặp lại năm lần trong câu thơ, cho thấy nỗi nhớ bao trùm lên cả đèo, sông, phố. Nhà thơ Tố Hữu nhớ từ những trận đánh đầu tiên của quân ta như phủ Thông, đèo Giàng, nhớ cả sông Lô trong chiến thắng Thu - Đông năm 1947 đến nhận đánh nơi phố Ràng năm 1948 đánh dấu sự lớn mạnh của quân đội ta. Những địa danh được liệt kê liên tiếp khiến khổ thơ như một thước phim tư liệu lịch sử.

Tác giả nhớ về những trận chiến oanh liệt của quân và dân chính là khẳng định tấm lòng gắn bó son sắt với nhân dân Việt Bắc. Con người Việt Bắc tài hoa, anh dũng đã hòa vào cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc, thủy chung với cách mạng, làm nên sức mạnh to lớn:

Những đường Việt Bắc của ta

Ðêm đêm rầm rập như là đất rung

Quân đi điệp điệp trùng trùng

Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan

Dân công đỏ đuốc từng đoàn

Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay

Nghìn đêm thăm thẳm sương dày

Ðèn pha bật sáng như ngày mai lên

Tin vui chiến thắng trăm miềm

Hoà Bình, Tây Bắc, Ðiện Biên vui về

Vui từ Ðồng Tháp, An Khê

Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.

Nhà thơ phác họa khung cảnh toàn quân ra trận với khí thế hào hùng, sôi sục. Giữa không gian rộng lớn và thời gian đằng đẵng, quân đội ta nổi bật với những bước chân “rầm rập” rung chuyển cả đất trời. Từ láy “điệp điệp trùng trùng” khắc họa hình ảnh đoàn quân đông đảo, không ngừng tiến tới để đối mặt với quân thù. Dù vật chất còn thiếu thốn, các chiến sĩ chỉ có “mũ nan” nhưng nào có hề gì bởi ánh sao ngời sáng trên mũ đang soi đường cho bộ đội ta đi tới. Ánh sao ấy còn tượng trưng cho lý tưởng cách mạng, tấm lòng yêu chuộng của con người Việt Nam. Hình ảnh cường điệu “bước chân nát đá” cho thấy sức mạnh phi thường của quân đội ta. Sức mạnh ấy phá vỡ cái thăm thẳm lạnh lẽo của màn sương đêm, mở lối cho ánh đèn xe kéo pháo. Cuối cùng, tin vui chiến thắng đã về đến “trăm miền”. Tác giả liệt kê hàng loạt địa danh để thiể hiện niềm hân hoan thắng lợi đang rạo rực trên mọi miền Tổ quốc.

Tác phẩm là cuộc chia tay đặc biệt giữa nhân dân và cán bộ cách mạng, cho thấy nỗi nhớ thường tha thiết, nặng tình ân nghĩa của những con người cùng nhau vào sinh ra tử trong kháng chiến. “Việt Bắc” đã khắc họa nét đẹp phong phú của thiên nhiên, cuộc sống Việt Bắc. Từ đó, tác phẩm còn ngợi ca vẻ đẹp mạnh mẽ, cần cù, tài hoa, tấm lòng kiên trung, tràn đầy tình yêu thương đất nước và con người của nhân dân nơi đây. Đây quả thực là khúc ca về cách mạng, về con người kháng chiến. Nhà thơ đã kết cấu bài thơ theo lối đối đáp của ca dao, ngôn ngữ thơ dân dã, giọng thơ mang âm hưởng ngọt ngào cùng các hình ảnh so sánh, ẩn dụ, hoán dụ, nhân hóa giàu tính biểu tượng.

“Việt Bắc” thực sự là “những vần thơ tươi xanh”, “những vần thơ bỏng cháy” được viết nên từ tài năng và tâm huyết của nhà văn. Tác phẩm là đỉnh cao của thơ ca Tố Hữu nói riêng và thơ ca thời kì chống Pháp nói chung.

Phân tích Việt Bắc (Mẫu 24)

Năm 1954, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, hòa bình được thiết lập. Tố Hữu mô tả cuộc chia tay đầy thương nhớ giữa Việt Bắc và những người cán bộ kháng chiến, gợi lại những kỷ niệm anh hùng và tình nghĩa trong kháng chiến.

Trong đoạn trích bài thơ “Việt Bắc”, Tố Hữu chọn thể thơ lục bát và hình tượng hoá Việt Bắc và những người cán bộ kháng chiến là Ta – Mình, gợi lên tình bạn đầy bịn rịn và lưu luyến.

Mở đầu là lời của Việt Bắc. Trong cuộc chia tay, người ở lại thường không yên lòng đối với người ra đi:

“Ta về có nhớ mình không?
Năm tháng mười lăm đong đầy mặn nồng.
Ta về có nhớ chăng lòng?
Nhìn cây cỏ, núi sông, đều ghi nhớ.”

Bài thơ “Việt Bắc” mang hai giai điệu chính. Câu thơ mở đầu “Ta về có nhớ mình không” là giai điệu chính thứ nhất. Tố Hữu vận dụng màu sắc của tình yêu để phô diễn tình cảm cách mạng. Việt Bắc đặt những câu hỏi nặng tình nặng nghĩa:

Áo chàm đưa lời tạ biệt
Cầm tay, chỉ biết nói chi hôm nay…”

Việt Bắc lại hỏi:

“Khi ta ra đi, có nhớ không
Những ngày mưa rào, suối lũ, mây mù?
Khi ta trở về, có còn nhớ
Chiến khu u ám, miếng cơm chẳng đủ?”

Việt Bắc hỏi như một cách để nhắc nhở về những ngày gian khổ trong cuộc kháng chiến. Những hình ảnh như “mưa rào, suối lũ, mây mù” là biểu tượng của cuộc sống khắc nghiệt ở vùng rừng núi. Mình và Ta đã chia sẻ những khó khăn “miếng cơm chẳng đủ”, cùng gánh chịu mối thù nặng nề.

Vẫn là câu hỏi của Việt Bắc, nhưng bài thơ chuyển sang thế ngữ khác:

“Khi ta trở về, rừng núi còn nhớ
Trám bùi rụng, măng mai già phong tình?
Khi ta đi, có nhớ những ngôi nhà
Lau xám bay, lòng son trung trung?”

Việt Bắc biểu hiện tình cảm sâu sắc với những người chiến sĩ kháng chiến bằng cách nhân hoá “rừng núi nhớ ai”. Khi trở về, núi rừng vẫn còn nhớ những người đã từng ở đó, nhưng không còn họ nữa. Hình ảnh trám bùi và măng mai đã rụng phô diễn sự trống trải khi không còn bộ đội. Sự đối lập giữa ngoại cảnh (lau xám bay) và bên trong (lòng son trung trung) thể hiện cuộc sống gian khổ nhưng vẫn đậm đà tình yêu quê hương.

Cuối lời, Việt Bắc hỏi người về:

“Khi ta đi, liệu có nhớ
Những ngày Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?”

Giai điệu chính thứ hai của bài thơ lộ diện: “Khi ta đi, liệu có nhớ”. Nếu giai điệu đầu tiên đại diện cho tình yêu quê hương, thì giai điệu thứ hai biểu hiện tinh thần cách mạng. Việt Bắc nhắn nhủ với người về rằng không chỉ “nhớ ta” mà còn phải “nhớ mình”, như ngôn từ của tình yêu không chỉ “nhớ em” mà còn “nhớ anh”. Đó là một lời nhắc nhở về tình đồng đội, tình đoàn kết. Mình và Ta đã cùng nhau trải qua mười lăm năm, đã viết nên những trang sử vĩ đại của dân tộc tại “Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa”. Bây giờ khi xa cách, khi Mình trở về thành thị, hãy nhớ giữ vững tinh thần đồng đội, đoàn kết, đừng bao giờ quên điều đó:

“Khi ta trở về thành thị
Nhà cao, còn thấy núi đồi không?
Phố đông, còn nhớ bản làng?
Sáng đèn, còn nhớ mảnh trăng giữa rừng?”

Việt Bắc đặt ra những câu hỏi như vậy như một cách tinh tế của nhà thơ Tố Hữu, dự báo những biến đổi tư tưởng trong thời hòa bình.

“Khi ta đi, liệu có nhớ mình”

Đó là dòng thơ đẹp nhất trong bài “Việt Bắc”, một sáng tạo tuyệt vời của Tố Hữu. Nhận lấy tất cả tình cảm sâu sắc từ Việt Bắc, giờ đây người về cũng bày tỏ:

“Ta với mình, mình với ta
Con tim ta tràn đầy niềm tin và tình cảm,
Khi ta đi, ta vẫn nhớ ta
Bởi mỗi dòng suối, mỗi tình người…”

Hai từ “ta” và “mình” vòng quanh, kết nối trong “Ta với mình, mình với ta”, tạo nên một tình cảm sâu sắc. Ý nghĩa không bị phân chia mà lại hòa quện với nhau:

“Khi ta đi, ta vẫn nhớ ta”

(Trả lời cho câu hỏi: “Mình về mình có nhớ ta”)

Dòng ngôn từ của tình yêu là “Khi anh đi, anh vẫn nhớ em”. Nỗi nhớ của người ra đi thật sâu sắc, tình cảm của người ra đi đối với Việt Bắc thật không biết mệt mỏi “Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu”. Lời trả lời như vậy chắc chắn sẽ an ủi lòng người ở lại – Việt Bắc.

Như vậy, sự biến tấu của giai điệu một đã được hình thành và mở rộng ra vô cùng. Tất nhiên, đó chỉ là một phương tiện để nhà thơ diễn đạt mối quan hệ chặt chẽ giữa Việt Bắc và cách mạng, tái hiện lại truyền kỳ anh hùng của cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Bắc.

Để xoa dịu những nỗi lo âu của người ở lại, người trở về phải nói những lời thật sâu sắc, phải đem so sánh với những cảm xúc cao quý nhất của con người:

“Nhớ như thương nhớ người yêu
Trăng trên núi, nắng chiều trên lưng đồi”

Từ “nhớ” được lặp đi lặp lại và mỗi từ đều khơi gợi không ít kỷ niệm thân thương giữa Ta và Mình. Những chi tiết nhỏ bé được gợi lại (vì trong tình yêu, cái nhỏ nhặt lại trở thành cái lớn).

“Thương nhau, chia phần củ sắn lùi
Bát cơm chia sẻ, chăn đắp cùng nhau”

Con người Việt Bắc trong lòng người về mới thực sự đáng yêu và đáng quý thế nào:

“Nhớ người mẹ dưới nắng cháy da
Đưa con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô.”

Tiếng mõ trâu giữa rừng chiều, tiếng chày đập vang xa dưới suối đêm sâu mãi trong lòng người trở về:

“Nhớ tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm đập cối suối xa…”

Tóm lại, người về nhớ vẻ đẹp tự nhiên của Việt Bắc, một vùng đất thơ mộng và gần gũi; nhớ những người dân giản dị, trung thành, và tình nghĩa. Giai điệu của một bài hát anh hùng. Cuộc kháng chiến hùng hồn của chúng ta được tái hiện trong ký ức của người trở về:

“Nhớ thời giặc đến tấn công
Rừng núi chứng kiến ta chống giặc Pháp
Núi đặt thành lũy sắt dày
Rừng che bọc bộ đội, bao vây quân thù.”

Thiên nhiên Việt Bắc như có linh hồn nhờ vào việc tác giả nhân hoá. Núi rừng Việt Bắc đã trở thành những lũy sắt bảo vệ và che chở cho bộ đội khi chúng 'vây', 'đánh' quân thù. Mỗi ngọn núi, con sông, làng xóm, và vùng đất đều ghi chép một chiến công vĩ đại của người dân Việt Bắc. Đêm nào cũng rộn ràng như một trận địa rung chuyển, với quân điệp, đoàn công, và những người lính chiến đấu dũng cảm:

“Những con đường Việt Bắc của chúng ta
Mỗi đêm rộn ràng như là mảnh đất rung
Quân lính bước đi mạnh mẽ
Ánh sáng đầu súng, người bạn cùng mũ non
Công nhân đuốc đỏ từng đội
Bước chân trên đá vỡ, ngọn lửa trời cao.
Nghìn đêm u sầu với sương dày
Ánh đèn pha sáng như ánh bình minh.”

Tác giả lại chuyển sang lối diễn đạt trang trọng, thiêng liêng để miêu tả lòng nhớ của người trở về đối với Trung ương Chính phủ – Cụ Hồ. Và hình ảnh của Việt Bắc trong ký ức của người về là quê hương của cách mạng, là cứ điểm kháng chiến, là niềm hy vọng của toàn dân tộc.

Người trở về cũng không quên đáp lại câu hỏi sâu sắc của Việt Bắc:

“Mình về lại nhớ đến ta
Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào” (2)

(Đáp lại câu hỏi “Mình đi mình có nhớ mình”)

Nghĩa là người trở về muốn gửi đi lời nhắn nhủ rằng dù ở xa cách, dù sống trong thành thị lạ lẫm, những người cán bộ cách mạng ngày xưa vẫn giữ và phát huy những phẩm chất tốt đẹp của mình.

Với sự biến tấu của giai điệu hai, tác giả đã kết thúc phần một của bài thơ “Việt Bắc”. Chủ đề chung thủy – chung thủy với cách mạng của bài thơ “Việt Bắc” đã được thể hiện sâu sắc ngay trong phần này.

“Việt Bắc” là một tác phẩm xuất sắc của Tố Hữu cũng như là một kiệt tác của thơ ca cách mạng, thơ ca kháng chiến. Bài thơ thể hiện đa dạng tài năng của Tố Hữu. Thể thơ lục bát được tác giả sử dụng để diễn đạt những tình cảm, tư tưởng mới mẻ nhưng vẫn rất sâu sắc về bản sắc dân tộc. Lối hát đối đáp tạo ra một giai điệu phong phú cho bài thơ. Nhiều biện pháp tu từ được áp dụng một cách tinh tế. Ngôn ngữ trong sáng, trôi chảy, và cảm xúc yêu thương đậm nét – điều đặc biệt rõ ràng trong “Việt Bắc”. Bài thơ cũng thể hiện tư tưởng mới mẻ thông qua các hình ảnh phong phú và âm nhạc lôi cuốn người nghe.

Việt Bắc | Wiki Kiến thức | Cộng đồng người hâm mộ

Phân tích Việt Bắc (Mẫu 25)

Văn học kháng chiến vẫn đóng vai trò quan trọng trong văn học Việt Nam cho đến ngày nay. “Việt Bắc” của Tố Hữu được đánh giá cao là một tác phẩm đồ sộ, chứa đựng nhiều ý nghĩa sâu sắc, là tiếng nói của dân tộc ta trong cuộc kháng chiến khốc liệt. Phân tích Việt Bắc, ta thấy được tình cảm bền chặt, sự đoàn kết của nhân dân qua bút pháp tài hoa, trữ tình của tác giả.

Tố Hữu là một nhà thơ hiện đại vĩ đại, được biết đến như ngọn cờ đầu của phong trào thơ Cách mạng Việt Nam. Cuộc đời nghệ thuật của ông luôn đi đôi với những bước tiến của Cách mạng dân tộc, khiến cho thơ của ông trở nên sâu lắng và hào hùng nhưng vẫn rất sâu sắc. Những bài thơ của Tố Hữu đơn giản, ấm áp nhưng đậm chất chính trị.

Bài thơ “Việt Bắc” được viết ra sau chiến thắng trước thực dân Pháp, là một trong những tác phẩm nổi bật nhất của Tố Hữu. Vào những năm 40 của thế kỷ trước, Việt Bắc là căn cứ chiến lược của cuộc chiến. Nơi đây, nhân dân và chiến sĩ cùng nhau sống, bảo vệ và chiến đấu. Sau chiến thắng lịch sử vào năm 1954, Trung ương Đảng và Chính phủ đã rời Việt Bắc để về Hà Nội. Nhân dịp sự kiện trọng đại này, Tố Hữu đã sáng tác bài thơ “Việt Bắc”. Qua lời thơ, ông tái hiện lại tình yêu thương, lòng biết ơn sâu nặng của quân dân trong cuộc chiến, là tiếng lòng của dân ta trong cuộc chiến tranh đầy máu, gian lao.

Trong bài thơ này, tác giả thể hiện lời của người ở lại, là tiếng lòng của nhân dân Việt Bắc khi cán bộ, chiến sĩ về quê hương. Với thể thơ lục bát, lời thơ truyền đạt tâm trạng, tình cảm của họ vô cùng chân thành, lưu luyến không ngừng:

“Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn”

Phân tích “Việt Bắc” cho thấy những câu thơ này thể hiện tâm trạng của người ở lại, sự ghi nhớ và tiếc nuối khi phải xa nhau. Họ phải xa cách với những người chiến sĩ Cách mạng đã cùng nhau gắn bó suốt mười lăm năm. Tác giả sử dụng hai đại từ xưng hô “ta” và “mình” một cách khéo léo, thể hiện sự gắn bó, lòng trung thành của cán bộ và nhân dân. Trong đoạn thơ này, Tố Hữu chỉ ra một khoảng thời gian cụ thể là “mười lăm năm ấy”. Đó là một thời kỳ dài, gắn liền với cuộc chiến tranh khốc liệt của quân và dân ta chống lại thực dân Pháp. Đó cũng là thời gian mà tình cảm giữa quân và dân trở nên rất sâu đậm, mặn nồng. Bây giờ, cả người ra đi và người ở lại đều chứa đựng nỗi nhớ thương, nhìn đâu cũng thấy những hình ảnh của quá khứ, vẹn nguyên và tinh khôi trong lòng. Tố Hữu dường như đã truyền đạt cho độc giả một cảm giác vấn vương đầy ẩn dụ.

Tình trạng quyến luyến, bế quan của những người ở lại khiến cho những người ra đi không thể không lo lắng. Dường như không ai muốn bước ra đi:

“Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bồn chồn trong lòng, không muốn bước ra đi
Áo chàm đưa lời biệt ly
Cầm tay nhau, không biết nên nói điều gì hôm nay”

Những lời tâm tình, thủ thỉ của những người ở lại đã khiến cho những người về không lòng nào dám rời đi. Những lời tâm sự ấy bây giờ khiến cho những kỷ niệm và những nỗi nhớ tràn về, không thể nào quên. Tất cả cảm xúc ấy được tác giả gói gọn trong hai từ “bồn chồn”. Nó như dùng dằng, không muốn bước ra đi, lại như nỗi buồn man mác khi nghĩ tới cảnh chia xa. Cảm xúc ấy khó có thể diễn tả bằng lời một cách dễ dàng.

Lúc này đây, tâm trạng của những người ra đi và những người ở lại đều không thể hiểu được tại sao lại như vậy. Có lẽ tình yêu đã quá lớn và kỷ niệm đã quá nhiều để có thể rời bỏ. Suốt 15 năm sống và gắn bó với mảnh đất này, đồng đội và đồng bào đã phải chịu đựng bao nhiêu cay đắng, ngọt ngào, san sẻ cho nhau từng bữa cơm, giấc ngủ. Những năm tháng khó khăn ấy không chỉ kể lại trong vài câu chữ như thế này, nhưng chính những câu chữ đã khiến cho cảm xúc tràn ra, không thể ngừng nhớ và mong chờ. Người ra đi đã đáp lại tình cảm của người ở lại:

“Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước đầy tình yêu thương”

“Ta” và “mình” dường như hoà quyện với nhau thành một thể thống nhất, không thể tách rời nhau. Người ra đi một lòng khẳng định rằng “tình yêu thương đậm đà”. Hai từ “đậm đà” như được ghim chặt vào lòng người đọc, tấm lòng kiên định và trung thành trước sau như một. Đó là tình cảm vô cùng thiêng liêng và cao quý.

