Top 40 mẫu Phân tích bài thơ Qua đèo ngang

Sinx.edu.vn xin giới thiệu tới các em 40 mẫu Phân tích bài thơ Qua đèo ngang giúp các em làm bài văn có nhiều cách phân tích bài thơ Qua đèo ngang đa dạng hơn được điểm tốt trong môn Ngữ văn.

1 88 lượt xem


Nội dung bài viết

Phân tích bài thơ Qua đèo ngang

I) Dàn ý phân tích bài thơ Qua đèo ngang

Dàn ý phân tích bài thơ Qua đèo ngang (Mẫu 1)

1. Mở bài

Thông tin về nhà thơ Bà Huyện Thanh Quan và nội dung chính của bài thơ Qua Đèo Ngang.

2. Thân bài

 Mô tả về cảnh vật thiên nhiên ở Đèo Ngang

- Thời điểm: “khoảnh khắc hoàng hôn”, là lúc mặt trời lặn, đánh dấu sự kết thúc của một ngày làm việc, khi mọi người thường trở về nhà sau một ngày làm việc vất vả, nhưng nhà thơ lại ở lại một mình ở Đèo Ngang, tạo nên cảm giác cô đơn đến cùng cực.

- Phong cảnh thiên nhiên ở Đèo Ngang:

  • “Cỏ cây xen lẫn đá, lá xen lẫn hoa” là hình ảnh tượng trưng cho sự hòa quyện thiên nhiên.
  • Cụm từ “xen lẫn” kết hợp với hình ảnh “đá, lá, hoa” tạo nên bức tranh về một cảnh thiên nhiên hoang sơ nhưng đầy sức sống.

=> Nhà thơ đã miêu tả phong cảnh ở Đèo Ngang chỉ với vài nét nhưng vẫn thể hiện rất chân thực và sống động.

 Cuộc sống của con người ở Đèo Ngang

- Trên sự giao hòa của thiên nhiên hoang dã và bao la, con người hiện hữu:

Tài nghệ đảo ngữ:

  • Vài chú tiều lom khom dưới chân núi: hình ảnh vài chú tiều đứng lom khom ở dưới chân núi.
  • Mấy căn nhà lác đác bên sông: hình ảnh vài căn nhà nhỏ bé thưa thớt, lác đác ven sông.

=> Điểm tâm vào sự khiêm tốn của con người trước sự bao la của thiên nhiên. Con người chỉ nhỏ bé như một điểm yếu ớt giữa vẻ đẹp rộng lớn của thiên nhiên. Phân cảnh và con người dường như xa cách, tăng thêm cảm giác hoang vu, cô đơn.

Tâm trạng nhớ nhà của nhà thơ khi đứng trước Đèo Ngang

- Hình ảnh của 'con quốc quốc' và 'cái gia gia' không chỉ là hình ảnh thực về hai loại chim (chim đỗ quyên, chim đa đa).

- Tại đây, nhà thơ đã sử dụng kỹ thuật tĩnh tả: tiếng kêu 'quốc quốc', 'đa đa' để thể hiện nỗi nhớ thương sâu sắc đối với đất nước, quê hương.

=> Hai dòng thơ lộ diện tâm sự sâu sắc của Bà Huyện Thanh Quan.

Tâm trạng cô đơn tột cùng của nhà thơ

- Dòng thơ 'Dừng chân đứng lại, trời, non, nước' mô tả hình ảnh nhà thơ một mình đứng tại nơi Đèo Ngang, nhìn ra xa chỉ thấy vẻ đẹp bao la của thiên nhiên (bao gồm bầu trời, núi non, dòng sông).

- Cảm giác cô đơn của nhà thơ: 'một mảnh tình riêng' - tâm trạng cá nhân không có ai để chia sẻ, 'ta với ta' - chỉ là nhà thơ với chính bản thân mình, khiến bà đối mặt với sự cô đơn và lẻ loi.

=> Hai dòng cuối khẳng định lại nỗi cô đơn, trống trải của tác giả trước vẻ rộng lớn của thiên nhiên.

3. Kết bài

Tôn vinh giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ Qua Đèo Ngang.

 

Dàn ý phân tích bài thơ Qua đèo ngang (Mẫu 2)

1. Mở bài

- Mở đầu và giới thiệu về Bà Huyện Thanh Quan cùng bài thơ “Qua Đèo Ngang”.

- Tổng Quan về Giá Trị Nội Dung và Nghệ Thuật của Tác Phẩm. 

2. Thân bài

a, Tổng Quan: 

- Bà Huyện Thanh Quan (1805-1848): 

+ Là Một Nữ Sĩ Thời Trung Đại. 

+ Bà Đã Được Mời Vào Kinh, Giữ Chức Cung Trung Giáo Tập Để Dạy Học Cho Các Công Chúa Và Cung Phi. 

+ Tác Phẩm Của Bà Không Nhiều, Chủ Yếu Viết Bằng Chữ Nôm.

- Bài Thơ “Qua Đèo Ngang”: Được Sáng Tác Khi Nữ Sĩ Theo Chồng Vào Phú Xuân (Huế) Để Nhậm Chức. 

b, Phân Tích: 

* Đoạn Mở Đầu: Tái Hiện Khung Cảnh Thời Gian Và Không Gian Nơi Đèo Ngang: 

“Bước Tới Đèo Ngang Bóng Xế Tà

  Cỏ Cây Chen Lá, Đá Chen Hoa”

- Thời Gian: “Bóng Xế Tà”: 

+ Kết Thúc Một Ngày.

+ Con Người Trở Về Bên Gia Đình.

-> Đặc Biệt Nhấn Mạnh Nỗi Cô Đơn, Quạnh Hiu Của Tác Giả. 

- Bối Cảnh Thiên Nhiên: 

+ Những Đối Tượng: Cỏ Cây, Lá, Đá, Hoa.

+ Sử Dụng Từ Ngữ “Chen”.

-> Tạo Hình Khung Cảnh Thiên Nhiên Hoang Sơ Nhưng Đầy Năng Lượng. 

* Cảnh Thực Tế: Tái Hiện Cuộc Sống Con Người Ở Đèo Ngang: 

“Người Dân Dưới Núi Tiều Cười Một Vài Chú

  Lưng Lạc Bên Sông Chợ Những Ngôi Nhà”

- Sử Dụng Cụm Từ Như “Lom Khom”, “Lác Đác” -> Khuấy Động Hình Ảnh Vắng Vẻ, Thưa Thớt. 

- Nghệ Thuật Đảo Ngữ: 

+ Lom Khom - Tiều Một Vài Chú.

+ Lác Đác - Chợ Mấy Nhà

-> Tôn Chất Sự Nhỏ Bé Của Con Người Trước Bản Dạng Thiên Nhiên Rộng Lớn. Từ Đó Làm Nổi Bật Hơn Nỗi Cô Đơn, Quạnh Hiu Của Con Người Trong Không Gian Hoang Vu. 