Phân tích Việt Bắc mới hiểu được rằng khi nhớ về núi rừng Việt Bắc, tác giả nhớ đến tất cả thiên nhiên và con người ở đó. Mọi thứ hiện lên đều rất sống động, đậm ý nghĩa và trọn vẹn tình thương. Chỉ với vài nét phác họa về thiên nhiên và con người ở đó, bức tranh hiện lên một cách hoàn thiện, ý nghĩa và đẹp đẽ nhất:

“Ta về mình có nhớ mình
Ta về ta nhớ hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối rợp rạt
Đèo cao ánh nắng sưởi ấm lòng
Ngày xuân hoa nở trắng bốn phương
Nhớ người đan nón, chuốt tơ hồng
Ve râm ran, rừng phách tiếng róc rách
Nhớ em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi, hòa bình êm đềm
Nhớ em gái hái măng một mình”

Một bức tranh về thiên nhiên và con người tuyệt đẹp, sống động và tinh khôi của núi rừng Việt Bắc. Trong bức tranh đó không chỉ có hình ảnh thiên nhiên tươi đẹp, hùng vĩ mà còn có hình ảnh về con người chân chất, mộc mạc nhưng đầy tình cảm và ý nghĩa. Có lẽ đây là đoạn thơ hay nhất, đẹp nhất và trữ tình nhất trong toàn bộ bài thơ Việt Bắc. Nó chính là điểm sáng làm cho cả bài thơ tràn đầy tình yêu thương và tinh thần lạc quan nhất.

Từ “nhớ” được tác giả sử dụng lặp đi lặp lại nhiều lần trong toàn bộ tác phẩm. Điều đó khiến cho nỗi nhớ trong cả bài thơ dường như tràn đầy, cảm xúc của tác giả cũng như trào dâng, dội lên mãnh liệt và bùng nổ, hiện lên mạnh mẽ trên từng chữ.

Nhà thơ Tố Hữu không chỉ nhớ về cảnh vật và con người ở Việt Bắc mà hơn hết, ông còn nhớ về những trận chiến tranh khốc liệt, gian khổ đã diễn ra trong suốt thời gian dài:

“Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh phản tây
Núi giăng thành lũy sắt bao bọc
Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù”

Tại đây, giọng thơ không còn là của sự thủ thỉ, tâm tình như trước mà trở nên hùng tráng, vang dội hơn khi nói về cuộc chiến oanh liệt của dân tộc ta. Những trận chiến ấy diễn ra giữa núi rừng Việt Bắc, để lại dấu ấn rõ nét. Và không chỉ con người đoàn kết, mà thiên nhiên cũng dường như đang cùng chiến sĩ “vây quân thù”.

Qua những câu thơ này, hình ảnh hào khí Đông A như tái hiện, mạnh mẽ và đầy tự hào. Và cho đến mai sau, chiến thắng vẻ vang và tinh thần đoàn kết sẽ mãi mãi được ghi nhận và kỷ niệm.

Với thể thơ lục bát, giọng thơ trữ tình cùng những hình ảnh độc đáo, “Việt Bắc” đã thành công trong việc mô tả một sự kiện quan trọng của dân tộc. Hơn thế nữa, bài thơ đã tái hiện một chặng đường hào hùng, tình cảm chắc chắn, sự gắn bó của quân và dân – những yếu tố quan trọng đem lại chiến thắng hùng hậu cho dân tộc. Đó là những con người bé nhỏ nhưng phi thường, hy sinh vì dân, vì nước, vì Cách mạng, đoàn kết, trung thành với lý tưởng cao cả.

Phân tích Việt Bắc (Mẫu 26)

Thơ của Tố Hữu là tiếng nói của dân tộc, là tiếng nói của những con người sâu sắc kết nối với cách mạng, với quê hương, với đất nước. Trong những vần thơ đó, ta gặp được những tình cảm chân thành, trung thực, bắt nguồn từ trái tim trung thành với dân tộc và nhân dân, đặc biệt là trong bài thơ “Việt Bắc”, một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của Tố Hữu.

Tố Hữu (1920-2002), tên thật là Nguyễn Duy Thành, quê quán tại xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế, nơi mà văn học dân gian được sinh ra. Tố Hữu là một nhà thơ vĩ đại, là một người tiên phong trong thơ ca cách mạng của Việt Nam, thơ của ông luôn gắn bó với những giai đoạn quan trọng của cách mạng dân tộc. Phong cách thơ của ông mang tính chính trị trữ tình sâu sắc, hướng tới sự đoàn kết với lẽ sống lớn lao, tình cảm lớn, cái tôi trong thơ của ông luôn được thể hiện qua lời nói của Đảng, của cộng đồng dân tộc, những vần thơ đó không chỉ phong phú về âm nhạc mà còn chứa đựng nét văn hóa dân tộc sâu sắc.

Ngày 7/5/1954, cuộc chiến Điện Biên Phủ kết thúc thành công, gây ra một làn sóng chấn động toàn cầu, mở ra một trang sử mới cho đất nước ta, một thời đại mới. Sau khi ký kết Hiệp định Geneva (7/1954), miền Bắc hoàn toàn giải phóng, quân Pháp rút lui. Tháng 10/1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lệnh cho toàn bộ các cơ quan Trung ương của Đảng và Chính phủ dời về thủ đô. Từ đó, những chiến binh cách mạng phải nói lời tạm biệt với rừng núi để về phố, bước vào một giai đoạn mới của cách mạng dân tộc, Việt Bắc đã được sinh ra trong tình hình đặc biệt như thế.

Bài thơ mở đầu bằng một giọng thơ trữ tình, êm đềm và ấm áp, nhà thơ đã thể hiện tình cảm của người ở lại đối với người ra đi.

“Mình về mình có nhớ ta Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng. Mình về về mình có nhớ không Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?”

Tác giả sử dụng cặp từ “mình-ta”, không chỉ đề cập đến việc xưng hô giữa những người yêu nhau hoặc cặp vợ chồng, mà còn là lời đối đáp của các chiến binh cách mạng với người dân Việt Bắc. Sự sử dụng này không chỉ thể hiện tính dân tộc sâu sắc mà còn thể hiện tính trữ tình chính trị sâu sắc trong thơ Tố Hữu, như một tiếng nói của tình yêu đôi lứa, thể hiện sự gắn bó chặt chẽ giữa người đi và người ở, đầy tiếc nuối, lưu luyến. “Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”, mối gắn bó đó không chỉ trong thời gian kháng chiến chống Pháp mà còn từ thời kháng chiến chống Nhật, đặc biệt là cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn (1940). Một khoảng thời gian dài chiến đấu đầy gian khổ đã khiến cho tình cảm giữa những chiến binh cách mạng và người dân Việt Bắc trở nên sắt đá, mặn nồng, đậm chất ân tình. Mười lăm năm là thời gian không ngắn cũng không dài nhưng đủ để những cảm xúc biến thành hồi ức, không thể nào lãng quên, như Chế Lan Viên đã viết: “Khi ta ở đất chỉ là nơi đất ở/Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn”. “Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?”, và đặc biệt, nỗi nhớ ấy đã lan tỏa khắp núi rừng, phải yêu, phải gắn bó, phải sống một trái tim chân thành biết bao nhiêu mới có thể có những cảm xúc đầy thiết tha như vậy?

“Tiếng ai tha thiết bên cồn Bâng khuâng trong lòng, bồn chồn bước đi Áo chàm đưa buổi chia ly Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…”

Từ từ phiếm chỉ “ai”, đánh thức nhiều cảm xúc, “ai” ở đây có thể là người ra đi, cũng có thể là người ở lại. Từ láy “tha thiết” được đưa lại từ “thiết tha” đã mô tả rõ ràng hơn tình cảm của người ra đi và người ở lại, từ “bâng khuâng” và “bồn chồn” chứa đựng nhiều tâm trạng, trong đó có niềm vui toàn thắng, niềm vui được về lại quê hương, đoàn tụ với gia đình; và cũng ẩn chứa nhiều nỗi buồn, phải chia tay mảnh đất thấm đẫm nghĩa tình. “Áo chàm đưa buổi phân ly”, hình ảnh chiếc áo có phần cổ điển, truyền thống thể hiện sự quyến luyến, là hình ảnh biểu tượng của con người Việt Bắc, là màu áo nâu giản dị, hiền hòa, thể hiện vẻ đẹp tâm hồn, linh hồn của người dân và núi rừng Tây Bắc, đang đưa tiễn người chiến sĩ cách mạng. Câu “Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…”, nhịp thơ 3/4 như tạo một khoảng lặng giữa lúc phân ly ngậm ngùi, nhìn nhau mà nghẹn lòng, ngập ngừng không muốn nói điều gì, để cảm xúc ấy phiêu lãng, len lỏi trong tâm hồn, trở thành kỷ niệm khó phai.

“Mình đi, có nhớ những ngày Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù Mình về, có nhớ chiến khu Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai? Mình về, rừng núi nhớ ai Trái bùi để rụng măng mai để già.”

Sau mỗi cụm từ “Mình đi”, “Mình về”, nhà thơ đã tinh tế đặt một dấu phẩy, đây chính là giây phút, là khoảnh khắc ngưng đọng, để kỷ niệm ùa về trong tâm tưởng. Những kỷ niệm ấy ngự trị trong từng khoảnh khắc thời gian “những ngày”, không gian “chiến khu”. Những hình ảnh “mưa nguồn suối lũ”, “những mây cùng mù”, “miếng cơm chấm muối”, là hình ảnh ẩn dụ cho những khó khăn gian khổ của người làm cách mạng những năm đầu kháng chiến chống Pháp tại núi rừng Việt Bắc, và chính những khó khăn ấy đã khiến cho nghĩa tình quân dân trở nên thắm thiết, keo sơn. Biện pháp nhân hóa “rừng núi nhớ ai” như thổi vào khung cảnh núi rừng nỗi nhớ thương dạt dào, sâu thẳm, từ phiếm chỉ “ai” thấm đẫm bao cảm xúc ân tình. Những cụm từ “trái bùi để rụng”, “măng mai để già” đã thể hiện nỗi buồn sâu thẳm, vắng lặng khi người cách mạng về xuôi để lại núi rừng Tây Bắc chênh vênh, lạ lẫm khi nhịp sống đột ngột thay đổi từ đông vui về vắng vẻ đìu hiu.

“Mình đi, có nhớ những nhà Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son Mình về còn nhớ núi non Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh Mình đi mình có nhớ mình Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa?”

Nỗi nhớ ấy càng được thể hiện rõ ràng hơn với từ “những nhà”, nghệ thuật đối lập trong câu thơ “Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son”, khẳng định một chân lý rằng càng khó khăn gian khổ, thì tình nghĩa quân dân lại càng thêm đoàn kết gắn bó, sắt son một lòng. Những người ở lại nhắc về kỷ niệm xưa cũ từ những ngày đầu mới quen, từ những năm còn kháng chiến chống Nhật để kỷ niệm càng thêm khắc sâu vào tâm hồn người đi. Từ “mình” được lặp lại trong câu thơ “Mình đi mình có nhớ mình” đã gợi nhớ đến câu ca dao “Ta với mình tuy hai mà một” càng khẳng định sự gắn bó thiết tha. Những địa danh vô cùng quen thuộc với người ra đi và cả người ở lại “Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa?”, gợi nhắc lại những kỷ niệm xưa cũ, hào hùng, sâu sắc tình cảm sâu sắc của những người chiến sĩ cách mạng với người dân Tây Bắc.

“Mình và ta, ta và mình Tâm ta luôn chắc, bền vững, mặn mà Ta đi, ta nhớ mình mình Nghĩa tình biển dâu bấy nhiêu...”

Lối đối đáp “mình-ta” tiếp tục được sử dụng, kết cấu “Mình và ta, ta và mình” tạo nên lời đồng vọng tha thiết. Đến đây, ta cũng là mình, mình cũng như ta. Câu thơ “Tâm ta luôn chắc, bền vững, mặn mà” đã thể hiện tình cảm thủy chung son sắt mà người cách mạng dành cho mảnh đất Việt Bắc nghĩa tình, như một lời thề trong tình yêu đôi lứa. Biện pháp so sánh trong câu “Nghĩa tình biển dâu bấy nhiêu...”, đã thể hiện một điều vô cùng thiêng liêng và sâu sắc: Nghĩa tình của con người Việt Bắc thật trong trẻo, đong đầy không có bao giờ có thể vơi cạn như tình yêu thương của lòng mẹ hiền với con cái của mình. Nhà thơ đã so sánh nỗi nhớ ở đây giống như nỗi nhớ người yêu, để trữ tình hóa tình cảm cách mạng, tình quân dân để tất cả trở nên tha thiết hơn, dịu ngọt hơn. Và cũng bởi lẽ nỗi nhớ trong tình yêu là nỗi nhớ thẳm sâu và tha thiết nhất, từ nỗi nhớ ấy, Việt Bắc hiện ra với một không gian thật thơ mộng, câu thơ “Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương” đã thể hiện nỗi nhớ lan tỏa trong không gian và ngự trị trong từng khoảnh khắc của thời gian, cả đêm lẫn ngày. Hình ảnh “Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.” gợi về một miền Việt Bắc mến thương, nồng nàn, ấm áp. Điệp ngữ “nhớ từng” cho chúng ta những cảm nhận như nhà thơ đang lật giở từng trang ký ức, Tố Hữu đã liệt kê những địa danh “sông Đáy, suối Lê” và đến hai tiếng vơi đầy khép lại đoạn thơ thì đây không chỉ còn đơn thuần là địa danh mà là nơi đong đầy kỷ niệm: Bao nhiêu nước, bao kỷ niệm đầy vơi, bao nghĩa tình ấm áp ngọt ngào.

“Ta đi, ta nhớ những ngày Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi... Thương nhau, chia củ sắn lùi Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng Nhớ người mẹ nắng cháy lưng Ðịu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô Nhớ sao lớp học i tờ Ðồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan Nhớ sao ngày tháng cơ quan Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo. Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều Chày đêm nện cối đều đều suối xa...”

Cụm từ “Ta đi ta nhớ…” là lời tâm sự chân thành và là lời nhắn nhủ tha thiết của người đi dành cho những người ở lại, của người cách mạng dành cho mảnh đất Việt Bắc anh hùng, cụm từ “Mình đây ta đó…” kết hợp với “đắng cay ngọt bùi” càng nhấn mạnh hơn những ân tình sâu thẳm. Hai tiếng “thương nhau”, thật nhẹ nhàng nhưng cũng thật sâu lắng, người đi kẻ ở “Thương nhau chia củ sắn lùi”, “Bát cơm xẻ nửa, chăn sui đắp cùng” đã thể hiện những tình cảm đùm bọc, chia sẻ, gắn bó khăng khít đậm đà nghĩa tình quân dân, chính sức mạnh đoàn kết ấy đã tạo nên chiến thắng Điện Biên Phủ lẫy lừng. Nhà thơ đã khắc họa hình ảnh người mẹ “Ðịu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô”, đây là một hình ảnh đẹp, gợi nhiều cảm xúc, từ “cháy” rất giàu hình tượng nhấn mạnh nỗi vất vả gian lao của người mẹ trong kháng chiến. Tác giả sử dụng điệp ngữ “Nhớ sao” là nỗi nhớ đầy cảm xúc cùng với đó là những hoạt động ở chiến khu Việt Bắc: Lớp học i tờ, những giờ liên hoan, ca vang núi đèo, đã tạo nên một không khí vui tươi thấm đẫm tình đoàn kết quân dân, thể hiện tinh thần lạc quan cách mạng, niềm tin cách mạng nhất định thắng lợi: Dù bom đạn, chiến tranh, đau thương, gian khổ, quân và dân vẫn gắn bó với nhau trong khúc nhạc hân hoan, rộn ràng. Đoạn thơ rất giàu nhạc điệu là khúc ca ca ngợi cuộc sống vẫn đẹp, nghĩa tình vẫn sâu chan chứa trong lòng người cách mạng và núi rừng Việt Bắc thân thơ. Câu thơ cuối khép lại với tiếng mõ, tiếng chày, tiếng suối xa gợi nhiều cảm xúc mênh mang, lan tỏa.

“Mình về, mình nhớ mình mình Mình về mình nhớ hoa cùng người Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng. Ngày xuân mơ nở trắng rừng Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang Ve kêu rừng phách đổ vàng Nhớ cô em gái hái măng một mình Rừng thu trăng rọi hòa bình Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.”

“Hình ảnh bức tranh tứ bình hiện ra tuyệt vời, câu hỏi nhẹ nhàng “Ta về có nhớ ta”, chứa đựng nhiều cảm xúc, là lời của người đi để lưu lại những kỷ niệm, những tình cảm sâu thẳm. Cụm từ “những hoa cùng người” như một biểu tượng, trong lòng người đi, hoa là hình ảnh của thiên nhiên, một bức tranh thiên nhiên đẹp và thơ mộng. Bắt đầu từ mùa đông, “hoa chuối đỏ tươi” tô điểm trên nền xanh của núi rừng, tạo ra một bức tranh sinh động, đầy màu sắc, xua đi cái lạnh của đất Việt Bắc.”

Con người hiện ra trong tư thế lao động, rất đẹp và kỳ vĩ, hình ảnh được tạo ra bởi nghệ thuật hội tụ ánh sáng của nhiếp ảnh. Mùa xuân hiện ra với cảnh “mơ nở trắng rừng”, thơ mộng và ấm áp, tạo ra một bức tranh đẹp, lung linh. Hình ảnh con người cũng trong tư thế lao động “chuốt từng sợi giang”, thể hiện một công việc cần cù, kiên nhẫn, tỉ mỉ, khắc họa vẻ đẹp của con người Việt Nam trong kháng chiến. Tiếp đến là mùa hạ tràn đầy sức sống, cảnh thiên nhiên với tiếng ve rộn rã, và sắc vàng của rừng phách. Hình ảnh “cô em gái hái măng một mình” thật đẹp và thơ mộng. Kết thúc bức tranh là cảnh mùa thu hòa bình, mùa thu của thành công trong kháng chiến, tất cả được tượng trưng trong vầng trăng đẹp lung linh. Câu thơ “Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung” kết thúc bức tranh về Việt Bắc, đồng thời khép lại khúc tình ca hào hùng về cuộc kháng chiến.”

Trong lòng người đi và người ở lại đều không thể không nhắc đến những ngày đầu của cuộc kháng chiến, khi “Giặc đến giặc lùng”, sự nguy hiểm của quân thù được thể hiện qua từ “lùng”. “Rừng cây núi đá ta cùng đánh tây” và “Đất trời ta cả chiến khu một lòng” thể hiện sự gắn bó sâu sắc của thiên nhiên và con người trong cuộc kháng chiến. Ở đây, thiên nhiên trở thành một sinh thể có linh hồn, bảo vệ bộ đội, bủa vây quân thù, hình ảnh “Núi giăng thành lũy sắt dày” kết hợp với “Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù”, thể hiện sức mạnh của dân tộc không thể bị hủy diệt. Sử dụng điệp từ “nhớ” kết hợp với những cụm từ “nhớ từ”, “nhớ sang”, những địa danh gắn liền với chiến công, tất cả cho ta cảm nhận về nỗi nhớ trải dài khắp chiến khu Việt Bắc. Lời thơ mạnh mẽ, hình ảnh thơ sinh động cùng với biện pháp nghệ thuật tu từ giúp nhà thơ khẳng định sức mạnh vĩ đại của dân tộc, cũng như bộc lộ nỗi nhớ và niềm tri ân sâu sắc đối với núi rừng Việt Bắc thấm đẫm tình thương.”

“Những đường Việt Bắc của chúng ta” thể hiện sự gắn bó sâu sắc của mảnh đất Việt Bắc, của chiến khu Việt Bắc với nhân dân với đất nước, là quê hương cách mạng, là trái tim của cả nước trong thời gian kháng chiến chống Pháp. Sử dụng so sánh “như là đất rung” kết hợp với hình ảnh “quân đi điệp điệp trùng trùng” thể hiện sức mạnh vĩ đại của đoàn quân ra tiền tuyến, đoàn quân dài như vô tận rất kỳ vĩ và hào hùng.”

Câu thơ “Những đường Việt Bắc của ta” đã thể hiện sự gắn bó sâu sắc của mảnh đất Việt Bắc, của chiến khu Việt Bắc với nhân dân với đất nước bởi đây là quê hương cách mạng là trái tim của cả nước trong những tháng ngày kháng chiến chống Pháp. Biện pháp nghệ thuật tu từ so sánh “như là đất rung” kết hợp với hình ảnh “quân đi điệp điệp trùng trùng” đã thể hiện sức mạnh vĩ đại của đoàn quân ra tiền tuyến, đoàn quân dài như vô tận rất kỳ vĩ và hào hùng.

“Câu thơ 'Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan' kết hợp ba biện pháp nghệ thuật tu từ ẩn dụ, nhân hóa, hoán dụ, hình ảnh 'ánh sao đầu súng' gợi nhớ hình ảnh 'đầu súng trăng treo' trong thơ của Chính Hữu và 'súng ngửi trời' trong thơ Quang Dũng thể hiện tầm cao của người lính, một hình ảnh đẹp và giàu chất thơ. Hình ảnh đoàn dân công mạnh mẽ, đông đúc 'đỏ đuốc từng đoàn', 'bước chân nát đá', gợi nhớ thành ngữ 'Chân cứng đá mềm' khẳng định sức mạnh và sự vững chãi, bền bỉ của con người Việt Nam trước bão tố chiến tranh. Trong đêm tối của chiến tranh, quân và dân ta luôn hướng về ngày mai, luôn nuôi dưỡng niềm tin mãnh liệt về một ngày mai chiến thắng. Và cuối cùng tin vui đã về trên khắp đất nước, những người chiến sĩ về Hà Nội, về miền xuôi, nhưng vẫn đọng lại trong trái tim họ biết bao kỷ niệm, biết bao yêu thương, họ mang theo niềm vui toàn thắng trong những ngày cuộc kháng chiến khép lại.”

“Ai về ai có nhớ không? Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang. Nắng trưa rực rỡ sao vàng Trung ương, Chính phủ luận bàn việc công Điều quân chiến dịch thu đông Nông thôn phát động, giao thông mở đường Giữ đê, phòng hạn, thu lương Gửi dao miền ngược, thêm trường các khu... Ở đâu u ám quân thù Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi Ở đâu đau đớn giống nòi Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền. Mười lăm năm ấy ai quên Quê hương cách mạng dựng nên Cộng hòa Mình về mình lại nhớ ta Mái đình Hồng Thái cây đa Tân Trào.”

“Những câu thơ cuối cùng khép lại đoạn trích là quang cảnh Việt Bắc sau chiến thắng Điện Biên Phủ, khắp nơi hân hoan trong những màu sắc rực rỡ vui tươi của nắng vàng, của cờ đỏ. Trung ương Đảng và Chính phủ thu xếp trở về thủ đô, trong không khí nhộn nhịp, miền Bắc ngày một đổi mới với chính sách mới của Đảng và nhà nước “Giữ đê, phòng hạn, thu lương/Gửi dao miền ngược, thêm trường các khu...”. Đồng thời đoạn thơ cũng là lời ngợi ca những công lao vĩ đại của Bác Hồ kính yêu, là lời tri ân sâu sắc với miền núi rừng Việt Bắc thân thương, dù mai này đã về thủ đô nhưng trong tim những người chiến sĩ cách mạng luôn giữ một góc trong tim dành cho Việt Bắc, dành cho “Mái đình Hồng Thái cây đa Tân Trào”.”

“Cả đoạn trích như một bản nhạc nhịp nhàng, tha thiết được hòa tấu bởi là khúc tình ca và khúc trường ca về cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, về những con người kháng chiến anh hùng. Thông qua khúc nhạc đẹp đẽ, hào hùng ấy nhà thơ đã bộc lộ được những tình cảm tha thiết, sâu đậm của mình dành cho vùng núi rừng Việt Bắc, ngợi ca tình đồng chí, nghĩa tình đồng bào. Qua đó, tác giả cũng nhắn nhủ đến người đọc đừng quên những trang sử hào hùng của dân tộc, những trang sử thấm đẫm máu và nước mắt, cũng là những những trang sử thấm đượm tình cách mạng, lòng yêu nước sâu sắc.”

Phân tích Việt Bắc (Mẫu 27)

Nếu nói Phan Bội Châu đã mở đầu cho nền thơ ca trữ tình chính trị, thì sau mấy chục năm, Tố Hữu đã đạt đỉnh cao, trở thành một hiện tượng văn chương lâu dài trong văn học hiện đại Việt Nam nói chung và thơ cách mạng nói riêng. Tố Hữu từ khi còn trẻ đã là nhà thơ, chiến sĩ cách mạng tận tâm, trong sáng tác và chiến đấu. Ông nhận thức lý tưởng cách mạng từ năm 18 tuổi và trở thành một trong những Đảng viên trẻ tuổi nhất, điều này đã mở đường cho sự nghiệp sáng tác của ông. Đường thơ của Tố Hữu luôn gắn liền với các sự kiện quan trọng trong lịch sử cách mạng, là tư liệu lịch sử viết bằng văn chương, kết hợp giữa tình trữ tình và chính trị. Tố Hữu là một nhà thơ lý tưởng với phong cách sáng tạo ổn định, luôn hướng đến cái chung, những tình yêu lớn, lòng trung thành với cách mạng.

Việt Bắc ra đời trong bối cảnh lịch sử đặc biệt, sau chiến dịch Điện Biên Phủ, khi hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết và pháp rút quân. Từ tháng 10/1954, cơ quan đầu não của đất nước chuyển từ Việt Bắc về Hà Nội, đánh dấu một giai đoạn mới trong lịch sử đất nước. Tố Hữu sáng tác bài thơ Việt Bắc để thể hiện tình cảm của người ra đi với người ở lại, đồng thời tổng kết 10 năm kháng chiến chống Pháp.

Khung cảnh chia tay được tái hiện qua những vần thơ sâu lắng, lưu luyến, thể hiện tình cảm gắn bó của những con người đã cùng nhau sống và chiến đấu.

“Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy còn đọng mãi.
Mình về mình có nhớ không?
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn.

- Tiếng ai rì rào ở bến
Tim xao xuyến, bước chân rờn rợn
Áo chàm đưa buổi chia ly
Cầm tay nhau, không biết nói điều gì hôm nay...”

Người ở lại đã là người nói lên trước, bằng giọng thơ ngọt ngào, cảm động, không chỉ thể hiện sự tiếc nuối khi phải xa người chiến sĩ cách mạng sau những ngày tháng gắn bó mà còn làm sống lại ký ức “Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”. Thể hiện tình cảm của cả hai bên trong buổi chia ly, với những câu “Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”. Mạch cảm xúc và cách sử dụng từ ngữ “ta-mình”, như một cuộc hội thoại của những người yêu nhau, đã tạo nên những rung cảm sâu sắc, gắn bó, thấm đẫm tình cảm, và mang lại hình ảnh đầy êm đềm của miền Tây Bắc.

“- Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa suối, mây sương?
Mình về, có nhớ khu chiến
Cơm muối, mối thù?
Mình về, rừng non nhớ ai
Trám rụng, măng già
Mình đi, có nhớ những ngôi nhà
Lau xám, lòng son
Mình về, còn nhớ núi rừng
Khi kháng Nhật, thời Việt Minh
Mình đi, có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, cây đa?

- Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn nghĩa tình bấy nhiêu...
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng đầu núi, nắng lưng nương
Nhớ từng khói, từng sương
Bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng, bờ tre
Thia, sông Ðáy, suối Lê
Ta đi, nhớ những ngày
Mình đây, đắng cay bùi...

Thương nhau, chia củ sắn lùi
Cơm sẻ nửa, chăn đắp cùng
Nhớ mẹ, nắng cháy lưng
Con lên rẫy bẻ ngô
Nhớ lớp học, đuốc sáng
Đời vẫn ca vang núi
Nhớ tiếng mõ, rừng chiều
Chày đêm, cối đều suối xa...

Người ở lại đã nhắc nhở người ra đi về những ký ức sâu sắc của quãng đời chiến đấu của dân tộc. Thể hiện những khó khăn khi cách mạng phải đối mặt với rừng núi sâu, nhiều thiếu thốn, hoàn cảnh chiến đấu khó khăn. Nhưng cũng không thể làm mất đi ý chí của những người cách mạng, với những ký ức về Việt Bắc, những con người chân chất, dũng cảm và sự gắn bó với đất nước. Người ra đi không quên những kỷ niệm, những ngày tháng khó quên với con người Việt Bắc, và cam kết sẽ giữ mãi trong lòng những tình cảm đầy ý nghĩa.

Ngoài ra, cả người và thiên nhiên của Việt Bắc, nhân vật trữ tình 'ta' - tức là người ra đi, cũng có những cảm nhận sâu sắc về vẻ đẹp hài hòa và gắn bó trong bức tranh tứ bình:

“Rừng xanh, hoa chuối đỏ rực
Ðèo cao, nắng chan hòa lưng.
Ngày xuân, rừng trắng mơ nở
Nhớ người dệt nón từng sợi giang
Ve kêu, rừng vàng lá
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu, trăng soi bình yên
Nhớ tiếng hát ân tình thủy chung”

Mùa đông hiện lên với vẻ đẹp của 'rừng xanh' sâu thẳm, gợi lên hiện thực lạnh lẽo, khắc nghiệt của núi rừng Tây Bắc, nhưng với sự hiện diện tinh tế và rực rỡ của 'hoa chuối đỏ rực', gam màu nóng đã một phần làm dịu đi cái giá rét, độc hại, mang lại sự lãng mạn, trữ tình mặc dù không hoàn toàn tránh khỏi hiện thực chiến đấu gian khổ ở đây. Hình ảnh con người nổi bật khỏe mạnh với 'nắng chan hòa lưng', thể hiện tư thế mạnh mẽ, dũng cảm khi tiến vào núi rừng, dưới ánh nắng mùa đông ấm áp, nhiệt huyết của con người trong cuộc chiến khốc liệt. Đông qua, xuân đến với cảnh 'rừng trắng mơ nở', một điểm nhấn đặc biệt của vùng núi Tây Bắc, sắc trắng tinh khôi, dịu dàng càng làm tôn lên sự dẻo dai, khéo léo của con người ở đây với công việc lao động tỉ mỉ 'từng sợi giang'. Bức tranh mùa hè được gợi lên không chỉ trong phần hình ảnh, mà còn trong âm thanh, với tiếng ve kêu rộn ràng, cùng cảnh 'rừng vàng lá', tạo cho người đọc cảm giác sống động, tràn đầy năng lượng, trong khi con người vẫn miệt mài lao động trong khung cảnh đó. Hình ảnh cô em gái giản dị, ngồi hái măng một mình, gợi lên sự yêu thương, nhớ nhung và xúc động. Kết thúc bức tranh là cảnh 'trăng soi bình yên' của mùa thu, một hình ảnh mang nhiều ý nghĩa. Trăng luôn tượng trưng cho cái đẹp, dịu dàng, thanh nhã, cũng như sự đoàn tụ, viên mãn, đồng thời liên quan đến rằm tháng tám tròn trịa. Trong câu thơ này, 'trăng soi bình yên' cũng là biểu tượng cho sự bình yên, tươi sáng. Đồng thời, cũng là lúc người chiến sĩ chuẩn bị trở về Hà Nội, nên hình ảnh con người Việt Bắc đã hiện lên sâu sắc trong 'tiếng hát ân tình thủy chung' sau bao năm gắn bó. Có thể nói bức tranh của Việt Bắc là một điểm nhấn quan trọng và đặc sắc của tác phẩm, không chỉ thể hiện vẻ đẹp của con người và thiên nhiên ở đây mà còn là một biểu tượng cho quá trình kháng chiến từ mùa đông đến mùa thu, thể hiện sự quan sát tinh tế, sự khéo léo và tình cảm gắn bó của Tố Hữu với vùng đất này.

Nỗi nhớ, tình cảm gắn bó, quyến luyến của người ra đi không chỉ nằm trong những ký ức về cảnh sống, cảnh sinh hoạt mà còn thông qua quãng đường chiến đấu và hy sinh của cách mạng. Tuy Tố Hữu không đi sâu vào miêu tả chi tiết các trận đánh lịch sử mà chỉ điểm lại đồng thời bộc lộ những cảm xúc bùi ngùi, tha thiết nhưng cũng đủ để gợi nhắc về một thời chiến đấu gay go của dân tộc ta trong núi rừng Tây Bắc.

“Nhớ khi kẻ thù đến giam giữ
Rừng núi chúng ta cùng đánh giặc phương Tây
Núi đặt hàng rào sắt dày
Rừng bao che bộ đội, mênh mông bốn phía mây sương mù
Ðất trời ta cùng chiến đấu không khuất phục.

Có ai quay về đã nhớ không?
Tôi quay về, nhớ Phủ Thông, đèo Giàng
Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng
Nhớ từ Cao-Lạng nhớ sang Nhị Hà...
Những con đường của Việt Bắc
Ðêm đêm rền như đất rung
Quân điệp điệp trùng trùng
Ánh sao trên đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc từng đội
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
Ngàn đêm sương dày thăm thẳm
Ðèn pha sáng như ngày mai lên.
Tin vui chiến thắng trên khắp miền
Hoà Bình, Tây Bắc, Ðiện Biên vui vẻ”
|Vui từ Ðồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng”

Từ những ngày chiến đấu gian khổ “kẻ thù đến giặc lùng”, nhưng nhờ có sự đoàn kết quân dân một lòng, ý chí chiến đấu mạnh mẽ, kiên cường, rừng núi trước đây vốn hiểm trở, mang lại nhiều khó khăn cho cách mạng, ngày nay đã trở thành người bạn chiến đấu, “lũy sắt dày”, che chở cho bộ đội lại vây khốn quân thù, trợ lực cho quân đội ta trong suốt cuộc kháng chiến trường kỳ. Rồi sau những ngày còn bỡ ngỡ, non yếu lực lượng ta ngày một mạnh mẽ, kiêu hùng, anh dũng trong chiến đấu vang vọng cả một miền rừng Việt Bắc, ngày một tiến dần đến chiến thắng sau cùng.

Có ai quay về đã nhớ không?
Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang.
Nắng trưa rực rỡ sao vàng
Trung ương, Chính phủ bàn bạc công việc
Ðiều quân chiến dịch thu đông
Nông thôn khuyến khích, giao thông mở đường
Giữ đê, phòng hạn, thu lương
Gửi dao miền ngược, thêm trường các khu...

Ở nơi kẻ thù u ám
Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi
Ở nơi đau đớn giống nòi
Nhìn về Việt Bắc để nuôi dưỡng lòng bền.
Mười lăm năm ấy ai quên
Quê hương cách mạng xây dựng Cộng hoà
Tôi quay về, tôi lại nhớ
Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào”

Phần cuối của đoạn trích, mặc dù chưa phải là kết thúc của tác phẩm, nhưng lại có ý nghĩa đánh dấu sự thắng lợi vẻ vang của cuộc kháng chiến chống Pháp từ những năm 1940 đến năm 1954. Mở ra một kỷ nguyên mới cho đất nước, dù vẫn bị chia cắt hai miền nhưng lại là động lực lớn cho công cuộc thống nhất đất nước, miền Bắc đi vào xây dựng kiến thiết đất nước, tiến lên chủ nghĩa xã hội. Khẳng định niềm tin vào Đảng và Bác Hồ, vào sự đúng đắn của cách mạng, cũng như niềm hy vọng vào một tương lai tươi sáng của dân tộc.

Việt Bắc là một kiệt tác, điểm cao trong sự nghiệp sáng tác của Tố Hữu cũng như trong văn học Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Bài thơ sử dụng cấu trúc đối đáp quen thuộc trong ca dao, dân ca, với lối xưng hô thân mật “mình” và “ta”, nhấn mạnh tình cảm, ân tình, và sử dụng thể thơ lục bát truyền thống. Tác phẩm thể hiện sự lưu luyến, chia ly, và sự gắn bó sâu đậm của quân dân trong cuộc kháng chiến, đồng thời kết luận một giai đoạn lịch sử đầy gian khổ, hào hùng của dân tộc, thể hiện lòng trung thành của cách mạng với chiến khu Việt Bắc, niềm tự hào và hy vọng vào tương lai tươi sáng của đất nước.

Phân tích Việt Bắc (Mẫu 28)

Những ngày tháng chiến đấu chống thực dân Pháp đầy gian khổ của nhân dân ta cuối cùng cũng giành được thắng lợi vô cùng vẻ vang, huy hoàng. Để làm nên thành công đó không thể không nhắc đến đóng góp của thơ văn cổ vũ cách mạng nêu lên tinh thần đấu tranh, khí thế hừng hực của nhân dân ta. Tố Hữu chính là một nhà thơ lớn, có những tác phẩm vô cùng nổi bật ở giai đoạn này. Một trong những tác phẩm tiêu biểu của ông nói về tình cảm khăng khít, gắn bó sâu nặng giữa quân và dân ta là bài thơ Việt Bắc.

Tố Hữu là một trong những lá cờ đầu của nền văn nghệ cách mạng thể hiện lẽ sống, lí tưởng, tình cảm của con người Việt Nam hiện đại. Thơ ông mang đậm chất trữ tình chính trị sâu sắc: hướng đến cái chung về lẽ sống lớn, tình cảm lớn, niềm vui lớn của con người Cách mạng và của cả dân tộc, coi những sự kiện chính trị lớn của đất nước là đối tượng thể hiện chủ yếu, luôn đề cập đến những vấn đề có ý nghĩa lịch sử và có tính toàn dân. Bên cạnh đó, ông còn là nhà thơ khéo léo trong việc kết hợp các biện pháp nghệ thuật: Giọng thơ mang tính chất tâm tình, đằm thắm, chân thành; vận dụng những thể thơ truyền thống của dân tộc, sử dụng cách nói quen thuộc với dân tộc. Đặc biệt ông phát huy cao độ tính nhạc phong phú của tiếng Việt, từ láy, thanh điệu, vần thơ,…

Tập thơ Việt Bắc là một trong những sáng tác vô cùng nổi tiếng của ông. Bài thơ là tiếng ca hùng tráng, thiết tha về cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và những con người kháng chiến; ca ngợi Đảng và Bác Hồ, tình quân - dân, tiền tuyến - hậu phương, miền xuôi - ngược, cán bộ - quần chúng, nhân dân với lãnh tụ, thiên nhiên, đất nước con người,…

Mở đầu đoạn trích là khung cảnh chia tay của người ở lại và người chiến sĩ ra đi, trở về miền xuôi:

Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không?
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn.”

Người ở lại mở lời bắt đầu cho cuộc đối thoại giữa người đi - kẻ ở trong khung cảnh chia tay. Bao nhiêu suy tư, trăn trở của người ở lại được gửi gắm vào những câu hỏi dành cho người ra đi: liệu rằng người ra đi có nhớ về khoảng thời gian mười lăm năm gắn bó thiết tha, mặn nồng đã qua hay không? Có nhớ về con người, thiên nhiên, căn cứ đầu não cách mạng của nơi này hay không? Chỉ với bốn câu thơ nhưng người dân Việt Bắc đã tái hiện toàn bộ những gì hai bên đã có với nhau: đó là thời gian dài đằng đẵng, là những kỉ niệm đã có cùng nhau. Tố Hữu vô cùng khéo léo khi vận dụng cách xưng hô “mình - ta” vốn được dùng trong lối đối đáp xưa vào bài thơ của mình cùng với câu hỏi tu từ, điệp từ “nhớ” càng gây ấn tượng với bạn đọc về nét giản dị, mộc mạc nhưng vô cùng chân thành của con người nơi đây.

Trước tình cảm, sự trân thành của người dân Việt Bắc, người ra đi bịn rịn không nói nên lời:

“- Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…”

Những tính từ “tha thiết, bâng khuâng, bồn chồn” đã diễn tả vô cùng chính xác, chân thực tình cảm của người ra đi trước giờ phút chia tay đầy quyến luyến. Có thể thấy, bốn câu thơ là vùng đất trù phú của các biện pháp nghệ thuật. Bên cạnh việc sử dụng tính từ, Tố Hữu đã sử dụng vô cùng thành công trong việc sử dụng biện pháp nghệ thuật hoán dụ: mượn hình ảnh áo chàm - vật dụng quen thuộc với người nông dân để chỉ những con người lao động chất phác của mảnh đất này. Vào khoảnh khắc chia tay đầy xúc động ấy, người đi kẻ ở bịn rịn, quyến luyến không nói nên lời. Tất cả tình cảm được thể hiện qua cái cầm tay, bởi khoảng thời gian mười lăm năm gắn bó đã đủ làm họ hiểu nhau, chỉ cần nhìn vào mắt nhau cũng có thể thấu hiểu tâm tư tình cảm của người còn lại. Phép im lặng (dấu “…”) cuối câu làm cho không gian của buổi chia tay như trùng xuống, tĩnh lặng và cũng để cả hai nhớ về thời gian bên nhau:

“- Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù?
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Mình về, còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?”