* Phân Tích Tâm Trạng: Con Người Trước Đèo Ngang: 

“Nhớ Nước Đau Lòng Con Quốc Quốc

  Thương Nhà Mỏi Miệng Của Gia Gia”

- Sử Dụng Động Từ Thể Hiện Trạng Thái “Nhớ”, “Thương”. 

- Biểu Tượng Hình Ảnh Của Chim Đỗ Quyên, Chim Đa Đa: 

+ Sử Dụng Tiếng Kêu Của Hai Loài Chim: Quốc Quốc, Gia Gia. 

+ Thủ Pháp Sử Dụng Động Và Tĩnh. 

-> Thể Hiện Sự Nhớ Thương Với Quê Hương, Tình Yêu Với Đất Nước Của Nữ Sĩ. 

* Kết Câu Mang Đậm Nỗi Cô Đơn Của Con Người Trước Thiên Nhiên: 

“Ngừng Bước, Đứng Lại, Trời, Núi, Sông

  Mảnh Tình Riêng, Ta Với Ta”

- Hành Động: “Ngừng Bước, Đứng Lại”.

- Không Gian Rợn Ngợp: “Trời, Núi, Sông” 

- Nỗi Lòng của Thi Sĩ: “Mảnh Tình Riêng, Ta Với Ta”.

-> Khẳng Định Nỗi Cô Đơn, Trống Trải Của Tác Giả Trước Không Gian Thiên Nhiên Bao La, Rộng Lớn. 

3. Kết Bài

- Tôn Vinh Giá Trị của Tác Phẩm. 

- Mở Rộng Liên Kết. 

 

Dàn ý phân tích bài thơ Qua đèo ngang (Mẫu 3)

1.  Mở bài

Bài thơ 'Qua Đèo Ngang' giới thiệu về nhân vật Bà Huyện Thanh Quan và nội dung chính của tác phẩm.

2. Thân bài

(1) Hai câu đề: Cảnh vật thiên nhiên nơi Đèo Ngang

- Trong khoảnh khắc 'Bóng xế tà,' thời điểm kết thúc mỗi ngày, khi mọi người trở về sau một ngày làm việc vất vả, nhà thơ tìm thấy mình cô đơn tại Đèo Ngang.

- Khung cảnh thiên nhiên tại Đèo Ngang được miêu tả qua hình ảnh 'Cỏ cây chen đá, lá chen hoa,' biểu tượng hóa một thiên nhiên hoang sơ nhưng đầy sức sống.

- Nhà thơ đã thành công trong việc khắc họa khung cảnh thiên nhiên Đèo Ngang chỉ bằng vài nét mô tả, mang lại sự chân thực và sinh động.

(2) Hai câu thực: Cuộc sống con người nơi Đèo Ngang

Trong vùng thiên nhiên hoang sơ và mênh mông này, con người trở nên rất nhỏ bé:

- Bằng nghệ thuật đảo ngữ, nhà thơ tạo ra hình ảnh 'Lom khom - tiều vài chú,' nơi một vài chú tiều đứng lom khom dưới chân núi.

- Tương tự, qua 'Lác đác - chợ mấy nhà,' ông tạo ra hình ảnh một số căn nhà nhỏ nhắn, lác đác ven sông.

Như vậy, nhấn mạnh sự không đáng kể của con người trước sự rộng lớn của thiên nhiên. Con người chỉ tồn tại như một chấm nhỏ giữa vẻ đẹp vô tận của thiên nhiên. Sự xa cách giữa cảnh vật và con người tạo nên không gian hoang vu và cô đơn.

(3) Hai câu luận: Tâm trạng nhớ nhà của nhà thơ khi đứng trước Đèo Ngang

- Hình ảnh 'con quốc quốc' và 'cái gia gia' không chỉ là mô tả về hai loại chim (chim đỗ quyên, chim đa đa).

- Thay vào đó, nhà thơ đã sử dụng tiếng kêu 'quốc quốc' và 'gia gia' để thể hiện sự nhớ thương đối với đất nước và quê hương của mình, qua đó thể hiện tâm trạng đậm đà của Bà Huyện Thanh Quan.

- Hai câu thơ này đánh dấu một sự kết nối tinh tế giữa con người và thiên nhiên, thể hiện lòng yêu quý và nhớ nhung sâu đậm của nhà thơ đối với quê hương.

(4) Hai câu kết: Nỗi cô đơn tột cùng của nhà thơ

- Câu thơ 'Dừng chân đứng lại, trời, non, nước' tái hiện tình cảnh của nhà thơ một mình đứng ở Đèo Ngang, với tầm nhìn trải ra xa xôi chỉ thấy một vẻ đẹp hoang sơ của thiên nhiên (bao gồm bầu trời, núi non, và dòng sông).

- Sự cô đơn của nhà thơ được thể hiện qua từng từ trong câu 'một mảnh tình riêng,' thể hiện tâm trạng riêng tư không thể chia sẻ với ai khác, và 'ta với ta,' chỉ có một mình nhà thơ đối diện với chính bản thân, cảm giác cô đơn và lẻ loi.

- Những câu này nhấn mạnh nỗi cô đơn và sự trống trải của tác giả trước sự mênh mông của thiên nhiên.

3. Kết bài

Khẳng định lại giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ Qua Đèo Ngang.

Dàn ý phân tích bài thơ Qua đèo ngang (Mẫu 4)

1. Mở bài

Giới thiệu về Bà Huyện Thanh Quan, nội dung chính bài thơ Qua Đèo Ngang.

2. Thân bài

Hai câu đề: Cảnh vật thiên nhiên nơi Đèo Ngang

- Thời gian: “Bóng xế tà”, đây là thời điểm kết thúc của một ngày, khi con người thường trở về nhà sau một ngày lao động vất vả. Vậy mà nhà thơ lại một mình tại nơi đèo Ngang càng khiến cho nỗi cô đơn trở nên tột cùng.

- Khung cảnh thiên nhiên Đèo Ngang:

+ “Cỏ cây chen đá, lá chen hoa” là hình ảnh ước lệ mang tính biểu tượng.

+ Điệp từ: “chen” kết hợp với hình ảnh “đá, lá, hoa” gợi ra một thiên nhiên tuy hoang sơ nhưng lại tràn đầy sức sống.

=> Khung cảnh thiên nhiên Đèo Ngang được nhà thơ khắc họa chỉ bằng vài nét nhưng lại hiện ra đầy chân thực và sinh động.

Hai câu thực: Cuộc sống con người nơi Đèo Ngang

- Giữa thiên nhiên hoang sơ và rộng lớn con người xuất hiện:

Nghệ thuật đảo ngữ:

+ Lom khom - tiều vài chú: hình ảnh vài chú tiều với dáng đứng lom khom dưới chân núi.

+ Lác đác - chợ mấy nhà: hình ảnh vài căn nhà nhỏ bé thưa thớt, lác đác bên sông.