Trong không gian tĩnh lặng của buổi chia tay ấy, người ở lại mở lời, hỏi người ra đi về những kỉ niệm trong khoảng thời gian mười lăm năm gắn bó. Bao nhiêu suy tư, trăn trở đến đây đã bật ra thành câu hỏi. Đó là những lời nhắc nhớ về những ngày “mưa nguồn suối lũ, mây cùng mù”, về “miếng cơm chấm muối”… tuy khó khăn gian khổ nhưng vẫn luôn vui vẻ, đoàn kết một lòng một dạ đấu tranh. Khi người chiến sĩ về miền xuôi, không chỉ con người nơi đây hụt hẫng mà ngay cả thiên nhiên cũng bơ vơ (trám bùi để rụng, măng mai để già). bên cạnh việc nhắc nhớ người ra đi về thiên nhiên, người ở lại cũng nhắc người ra đi nhớ về chính mình: “mình đi có nhớ những nhà/ Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son” và về những kỉ niệm ở nơi đây: “Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh”. Đến đây không còn cách xưng hô mình - ta nữa mà chuyển sang xưng hô mình - mình. Người ra đi và người ở lại như hòa vào làm một.

Trước những câu hỏi, lời nhắc nhớ của người ở lại cuối cùng, người ra đi cũng lên tiếng:

“- Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu…”

Người ra đi khẳng định tấm lòng thủy chung son sắt trước sau như một của mình với người ở lại qua từ “đinh ninh”. Người ra đi luôn nhớ về người ở lại, nỗi nhớ ấy luôn đong đầy như nước đầu nguồn không bao giờ vơi đi.

Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia sông Ðáy, suối Lê vơi đầy”

Nỗi nhớ người dân Việt Bắc của người ra đi được ví như nhớ người yêu, luôn thường trực trong trái tim bất kể là ngày hay đêm. Người chiến sĩ nhớ về những kỉ niệm gắn bó với nhân dân và thiên nhiên Việt Bắc: những đêm trăng, nương rẫy tràn ngập ánh nắng, những bản làng ngập trong làn khói thổi cơm chiều, những con người cần mẫn, chăm chỉ “đi sớm về khuya” ở nơi đây. Nỗi nhớ ấy được khắc họa chi tiết nhất là khi người chiến sĩ nhớ về cụ thể từng rừng nứa, bờ tre, ngòi Thia, sông Đáy.

“Ta đi, ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi...
Thương nhau, chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Ðịu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô
Nhớ sao lớp học i tờ
Ðồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa…”

Người ra đi nhớ về những ngày cùng người dân chiến đấu gian khổ: chia nhau củ sắn, bát cơm sẻ nửa, chia sẻ nhau chiếc chăn sui tuy khó khăn nhưng luôn đoàn kết, đồng lòng chiến đấu. Nỗi nhớ dâng trào hơn khi người chiến sĩ nhớ về người mẹ dân tộc vùng nơi đây địu con nhỏ lên rẫy, những lớp bình dân học vụ, những giờ liên hoan vui vẻ, những ngày ở cơ quan tuy gian nan nhưng vẫn lạc quan hát vang bài ca, những tiếng mõ chiều đuổi trâu về nhà và cả những tiếng nện chày giã gạo những đêm trăng phục vụ cách mạng. Tất cả đều là những kỉ niệm đẹp đẽ không thể nào phai trong lòng người chiến sĩ.

“Ta về, mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hoà bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.”

Có thể nói, đây là những vần thơ, ý thơ đẹp đẽ nhất mà người ra đi dành cho con người và thiên nhiên Việt Bắc. Hai câu thơ đầu người ra đi khẳng định mình luôn nhớ về thiên nhiên và con người nơi đây. Mở đầu bức tranh tứ bình của Việt Bắc là hình ảnh “hoa chuối đỏ tươi” tô điểm cho khu rừng xanh thêm rực rỡ màu sắc, hòa vào đó là ánh nắng vàng làm cho bức tranh mùa đông của nơi đây không chỉ ngập tràn màu sắc mà còn vô cùng ấm áp. Mùa xuân được khắc họa với đặc trưng “mơ nở trắng rừng” với một màu trắng tinh khiết, giữa khung cảnh thơ mộng ấy là hình ảnh con người cần mẫn, tỉ mỉ, khéo léo chuốt từng sợi giang để đan nón. Khép lại bức tranh mùa xuân cũng là lúc bước vào mùa hè với tiếng “ve kêu rừng phách đổ vàng” gợi liên tưởng tiếng ve như bát sơn vàng sóng sánh đổ lên rừng gỗ xanh khiến tất cả chuyển sang một màu vàng rực rỡ. Khép lại bức tranh tứ bình là mùa thu với hình ảnh “rừng thu trăng rọi hòa bình” vô cùng yên bình, trong trẻo gợi cảm giác thanh mát, hòa vào khung cảnh đó là tiếng hát ân tình thủy chung của người dân dạt dào tình cảm. Bức tranh tứ bình không chỉ giúp ta tưởng tượng ra thiên nhiên tươi đẹp nơi đây mà còn giúp ta hiểu hơn về con người Việt Bắc cũng như thêm yêu mến nơi này. Sở dĩ mở đầu bức tranh là mùa đông lạnh lẽo và kết thúc bằng mùa thu hòa bình vì người chiến sĩ chia tay đồng bào Việt Bắc quay về thủ đô vào mùa đông nên nỗi nhớ được bắt nguồn từ đó. Không những vậy, nó còn mang dụng ý: mùa đông là khi đất nước ta chìm trong kiếp lầm than, nô lệ khi bị xâm lược, mùa xuân là giai đoạn chuẩn bị cho cuộc cách mạng, mùa hạ là khi cuộc chiến sôi nổi diễn ra và mùa thu là mùa ta giành lại độc lập.

Ngoài bức tranh tứ bình, người ra đi còn nhớ về những ngày tháng chiến đấu gian khổ:

“Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây
Núi giăng thành luỹ sắt dày
Rừng che bộ đội rừng vây quân thù
Mênh mông bốn mặt sương mù
Ðất trời ta cả chiến khu một lòng.”

Kỉ niệm về những ngày chiến đấu hiện về trong kí ức của người ở lại. Cả “rừng cây núi đá” và con người đồng lòng đánh giặc. Biện pháp nghệ thuật nhân hóa: “núi giăng, rừng che” đã làm cho thiên nhiên trở thành những chiến hữu khổng lồ dốc hết sức lực che chắn, bảo vệ bộ đội khỏi quân thù, cùng bộ đội ta bao vây, tiêu diệt chúng. Cả đất trời và con người đồng lòng đánh giặc và mong đợi ngày kháng chiến thắng lợi thể hiện quyết tâm cao độ của đầu não chiến khu này.

“Ai về ai có nhớ không?
Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng
Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng
Nhớ từ Cao - Lạng nhớ sang Nhị Hà…”

Câu hỏi tu từ “Ai về ai có nhớ không?” thể hiện tâm tư, tình cảm của người ra đi và lời khẳng định “Ta về ta nhớ…” cho thấy dù bất kì người nào khác rời chiến khu Việt Bắc với tâm trạng như thế nào không biết nhưng người chiến sĩ thì sẽ luôn nhớ về con người, thiên nhiên và những địa danh nơi đây (Phủ Thông, đèo Giàng, sông Lô, phố Ràng, Cao - Lạng, Nhị Hà) gắn liền với những kỉ niệm chiến đấu và chiến thắng của họ.

Không chỉ nhớ về những địa danh của chiến khu, người ra đi còn nhớ về những ngày chiến đấu và chiến thắng:

“Những đường Việt Bắc của ta
Ðêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Ðèn pha bật sáng như ngày mai lên.
Tin vui chiến thắng trăm miềm
Hoà Bình, Tây Bắc, Ðiện Biên vui về
Vui từ Ðồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.”

Những ngày hành quân của ta vô cùng khí thế và những khí thế đó được thể hiện qua động từ mạnh “rầm rập, đất rung, nát đá” tưởng như mặt đất đang rung chuyển dưới những bàn chân trong cuộc hành quân hùng hậu từ khắp các ngả đường. Từ láy “điệp điệp, trùng trùng” miêu tả khí thế, quyết tâm, sức mạnh tinh thần của hàng nghìn con người ra trận. Những bước đi của họ có thể làm cho “muôn tàn lửa bay” chính tinh thần yêu nước, quyết tâm đánh giặc này đã tạo nên sức mạnh đại đoàn kết dân tộc giúp quân và dân ta làm nên những điều lớn lao. Bên cạnh đó, hình ảnh đối lập “thăm thẳm sương dày/ Đèn pha bật sáng…”: khẳng định niềm tin, lạc quan, luôn tin tưởng vào thắng lợi của cuộc chiến đấu, của ngày mai tươi sáng.

Sau những khó khăn, những giờ phút cùng nhau chiến đấu vất vả, khổ cực, đến cuối cùng quân và dân ta đã dành được những chiến thắng to lớn từ khắp các mặt trận trên cả nước, từ Bắc vào Nam: Hoà Bình, Tây Bắc, Ðiện Biên, Ðồng Tháp, An Khê, Việt Bắc, đèo De, núi Hồng. Tất cả như vỡ òa, bao nhiêu công sức, bao nhiêu khổ cực mà ta phải trải qua đã mang về thành quả vô cùng xứng đáng - độc lập tự do. Đến đây chúng ta có thể khẳng định vai trò của Việt Bắc - là quê hương, là căn cứ địa vững chắc của cách mạng, là đầu não của cuộc kháng chiến, nơi hội tụ bao tình cảm, suy nghĩ, niềm tin và hi vọng của mọi người Việt Nam yêu nước.

Sau những hồi tưởng về cuộc chiến đấu và thắng lợi, người ra đi nhớ ngược về những ngày chuẩn bị cho cuộc chiến đấu đó:

“Ai về ai có nhớ không?
Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang.
Nắng trưa rực rỡ sao vàng
Trung ương, Chính phủ luận bàn việc công
Ðiều quân chiến dịch thu đông
Nông thôn phát động, giao thông mở đường
Giữ đê, phòng hạn, thu lương
Gửi dao miền ngược, thêm trường các khu…”

Giai đoạn chuẩn bị này đã cho thấy khí thế hừng hực của quân và dân ta. Người ra đi nhớ về những ngày tháng cùng đồng đội ở căn cứ địa chiến đấu: đó là những giờ đi họp, bàn bạc, đưa ra sách lược, điều quân cho chiến dịch; những khi nhận được mệnh lệnh di chuyển để thực hiện nhiệm vụ,… cả tiền tuyến và hậu phương rộn ràng khí thế. Người chiến sĩ ở mặt trận chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu còn người ở hậu phương ra sức tăng gia sản xuất cung cấp lương thực cho chiến khu. Tất cả thể hiện tinh thần đồng lòng, quyết tâm đánh giặc của cả dân tộc, đất nước, con người Việt Nam.

Bên cạnh những kỉ niệm của người ra đi và kẻ ở lại, người ra đi còn nhắn nhủ con người về sự quan trọng của chiến khu Việt Bắc:

“Ở đâu u ám quân thù
Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi
Ở đâu đau đớn giống nòi
Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền.
Mười lăm năm ấy ai quên
Quê hương cách mạng dựng nên Cộng hoà
Mình về mình lại nhớ ta
Mái đình Hồng Thái cây đa Tân Trào.”

Tác giả khẳng định vai trò Việt Bắc là quê hương, là căn cứ địa vững chắc của cách mạng, là đầu não của cuộc kháng chiến, nơi hội tụ bao tình cảm, suy nghĩ, niềm tin và hi vọng của mọi người Việt Nam yêu nước. Ở bất cứ đâu trên đất nước này, bất cứ giai đoạn nào con người sống trong cảnh lầm than của ách đô hộ hãy hướng về Việt Bắc, về chiến khu, lấy đó làm động lực để chiến đấu vì chính nơi đây đã chiến thắng vẻ vang cho cả dân tộc.

Bên cạnh lời khẳng định tầm quan trọng của căn cứ cách mạng, người ra đi một lần nữa khẳng định tình cảm của mình: người ra đi sẽ luôn nhớ về 15 năm kháng chiến gian khổ để lấy lại độc lập cho nước nhà và luôn nhớ về những con người, thiên nhiên, địa danh nơi đây.

Đoạn trích nói riêng và bài thơ nói chung không chỉ là những kỉ niệm trong mười lăm năm gắn bó của người chiến sĩ với nhân dân Việt Bắc mà còn là tình cảm gắn bó keo sơn, trước sau như một của người đi kẻ ở. Bên cạnh đó tác giả còn thể nêu cao tầm quan trọng của chiến khu Việt Bắc đối với cách mạng và độc lập của nước nhà. Tất cả nhưng tâm tư, tình cảm này được tác giả thể hiện chân thực nhất qua thể thơ lục bát và cách xưng hộ “mình - ta” vốn quen thuộc trong dân gian và các câu hỏi tu từ, liệt kê, hoán dụ… vô cùng tinh tế và đặc sắc đã góp phần không nhỏ vào việc làm nên thành công cho tác phẩm.

“Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”.

Có lẽ vì thế mà quê hương cách mạng Việt Bắc đã không ngần ngại chắp cánh cho hồn thơ Tố Hữu viết nên thi phẩm cùng tên. Nhiều năm tháng qua đi nhưng tác phẩm vẫn giữ nguyên những giá trị, ý nghĩa tốt đẹp của nó và để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc.

con người Việt Bắc tại Cao Bằng

Phân tích Việt Bắc (Mẫu 29)

Là một trong số những gương mặt tiêu biểu của thơ ca kháng chiến, với tư cách là một nhà thơ – chiến sĩ, Tố Hữu đã góp vào nền văn học cách mạng nói riêng và nền văn học Việt Nam nói chung nhiều tác phẩm có giá trị với một phong cách nghệ thuật rất riêng. Và có thể nói, “Việt Bắc” là một trong số những sáng tác tiêu biểu của ông. Bài thơ được sáng tác vào tháng 10 năm 1954, nhân sự kiện trung ương Đảng và Chính phủ cùng những người cách mạng từ căn cứ miền núi trở về miền xuôi.

“Việt Bắc” với việc sử dụng cặp đại từ nhân xưng “mình” – “ta” cùng kết cấu đối đáp vốn quen thuộc trong ca dao, dân ca giúp người đọc hình dung ra cuộc chia tay giữa nhân dân với trung ương Đảng, Chính phủ như cuộc chia tay của một đôi trai gái, đầy bịn rịn, lưu luyến, nhớ thương và qua đó làm cho nỗi niềm cảm xúc của nhân vật trữ tình được dài bày một cách đầy đủ, vẹn tròn và sâu sắc nhất. Có thể nói, bài thơ được chia làm hai lời đối đáp giữa kẻ ở và người đi.

Tám câu thơ đầu bài thơ là lời đối đáp thứ nhất của người ra đi và người ở lại. Để rồi, qua lời đối đáp ấy người đọc có thể hình dung thấy khung cảnh chia tay lưu luyến, nói chẳng nên lời giữa nhân dân Việt Bắc với những người cán bộ:

Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi nhìn cây nhớ nguồn.

Với việc sử dụng phép điệp cấu trúc “mình về mình có nhớ…” dưới hình thức một câu hỏi, qua đó người ở lại gợi nhắc lại những kỉ niệm sâu sắc trong thời gian “mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng” – mười lăm năm nghĩa tình, mười lăm năm gắn bó thủy, mười lăm năm đồng cam cộng khổ mà người dân Việt Bắc và những người cán bộ đã sát cánh bên nhau. Và trước những lời ướm hỏi đầy chân tình ấy của nhân dân, của người ở lại, người ra đi đã không thể che dấu nỗi lòng mình. Để rồi, có lẽ, sẽ chẳng ai có thể nào quên được khung cảnh những người “áo chàm” tiễn cán bộ về xuôi, tay trong tay nói chẳng nói chẳng nên lời giữa kẻ ở người đi. Khung cảnh bịn rịn ấy được thể hiện rõ nét qua hàng loạt các từ thể hiện cảm xúc của người ra đi “bâng khuâng”,”bồn chồn”, “cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”,…

Nếu như tám câu thơ đầu bài thơ là lời đối đáp thứ nhất của người ra đi và người ở lại thì phần còn lại của bài thơ chính là lời đối đáp thứ hai. Mở đầu lời đối đáp thứ hai là lời của người ở lại với mười hai câu thơ. Dường như, trong nỗi niềm của người ở lại, câu hỏi “có nhớ” luôn là nỗi quan tâm duy nhất, luôn thường trực trong họ và xuyên suốt toàn bộ tác phẩm. Và nếu như ở lời đối đáp thú nhất, lời hỏi “có nhớ” của người ở lại chỉ là lời ướm hỏi thì đây, người ở lại đã gợi nhắc lại một cách chi tiết, cụ thể những kỉ niệm son sắt trong quãng thời gian mười lăm năm. Đó là những kỉ niệm dẫu khó khăn, gian nan nhưng tràn đầy ân nghĩa và tấm lòng lạc quan, niềm tin yêu giữa cán bộ và nhân dân. Đặc biệt, ở đây, điệp từ “có nhớ” lại thêm một lần nữa được điệp lại nhiều lần như khắc sâu vào trái tim, vào nỗi lòng của cả người ra đi và người ở lại.

Và rồi, trước lời của người ở lại, người ra đi đã khẳng định một cách chắc chắn về nỗi nhớ con người, cảnh vật nơi đây, lời đáp của người ra đi như một lời thề thủy chung son sắt – lời thề về một nỗi nhớ khôn nguôi, da diết:

Ta với mình mình với ta
Tình ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu.

Và rồi, trong lời đáp của mình, người ra đi đã vẽ lại một cách chân thực và sâu sắc từng kỉ niệm, từng ấn tượng của mình của thiên nhiên, về con người và về những năm tháng gian khổ mà hào hùng, những ân tình giữa người ra đi và người ở lại. Trước hết, đó là nỗi nhớ về thiên nhiên Việt Bắc. Trong cảm nhận của người ra đi, thiên nhiên Việt Bắc hiện lên thật vẹn tròn, mang đầy đủ những đặc trưng rất riêng của núi rừng Việt Bắc – một bức tranh thiên nhiên mờ ảo, hư thực, gần gũi và thân quen. Đó là ánh trăng thanh bình giữa núi ngàn bao la, mênh mông với hình ảnh đậm chất thơ “trăng lên đầu núi”. Đó là “nắng chiều lưng nương” – ánh nắng chan hòa, ấm áp mỗi buổi chiều. Đó là những bản làng chìm trong màn sương trông thật huyền ảo với những ảnh lửa bập bùng trong đêm tối và cả những rừng nứa, bờ tre, suối Lê – những hình ảnh rất riêng, là điệu hồn riêng củ núi rừng Tây Bắc.

Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy

Không dừng lại ở đó, bức tranh thiên nhiên Việt Bắc trong nỗi nhớ của người ra đi đó còn là bức tranh tứ bình, để rồi trong đó, người đọc cảm nhận được sự chuyển mình của thiên nhiên, của cảnh vật Việt Bắc ở mỗi mùa trong năm. Mùa đông, thiên nhiên Việt Bắc hiện lên với vẻ hài hào giữa nền xanh của rừng cây bạt ngàn chính là sắc đỏ của những bông hoa chuối rừng – “rừng xanh hoa chuối đỏ tươi” – sự kết hợp hài hòa ấy tạo cho bức tranh mùa xuân nơi đây thêm thật đẹp, thật ấm áp và ánh lên sức sống. Xuân qua, đông tới, thiên nhiên Việt Bắc khoác lên mình sắc trắng của hoa mơ – loài hoa đặc trưng, báo hiệu xuân về trên mảnh đất Việt Bắc. Sắc trắng của hoa mơ như bung tỏa khắp mọi không gian của núi rừng – “ngày xuân mơ nở trắng rừng”. Và để rồi, hè về, thiên nhiên nơi đây lại nhanh chóng, đột ngột chuyển mình. Dường như, tiếng “ve kêu” đã làm cho “rừng phách đổ vàng”, rừng phách đã chuyển mình, đã bừng tỉnh để đón hè về. Đặc biệt, trong bức tranh ấy, hình ảnh mùa thu với ánh trăng hòa bình gợi nên trong chúng ta thật nhiều nỗi niềm, thật nhiều ấn tượng.

Nhớ về Việt Bắc, người ra đi không chỉ nhớ về vẻ đẹp rất riêng của thiên nhiên và còn nhớ cả về những con người ân nghĩa nơi mảnh đất này. Đó là hình ảnh những người mẹ kháng chiến vất vả, lam lũ, cơ cực nhưng cần cù chịu khó:

Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô.

Vất vả, lam lũ là thế nhưng những con người nơi đây vẫn sống với nhau thật thủy chung, tình nghĩa, họ luôn đồng cam cộng khổ với nhau, chia ngọt sẻ bùi, lạc quan, yêu đời để cùng nhau vượt qua những năm tháng khó khăn, gian nan của cuộc kháng chiến.

Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng
(…)
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang nùi đèo

Đồng thời, hình ảnh con người Việt Bắc mỗi mùa một công việc khác nhau nhưng luôn hiện lên trong tư thế lao động, tư thế làm chủ quê hương, đất nước. Có lẽ, người đọc sẽ không thể nào quên được hình ảnh tỉ mỉ, cẩn thận “người đan nón chuốt từng sợi giang”, là hình ảnh “cô em gái hái măng một mình” và đó còn là “tiếng hát ân tình thủy chung” gợi nên trong lòng người ra đi bao nhiêu nghĩ suy, bao nhiêu ân nghĩa. Như vậy, trong nỗi nhớ của người ra đi, hình ảnh thiên nhiên và con người Việt Bắc hiện lên thật đẹp.

Đặc biệt, nhớ về Việt Bắc, người ra đi còn nhớ về một Việt Bắc hào hùng trong kháng chiến. Với giọng thơ hào hùng, mạnh mẽ, nhanh, dồn dập đã góp phần diễn tả sự hào hùng của Việt Bắc trong những năm tháng kháng chiến. Đồng thời, việc lựa chọn sử dụng các hình ảnh cũng để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc. Nhớ về Việt Bắc trong kháng chiến là nhớ tới một không gian “những đường Việt Bắc của ta” – một không gian rộng lớn, bao la, mênh mông, một bối cảnh rộng. Để rồi, trên cái nền không gian rộng lớn, mênh mông ấy, hình ảnh quân và dân ta hiện lên thật đẹp, thật hùng dũng. Khí thế ấy hiện lên thật rõ nét qua hình ảnh những đoàn quân nối tiếp nhau ra trận, đoàn quân này nối tiếp đoàn quân khác tạo nên một đoàn quân dài, cứ thế nối nhau “quân đi điệp điệp trùng trùng”,“dân quân đỏ đuốc từng đoàn” đồng thời, đó còn là hình ảnh “đèn pha bật sáng”. Tất cả, tất cả những hình ảnh ấy quyện hòa vào nhau, bổ sung cho nhau để vẽ nên một Việt Bắc với khí thế dũng mãnh, dồn dập, dường như tất cả cùng nhau ra trận, người người đánh giặc, nhà nhà đánh giặc – hình ảnh một Việt Bắc hào hùng, anh dũng trong những năm tháng chống Pháp. Không chỉ nhớ về khí thế hào hùng của Việt Bắc, người ra đi còn nhớ và tái hiện lại những chiến thắng vang dội, lẫy lừng của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến trường kì chống thực dân Pháp xâm lược.

Tin vui chiến thắng trăm miền
Hào Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về
Vui từ Đồng Tháp. An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.

Thêm vào đó, trong mười sáu câu thơ cuối của bài thơ, tác giả còn nêu bật lên cho chúng ta thấy vai trò, vị trí to lớn của Việt Bắc trong những năm tháng quân và dân ta chống thực dân Pháp xâm lược. Việt Bắc trước hết là quê hương cách mạng, là đầu não, là cái nôi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Đồng thời, Việt Bắc còn là nơi khích lệ, cổ vũ tinh thần chiến đấu của quân và dân ta, nơi tiếp thêm cho quân và dân ta niềm tin, niềm hi vọng về ngày chiến thắng, về ngày hòa bình của dân tộc, của Tố quốc.

Ở đâu u ám quân thù
Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi
Ở đâu đau đớn giống nòi
Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền.

Để rồi, sau tất cả, hai câu kết thúc bài thơ như một lần nữa cất lên lời thề thủy chung son sắt với nhân dân, với quê hương cách mạng.

Mình về mình lại nhớ ta
Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào.

Tóm lại, bài thơ với việc sử dụng cặp đại từ nhân xưng “mình” – “ta” cùng kết cấu đối đáp quen thuộc đã tạo nên một cuộc chia tay đầy nhớ thương giữa cán bộ với nhân dân Việt Bắc. Bài thơ như một khúc tình ca cách mạng về cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và là khúc ca tình nghĩa giữa những con người trong cuộc kháng chiến gian khổ ấy. Đồng thời, qua đoạn trích cúng giúp chúng ta hiểu hơn về phong cách thơ của Tố Hữu.

Phân tích Việt Bắc (Mẫu 30)

Đất nước Việt Nam đã trải qua những năm đấu tranh kháng chiến để giữ gìn độc lập tự do, có những con người thầm lặng góp sức tinh thần trong chiến đấu qua những lời thơ, lời văn thể hiện. Trong các tác phẩm văn chương đó có thể kể đến bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu. Tác phẩm là tấm chân tình trong buổi chia tay đầy lưu luyến giữa tình cảm giữa nhân nhân Việt Bắc và cán bộ cách mạng.

Những bài thơ lớn của Tố Hữu đều sáng tác vào những điểm mốc của lịch sử cách mạng Việt Nam. Bài thơ “Việt Bắc” – kiệt tác của Tố Hữu cũng được sáng tác trong một thời điểm trọng đại của đất nước. Tố Hữu một nhà thơ được sinh ra ở làng Phù Lai, nay thuộc xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên – Huế. Sinh ra trong một gia đình nghèo, từ nhỏ ông đã được học và tập làm thơ.

Tố Hữu được giải nhất Giải thưởng Văn học Hội Văn nghệ Việt Nam 1954 – 1955 (tập thơ Việt Bắc). Giải thưởng Văn học ASEAN (1996). Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học – nghệ thuật (đợt 1 năm 1996). Tố Hữu là một nhà thơ – chiến sĩ. Ông làm thơ trước hết vì sự nghiệp của dân tộc, của Đảng. Thơ ông biểu hiện lẽ sống lớn, tình cảm, niềm vui lớn của dân tộc và cách mạng.

Cảm hứng trong thơ Tố Hữu hướng về nhân dân, cách mạng, cảm hứng lịch sử hào hùng của dân tộc, chứ không phải cảm hứng đời tư tư của chính tác giả. Năm 1954, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, hòa bình được lập lại. Chủ tịch Hồ Chí Minh, trung ương Đảng, cán bộ, bộ đội rời Việt Bắc trở về Thủ đô Hà Nội.

Trong không khí chia tay đầy nhớ thương lưu luyến giữa nhân dân Việt Bắc và những người cán bộ cách mạng, nhà thơ Tố Hữu đã sáng tác bài thơ “Việt Bắc”. Việt Bắc được Tố Hữu sáng tác vào tháng 12 năm 1945 nhân một sự kiện lịch sử là trung ương Đảng và Chính phủ rời chiến khu về thủ đô Hà Nội.

Bài thơ Việt Bắc là đỉnh cao của thơ Tố Hữu và cũng là một thành tựu quan trọng, đóng góp to lớn cho thơ ca tháng chiến chống Pháp. Phân tích bài thơ Việt Bắc ta sẽ thấy được tình cảm gắn bó thân thiết giữa người đi và người ở lại, giữa miền xuôi và miền ngược, giữa người cán bộ với thủ đô kháng chiến, với nhân nhân Việt Bắc.

Bài thơ là khúc tình ca cũng như là một khúc hùng ca về cội nguồn tình yêu quê hương đất nước và thể hiện đạo lí truyền thống ching của toàn dân tộc. Với tầm nhìn của một nhà thơ cách mạng, một nhà tư tưởng, Tố Hữu đã phản ánh sâu sắc hiện thực kháng chiến mười lăm năm của Việt Bắc và dự báo những diễn biến tư tưởng trong hoà bình.

Tác giả cho chúng ta thấy được hình ảnh Việt Bắc với cảnh đẹp và người. Tình yêu thiên nhiên, đất nước qua phân tích bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu đã được thể hiện một cách sâu sắc qua sự gắn bó với núi rừng Việt Bắc qua bao năm tháng chiến đấu với nhân dân nơi này. Một tình cảm gắn bó thân thiết như những người máu mủ ruột già.

Nỗi nhớ của tác giả là nỗi nhớ của một người cán bộ sắp phải xa Việt Bắc trở về xuôi. Hình ảnh của Việt Bắc đã hiện lên rất mộc mạc nhưng đã ôm trọn nỗi nhớ của Tố Hữu. Đó là hình ảnh “Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương”, những hình ảnh bản làng mờ mờ trong sương khói, bếp lửa hồng thắp sáng trong đêm, hay những “rừng nứa bờ tre, ngòi Thia, sông Đáy”, tiếng “Chày đêm nện cối đều đều suối xa”…tất cả những nét đẹp bình dị của một vùng rừng núi hoang vui nhưng vẫn ấm áp tình thương, đặc biệt đó là những trái tim con người nơi đây khiến Tố Hữu nhớ nhất, mang đạm nghĩa tình nhất.

Ta về, mình có nhớ ta

Ta về, ta nhớ những hoa cùng người

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.

Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.

Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình

Rừng thu trăng rọi hòa bình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.

Tố Hữu sử dụng thành công lối đối đáp “ta”, “mình”. “ ta về mình có nhớ ta. Ta về ta nhớ những hoa cùng người”. Nỗi nhớ không sao quên, không nỡ xa cách nơi mà đã từng gắn bó yêu thương với bao kỉ niệm, cùng dân sống và chiến đấu. Ấn tượng của tác giả về con người Việt Bắc luôn cần cù trong lao động, thủy chung trong tình nghĩa.

Qua đó thể hiện thiên nhiên Việt Bắc với những cảnh đẹp phong phú, đa dạng, thay đổi theo từng mùa. Gắn với cảnh tượng đẹp đó là những con người là những con người thật giản dị, đi làm nương rẫy, trồng khoai, trồng sắn…Nhưng tất cả đều góp công, góp sức để chung tay làm nên sức mạnh to lớn, kết thành làn sóng xây nên cuộc kháng chiến trường kì.

Trong hồi tưởng của Tố Hữu Việt Bắc hiện lên đó là hình ảnh những mái nhà” hắt hiu lau xám, đậm đà tình son”, hình ảnh người mẹ “địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô”.

Thương nhau, chia củ sắn lùi

Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng.

Câu thơ trữ tình vang lên tạo nên sự đằm thắm gắn bó giữa tình đồng chí và nhân dân. Qua bài thơ ta cũng thấy được Việt Bắc hào hùng trong chiến đấu. Những hình ảnh chiến đấu hào hùng, những hoạt động sôi nổi, tinh thần sục sôi chiến đấu âm vang trong những câu thơ trong phân tích bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu đậm chất sử thi đã miêu tả một cách hùng tráng.

Những đường Việt Bắc của ta

Đêm đêm rầm rập như là đất rung

Quân đi điệp điệp trùng trùng

Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan

Dân công đỏ đuốc từng đoàn

Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.

Một dân tộc đã vượt qua bao gian khó hi sinh đã tạo nên những chiến công, kì tích: Phù Thông, đèo Giàng, sông Lô, Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên…Tố Hữu đã đi sâu vào để giải thích cội nguồn sức mạnh chung một lòng để giành những thắng lợi vẻ vang ấy. Đó là sức mạnh toàn dân, toàn quân kháng chiến, sự gắn bó giữa con người và thiên nhiên:

Nhớ khi giặc đến giặc lùng

Rừng cây núi đá ta cùng đánh

Tây Núi giăng thành lũy sắt dày

Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù

Mênh mông bốn mặt sương mù

Đất trời ta cả chiến khu một lòng.

Bằng những lời thơ trang trọng tha thiết, Tố Hữu đã nhấn mạnh được hình ảnh và vai trò của Việt Bắc đối với cách mạng. Nơi đây như quê hương, chiến khu đã nuôi dưỡng nên sức mạnh trong kháng chiến trường kì của nhân dân ta:

Mình về, có nhớ núi non

Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh

Mình đi, mình có nhớ mình

Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa?

Những câu thơ mang đậm nét trữ tình, ca dao sâu lắng về nghĩa tình dân tộc. trong cuộc kháng chiến vĩ đại ấy đã có cụ Hồ soi sáng, có “trung ương, chính phủ luận bàn việc công”, những con người tài giỏi, những lý tưởng cao đẹp, những con đường đúng đắn sáng suốt ấy đã tạo nên sự thắng lợi.

Ở đâu đau đớn giống nòi

Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền

Mười lăm năm ấy, ai quên

Quê hương Cách mạng dựng nên Cộng hòa

Tố Hữu từ tình yêu đối với Việt Bắc đã đặt niềm tin vững chắc vào một ngày mai tươi sáng, đặt niềm tin vào sức mạnh của toàn nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ. Nhà thơ đã vẽ nên một bức tranh tươi đẹp của dân tộc:

Ngày mai rộn rã sơn khê

Ngược xuôi tàu chạy, bốn bề lưới giăng

Than Phấn Mễ, thiếc Cao Bằng

phường như nấm như măng giữa trời

Những hình ảnh chính là mơ ước khát vọng không chỉ của những người cán bộ kháng chiến mà còn cả nhân dân, tác giả không vì có cái mới mà quên đi những cái cũ, luôn nghĩ về nhau giữa miền xuôi và miền ngược.

Mình về thành thị xa xôi

Nhà cao còn thấy núi đồi nữa chăng?

Phố đông còn nhớ bản làng

Sáng đèn còn nhớ mảnh trăng giữa rừng?

Đây cũng chính là lời tác giả muốn nhắc nhở đừng để sự thay đổi của môi trường, khi về thủ đô lại quên đi nghĩa tình năm xưa. Những lời thơ của Tố Hữu đến ngày nay vẫn còn giữ nguyên những giá trị đó.

Hai câu thơ tạo ra tương quan đối lập giữa bóng tối và ánh sáng: nếu câu trên khắc họa bóng đêm đen tối thăm thẳm gợi kiếp sống nô lệ của cả dân tộc dưới ách độ hộ của kẻ thù thì câu dưới lại bừng lên ánh sáng của niềm tin vào ngày mai chiến thắng huy hoàng, tương lai tốt đẹp.

Thực ra trong đoạn thơ trên người ta đều nhận thấy sự đối lập này: Tố Hữu đã sử dụng cả một hệ thống từ chỉ ánh sáng như ánh sao, đỏ đuốc, lửa bay, bật sáng tương phản với một hệ thống chỉ bóng tối như đêm đêm, nghìn đêm, thăm thẳm – với xu thế ánh sáng lấn át bóng tối dường như tác giả có dụng ý nêu bật xu thế của dân tộc ta trước mọi kẻ thù hắc ám, đồng thời khẳng định những ngày tươi sáng, hạnh phúc nhất định sẽ tới với dân tộc ta.

Có những tác phẩm văn học chỉ giúp chúng ta thấy được một phần nhỏ cuộc sống hoặc nói về một nhân vật cụ thể nào đó, nhưng với bài thơ Việt Bắc, ta lại thấy được toàn bộ hình ảnh của cả dân tộc Việt Nam. Cả bài thơ như một bản nhạc nhịp nhàng, nhẹ nhàng, tha thiết được viết lên như một khúc tình ca và trường ca cho cuộc kháng chiến chống thực dân pháp, về những con người quên mình vì sự độc lập tự do của đất nước.

Qua bài thơ Việt Bắc, tác giả cũng thể hiện tấm chân tình của mình với người dân Việt Bắc, những cán bộ cách mạng hết lòng vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. Bài thơ cũng nhắc nhở lớp trẻ chúng ta phải biết ghi nhớ những công ơn của các Anh hùng của dân tộc, những trang sử hào hùng đẫm máu và nước nước.

Phân tích Việt Bắc (Mẫu 31)

Bằng những vần thơ lục bát ngọt ngào mang đậm màu sắc ca dao dân ca, thông qua cuộc đối đáp có tính chất tưởng tượng giữa kẻ ở người đi như thể người yêu đưa tiễn người yêu đầy lưu luyến vấn vương; bằng lối xưng hô Mình – Ta, một lối xưng hô truyền thống đậm đà tình nghĩa, bài thơ Việt Bắc đã tái hiện một cách chân thực và sinh động cuộc kháng chiến anh hùng và nhân dân anh hùng của cuộc kháng chiến, cùng những tình cảm điển hình của con người kháng chiến.

Bài thơ ra đời vào tháng 10/1954, sau chiến thắng Điện Biên, khi Trung ương Đảng và Chính phủ, Bác Hồ rời 'Thủ đô gió ngàn” về với 'Thủ đô hoa vàng nắng Ba Đình'. Bài thơ vừa là khúc hát ân tình thủy chung của miền ngược và miền xuôi, vừa là bài ca chiến thắng của một thời kỳ lịch sử oanh liệt. Đoạn thơ ta phân tích nằm ở phần đầu, tái hiện một giai đoạn gian khổ, vẻ vang của cách mạng và kháng chiến ở chiến khu Việt Bắc nay đã trở thành những kỷ niệm sâu nặng trong lòng người.

Bài thơ mở ra trong một khung cảnh chia tay với tâm trạng bâng khuâng bồn chồn lưu luyến vấn vương của hai người đã từng gắn bó bền lâu sâu nặng. Người ở lại lên tiếng trước, như nhạy cảm với hoàn cảnh đổi thay gợi nhắc những kỷ niệm gắn bó, những cội nguồn tình nghĩa.

Mình về mình có nhớ ta
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn

Nhưng người ra đi cũng cùng chung một tâm trạng ấy, nên nỗi nhớ không chỉ là hướng về người khác má cũng là nỗi nhớ chính mình: 'Mình đi mình lại nhớ mình”. Lời hỏi của người ở lại đã làm khơi dậy cả một quá khứ đầy kỷ niệm, khơi nguồn cho mạch nhớ thương tuôn chảy. Đối đáp ở đây là một thủ pháp khơi gợi, bộc lộ tâm trạng và tạo ra sự hô ứng đồng vọng của tình cảm. Bao trùm trong tâm trạng của kẻ ở người về là nỗi nhớ cứ thấm đượm lên tất cả, lan tỏa lên cả cỏ cây mây nước. Chỉ riêng trong đoạn thơ ta phân tích đã có đến 35 từ 'nhớ'. Nỗi nhớ tha thiết ấy, qua dòng hồi tưởng đã làm sống dậy những kỷ niệm sâu nặng nghĩa tình. Và trong niềm hòai niệm, hối tưởng suốt 'mười lăm năm thiết tha mặn nồng' ấy, bao trùm có mấy bức tranh hiện thực hòa nhập thống nhất khó có thể tách rời. Đó là nỗi nhớ cội nguồn tình nghĩa; nỗi nhớ thiên nhiên Việt Bắc; con người, cuộc sống Việt Bắc, cùng những kỷ niệm về cuộc kháng chiến anh hùng.

Trước hết bài thơ mở đầu bằng tiếng hát ân tình chung thủy, gợi nhắc cội nguồn tình nghĩa, thấm nhuần đạo lý Việt Nam:

Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tìm mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ người

Lời thơ nghe như ca dao, lại phảng phất âm hưởng thơ Kiều. Sâu nặng biết bao trong 'Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng' và cùng ân tình, thủy chung biết bao khi 'nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn”. Bốn câu thơ mà có đến bốn chữ 'mình”, bốn chữ ”nhớ' một chữ 'ta' hòa quyện quấn quýt với nhau như hình với bóng, khiến cho cái đạo lý ân tình thủy chung ấy thêm sâu nặng.