=> Nhấn mạnh vào sự nhỏ bé của con người trước thiên nhiên rộng lớn. Con người chỉ nằm là một chấm buồn lặng lẽ giữa một thiên nhiên rộng lớn. Cảnh vật và con người dường như có sự xa cách khiến cho không khí càng thêm hoang vu, cô quạnh.

Hai câu luận: Tâm trạng nhớ nhà của nhà thơ khi đứng trước Đèo Ngang

- Hình ảnh “con quốc quốc” và “cái gia gia” không chỉ là hình ảnh thực về hai loại chim (chim đỗ quyên, chim đa đa).

- Mà ở đây, nhà thơ đã sử dụng thủ pháp lấy động tả tĩnh: tiếng kêu “quốc quốc”, “đa đa” để qua đó bộc lộ nỗi lòng nhớ thương của mình với đất nước, quê hương.

=> Hai câu thơ diễn tả nhớ nhung sâu đậm của Bà Huyện Thanh Quan.

Hai câu kết: Nỗi cô đơn tột cùng của nhà thơ

- Câu thơ “Dừng chân đứng lại, trời, non, nước” khắc họa hình ảnh nhà thơ một mình đứng tại nơi Đèo Ngang, đưa mắt nhìn ra xa cũng chỉ thấy thiên nhiên rộng lớn phía trước (có bầu trời, có núi non, dòng sông).

- Sự cô đơn của nhà thơ: “một mảnh tình riêng” - tình cảm riêng tư của nhà thơ không có ai để chia sẻ, “ta với ta” - đều chỉ nhà thơ, lúc này bà chỉ có một mình đối diện với chính mình, cô đơn và lẻ loi.

=> Hai câu kết khẳng định lại nỗi cô đơn, trống trải của tác giả trước thiên nhiên rộng lớn.

3. Mở bài

- Khẳng định lại giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ Qua Đèo Ngang.

 

II) Các bài văn mẫu phân tích bài thơ Qua đèo ngang

Phân tích bài thơ Qua đèo ngang (Mẫu 1)

Bà Huyện Thanh Quan một trong những nữ văn sĩ nổi tiếng của văn học trung đại Việt Nam. Thơ văn bà để lại cho hậu thế không còn nhiều, trong đó nổi tiếng nhất là phải kể đến bài Qua đèo Ngang. Đây là bài thơ tả cảnh ngụ tình, bộc lộ nỗi niềm, tâm trạng của bà khi trên đường vào kinh đô Huế nhận chức. Mở đầu bài thơ là bức tranh phong cảnh thấm đẫm nỗi buồn hiu quạnh:

“Bước đến đèo Ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa”

Hai câu thơ mở ra không gian, thời gian nghệ thuật quen thuộc trong thơ trung đại, đây đồng thời cũng là nét đặc trưng phong cách của Bà Huyện Thanh Quan: chiều tà và bóng hoàng hôn. Thời gian là buổi chiều nhưng không phải là lúc đầu hôm mà là chiều tà, thời điểm chuyển giao giữa chiều và tối, ánh nắng chỉ còn nhạt nhòa và sắp lặn. Không gian mênh mông, rộng lớn, với cả trời, non, nước nhưng tất cả đều im ắng, vắng lặng đến rợn ngợp.

Trong không gian đó, hình ảnh cây cối, hoa cỏ hiện lên có phần hoang dại, chúng chen chúc nhau mọc lên. Từ “chen” gợi sức sống mãnh liệt của muôn loài trước cái cằn cỗi của đất đai, cái khắc nghiệt của thời tiết. Đồng thời từ này còn gợi lên thiên nhiên có phần hoang dã, vô trật tự. Không gian và thiên nhiên cây cỏ hòa quyện vào nhau càng làm sâu đậm thêm ấn tượng về mảnh đất hoang vu. Bức tranh được điểm thêm hơi thở, sự sống của con người:

“Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà”

Những tưởng rằng với sự xuất hiện của sự sống con người quang cảnh sẽ bớt vắng lặng, cô đơn hơn nhưng thực tế lại không phải vậy. Sự xuất hiện của con người trái lại càng khiến cảnh vật thêm phần heo hút, hoang vắng hơn. Nghệ thuật đảo ngữ nhấn mạnh vào dáng “lom khom” của những chú tiều, cái “lác đác” của mấy ngôi nhà ven sông kết hợp các từ chỉ số lượng ít ỏi “vài”, “mấy” khiến cho hình bóng con người đã nhỏ lại càng nhỏ hơn, cuộc sống đã hiu quạnh lại càng hiu quạnh hơn.

Bức tranh về một thế giới cô liêu hiện lên rõ hơn bao giờ hết. Nhìn lại cả hai câu thơ ta thấy chúng có đầy đủ các yếu tố của một bức tranh sơn thủy, hữu tình: núi, sông, tiều phu, chợ. Thế nhưng những yếu tố ấy khi hợp lại với nhau và khúc xạ qua cảm nhận của nhà thơ lại gợi lên một miền sơn cước hiu quạnh, heo hút.

Bốn câu thơ cuối nói lên nỗi niềm, tâm sự của tác giả: “Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc/Thương nhà mỏi miệng cái gia gia”. Những âm thanh của cuốc kêu cũng chính là nỗi lòng của Bà Huyện Thanh Quan. Tài dùng chữ của bà đã đạt đến độ điêu luyện: chữ quốc là nước đồng âm với chữ cuốc tức con chim, chữ gia là nhà gần âm với từ chữ đa là chim đa đa.

Chữ vừa ghi âm thanh nhưng đồng thời còn bộc lộ tâm trạng, ý tứ của tác giả, qua đó làm nổi bật tâm trạng, nỗi niềm của nữ sĩ. Vì phải xa quê hương, vào miền đất mới nhận chức nên bà nhớ nhà, nhớ gia đình. Còn nhớ nước tức là bà đang nhớ về quá khứ huy hoàng của triều đại cũ. Hai chữ nhớ nước, thương nhà được tác giả đảo lên đầu câu càng nhấn mạnh và làm nổi bật nỗi niềm của bà.

Hai câu thơ cuối bộc lộ trực tiếp nỗi niềm cô đơn khắc khoải của nhà thơ: “Dừng chân đứng lại trời, non, nước/ Một mảnh tình riêng ta với ta”. Không gian mênh mông khiến con người lại càng trở nên bé nhỏ, cô đơn hơn. Sự vật tưởng là hòa quyện, gắn kết với nhau mà thực chất lại đang chia lìa đôi ngả, trời, non, nước được tách biệt với nhau bằng những dấu phẩy, đó là cái nhìn mang tính tâm trạng của chính tác giả.

Câu thơ cuối như là một lời khẳng định trực tiếp nỗi cô đơn đó “một mảnh tình” “ta với ta”. Đại từ “ta” không còn mang ý nghĩa chỉ chung, cộng đồng mà là cá nhân, chỉ một mình tác giả. Trong hai câu kết, tất cả là một sự gián cách, là một thế giới riêng, cô đơn đến tuyệt đối.