Sau khúc hát dạo đầu, là cảnh tiễn đưa bâng khuâng trong nỗi nhớ cả người ở lại và người ra đi như là một khúc hát giao duyên quan họ. Ở đây có âm thanh da diết thiết tha của ai đó 'Tiếng ai tha thiết bên cồn'; có bước chân 'bồn chồn' và những bàn tay nắm nhau lưu luyến. Tiểu đối 'bâng khuâng… bồn chồn' đã làm tăng thêm biết bao nỗi nhớ thương vấn vương lưu luyến. Cái màu 'áo chàm' trong câu thơ trên vừa gợi hình, vừa gợi cảm: màu áo của người việt Bắc không phai, đậm đà bền vững như lòng thủy chung sắt son của họ. 'Cầm tay… hôm nay' không phải là không biết nói gì, mà vì trong lòng tràn ngập tình nhớ thương khó nói nên lời.

Sau khi 'dàn cảnh' khung cảnh chia tay, Tố Hữu để cho người ở lại lên tiếng. Chỉ có 12 câu nhưng đều xoáy vào những kỷ niệm của những ngày cách mạng còn 'trứng nước' rất gian nan nhưng sâu nặng nghĩa tình: 'Miếng cơm chan muối, mối thù nặng vai – Hắt hiu lau xám đậm đà lòng son. 'Miếng cơm chấm muối' là hình ảnh chân thực được rút ra từ thực tế cuộc kháng chiến đầy khó khăn, gian khổ. Hình ảnh 'mối thù nặng vai' đã cụ thể hóa, vật chất hóa mối thù của nhân dân ta với quân xâm lược. Hai hình ảnh ấy đối xứng và kết hợp với nhau tạo nên một ý nghĩa mới: mối tình đoàn kết chiến đấu cùng gian khổ để chiến thắng quân thù. Người ra đi có nhớ không? Và còn biết bao điều đáng nhớ nữa về chiến khu Việt Bắc với những địa danh cách mạng lịch sử, với biết bao gian nan cơ cực mà thắm thiết nghĩa tình 'Hắt hiu lau xám' nhưng 'đậm đà lòng son' rồi những mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù' – chỉ một câu thơ ngắn gọn nhưng lại sống dậy được tất cả cái khắc nghiệt, dữ dội của thiên nhiên Việt Bắc những ngày kháng chiến. Trong một đoạn thơ ngắn mà đã cố đến 8 chữ 'mình” và 7 chừ 'nhớ', trong đó có câu thơ 3 chữ 'mình' luyến láy và chuyển nghĩa rất tài tình khi nhắc đến những địa danh cách mạng từ nay đã di vào lịch sử nối tiếp Chương Dương, Vạn Kiếp, Đống Đa…

Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa

Tố Hữu đã để cho người về xuôi trả lời nhiều hơn, vì trong họ chứa chất biết bao nỗi nhớ về quê hương cách mạng, khi phải rời xa. Đây là nỗi nhớ của những người đã từng cùng cam, cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi, từng 'đinh ninh lời thề' sau trước có nhau, nên câu trả lời của họ chính là tiếng đồng vọng của cõi lòng người ở lại:

Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu

Những chữ 'ta', 'mình' quấn quýt, luyến láy trong câu thơ đã nói rõ lời đồng vọng đó. Người ở lại hỏi: 'Mình đi, mình có nhớ mình' thì người ra đi có ngay lời đồng vọng 'mình đi, mình lại nhớ mình', tuy hai mà một. Thật hài hòa, gắn bó, thắm thiết. Bởi nghĩa tình của họ như suối nguồn không bao giờ cạn: 'Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu'. 'Bao nhiêu, bấy nhiêu' – Cặp từ hô ứng đã nhấn mạnh được sự giàu có, phong phú của nghĩa tình keo sơn không sao kể xiết.

Qua hòai niệm, trái tim người ra đi cứ gào lên biết bao nỗi nhớ với đủ mọi sắc màu đẹp đẽ: Có nỗi nhớ thơ mộng:

Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi bóng chiều lưng nương
Có nơi nhớ ấm áp:
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thường đi về

Nhưng nhớ nhất là những ngày cay đắng ngọt bùi của thuở 'hàn vi' thắm tình đồng chí, đồng bào, đã từng cưu mang đùm bọc lẫn nhau:

Ta đi, ta nhớ những ngày
Mình đây, ta đấy đắng cay ngọt bùi

Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô

Củ sắn lùi thì 'chia', bát cơm thì 'sẻ', chăn sui thì 'đắp cùng'. Đúng, cái đẹp nhất là ở tình nghĩa của con người, ở sự san sẻ, cùng chung mọi gian khổ và niềm vui. Nghĩa tình càng đẹp hơn nữa trong cuộc sống gian nan thiếu thốn; càng sắt son thấm thía trong khó khăn thử thách. Trong đoạn thơ này, có những câu gợi lên cảnh sinh hoạt và cuộc sống bình dị của con người, vốn rất hiếm thấy trong thơ Tố Hữu, nhưng lại là những câu thơ hay, chứa đựng những dung động, tình cảm chân thật, thắm thiết nghĩa tình của nhà thơ với cuộc sống và con người của chiến khu Việt Bắc. Chẳng hạn 'bản khói cùng sương' thì e lanh giá, hoang vu, nhưng sau đó với 'sớm khuya bếp lửa người thương đi về', thì ấm áp hẳn lên. 'Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê' chỉ là những tên gọi địa danh, nhưng khi kèm với hai chữ 'vơi đầy', thì cảnh bỗng trở nên tràn đầy tình nghĩa, có sự gắn bó thiết tha giữa con người với thiên nhiên, giữa con người với con người.

Giữa bao nỗi nhớ ấy, tác giả đã dành cho thiên nhiên Việt Bác một tình cảm đặc biệt. Qua tấm lòng chứa chan tình nghĩa cách mạng, kháng chiến của tác giả, thiên nhiên.

Việt Bắc hiện ra không chỉ là thiên nhiên với vẻ đẹp hùng vĩ và nên thơ, mà đó còn là thiên nhiên đã cùng con người đánh giặc và ghi lại biết bao sự tích anh hùng:

Nhớ khi giặc đến giặc lùng…
Mái đình Hồng Thái cây đa Tân Trào

Thiên nhiên ở đây hiện lên với những vẻ đẹp đa dạng trong thời gian và không gian khác nhau, trong các thời tiết sương sớm, nắng chiều trăng khuya, trong các mùa thay đổi. Điều đặc biệt là hình ảnh thiên nhiên gắn với bóng dáng con người, làm cho cảnh bớt hoang sơ hiu hắt và trở nên gần gũi thân thiết với con người hơn. Tiêu biểu nhất là đoạn thơ sau:

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
….
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung

Tố Hữu đã dựng được bốn bức tranh theo đúng nghệ thuật truyền thống, tạo nên một bộ tứ bình đặc sắc. Mỗi bức tranh đều có một màu sắc, âm thanh chủ đạo và rất sinh động đa dạng: Khi lắng dịu, khi rực rỡ chói chang, khi rộn ràng náo nức. Tương ứng với mỗi màu sắc, âm thanh của tự nhiên là một nét đẹp con người. Thiên nhiên làm nền cho con người và chính con người lại tô điểm cho thiên nhiên trở nên đẹp đẽ sinh động hơn.

Theo dòng cảm xúc hồi tưởng, bài thơ đã dẫn người đọc vào khung cảnh Việt Bắc kháng chiến với những bức tranh rộng lớn, những hoạt động tấp nập, sôi động của cuộc kháng chiến anh hùng chuẩn bị cho cuộc tổng
phân công bằng một chiến dịch 'Điện Biên lừng lẫy địa cầu':

Những đường Việt Bắc của ta
….
Đèn pha bột sáng như ngày mai lên

Đoạn thơ được viết với bút pháp anh hùng ca, mang đậm màu sắc sử thi. Giọng thơ dào dạt sảng khoái với những hình ảnh vừa chân thực vừa bay bổng, vừa hùng tráng.

Những câu thơ tái hiện khung cảnh 'Trung ương Chính phủ luận bàn việc công' trong hang núi ở Việt Bắc cũng là những câu thơ đặc sắc. Dường như tác giả chỉ liệt kê công việc nhưng đã phản ánh chân thật không khí làm việc giản dị trang nghiêm mà khẩn trương của Bộ Tổng chỉ huy của cuộc kháng chiến; trong đó nổi bật lên hình ảnh lung linh rực rỡ ngời sáng của 'Ngọn cờ đỏ thắm gió lộng cửa hang, Nắng trưa rực rỡ sao vàng'.

Phần thứ nhất của bài thơ được khép lại bằng sáu câu thơ thâu tóm hình ảnh Việt Bắc: 'Quê hương cách mạng dựng nên cộng hòa”, đầu nào của cuộc kháng chiến; Việt Bắc là niềm tin, hy vọng của nhân dân Việt Nam từ mọi miền đất nước, đặc biệt là đối với những nơi còn 'u ám quân thù; đau đớn giống nòi', thì Việt Bắc là điểm tựa tinh thần đà tiếp thêm sức mạnh cho đồng bào kháng chiến.

Qua bài thơ Việt Bắc Tố Hữu đà làm hiện lên hình ảnh Việt Bắc “quê hương cách mạng dựng nên cộng hòa” một thời gian khổ mà sâu nặng nghĩa tình. Bài thơ tô đậm thêm truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Đó là truyền thống thủy chung son sắt “uống nước nhớ nguồn”.

Phân tích Việt Bắc (Mẫu 32)

Bằng cách sử dụng vần thơ lục bát thơm ngon mang đậm hương vị của ca dao dân ca, thông qua cuộc đối đáp tưởng tượng giữa người ở và người đi như người yêu đưa tiễn người yêu với sự lưu luyến và vấn vương, và qua lối xưng hô Mình - Ta, một lối xưng hô truyền thống bày tỏ tình nghĩa, bài thơ Việt Bắc tái hiện một cách chân thực và sống động cuộc kháng chiến anh hùng và nhân dân anh hùng, cùng với những tình cảm điển hình của con người trong cuộc kháng chiến.

Bài thơ ra đời sau chiến thắng Điện Biên, khi Trung ương Đảng và Chính phủ, Bác Hồ rời 'Thủ đô gió ngàn” về với 'Thủ đô hoa vàng nắng Ba Đình'. Bài thơ không chỉ là biểu tượng của tình thương giữa miền ngược và miền xuôi, mà còn là bài ca chiến thắng của một giai đoạn lịch sử quan trọng. Phần phân tích ta tập trung vào đầu bài thơ, tái hiện một giai đoạn gian khổ, vẻ vang của cách mạng và kháng chiến ở chiến khu Việt Bắc, những kỷ niệm đậm đà trong lòng người.

Bài thơ mở ra trong bối cảnh chia tay, với tâm trạng bồn chồn, lưu luyến của hai người đã từng gắn bó sâu nặng. Người ở lại nói trước, nhạy cảm với sự thay đổi, gợi nhớ những kỷ niệm, những tình nghĩa đã từng có.

Ta về ta nhớ chính mình
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn

Những người ra đi cũng chia sẻ cùng một tâm trạng, khiến nỗi nhớ không chỉ là về người khác mà còn là về chính bản thân: 'Mình đi mình lại nhớ mình”. Lời hỏi của người ở lại đã đánh thức một quá khứ đầy kỷ niệm, kích thích dòng chảy của ký ức và nỗi nhớ. Cuộc đối thoại ở đây là một cách kích thích, bộc lộ tâm trạng và tạo ra sự đồng cảm của tình cảm. Tâm trạng của người ở và người đi là nỗi nhớ hiện hữu, lan tỏa đến mọi ngóc ngách, len lỏi trong cỏ cây, mây nước. Chỉ trong đoạn thơ này, có tới 35 lần từ 'nhớ'. Nỗi nhớ sâu đậm đó, qua ký ức, đã đánh thức những kỷ niệm sâu sắc về tình bạn. Trong sự hồi tưởng và nhớ nhung suốt 'mười lăm năm thiết tha mặn nồng” ấy, có những bức tranh hiện thực kết hợp, thống nhất không thể phân tách. Đó là nỗi nhớ về tình bạn, về thiên nhiên Việt Bắc, về con người và cuộc sống ở Việt Bắc, cũng như những kỷ niệm về cuộc kháng chiến anh dũng.

Bài thơ mở đầu bằng giai điệu ân tình chung thủy, gợi nhớ gốc rễ của tình bạn và đạo lý của dân tộc Việt Nam:

Ta về ta nhớ chính mình
Mười lăm năm ấy chúng ta chung một tâm trạng
Ta về ta có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn

Lời thơ truyền cảm như ca dao, mang hơi thở của thơ Kiều. Câu 'Mười lăm năm ấy chúng ta chung một tâm trạng” và tình cảm thủy chung khi 'nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn” là biểu hiện sâu sắc của tình bạn và lòng trung thành. Bốn dòng thơ với bốn từ 'ta', bốn từ 'nhớ” và một từ 'chúng ta” kết hợp một cách hoàn hảo, tạo nên sự sâu sắc của đạo lý thủy chung.

Sau khúc hát khởi đầu, là cảnh tiễn đưa bàng quan trọng trong nỗi nhớ cả người ở lại và người ra đi như là một khúc hát giao duyên quan họ. Ở đây có âm thanh da diết thiết tha của ai đó 'Tiếng ai đong đầy bên cồn'; có những bước chân 'bồn chồn' và những bàn tay nắm nhau lưu luyến. Thành ngữ 'áo chàm' trong câu thơ trên không chỉ gợi hình ảnh mà còn gợi cảm xúc: màu sắc của áo Việt Bắc không phai, đậm đà và bền vững như tinh thần thủy chung sắt son của họ. 'Cầm tay… hôm nay' không phải là không biết nói gì, mà vì trong lòng tràn ngập tình nhớ thương khó diễn đạt nên lời.

Sau khi 'bảng cảnh' khung cảnh chia tay, Tố Hữu để cho người ở lại phát biểu. Chỉ với 12 câu nhưng đều khắc sâu vào những kỷ niệm của những ngày cách mạng còn 'trứng nước' rất gian nan nhưng sâu nặng nghĩa tình: 'Miếng cơm chan muối, mối thù nặng vai – Hắt hiu lau xám đậm đà lòng son. 'Miếng cơm chấm muối' là hình ảnh chân thực được rút ra từ thực tế cuộc kháng chiến đầy khó khăn, gian khổ. Hình ảnh 'mối thù nặng vai' đã cụ thể hóa, vật chất hóa mối thù của nhân dân ta với quân xâm lược. Hai hình ảnh này đối lập và kết hợp với nhau tạo ra một ý nghĩa mới: mối tình đoàn kết chiến đấu cùng gian khổ để chiến thắng quân thù. Người ra đi có nhớ không? Và còn biết bao điều đáng nhớ nữa về chiến khu Việt Bắc với những địa danh cách mạng lịch sử, với biết bao gian nan cơ cực mà thắm thiết nghĩa tình 'Hắt hiu lau xám' nhưng 'đậm đà lòng son' rồi những mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù' – chỉ một câu thơ ngắn gọn nhưng lại sống dậy được tất cả cái khắc nghiệt, dữ dội của thiên nhiên Việt Bắc những ngày kháng chiến. Trong một đoạn thơ ngắn mà đã có 8 từ 'mình” và 7 từ 'nhớ', trong đó có câu thơ 3 từ 'mình' luyến láy và chuyển nghĩa rất tài tình khi nhắc đến những địa danh cách mạng từ nay đã di vào lịch sử nối tiếp Chương Dương, Vạn Kiếp, Đống Đa…

Ta đi, ta có nhớ ta
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa

Tố Hữu đã để cho người ra đi nói nhiều hơn, vì trong họ chứa đựng biết bao kỷ niệm về quê hương cách mạng, khi phải rời xa. Đây là nỗi nhớ của những người đã từng cùng chia sẻ, cùng gánh vác, cùng trải qua, từng 'đinh ninh lời thề' sau khi có nhau, nên câu trả lời của họ là tiếng đồng lòng của người ở lại:

Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Ta đi, ta lại nhớ ta
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu

Những từ 'ta', 'mình' quấn quýt, luyến láy trong câu thơ đã thể hiện rõ lời đồng thanh đó. Người ở lại hỏi: 'Mình đi, mình có nhớ mình' thì người ra đi có lời đồng thanh ngay: 'mình đi, mình lại nhớ mình', tuy hai mà một. Thật hài hòa, gắn bó, thắm thiết. Bởi tình cảm của họ như suối nguồn không bao giờ cạn: 'Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu'. 'Bao nhiêu, bấy nhiêu' – cặp từ này đã nhấn mạnh được sự giàu có, phong phú của nghĩa tình.

Qua hồi ức, trái tim người ra đi vẫn reo lên biết bao nỗi nhớ với đủ mọi sắc màu đẹp đẽ: Có nỗi nhớ thơ mộng:

Nhớ như thương nhớ người yêu
Trăng sáng trên đỉnh núi, bóng chiều dài đằng sau
Có nơi nhớ ấm áp:
Nhớ từng tia sương, khói mù
Bếp lửa sưởi ấm, người thường về đây

Nhưng nhớ nhất là những ngày cay đắng ngọt bùi của thuở 'hàn vi' thắm tình đồng chí, đồng bào, đã từng cưu mang đùm bọc lẫn nhau:

Ta đi, ta nhớ những ngày
Mình ở đây, nhớ những thời ngọt ngào

Đưa con ra rẫy, hái từng bó ngô

Củ sắn chia, bát cơm sẻ, chăn sui đắp cùng. Đúng, cái đẹp nhất là ở tình nghĩa của con người, ở sự san sẻ, cùng chia sẻ mọi gian khổ và niềm vui. Nghĩa tình càng đẹp hơn nữa trong cuộc sống gian nan thiếu thốn; càng sắt son thấm thía trong khó khăn thử thách. Trong đoạn thơ này, có những câu gợi lên cảnh sinh hoạt và cuộc sống bình dị của con người, vốn rất hiếm thấy trong thơ Tố Hữu, nhưng lại là những câu thơ hay, chứa đựng những dung động, tình cảm chân thật, thắm thiết nghĩa tình của nhà thơ với cuộc sống và con người của chiến khu Việt Bắc. Chẳng hạn 'bản khói cùng sương' thì e lanh giá, hoang vu, nhưng sau đó với 'sớm khuya bếp lửa người thương đi về', thì ấm áp hẳn lên. 'Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê' chỉ là những tên gọi địa danh, nhưng khi kèm với hai chữ 'vơi đầy', thì cảnh bỗng trở nên tràn đầy tình nghĩa, có sự gắn bó thiết tha giữa con người với thiên nhiên, giữa con người với con người.

Giữa bao nỗi nhớ ấy, tác giả đã dành cho thiên nhiên Việt Bắc một tình cảm đặc biệt. Qua tấm lòng chứa chan tình nghĩa cách mạng, kháng chiến của tác giả, thiên nhiên.

Việt Bắc hiện ra không chỉ là thiên nhiên với vẻ đẹp hùng vĩ và nên thơ, mà đó còn là thiên nhiên đã cùng con người đánh giặc và ghi lại biết bao sự tích anh hùng:

Nhớ khi giặc đến giặc lùng…
Mái đình Hồng Thái cây đa Tân Trào

Thiên nhiên ở đây hiện lên với những vẻ đẹp đa dạng trong thời gian và không gian khác nhau, trong các thời tiết sương sớm, nắng chiều trăng khuya, trong các mùa thay đổi. Điều đặc biệt là hình ảnh thiên nhiên gắn với bóng dáng con người, làm cho cảnh bớt hoang sơ hiu hắt và trở nên gần gũi thân thiết với con người hơn. Tiêu biểu nhất là đoạn thơ sau:

Rừng xanh, hoa chuối đỏ tươi
….
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung

Tố Hữu đã vẽ ra bốn bức tranh theo nghệ thuật truyền thống, tạo nên một bộ tứ bình đẹp đặc sắc. Mỗi bức tranh mang một màu sắc, âm thanh riêng biệt và vô cùng sinh động: Khi êm dịu, khi rực rỡ sáng chói, khi hân hoan hồi hộp. Với mỗi sắc màu, âm thanh của tự nhiên góp phần tạo nên vẻ đẹp của con người. Thiên nhiên là nền tảng của cuộc sống con người và chính con người lại làm cho thiên nhiên trở nên sống động hơn.

Theo dòng cảm xúc hồi tưởng, bài thơ dẫn dắt người đọc vào bối cảnh của cuộc kháng chiến ở Việt Bắc với những bức tranh to lớn, những hoạt động sôi động, tấp nập của cuộc kháng chiến anh hùng, chuẩn bị cho cuộc tổng phân công trong chiến dịch 'Điện Biên lừng lẫy khắp nơi trên thế giới':

Những đường Việt Bắc của chúng ta
….
Đèn pha soi rạng như ánh mai lên

Đoạn thơ được viết với phong cách anh hùng ca, tràn ngập sự hùng vĩ, mang lại cho người đọc cảm giác phấn khích với những hình ảnh vừa chân thực vừa trí tưởng tượng, vừa hùng vĩ.

Những dòng thơ tái hiện bức tranh 'Trung ương Chính phủ thảo luận vấn đề công việc' trong hang núi ở Việt Bắc cũng là những dòng thơ độc đáo. Dường như tác giả chỉ liệt kê công việc nhưng đã phản ánh chân thật không khí làm việc giản dị trang nghiêm mà khẩn trương của Bộ Tổng chỉ huy trong cuộc kháng chiến; trong đó nổi bật hình ảnh lung linh rực rỡ của 'Ngọn cờ đỏ thắm gió lộng cửa hang, Nắng trưa rực rỡ sao vàng'.

Phần đầu của bài thơ được kết thúc bằng sáu dòng thơ tóm tắt hình ảnh Việt Bắc: 'Quê hương cách mạng dựng nên cộng hòa”, điểm xuất phát của cuộc kháng chiến; Việt Bắc là niềm tin, hy vọng của nhân dân Việt Nam từ khắp nơi, đặc biệt là đối với những nơi còn 'u ám quân thù; đau đớn giống nòi', thì Việt Bắc là điểm tựa tinh thần đà tiếp thêm sức mạnh cho đồng bào kháng chiến.

Qua bài thơ Việt Bắc, Tố Hữu đã làm hiện lên hình ảnh của Việt Bắc là 'quê hương cách mạng dựng nên cộng hòa” trong thời kỳ gian khổ nhưng đầy nghĩa tình. Bài thơ làm nổi bật truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Đó là truyền thống thủy chung son sắt “uống nước nhớ nguồn”.

Phân tích Việt Bắc (Mẫu 33)

Nếu nói Phan Bội Châu là người đã mở đường cho nền thơ ca trữ tình chính trị thì có lẽ mấy mươi năm sau Tố Hữu chính là người đã mang đạt đến đỉnh cao, trở thành một hiện tượng có giá trị lâu dài trong nền văn chương hiện đại Việt Nam nói chung và nền thơ ca cách mạng nói riêng. Ngay từ khi còn trẻ Tố Hữu đã thể hiện mình là một nhà thơ, một người chiến sĩ cách mạng tận tâm, tận lực cả trong sáng tác và chiến đấu. Sự giác ngộ lý tưởng cách mạng từ khi mới 18 tuổi và trở thành một trong những Đảng viên trẻ tuổi nhất lúc bấy giờ đã trở thành bước đệm cho sự nghiệp sáng tác nhiều vẻ vang của nhà thơ. Mà đường thơ của Tố Hữu thì luôn gắn liền với các sự kiện quan trọng trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc, phục vị và đóng góp nhiều cho kháng chiến, có thể xem như là những tư liệu lịch sử được viết bằng văn chương, kết tinh của hai tính trữ tình và tính chính trị xuyên suốt. Thật không quá khi nói Tố Hữu là một nhà thơ lý tưởng trong nền văn học Việt Nam hiện đại, với phong cách sáng tác ổn định, dồi dào, luôn hướng đến cái ta chung, hướng đến những tình yêu lớn, bộc lộ lòng trung thành với cách mạng, sự ca ngợi Đảng và đất nước. Nếu như Từ ấy khiến tên tuổi Tố Hữu bất chợt vụt sáng trên thi đàn Việt Nam, thì Việt Bắc chính là chiến công vang dội nhất của nhà thơ trong sự nghiệp sáng tác, thể hiện rõ ràng sự trưởng thành và hoàn chỉnh trong tư tưởng, phong cách cũng như bút lực của nhà thơ.

Việt Bắc đã ra đời trong một hoàn cảnh lịch sử rất đặc biệt, tháng 7/1954 chiến dịch Điện Biên Phủ trên không nổ ra và giành thắng lợi tuyệt đối, hiệp định Giơ-ne-vơ về Đông Dương được ký kết, pháp rút quân về nước, miền Bắc lập lại hòa bình, chuẩn bị bước sang giai đoạn xây dựng và khôi phục đất nước sau chiến tranh. Đến tháng 10/1954, nhận thấy tình hình đất nước có nhiều chuyển biến tích cực, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra chỉ thị dời toàn bộ cơ quan đầu não của đất nước từ Việt Bắc về lại thủ đô Hà Nội để phục vụ cho các giai đoạn chính trị tiếp theo của đất nước. Như vậy sau gần 15 năm trời gắn bó, sống và chiến đấu cùng nhau như những người thân ruột thịt, nếm trải nhiều cay đắng ngọt bùi, thì đến hôm nay những chiến sĩ cách mạng phải chia tay vùng đất và những con người thấm đẫm ân tình thủy chung để trở về miền xuôi chờ nhiệm vụ mới. Nhân sự kiện lịch sử có tính thời sự ấy, Tố Hữu đã sáng tác bài thơ Việt Bắc để bộc lộ những tình cảm, những ân tình của người ra đi đối với người ở lại, đồng thời cũng là một bản tổng kết kháng chiến có tính chất chính trị, điểm lại những mốc sự kiện lịch sử quan trọng trong suốt 10 năm trời kháng chiến chống Pháp tại núi rừng Việt Bắc. Có thể nói rằng ở phương diện tổng kết quá trình kháng chiến này, Việt Bắc và Bình Ngô đại cáo cũng có những nét tương đồng nhất định, dù rằng bản chất của hai tác phẩm là hoàn toàn khác nhau.

Trước hết khung cảnh chia tay đã được mở ra với những vần thơ rất mực ân tình, lưu luyến, tái hiện lại khung cảnh chia ly của người ra đi và người ở lại, những con người đã từng có một khoảng thời gian dài sống và chiến đấu bên nhau, rất mực gắn bó, thân thuộc, mang trong mình những tình cảm sâu nặng, ấn tượng khó quên.

“ Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không?
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn.

- Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...”

Người ở lại là người lên tiếng trước, giọng thơ bùi ngùi, xúc động, không chỉ bộc lộ cảm xúc níu kéo sự tiếc nuối khi phải chia xa người chiến sĩ cách mạng sau một thời gian dài gắn bó mà còn là sự khéo léo nhắc lại, gợi mở ra cả một vùng trời kỷ niệm “Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”. Bên cạnh đó cũng thể hiện tình cảm lưu luyến, buồn bã nhân buổi phân ly không chỉ là đối với người ở lại mà còn là của cả người ra đi về miền xuôi, nỗi xúc động khiến đôi bên đều “Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”. Mạch cảm xúc, hay lối nói đối đáp “ta-mình”, cách xưng hô tựa như buổi chia tay của những người yêu nhau mà Tố Hữu sử dụng, đã mang đến những rung cảm mới lạ, đậm âm hưởng vùng miền Tây Bắc, rất thiết tha, ân tình, sự gắn bó sâu sắc, bền chặt giữa đôi bên. Dễ dàng đưa người đọc hòa vào một bầu trời ký ức mà cả hai nhân vật trữ tình “ta” và “mình” luân phiên nhau đối đáp, gợi lại một cách dịu dàng, đằm thắm, như những lời tâm tình, thủ thỉ đầy bịn rịn của đôi lứa yêu nhau.

“- Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù?
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Mình về, còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?

- Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu...
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia sông Ðáy, suối Lê vơi đầy
Ta đi, ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi...

Thương nhau, chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Ðịu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô
Nhớ sao lớp học i tờ
Ðồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa...

Người ở lại đã nhắc nhở người ra đi về những ký ức sâu nặng trong suốt một chặng đường chiến đấu dài lâu của dân tộc. Đó là sự gian khổ trong sinh hoạt khi cách mạng phải đối mặt với chốn rừng sâu nước độc, nhiều thiếu thốn, hoàn cảnh chiến đấu khó khăn “Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù”, sự thiếu thốn cái ăn, cái mặc trong những năm đầu với “Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai”. Thế nhưng sự vất vả, khó khăn chồng chất ấy cũng không thể nào đánh gục được ý chí của những người làm cách mạng, bởi Việt Bắc đã cho ta những “trám bùi”, “măng mai” dồi dào, những con người Việt Bắc “đậm đà lòng son” và cả núi rừng thủy chung gắn bó, từ thuở còn kháng Nhật, còn là Việt Minh với những sự kiện, những trận chiến gắn liền với các địa danh nổi tiếng như “Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa”. Đối đáp lại với những lời gợi nhắc kỷ niệm, thấm đẫm tình cảm, sự gắn bó tha thiết, sâu nặng, người ra đi đã một lòng khẳng định tình cảm của mình dành cho Việt Bắc và cả con người Việt Bắc, những người mà sắp tới đây sẽ phải chia xa, ngày gặp lại chưa biết là khi nào. Rằng “Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh/Mình đi, mình lại nhớ mình/Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu.../Nhớ gì như nhớ người yêu”. Đó là thứ tình cảm dạt dào “đinh ninh” trong dạ trước sau một lòng, đi rồi hãy vẫn còn mãi nhớ, nghĩa tình sâu nặng tựa như nước chảy trong nguồn, gắn bó, tha thiết, nhớ thương như tình cảm của những người yêu nhau. Đồng thời nhân vật “ta” cũng bộc lộ nỗi nhớ, những kỷ niệm khắc ghi trong lòng về thiên nhiên Việt Bắc với cảnh “trăng lên”, “nắng chiều”, “bản khói cùng sương”, “rừng nứa bờ tre”, “ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê”, nhớ cả những ngày sóng vai, cùng nhau chia sẻ “ngọt bùi đắng cay”. Mà mai đây khi về miền xuôi, xa rời Việt Bắc, người ra đi vẫn sẽ giữ nguyên những kỷ niệm đáng nhớ, những xúc động khó quên về một vùng đất lắm ân tình, những con người chân chất, thật thà, đùm bọc cách mạng bằng cả tấm lòng son sắt “Thương nhau, chia củ sắn lùi/Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng”. Nỗi nhớ ấy không chỉ bộc lộ trong ký ức về những cảnh điểm của Việt Bắc, mà còn là ký ức về những ngày tháng cùng hoạt động, cùng sinh hoạt với những con người nơi đây, vượt qua tất cả mọi gian khó, sao có thể quên những “lớp học i tờ”, những người mẹ địu con lên núi bẻ ngô nuôi cách mạng, những giờ liên hoan vui vẻ, những ngày tháng sinh hoạt cơ quan nhiều khó khăn, những tiếng chày, tiếng mõ vang vọng núi rừng,… Tất cả đã khắc sâu vào trí nhớ của người ra đi bằng những tình cảm quý giá và trân trọng nhất.

Hơn thế nữa với cả con người và thiên nhiên Việt Bắc nhân vật trữ tình “ta” tức là người ra đi còn có những cảm nhận, những ấn tượng sâu sắc về vẻ đẹp thực hài hòa và gắn bó trong bức tranh tứ bình:

“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung”

Mùa đông hiện lên với vẻ đẹp của “rừng xanh” thăm thẳm, gợi ra hiện thực lạnh lẽo, khắc nghiệt của núi rừng Tây Bắc, tuy nhiên với sự xuất hiện thật tinh tế rực rỡ của bông “hoa chuối đỏ tươi”, gam màu nóng đã phần nào làm dịu đi cái giá rét, độc hại, mang đến sự lãng mạn, trữ tình nhưng không hoàn toàn tránh né hiện thực chiến đấu gian khổ ở nơi đây. Hình ảnh con người nổi bật khỏe khoắn với cảnh “dao gài thắt lưng”, thể hiện tư thế hiên ngang, xông pha núi rừng, dưới cái ấm áp của ánh nắng mùa đông, nhiệt huyết của con người trong công cuộc trèo đèo lội suối, lao động sản xuất phục vụ kháng chiến. Đông qua, xuân tới với cảnh tượng “mơ nở trắng rừng”, một điểm nhấn đặc biệt của vùng núi Tây Bắc, sắc trắng thanh nhã, dịu dàng càng làm tôn lên cái sự dẻo dai, khéo léo của con người nơi đây với công cuộc lao động tỉ mỉ “chuốt từng sợi giang”. Bức tranh mùa hè được gợi ra không chỉ nằm ở phần nhìn, mà còn mở rộng với cả âm thanh, đó là tiếng ve kêu rộn rã với cảnh “rừng phách đổ vàng”, gợi cho người đọc những cảm giác sôi động, tràn đầy sức sống, mà con người giữa khung cảnh ấy thì vẫn miệt mài lao động, hình ảnh cô em gái giản dị, ngồi hái măng một mình, khiến người ta không khỏi thêm yêu, thêm nhớ và xúc động. Kết thúc bức tranh tứ bình là cảnh tượng mùa thu được gợi ra với “trăng rọi hòa bình”, vốn là một hình ảnh có nhiều ý nghĩa. Xưa nay trăng luôn tượng trưng cho những gì tươi đẹp, dịu dàng, thanh mát, cũng tượng trưng cho sự đoàn tụ, viên mãn, đồng thời nói đến mùa thu người ta vẫn thường nhắc đến rằm tháng tám trăng tròn vành vạnh. Mà trong câu thơ này “trăng rọi hòa bình” cũng chính là ẩn dụ cuộc kháng chiến kết thúc thắng lợi vẻ vang của dân tộc, ánh trăng là tượng trưng cho vẻ đẹp bình yên, tươi sáng. Đồng thời cũng là lúc người chiến sĩ cách mạng chuẩn bị hành trang về thủ đô Hà Nội, nên hình ảnh con người Việt Bắc đã hiện lên thật sâu sắc trong “tiếng hát ân tình thủy chung” sau bao nhiêu năm tháng gắn bó. Có thể nói rằng bức tranh tứ bình về Việt Bắc là một trong những điểm nhấn quan trọng và đặc sắc nhất của toàn bộ tác phẩm, bộc lộ không chỉ vẻ đẹp con người và thiên nhiên nơi đây mà còn là cả một ẩn dụ cho quá trình kháng chiến bắt đầu vào mùa đông và kết thúc thắng lợi vào mùa thu, thể hiện tài năng quan sát tinh tế, sự khéo léo, chất trữ tình chính trị và cả tình cảm gắn bó sâu nặng của Tố Hữu với vùng đất lắm ân tình thủy chung này.

Nỗi nhớ, tình cảm gắn bó, quyến luyến của người ra đi không chỉ nằm trong những ký ức về cảnh sống, cảnh sinh hoạt mà còn bộc lộ thông qua quãng đường chiến đấu và hy sinh của cách mạng. Tuy Tố Hữu không hề đi sâu vào miêu tả rõ ràng các trận đánh lịch sử mà chỉ điểm lại đồng thời bộc lộ những cảm xúc bùi ngùi, tha thiết thế nhưng cũng đã đủ để gợi nhắc về một thời chiến đấu oanh liệt của cách mạng ta giữa núi rừng Tây Bắc.

“Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây
Núi giăng thành lũy sắt dày
Rừng che bộ đội rừng vây quân thù
Mênh mông bốn mặt sương mù
Ðất trời ta cả chiến khu một lòng.

Ai về ai có nhớ không?
Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng
Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng
Nhớ từ Cao-Lạng nhớ sang Nhị Hà...
Những đường Việt Bắc của ta
Ðêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Ðèn pha bật sáng như ngày mai lên.
Tin vui chiến thắng trăm miền
Hoà Bình, Tây Bắc, Ðiện Biên vui về”
|Vui từ Ðồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng”

Từ những ngày chiến đấu đầy gian khổ “giặc đến giặc lùng”, nhưng nhờ có sự đoàn kết quân dân một lòng, ý chí chiến đấu mạnh mẽ, kiên cường, mà rừng núi trước đây vốn hiểm trở, mang lại nhiều khó khăn cho cách mạng, ngày nay đã trở thành người bạn chiến đấu, trở thành “lũy sắt dày”, che chở cho bộ đội lại vây khốn quân thù, trợ lực cho quân đội ta trong suốt cuộc kháng chiến trường kỳ. Rồi sau những ngày còn bỡ ngỡ, non yếu lực lượng ta ngày một mạnh mẽ, kiêu hùng, anh dũng trong chiến đấu vang vọng cả một miền rừng Việt Bắc, ngày một tiến dần đến chiến thắng sau cùng.

“Ai về ai có nhớ không?
Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang.
Nắng trưa rực rỡ sao vàng
Trung ương, Chính phủ luận bàn việc công
Ðiều quân chiến dịch thu đông
Nông thôn phát động, giao thông mở đường
Giữ đê, phòng hạn, thu lương
Gửi dao miền ngược, thêm trường các khu...

Ở đâu u ám quân thù
Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi
Ở đâu đau đớn giống nòi
Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền.
Mười lăm năm ấy ai quên
Quê hương cách mạng dựng nên Cộng hoà
Mình về mình lại nhớ ta
Mái đình Hồng Thái cây đa Tân Trào”

Phần cuối của đoạn trích, tuy chưa phải là kết thúc của tác phẩm, nhưng lại có ý nghĩa đánh dấu sự thắng lợi vẻ vang của cuộc kháng chiến chống Pháp suốt từ những năm 1940 cho đến năm 1954. Mở ra một kỷ nguyên mới cho đất nước, dù vẫn bị chia cắt hai miền nhưng lại là động lực lớn cho công cuộc thống nhất đất nước, miền Bắc đi vào xây dựng kiến thiết đất nước, tiến lên chủ nghĩa xã hội. Khẳng định niềm tin vào Đảng và Bác Hồ, vào sự đúng đắn của cách mạng, cũng như niềm hy vọng vào một tương lai tươi sáng của dân tộc.

Việt Bắc là một tác phẩm xuất sắc, đỉnh cao trong các sáng tác của Tố Hữu cũng như trong nền văn học Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Bài thơ sử dụng kết cấu đối đáp quen thuộc trong ca dao, dân ca xưa, lối xưng hô “ta-mình” thân thiết gắn bó, lời thơ tình cảm, thấm đẫm ân tình, vận dụng tinh tế thể thơ lục bát truyền thống của dân tộc. Bộc lộ được sự lưu luyến, bịn rịn phút chia ly, tình cảm quân dân gắn bó sâu nặng trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp trường kỳ nhiều gian khổ, khó khăn. Đồng thời thi phẩm cũng có ý nghĩa đúc kết một giai đoạn lịch sử hết sức gian lao, nhiều vẻ vang, lắm hào hùng của dân tộc, thể hiện tấm lòng ân nghĩa thủy chung của cách mạng với chiến khu Việt bắc, lòng tự hào, niềm tin , niềm hy vọng vào tương lai tươi sáng của đất nước.

Phân tích Việt Bắc (Mẫu 34)

Thơ của Tố Hữu là tiếng nói của dân tộc, của tâm hồn những con người sâu sắc gắn bó với sự nghiệp cách mạng, với quê hương, với đất nước. Trong những vần thơ ấy, ta cảm nhận được tình yêu thương sâu sắc, trung thực, bắt nguồn từ một trái tim trung thành với dân tộc và nhân dân, đặc biệt là trong bài thơ Việt Bắc, một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của Tố Hữu.

Tố Hữu (1920-2002), tên thật là Nguyễn Duy Thành, quê ở xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế, là người con của văn hóa dân gian. Ông là một nhà thơ lớn, một bậc tiên phong của văn học cách mạng Việt Nam, thơ của ông luôn đi kèm với những chặng đường cách mạng của dân tộc. Phong cách thơ của ông mang đậm tính trữ tình chính trị, hướng đến cái tôi chung với lẽ sống lớn, niềm vui lớn, cái tôi trong thơ của ông luôn phản ánh ý chí của Đảng, cộng đồng dân tộc, những vần thơ đó không chỉ giàu nhạc điệu mà còn mang tính dân tộc sâu sắc.