Không chỉ đặc sắc về nội dung, tác phẩm còn là điển hình mẫu mực về nghệ thuật cổ điển Đường thi. Bà sử dụng thể thơ thất ngôn bát cú, chuẩn mực về niêm, luật, đối, ngôn ngữ trau chuốt, mượt mà mặc dù đã được Việt hóa. Sử dụng thành công đảo ngữ, chơi chữ. Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình xuất sắc, tả cảnh vật mà bộc lộ nỗi niềm, tâm trạng của tác giả.

Qua bài thơ “Qua Đèo Ngang” ta không chỉ ấn tượng bởi nghệ thuật tài tình, kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất cổ điển đường thi và chất dân dã của dân tộc, mà còn bị cuốn hút bởi nội dung. Bức tranh phong cảnh đèo Ngang hiu quanh, mênh mông đã thể hiện tâm trạng buồn bã, nỗi niềm nhớ nước, thương nhà của tác giả.

Phân tích bài thơ Qua đèo ngang (Mẫu 2)

Ai đã từng một lần đi trên con đường xuyên Việt, hẳn đều biết đến đèo Ngang. Đây là một đèo khá dài và khá cao, nằm vắt ngang sườn núi cheo leo, hiểm trở của khúc cuối dãy Hoành Sơn, trước khi đâm ra biển. Hình ảnh đèo Ngang đã được đưa vào bài thơ “Qua Đèo Ngang” của Bà Huyện Thanh Quan, nhằm gửi gắm nhiều ý nghĩa sâu sắc.

Đèo Ngang là ranh giới tự nhiên giữa Hà Tĩnh và Quảng Bình. Thuở xưa, bao người vào kinh đô Huế để thi cử hay làm việc cho triều đình phong kiến đã đi qua đèo này rồi lâng lâng xúc cảm trước vẻ đẹp của nó mà làm thơ ca ngợi. Bà Huyện Thanh Quan nhân dịp từ Thăng Long vào Huế nhậm chức Cung trung giáo tập (dạy dỗ các cung nữ trong cung) đã sáng tác bài Qua đèo Ngang.

Đằng sau bức tranh phong cảnh thiên nhiên là tâm trạng của nữ sĩ: cô đơn, nhớ nhà và hoài niệm về một thời đại huy hoàng đã qua. Có thể coi đây là bài thơ hay nhất trong những bài thơ sáng tác về thắng cảnh này. Câu phá đề đơn giản chỉ là lời giới thiệu về thời điểm tác giả đặt chân đến đèo Ngang:

Bước tới đèo Ngang bóng xế tà. Đó là lúc mặt trời đang lặn, phía tây chỉ còn chút nắng hắt những tia sáng yếu ớt lên nền trời đang sẫm dần. Thời điểm này rất dễ gợi buồn trong lòng người, nhất là đối với kẻ lữ thứ tha hương. Tuy vậy, trời vẫn còn đủ sáng để nhà thơ nhận ra thiên nhiên nơi đây đẹp như một bức tranh thủy mặc: “Cỏ cây chen đá, lá chen hoa”.

Có cái gì đó như linh hồn của tạo vật thấp thoáng sau từng chữ. Điệp từ chen, các vế đối: cây chen đá, lá chen hoa miêu tả sức sống mãnh liệt của một vùng rừng núi hoang vu. Cảnh đẹp thì có đẹp nhưng nhuốm màu buồn bã, quạnh hiu, thiếu hơi ấm con người. Những bông hoa rừng đây đó không đủ làm sáng, làm vui bức tranh núi non lúc ngày tàn, đêm xuống.

Trên bối cảnh thiên nhiên bao la ấy thấp thoáng bóng dáng con người và hơi hướng cuộc sống nhưng cũng chỉ ít ỏi, mờ nhạt, xa vời:

“Lom khom dưới núi tiều vài chú,
Lác đác bên sông chợ mấy nhà.”

Con mắt tinh tế của nhà thơ phát hiện ra nét đặc trưng của người và cảnh trước tiên nên bà đã dùng nghệ thuật đảo ngữ để nhấn mạnh đặc trưng ấy. Dáng vẻ lom khom của mấy chú tiều hái củi sườn non làm cho con người vốn đã nhỏ bé lại càng thêm nhỏ bé trước thiên nhiên cao rộng.

Cái chợ là nơi biểu hiện sức sống của một cộng đồng làng xã, lẽ ra tấp nập đông vui, nhưng ở đây nó chỉ là mấy túp lều xơ xác bên sông… Bao trùm lên cảnh vật là một nỗi buồn tê tái và nỗi buồn ấy thấm sâu vào lòng người:

“Nhớ nước đau lòng con quốc quốc,
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.”

Giữa không gian tĩnh lặng gần như tuyệt đối ấy bỗng vẳng lên tiếng chim quốc khắc khoải, tiếng chim đa đa não nuột. Đó là những âm thanh có thật mà cũng có thể là tiếng vọng từ tâm trạng chất chứa nỗi buồn thời cuộc của nhà thơ. Mượn bút pháp ước lệ và nghệ thuật chơi chữ (từ đồng âm khác nghĩa) để nói lên lòng mình trước cảnh, đó là tài hoa của nữ sĩ.

Tiếng chim kêu không làm cho cảnh vui lên thêm chút nào mà lại làm tăng phần quạnh quẽ, cô liêu. Phải chăng tiếng chim chính là tiếng lòng của kẻ đang mang nặng tâm trạng u buồn, hoài vọng, nhớ nước thương nhà?!

Hồn cảnh, hồn người như có nét tương đồng, cho dù về hình thức hoàn toàn tương phản. Cái bao la, vô tận của non nước tô đậm cái cô đơn, chơ vơ của con người và ngược lại. Vì vậy nên nỗi buồn càng lắng đọng:

“Dừng chân đứng lại trời, non, nước,
Một mảnh tình riêng, ta với ta.”

Quả là một nỗi buồn lớn lao, thấm thía, khó san sẻ, giãi bày. Nó như kết thành hình, thành khối, thành mảnh tình riêng khiến nhà thơ phải thốt lên chua xót: ta với ta. Chỉ có ta hiểu lòng ta mà thôi! Vì thế nên sự cô đơn càng tăng lên gấp bội.

Bài thơ “Qua Đèo Ngang” tuy ra đời cách đây đã hơn một thế kỉ nhưng giá trị của nó vẫn nguyên vẹn trước thử thách của thời gian. Bao người yêu thơ thuộc lòng bài thơ này và ca ngợi tài năng của tác giả. Thể thơ Đường luật kiểu cách, sang trọng vào tay nữ sĩ đã trở thành gần gũi, dễ hiểu với người đọc bởi ngôn ngữ giản dị, trong sáng và những hình ảnh dân dã quen thuộc.