Ngày 7/5/1954, chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc với chiến thắng lịch sử, mở ra một trang sử mới, một thời đại mới cho nước ta. Sau khi kí kết Hiệp định Giơ-ne-vơ (7/1954), miền Bắc được giải phóng hoàn toàn, quân Pháp rút lui. Tháng 10/1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra chỉ thị, toàn bộ các cơ quan trung ương Đảng và Chính phủ dời từ Việt Bắc về thủ đô. Từ đó, những chiến sĩ cách mạng chia tay với miền rừng núi bạt ngàn để trở về, bước vào một giai đoạn mới của cách mạng dân tộc, và Việt Bắc đã ra đời trong một bối cảnh đặc biệt như vậy.

Bài thơ mở đầu bằng giọng thơ trữ tình, dịu dàng, tha thiết, tôn vinh tình cảm của người ở lại dành cho người ra đi.

“Ta trở lại, lòng nhớ vấn vương
Mười lăm năm kia, sâu đậm như sóng.
Ta về, lòng còn nhớ không?
Ngắm cây, nhớ núi, sông dạt dào?

Tác giả sử dụng cặp từ “mình-ta” để phản ánh sự đồng lòng giữa những người cách mạng và người dân Việt Bắc. Cách diễn đạt này không chỉ thể hiện tình yêu dành cho dân tộc mà còn thể hiện sự gắn bó sâu sắc trong quãng thời gian kháng chiến. Cặp từ “Mười lăm năm kia, sâu đậm như sóng” nhấn mạnh sự bền bỉ và mặn nồng của tình cảm trong suốt thời gian kháng chiến. Tác giả vẽ nên hình ảnh mối quan hệ giữa người dân và chiến sĩ cách mạng bằng những từ ngữ đầy tinh tế, sâu lắng, làm cho cảm xúc lan tỏa khắp nơi.

“Tiếng ai thầm thì bên bờ
Bâng khuâng trong lòng, chần chừ bước đi
Áo chàm buồn tỏa hương lìa biệt
Cầm tay nhau, hồi tưởng ngày qua…”

Từ “ai” và cách sắp xếp từ ngữ trong câu thơ tạo ra một bức tranh tình cảm phong phú, đầy ý nghĩa. Từ “thầm thì” và “bâng khuâng” thể hiện sự trăn trở, bồn chồn khi phải rời xa. “Áo chàm buồn tỏa hương lìa biệt” tạo nên hình ảnh lưu luyến, biệt ly, làm cho cảm xúc dâng trào trong lòng. Câu cuối cùng “Cầm tay nhau, hồi tưởng ngày qua…” tạo ra một khoảnh khắc buồn trong bước chân rời xa, khiến cho kỷ niệm ùa về đầy xúc động.

“Ta đi, lòng còn khắc khoải ngày
Mưa rơi, suối lũ, mây sông mù mịt
Ta về, có còn nhớ chiến khu?
Chiếc cơm, giọt muối, gánh nặng mùa đời?
Ta về, rừng núi nhớ ai?
Trái ngọt rụng, măng xanh phôi phai…”

Sau mỗi từ “Ta đi”, “Ta về”, nhà thơ đã sắp xếp một dấu phẩy, đây là khoảnh khắc, là thời điểm đặc biệt, để tận hưởng kỷ niệm trong lòng. Những kỷ niệm đó sống trong từng khoảnh khắc của “những ngày”, không gian “chiến khu”. Hình ảnh “mưa nguồn suối lũ”, “mây và sương mù”, “điểm chấm muối trên cơm”, là biểu tượng cho những gian khó khăn của người làm cách mạng trong những năm đầu kháng chiến ở núi rừng Việt Bắc, và những khó khăn đó đã làm cho tình đoàn kết giữa quân và dân trở nên chặt chẽ, vững bền. Phương pháp nhân hóa “rừng núi nhớ ai” như thổi vào khung cảnh của núi rừng sự nhớ nhung, sâu sắc, từ từ điều chỉnh “ai” tạo ra một cảm xúc ân tình. Cụm từ “trái bùi rụng”, “măng trải già” đã thể hiện nỗi buồn sâu thẳm, trống trải khi người cách mạng về để lại núi rừng Tây Bắc trải rộng, lạ lẫm khi cuộc sống thay đổi từ sự phồn thịnh sang sự yên bình.

“Ta đi, còn nhớ nhà
Quét lau nhà, son lòng sâu đậm
Ta về vẫn nhớ non sông
Nhớ thời kháng Nhật, thời Việt Minh
Ta đi vẫn nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái nhà, cây đa?”

Nỗi nhớ đó được thể hiện rõ ràng hơn với từ “nhà”, sự đối lập trong câu thơ “Quét lau nhà, son lòng sâu đậm”, khẳng định rằng càng khó khăn, thì tình đoàn kết giữa quân và dân càng trở nên chặt chẽ, bền vững. Những người ở lại nhớ lại những kỷ niệm từ những ngày đầu tiên, từ những năm kháng chiến chống Nhật để những kỷ niệm đó chạm sâu vào tâm trí người đi. Từ “ta” được lặp lại trong câu thơ “Ta đi vẫn nhớ mình” đã nhắc nhở đến câu ca dao “Ta với mình tuy hai mà một” để thể hiện sự gắn bó chặt chẽ. Những địa danh quen thuộc với người ra đi và cả người ở lại “Tân Trào, Hồng Thái, mái nhà, cây đa?”, nhắc nhở lại những kỷ niệm cũ, hào hùng, tình cảm sâu sắc của những chiến sĩ cách mạng với dân Tây Bắc.

“Ta với mình, mình với ta
Con tim sau cùng đầy đặn niềm tin
Ta đi, ta về vẫn nhớ ta
Nguyên tắc nhưng nước mắt cũng thế...
Nhớ như nhớ người yêu
Trăng sáng đỉnh núi, nắng chiều trên lưng
Nhớ từng hơi khói, từng hạt sương
Bếp lửa sáng soi đường thân yêu về.
Nhớ từng góc rừng, từng bờ suối
Sông Thao, suối Nậm, vơi bao niềm vui”

Lối đối đáp “ta-mình” tiếp tục được sử dụng, cấu trúc “Ta với mình, mình với ta” tạo ra lời nói đồng điệu. Tại đây, ta cũng là mình, mình cũng là ta. Câu thơ “Con tim sau cùng đầy đặn niềm tin” đã thể hiện tình cảm trung thành mà người cách mạng dành cho đất nước nghĩa tình, như một lời thề trong tình yêu hai người. So sánh trong câu “Nguyên tắc nhưng nước mắt cũng thế...”, đã thể hiện một điều cực kỳ thiêng liêng và sâu sắc: Tình cảm của con người Việt Bắc thật sự trong sạch, không bao giờ cạn kiệt như tình yêu của mẹ với con cái. Nhà thơ đã so sánh nỗi nhớ ở đây giống như nỗi nhớ người yêu, để tạo ra một cảm xúc cách mạng, tình quân dân để tất cả trở nên nồng nàn hơn, dịu dàng hơn. Và vì nỗi nhớ trong tình yêu là nỗi nhớ thâm sâu và đầy cảm xúc nhất, từ nỗi nhớ ấy, Việt Bắc hiện ra với một không gian thật lãng mạn, câu thơ “Trăng sáng đỉnh núi, nắng chiều trên lưng” đã thể hiện nỗi nhớ trải rộng trong không gian và tồn tại trong từng khoảnh khắc của thời gian, cả đêm và ngày. Hình ảnh “Bếp lửa sáng soi đường thân yêu về.” gợi lên một Việt Bắc ấm áp, mến thương. Điệp ngữ “nhớ từng” đưa chúng ta đến với những cảm xúc như nhà thơ đang mở từng trang ký ức, Tố Hữu đã liệt kê những địa danh “sông Thao, suối Nậm” và đến hai từ kết thúc đoạn thơ, nơi đây không chỉ còn là địa danh mà là nơi chứa đựng những kỷ niệm: Bao niềm vui, bao niềm hạnh phúc đầy tràn, bao tình yêu thương ấm áp.

“Ta đi, nhớ những ngày ấy
Ở đây, ở đó, đắng cay ngọt bùi...
Yêu thương, chia sẻ củ sắn lùi
Bát cơm chia nửa, chăn sui đắp cùng
Nhớ mẹ nắng cháy lưng
Đưa con lên rẫy, bẻ bắp ngô
Nhớ lớp học vui tờ này
Ðêm đèn đuốc soi đường điện hoa
Nhớ ngày tháng làm việc cơ quan
Đời gian nan vẫn ca vang đèo núi.
Nhớ tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm vắt cối, suối xa tràn...”

Cụm từ “Ta đi, nhớ…” là lời chân thành và gửi gắm tình cảm của người ra đi cho người ở lại, của người cách mạng dành cho đất nước Việt Bắc, cụm từ “Ở đây, ở đó…” kết hợp với “đắng cay ngọt bùi” nhấn mạnh hơn những tình cảm sâu lắng. Hai từ “yêu thương”, nhẹ nhàng mà sâu sắc, người đi và người ở “Yêu thương, chia sẻ củ sắn lùi”, “Bát cơm chia nửa, chăn sui đắp cùng” thể hiện tình đoàn kết, chia sẻ, gắn bó của quân dân, là sức mạnh đã tạo nên chiến thắng Điện Biên Phủ. Hình ảnh mẹ “Đưa con lên rẫy, bẻ bắp ngô”, thể hiện sự cố gắng, vất vả của người mẹ trong cuộc kháng chiến. Tác giả sử dụng điệp ngữ “Nhớ” là nỗi nhớ đầy cảm xúc cùng với những hoạt động trong chiến khu Việt Bắc: Lớp học vui tờ này, giờ liên hoan, ca vang đèo núi, tạo ra một không khí vui tươi, tinh thần lạc quan cách mạng, niềm tin thắng lợi. Đoạn thơ rất giàu nhạc điệu là khúc ca ca ngợi cuộc sống đẹp, nghĩa tình sâu đậm trong lòng người cách mạng và núi rừng Việt Bắc. Câu thơ cuối khép lại với tiếng mõ, tiếng chày, tiếng suối xa gợi nhiều cảm xúc mênh mang, lan tỏa.

“Ta về, nhớ bao kỷ niệm
Nhớ hoa rừng cùng người thân
Rừng xanh, hoa chuối đỏ tươi
Ðèo cao, nắng gay gắt
Xuân về, rừng trắng mơ màng
Nhớ người dệt nón từng sợi
Ve kêu, rừng phách vàng
Nhớ em gái hái măng một mình
Rừng thu, trăng rọi bình yên
Nhớ tiếng hát ân tình, bền vững.”

Bức tranh tứ bình hiện ra thật đẹp đẽ, câu hỏi “Ta về, nhớ…” chứa đựng bao nỗi nhớ, bao tình yêu thương. Cụm từ “bao kỷ niệm” như một lời tâm sự, trong nỗi nhớ của người ra đi, hoa là biểu tượng cho thiên nhiên, một bức tranh thiên nhiên đẹp và thơ mộng. Bắt đầu với mùa đông Việt Bắc, với “hoa chuối đỏ tươi” điểm xuyết trên nền xanh bạt ngàn của núi rừng, tạo nên một bức tranh vô cùng sinh động và nhiều màu sắc, tạo cảm giác ấm áp. Con người hiện ra trong tư thế lao động, rất đẹp rất kỳ vĩ, con người như chiếm lĩnh đỉnh cao. Mùa xuân hiện ra với cảnh “rừng trắng mơ màng”, vô cùng thơ mộng, tạo nên một bức tranh đẹp, ấm áp, lung linh, hình ảnh con người cũng trong trong tư thế lao động “dệt nón từng sợi”, động từ “dệt”, thể hiện một công việc cần cù, kiên nhẫn, tỉ mỉ. Tiếp đến là mùa hạ thật sinh động và tràn đầy sức sống, cảnh thiên nhiên có thêm tiếng ve rộn rã ngân vang núi rừng và tràn đầy sắc vàng của rừng phách. Hình ảnh “em gái hái măng một mình” thật đẹp và thơ mộng biết bao. Khép lại bức tranh tứ bình là cảnh mùa thu, mùa thu hòa bình, mùa thu của cách mạng tháng tám thành công, mùa thu năm 1954, tất cả đã được tượng trưng trong một vầng trăng rất đẹp. Câu thơ “Nhớ tiếng hát ân tình, bền vững” vừa khép lại bức tranh tứ bình về cảnh và người Việt Bắc, đồng thời cũng khép lại khúc tình ca hào hùng về cuộc kháng chiến.

Con người hiện ra trong tư thế lao động, rất đẹp rất kỳ vĩ, con người như chiếm lĩnh đỉnh cao, hình ảnh được tạo nên bằng nghệ thuật hội tụ ánh sáng của nhiếp ảnh. Mùa xuân hiện ra với cảnh “mơ nở trắng rừng”, vô cùng thơ mộng, tạo nên một bức tranh đẹp, ấm áp, lung linh, hình ảnh con người cũng trong trong tư thế lao động “chuốt từng sợi giang”, động từ “chuốt”, thể hiện một công việc cần cù, kiên nhẫn, tỉ mỉ, khắc họa vẻ đẹp của con người Việt Nam trong kháng chiến. Tiếp đến là mùa hạ thật sinh động và tràn đầy sức sống, cảnh thiên nhiên có thêm tiếng ve rộn rã ngân vang núi rừng và tràn đầy sắc vàng của rừng phách. Hình ảnh “cô em gái hái măng một mình” thật đẹp và thơ mộng biết bao. Khép lại bức tranh tứ bình là cảnh mùa thu, mùa thu hòa bình, mùa thu của cách mạng tháng tám thành công, mùa thu năm 1954, tất cả đã được tượng trưng trong một vầng trăng rất đẹp. Câu thơ “Nhớ tiếng hát ân tình, bền vững” vừa khép lại bức tranh tứ bình về cảnh và người Việt Bắc, đồng thời cũng khép lại khúc tình ca hào hùng về cuộc kháng chiến.

Trong nỗi nhớ của người ra đi và người ở lại, không ai quên những ngày đầu của cuộc kháng chiến, khi mà “Kẻ thù xâm lược”, từ “xâm lược” đã thể hiện sự nguy hiểm của đối phương. “Rừng núi đất trời cùng đồng lòng đánh giặc” cùng với “Đất trời cùng chiến khu một lòng” đã thể hiện sự gắn bó sâu sắc của thiên nhiên và con người trong cuộc kháng chiến. Ở đây, thiên nhiên đã trở thành một sinh vật sống, che chở cho bộ đội, bao vây kẻ thù, hình ảnh “Núi giăng thành lũy sắt dày” kết hợp với “Rừng che bộ đội, rừng vây kẻ thù”, giàu sức mạnh gọi mời, thể hiện sức mạnh của dân tộc, sức mạnh không thể hủy diệt. Từ “nhớ” kết hợp với “nhớ từ”, “nhớ sang”, những địa danh gắn liền với chiến công, tất cả tạo nên nỗi nhớ lan tỏa khắp chiến khu Việt Bắc. Lời thơ mạnh mẽ, hình ảnh sống động cùng với việc sử dụng nghệ thuật tu từ đã giúp nhà thơ khẳng định sức mạnh vĩ đại của dân tộc, cũng như thể hiện nỗi nhớ và lòng biết ơn sâu sắc đối với núi rừng Việt Bắc.

“Những con đường Việt Bắc của chúng ta
Ðêm đêm rộn ràng như lòng đất rung
Quân và dân cùng đoàn kết vững bước
Ánh sao trên đầu súng, bạn và chiếc mũ nan
Người công nhân dũng mãnh từng đoàn
Bước chân vững vàng, đá và lửa
Nghìn đêm sâu thẳm, sương mù dày
Ðèn pha sáng tỏ như ánh mai lên
Tin vui chiến thắng trên muôn miền
Hoà Bình, Tây Bắc, Ðiện Biên vui vẻ
Vui từ Ðồng Tháp, An Khê
Vui trên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.”

Câu thơ “Những con đường Việt Bắc của chúng ta” đã thể hiện sự kết nối sâu sắc của mảnh đất Việt Bắc, của chiến khu Việt Bắc với nhân dân và đất nước, vì đây là quê hương cách mạng, là trái tim của cả nước trong những ngày kháng chiến chống Pháp. Sự so sánh “như lòng đất rung” kết hợp với hình ảnh “quân và dân cùng đoàn kết vững bước” thể hiện sức mạnh của đoàn quân ra tiền tuyến, đoàn quân dài vô tận, rất hùng mạnh.

Câu thơ “Ánh sao trên đầu súng, bạn và chiếc mũ nan” kết hợp ba biện pháp tu từ ẩn dụ, nhân hóa, hoán dụ, hình ảnh “ánh sao đầu súng” gợi nhắc hình ảnh “trăng treo trên đầu súng” trong thơ Chính Hữu và “súng ngửi trời” trong thơ Quang Dũng, thể hiện cao quý của người lính, là một hình ảnh rất đẹp và thơ mộng. Hình ảnh đoàn công nhân vô cùng mạnh mẽ, đông đúc “dũng mãnh từng đoàn”, “bước chân vững vàng”, gợi nhắc đến thành ngữ “Chân cứng đá mềm” khẳng định sức mạnh và lòng kiên trì, bền bỉ của con người Việt Nam trước bão tố chiến tranh. Trong bóng tối của chiến tranh, quân và dân ta luôn hướng về ngày mai, luôn mang niềm tin vững chắc vào một ngày mai chiến thắng. Và cuối cùng, niềm vui chiến thắng đã lan tỏa trên khắp đất nước, những người chiến sĩ về Hà Nội, về miền xuôi, nhưng trong trái tim họ vẫn còn đọng lại biết bao kỷ niệm, biết bao tình yêu thương, họ mang theo niềm vui của sự chiến thắng trong những ngày kháng chiến kết thúc.

“Ai trở về có nhớ không?
Ngọn cờ đỏ rực trên đầu gác cửa hang.
Nắng trưa rực rỡ như sao vàng
Trung ương, Chính phủ thảo luận công việc quân sự
Thực hiện chiến dịch mùa đông
Phát động nông thôn, mở đường giao thông
Giữ đê, chống lũ, trả lương
Chuyển giao hàng hoá, xây dựng trường học...
Ở nơi nào kẻ thù phủ đen
Nhìn lên Việt Bắc: Bác Hồ sáng soi
Ở nơi nào đau khổ như xưa
Nhìn về Việt Bắc để nuôi dưỡng lòng bền.
Mười lăm năm không ai quên
Quê hương cách mạng góp phần xây dựng Cộng hòa
Ta về và ta nhớ mãi
Mái nhà Hồng Tháp cây đa Tân Trào.”

Những dòng thơ cuối cùng đóng lại đoạn trích là phác họa cảnh Việt Bắc sau chiến thắng Điện Biên Phủ, khắp nơi rộn ràng trong ánh nắng vàng, trong cờ đỏ vui tươi. Trung ương Đảng và Chính phủ đã sắp xếp trở về thủ đô, trong một không khí sôi động, miền Bắc ngày càng phát triển với chính sách mới của Đảng và nhà nước “Giữ đê, chống lũ, thu lương/Gửi dao miền ngược, thêm trường các khu...”. Đồng thời đoạn thơ cũng là lời ca tụng những đóng góp vĩ đại của Bác Hồ yêu quý, là sự biết ơn sâu sắc đối với miền núi rừng Việt Bắc thân thương, dù họ đã về thủ đô nhưng trong lòng những người chiến sĩ cách mạng luôn có một phần dành cho Việt Bắc, dành cho “Mái nhà Hồng Thái, cây đa Tân Trào”.

Cả đoạn trích như một bản nhạc êm đềm, được biểu diễn bởi là khúc tình ca và khúc trường ca về cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, về những người anh hùng chiến đấu. Thông qua khúc nhạc tuyệt vời, hùng hồn ấy nhà thơ đã thể hiện được những tình cảm sâu sắc, tha thiết của mình dành cho vùng núi rừng Việt Bắc, ca ngợi tình đồng chí, tình đồng bào. Qua đó, tác giả cũng nhắc nhở người đọc không quên đi những trang sử vĩ đại của dân tộc, những trang sử chứa đựng máu và nước mắt, cũng là những trang sử đầy tinh thần cách mạng, lòng yêu nước sâu sắc.

1 90 lượt xem