Phân tích bài thơ Qua đèo ngang (Mẫu 3)

Một trong những nữ thi sĩ tiêu biểu của nền văn học Việt Nam trung đại là Bà Huyện Thanh Quan. Tác phẩm nổi bật của bà phải kể đến bài thơ “Qua Đèo Ngang”.

Mở đầu bài thơ, tác giả đã khắc họa thiên nhiên nơi đèo Ngang tràn đầy sức sống:

“Bước tới Đèo Ngang, bóng xế tà,
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa”

Thời điểm mà Bà Huyện Thanh Quan bước đến đèo Ngang là khi “bóng xế tà” - kết thúc của một ngày. Đó là khi con người trở về nhà để nghỉ ngơi sau một ngày mệt mỏi. Trước mắt tác giả là thiên nhiên nơi đèo Ngang trần đầy sức sống. Cách sử dụng điệp từ “chen” kết hợp với hình ảnh “đá, lá, hoa” cho thấy sự sống đang trỗi dậy. Khung cảnh đèo Ngang được khắc họa chỉ bằng vài nét nhưng lại hiện ra đầy chân thực và sinh động.

Và trong nền bức tranh thiên nhiên đó, con người xuất hiện. Nhà thơ đã sử dụng nghệ thuật đảo ngữ trong hai câu thơ tiếp theo: “lom khom - tiều vài chú”, “lác đác - chợ mấy nhà” cho thấy hình ảnh vài chú tiều với dáng đứng lom khom dưới chân núi, vài căn nhà nhỏ bé thưa thớt, lác đác bên sông. Cách sử dụng nhằm nhấn mạnh sự nhỏ bé của con người giữa thiên nhiên rộng lớn. Từ đó, sự cô đơn của tác giả càng được thể hiện rõ hơn.

“Nhớ nước, đau lòng, con quốc quốc,
Thương nhà mỏi miệng, cái gia gia.”

Hình ảnh “con quốc quốc” và “cái gia gia” không chỉ là hình ảnh thực về hai loại chim (chim đỗ quyên, chim đa đa). Tiếng kêu “quốc quốc”, “đa đa” nghe da diết đã còn bộc lộ nỗi lòng nhớ thương của mình với đất nước, quê hương.

Đến câu thơ “Dừng chân đứng lại, trời, non, nước” khắc họa hình ảnh nhà thơ một mình đứng tại nơi Đèo Ngang, đưa mắt nhìn ra xa cũng chỉ thấy thiên nhiên rộng lớn phía trước (có bầu trời, có núi non, dòng sông). Sự cô đơn của nhà thơ: “một mảnh tình riêng” - tình cảm riêng tư của nhà thơ không có ai để chia sẻ:

“Dừng chân đứng lại trời, non, nước
Một mảnh tình riêng, ta với ta”

Cảnh vật thiên nhiên thì rộng lớn, còn tác giả chỉ có “một mảnh tình riêng”. Và cái mảnh tình con con ấy cũng chỉ có “ta với ta”. Nếu trong “Bạn đến chơi nhà”, Nguyễn Khuyến dùng cụm từ “ta với ta” - “Bác đến chơi đây ta với ta” để diễn tả tình bạn tri kỉ, thắm thiết. Thì trong bài Qua đèo Ngang, cụm từ “ta với ta” càng bộc lộ thêm nỗi cô đơn của tác giả.

Qua Đèo Ngang gửi gắm nỗi lòng yêu quê hương, đất nước tha thiết của Bà Huyện Thanh Quan.

Phân tích bài thơ Qua đèo ngang (Mẫu 4)

Trong nền văn học hiện đại nếu như chúng ta bắt gặp sự sắc sảo, mạnh mẽ, bứt phá trong thơ của Hồ Xuân Hương thì chắc hẳn rằng sẽ thấy được sự điềm tĩnh, nhẹ nhàng, trầm buồn của Bà Huyện Thanh Quan. Bài thơ “Qua đèo Ngang” tiêu biểu cho phong cách ấy.

Bài thơ được sáng tác khi tác giả vào Phú Xuân (Huế) nhận chức và đi qua đèo này. Cảm hứng chủ đạo của bài thơ là nỗi buồn man mác, nhớ nhà, nhớ quê hương và thương cho thân gái nơi đường xa. Bài thơ được sáng tác theo thể thất ngôn bát cú với cấu trúc đề, thực, luận kết.

Chỉ tám câu thơ nhưng nó đã diễn tả được hết cái thần thái, cái hồn của cảnh vật cũng như của con người khi đứng trước cảnh trời núi hiu quạnh và lòng người man mác như thế này. Hai câu đề gợi lên trước mắt người đọc khung cảnh hoang sơ nơi đèo Ngang:

“Bước tới đèo Ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen lá, lá chen hoa”

Không gian và thời gian ở đèo Ngang được tác giả thể hiện qua từ 'bóng xế tà'. Có thể nói đây là thời gian là cảm xúc trong lòng người dường như nặng nề, gợi buồn, gợi sầu hơn. Trong ca dao, dân ca, chúng ta vẫn bắt gặp thời điểm chiều tả để đặc tả nỗi buồn không biết bày tỏ cùng ai. Mặt trời xuống núi, hoàng hôn sắp bao phủ lấy nơi này.

Cảm giác cô đơn, lạc lõng. Cảnh vật thiên nhiên nơi đây dường như quạnh quẽ đến nao lòng. Chỉ có cỏ cây và hoa. Điệp từ 'chen' dường như đã làm tăng thêm tính chất hiu quạnh của địa danh này. Hoa lá đang quấn quýt lấy nhau, bám chặt nhau để sống, sinh sôi.

“Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà”

Đến hai câu thực thì mới thấp thoáng hình ảnh con người, nhưng cũng chỉ là 'tiều vài chú'. Hóa ra chỉ là một vài chú tiều bé nhỏ đi nhặt củi ở dưới chân núi. Mặc dù có sự sống nhưng mong manh và hư vô quá. Với phép đảo trật tự cú pháp ở hai câu thơ này, Bà Huyện Thanh Quan đã một lần nữa nhấn mạnh sự hoang sơ, hiu quạnh của đèo Ngang.

Việc sử dụng hai từ láy 'lom khom' và 'lác đác' vừa chỉ hoạt động gánh củi vất vả vừa chỉ ước tính số lượng cụ thể. Những hình ảnh ước lệ trong thơ Bà Huyện Thanh Quan đã lột tả hết thần thái cũng như cảm xúc của tác giả lúc đó. Những sự sống hiếm hoi, lẻ loi và mong manh đang chờn vờn ở ngay trước mắt nhưng xa lắm. Muốn tìm bạn để tâm sự cũng trở nên khó khăn. Sang đến hai câu thơ luận thì cảm xúc và tâm sự của tác giả bỗng nhiên trỗi dậy

“Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia”

Điệp âm 'con quốc quốc' và 'cái gia gia' đã tạo nên âm hưởng dìu dặt, du dương nhưng vô cùng não nề thấm đến tâm can. Người lữ khách đường xa nghe văng vẳng tiếng cuốc và da da kêu mà lòng quạnh hiu, buồn tái tê. Thủ pháp lấy động tả tĩnh của tác giả thật đắc điệu, trên cái nền tĩnh lặng, quạnh quẽ bỗng nhiên có tiếng chim kêu thực sự càng thêm não nề và thê lương.

“Dừng chân nghỉ lại trời non nước
Một mảnh tình riêng ta với ta”

Chỉ bốn chữ 'dừng chân nghỉ lại' cũng đã khiến người đọc cảm thấy da diết, bồn chồn đến não nề. Cảnh trời nước mênh mông, vô tận nhưng con người thì bé nhỏ khiến cho tác giả thấy mình lạc lõng và không một nơi bấu víu. Đất trời rộng lớn, tác giả chỉ cảm thấy còn 'một mảnh tình riêng'. Và cái mảnh tình con con ấy cũng chỉ có 'ta với ta'. Nỗi buồn dường như trở nên cực độ, buồn thấu tận tâm can, buồn nghiêng ngả trời đất.

Bài thơ “Qua Đèo Ngang” với giọng điệu da diết, trầm bổng, du dương và những thủ pháp nghệ thuật độc đáo đã mang đến cho người đọc cảm xúc khó quên. Dư âm của bài thơ dường như còn vang vọng đâu đây.

Phân tích bài thơ Qua Đèo Ngang - Văn 8 ...

Phân tích bài thơ Qua đèo ngang (Mẫu 5)

“Có nơi đâu đẹp tuyệt vời
Như sông như núi, như người Việt Nam”

Câu thơ thể hiện niềm kiêu hãnh, tự hào về non sông đất trời Việt Nam. Thiên nhiên trên quê hương ta có vẻ đẹp mộng mơ, chan hòa sức sống. Chính vì vậy, thiên nhiên luôn là đề tài bất tận của thi ca. Lúc thì lung linh, huyền diệu như trong mộng, lúc lại rực rỡ, kiêu sa tựa ánh mặt trời. Bài thơ “Qua Đèo Ngang” của Bà Huyện Thanh Quan là một trong số đó.

“Bước tới Đèo Ngang, bóng xế tà,
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.
Lom khom dưới núi, tiều vài chú,
Lác đác bên sông, chợ mấy nhà.
Nhớ nước, đau lòng, con quốc quốc,
Thương nhà mỏi miệng, cái gia gia.
Dừng chân đứng lại, trời, non, nước,
Một mảnh tình riêng, ta với ta.”

Câu thơ mở đầu gợi mở về không gian, thời gian. Cụm từ “bóng xế tà” gợi ra thời điểm chiều tà đã bao trùm lên không gian đèo Ngang. Tiếp đến nhà thơ sử dụng điệp từ “chen” cùng cách gieo vần lưng “lá, đá” đã tạo nên sự cô đơn, tĩnh mịch. Từ tà như diễn tả một khái niệm sắp tàn lụa, biến mất. Yếu tố thời gian làm cho câu thơ thêm phần buồn bã. Ca dao cũng đã có câu:

“Vẳng nghe chim vịt kêu chiều
Bâng khuâng nhớ mẹ, chín chiều ruột đau”

Thế mới biết, những tình cảm cao quý của mỗi người dường như gặp nhau ở một điểm. Đó chính là thời gian. Mà quãng thời gian thích hợp nhất để bộc lộ sự nhớ nhung khắc khoải chính là lúc chiều về. Ở bài thơ “Qua đèo Ngang”, tác giả bỗng dâng lên cảm xúc man mác khi bà bắt gặp ánh hoàng hôn bao phủ cảnh vật.

Không chỉ là thiên nhiên, mà con người cũng xuất hiện trong bức tranh nơi đèo Ngang:

“Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông, chợ mấy nhà”

Câu thơ gợi cho tả hình dung trong ánh hoàng hôn lạnh lẽo, mấy người tiều phu đang đốn củi, mấy quán chợ xiêu xiêu trong gió. Đảo ngữ đưa hai từ láy lom khom, lác đác lên đầu câu đã được tác giả sử dụng như nhấn mạnh thêm sự u hoài ở đây. Nhà thơ đi tìm một sự sống nhưng sự sống đó lại làm cho cảnh vật héo hắt, buồn bã hơn, xa vắng hơn.

Sự đối lập vốn có của hai câu thực khiến cho cảnh trên sông, dưới núi thêm rời rạc, thưa thớt. Từ “vài, mấy” như càng nói rõ thêm sự vắng vẻ ở nơi này. Trong sự hiu quạnh đó, bỗng nhiên vẳng lên tiếng kêu đều đều, man mác của loài chim quốc quốc, chim gia gia trong bóng hoàng hôn đang buông xuống.

Từ ghép “đau lòng, mỏi miệng” khiến cho ta có cảm giác tha thiết, ray rứt. Từ “nhớ nước, thương nhà” là nỗi niềm của con chim quốc, chim gia gia do tác giả cảm nhận được hay chính là nghệ thuật ẩn dụ để nói lên tâm sự từ trong sâu thẳm tâm hồn của nữ sĩ? Nghệ thuật chơi chữ quốc quốc gia giá phải chăng là Tổ quốc và gia đình của Bà Huyện Thanh Quan hồi đó?

Sự song song về ý, về lời của hai câu thơ trong phần luận của bài thơ này nhằm nhấn mạnh tình cảm của bà Huyện Thanh Quan đối với Tổ quốc, gia đình trước cảnh thật là khéo léo và tài tình. Từ thực tại của xã hội đương đời mà bà đang sống cho đến cảnh thực của đèo Ngang đã khiến cho tác giả sực nhớ đến mình và tâm sự:

“Dừng chân đứng lại trời non nước
Một mảnh tình riêng ta với ta.”

Câu kết của bài, ta cảm thấy nhà thơ có tâm sự u hoài về quá khứ. Dừng lại và quan sát bà chỉ thấy: trời, non, nước. Vũ trụ thật rộng lớn, xung quanh bà là cả một bầu trời với núi, với sông khiến cho con người cảm thấy mình bé nhỏ lại, đơn độc, trống vắng, ở đây, chỉ có một mình bà ta với ta, lại thêm mảnh tình riêng cho nước, cho nhà trong huyết quản đã làm cho cõi lòng nhà thơ như tê tái.

Bài thơ “Qua Đèo Ngang” đã khắc họa khung cảnh thiên nhiên Đèo Ngang thoáng đãng mà heo hút, thấp thoáng sự sống con người nhưng vẫn còn hoang sơ. Đồng thời thể hiện nỗi nhớ nước thương nhà.

Phân tích bài thơ Qua đèo ngang (Mẫu 6)

Qua Đèo Ngang là một tác phẩm tiêu biểu của Bà Huyện Thanh Quan. Bài thơ gửi gắm tấm lòng yêu nước sâu nặng của nhà thơ.

Mở đầu, tác giả gợi mở về thời gian, không gian cũng như điểm nhìn của bài thơ. Hai từ “bước tới” gợi đến một sự ngạc nhiên khi nhìn thấy hay tiếp cận con đèo. Đó cũng là thời khắc “bóng xế tà” khi ngày đã sắp tàn và màn đêm đang dần buông xuống. Đứng trước đèo Ngang với rừng núi hoang vu xa lạ, những xúc cảm của lòng người đã trào dâng. Tiếng “tà” với âm bằng xuất hiện trong văn cảnh tạo nên giai điệu buồn thương man mác, trở thành “vần” của ý thơ:

“Bước tới đèo Ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa”

Khung cảnh thiên nhiên hiện lên với sức sống mãnh liệt. Điệp từ “chen”, kết hợp với việc sử dụng vần lưng “đá - lá”, lại vừa sử dụng vần chân “tà - hoa” đã làm cho nhạc điệu thơ du dương và réo rắt. Cảnh đèo hiện lên thật hoang vu và có chút cằn cỗi.

Không chỉ thiên nhiên, con người cũng đã xuất hiện trong bức tranh đó:

“Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà”

Cách sử dụng từ láy “lom khom” và “lác đác” kết hợp với nghệ thuật đảo ngữ nhấn mạnh vào sự nhỏ bé, thưa thớt của con người.

Ngoại cảnh đã hòa hợp với râm cảnh người nữ sĩ trong buổi chiều tà nơi đèo hút hút gió. Nữ sĩ đã sử dụng bút pháp miêu tả tượng trưng và ước lệ của thi pháp cổ (ngư, tiều, canh, mục) kết hợp với cảm hứng đầy thi cảm và sáng tạo.

“Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia”

Nghệ thuật đối và đảo ngữ được sử dụng ở phần thực đã tiếp tục được phát huy tác dụng một cách triệt để ở phần luận. Đó là tiếng chim cuốc, chim đa trong bóng chiều tà. Đó là “nhớ nước đau lòng” và “thương nhà mỏi miệng” đã được đặt trong thế đăng đối và hòa hợp. Ý thơ đã thể hiện người nữ sĩ lấy ngoại cảnh để phô diễn tâm tình. Đây cũng là một nét đặc sắc và nổi bật trong phong cách sáng tác của bà huyện Thanh Quan. Thơ tả cảnh ngụ tình nên nhạc, nên họa đã diễn tả cảnh đèo Ngang lúc hoàng hôn với nỗi niềm thi sĩ làm ta cảm thương, vương vấn.

“Dừng chân đứng lại: trời, non, nước
Một mảnh tình riêng ta với ta”

Hai câu thơ kết cuối bài như dồn lại biết bao nhớ thương sâu lắng và dạt dào của người nữ sĩ trong khung cảnh chiều tà. Đứng một mình nơi đèo cao lộng gió trong buổi hoàng hôn, nữ sĩ thấy mình như sống trong tâm trạng lẻ bóng, cô đơn, giữa một khung cảnh thiên nhiên hoang vắng bao la của “trời, non, nước”.

Hai chữ “đứng lại” diễn tả một tư thế, một tâm trạng xúc động và bồi hồi. “Ta với ta” là ba chữ đắt giá kết hợp với điệp ngữ láy âm, đặt trong mối tương phản với “trời, non, nước” đã cho thấy cái mênh mang bao la với sự lẻ loi, đơn côi và nhỏ bé của lòng người. Nó gợi lên một sự trống vắng không thể nào kể xiết.

'Qua Đèo Ngang' là bài thơ Nôm kiệt tác được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật. Bài thơ đã cho thấy phong cách sáng tác của Bà Huyện Thanh Quan.

Phân tích bài thơ Qua đèo ngang (Mẫu 7)

Một trong những tác phẩm tiêu biểu của Bà Huyện Thanh Quan là “Qua Đèo Ngang”. Với bài thơ này, tác giả đã gửi gắm tình yêu quê hương đất nước sâu sắc.

'Qua đèo ngang' gợi lên sự điềm tĩnh, nhẹ nhàng, trầm buồn của bà Huyện Thanh Quan làm tiêu biểu cho phong cách thơ. Bài thơ 'Qua đèo ngang' được tác giả sáng tác trong hoàn cảnh vào Phú Xuân(Huế) nhận chức và đi ngang qua đèo này. Cảm hứng chủ đạo của bài thơ là nỗi buồn man mác, nhớ nhà, quê hương, thương cho thân người con gái yếu đuối đường xa. Bài thơ được sáng tác theo thể thất ngôn bát cú. Với tám câu thơ mà đã thấy được những thần thái, cái hồn trong cảnh vật và con người trước cảnh núi rừng hiu quạnh.

“Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen lá, đá chen hoa”

Hai câu đề hiện rõ khung cảnh rừng núi hoang sơ lúc 'bóng xế tà'. Một cảnh chiều nặng nề làm cho lòng người trở nên u buồn, gợn sầu hơn. Tất cả như gợi lên nỗi nhớ muốn tỏ rõ nỗi lòng mà không ai bầu bạn, sẻ chia. Chỉ có 'cây cỏ chen lá, đá chen hoa' hiu quạnh. Điệp từ 'chen' khẳng định sức sống mạnh mẽ của cỏ, cây, bấu víu để sinh sôi nảy nở.

“Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà”

Đến hai câu thơ tiếp theo thì mới thấy bóng dáng của con người. Hai từ láy “lom khom”, “lác đác” cho thấy sự thưa thớt, vắng vẻ của con người. Trong bức tranh thiên nhiên này, con người chỉ là một điều nhỏ bé.

Tiếp đến, Bà Huyện Thanh Quan đã bộc lộ tâm trạng của mình khi đứng trước đèo Ngang:

“Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia”

Giữa chốn rừng sâu vắng lặng, vang lên tiếng chim cuốc đau lòng não ruột. Đó cũng có thể là thanh âm thật là hay là tiếng lòng trong tâm trạng nhà thơ. Mượn bút pháp ước lệ và nghệ thuật chơi chữ để nói lên tiếng lòng mình trước cảnh. Tiếng chim kêu làm tăng phần cô quạnh, phải chăng đó là tâm trạng hoài vọng nhớ thương nước nhà?

Cái bao la, vô tận của non nước làm chơi vơi bóng hình một mình giữa thiên nhiên, hồn cảnh - hồn người như hòa lẫn vào nhau, làm nỗi buồn da diết bị lắng đọng cùng.

“Dừng chân đứng lại trời non nước
Một mảnh tình riêng ta với ta”

Tiếng lòng non nước thấm thía, không san sẻ buộc nhà thơ thốt lên giãi bày 'ta với ta' nghe chua xót. Chỉ ta mới hiểu được lòng ta, sự cô đơn như tăng lên gấp bội. Dù sầu muội như bà Huyện Thanh Quan vẫn cảm nhận được vẻ đẹp non nước dù nơi dừng chân có vẻ hoang sơ, nhưng đã tô lên vẻ đẹp hùng vĩ, bao la của núi rừng.

Bài thơ 'Qua Đèo Ngang' vừa gợi lên một bức tranh về cảnh đẹp thiên nhiên núi rừng hoang sơ, hùng vĩ, vừa gợi ra khung cảnh sống giản dị, đơn sơ mà ấm áp. Từ đó mang lại những cảm xúc, nỗi niềm, riêng tư của tác giả với tình yêu quê hương, đất nước da diết khi xa quê hương, lẻ loi một bóng hình nơi đất khách quê người.

Phân tích bài thơ Qua đèo ngang (Mẫu 8)

Bà Huyện Thanh Quan là một nữ thi sĩ nổi tiếng trong nền văn học trung đại của nước ta. “Qua Đèo Ngang” là một tác phẩm rất tiêu biểu cho phong cách thơ của bà. Bài thơ đã khắc họa khung cảnh thiên nhiên Đèo Ngang thoáng đãng mà heo hút, thấp thoáng sự sống con người nhưng vẫn còn hoang sơ. Đồng thời nhà thơ còn qua đó gửi gắm nỗi nhớ nước thương nhà.

Tác giả đã khắc họa khung cảnh thiên nhiên nơi Đèo Ngang trong một buổi chiều tà:

“Bước tới Đèo Ngang, bóng xế tà,
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa”

Cụm từ “bóng xế tà” gợi ra thời điểm kết thúc của một ngày. Nhà thơ đang một mình đứng trước nơi đèo Ngang. Tiếp đến câu thơ “Cỏ cây chen đá, lá chen hoa” là hình ảnh ước lệ mang tính biểu tượng, khắc họa khung cảnh thiên nhiên đèo Ngang. Việc sử dụng điệp từ “chen” kết hợp với hình ảnh “đá, lá, hoa” thật tinh tế. Vẻ đẹp thiên nhiên của đèo Ngang tuy hoang sơ nhưng lại tràn đầy sức sống. Khung cảnh thiên nhiên Đèo Ngang được nhà thơ khắc họa chỉ bằng vài nét nhưng lại hiện ra đầy chân thực và sinh động.

Và không thể thiếu trong bức tranh thiên nhiên đó là hình ảnh con người. Nghệ thuật đảo ngữ “lom khom - tiều vài chú” cho thấy hình ảnh vài chú tiều với dáng đứng lom khom dưới chân núi. Và “lác đác - chợ mấy nhà” gợi ra hình ảnh vài căn nhà nhỏ bé thưa thớt, lác đác bên sông. Nhà thơ muốn nhấn mạnh vào sự nhỏ bé của con người trước thiên nhiên rộng lớn. Con người chỉ nằm là một chấm buồn lặng lẽ giữa một thiên nhiên rộng lớn. Thiên nhiên mới là trung tâm trong bức tranh đèo Ngang.

Thiên nhiên càng cô quạnh, tâm trạng của tác giả càng cô đơn. Điều đó được bộc lộ ở những câu thơ tiếp theo:

“Nhớ nước, đau lòng, con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng, cái gia gia”

Hình ảnh “con quốc quốc” và “cái gia gia” không chỉ là hình ảnh thực về hai loại chim (chim đỗ quyên, chim đa đa). Việc sử dụng thủ pháp lấy động tả tĩnh: tiếng kêu “quốc quốc”, “đa đa” để qua đó bộc lộ nỗi lòng nhớ thương của mình với đất nước, quê hương. Đọc đến đây, chúng ta dường như có thể lắng nghe được tiếng kêu khắc khoải, da diết đang vang lên trong vô vọng.

Câu thơ “Dừng chân đứng lại, trời, non, nước” khắc họa hình ảnh nhà thơ một mình đứng tại nơi Đèo Ngang, đưa mắt nhìn ra xa cũng chỉ thấy thiên nhiên rộng lớn phía trước (có bầu trời, có núi non, dòng sông). Sự cô đơn của nhà thơ: “một mảnh tình riêng” - tình cảm riêng tư của nhà thơ không có ai để chia sẻ:

“Dừng chân đứng lại trời, non, nước
Một mảnh tình riêng, ta với ta'

Trong thơ Nguyễn Khuyến cũng từng sử dụng cụm từ “ta với ta”:

“Đầu trò tiếp khách trầu không có
Bác đến chơi đây ta với ta”

Trong “Bạn đến chơi nhà, từ “ta” đầu tiên chỉ chính nhà thơ - chủ nhà, còn từ “ta” thứ hai chỉ người bạn - khách đến chơi. Từ “với” thể hiện mối quan hệ song hành, gắn bó dường như không còn khoảng cách. Qua đó thể hiện tình bạn gắn bó tri âm tri kỷ của nhà thơ. Còn trong thơ Bà Huyện Thanh Quan, cụm từ “ta với ta” ở đây đều chỉ nhà thơ, lúc này bà chỉ có một mình đối diện với chính mình, cô đơn và lẻ loi. Sự cô đơn ấy dường như chẳng thể có ai cùng chia sẻ.

Như vậy, Qua đèo Ngang đã thể hiện được tâm trạng của Bà Huyện Thanh Quan trước khung cảnh đèo Ngang hoang sơ. Bài thơ chứa đựng những tình cảm, ý nghĩa sâu sắc.

Văn mẫu lớp 7: Phân tích bài thơ Qua ...

Phân tích bài thơ Qua đèo ngang (Mẫu 9)

Bài thơ “Qua Đèo Ngang” của Bà Huyện Thanh Quan được sáng tác khi bà đi ngang con đèo này để vào kinh thành Huế nhận chức làm quan. Bài thơ nói lên nỗi nhớ quê hương gia đình của người con gái đi xa, nỗi thương thân của phụ nữ nơi đất khách quê người. Lối thơ nhẹ nhàng điềm tĩnh của tác giả được thể hiện rõ qua bài thơ này.

“Trèo đèo hai mái chân vân
Lòng về Hà Tĩnh, dạ ân Quảng Bình”

Nằm giữa hai đầu nỗi nhớ, gánh trọn ân tình của nữ sĩ về bức tranh thiên nhiên hoang sơ đậm chất tình. Bà Huyện Thanh Quan dùng lối viết tự nhiên mà sâu lắng, hoài cảm đi vào lòng người. Trên con đường vào Phú Xuân, nữ sĩ bắt gặp phong cảnh đèo Ngang, từ đó khơi gợi nỗi buồn của người con gái đường xa chất chứa bao nỗi nhớ thương:

“Bước tới đèo Ngang, bóng xế tà
Cỏ cây chen lá, đá chen hoa”

Bức tranh vẽ ra vào buổi chiều tà, vào thời gian vắng vẻ và hoang vu trong ngày. Nếu được thay bằng “nắng tà” thì khung cảnh sẽ sinh động hơn. Một buổi chiều có nắng vàng, hoa lá và đá, vậy tại sao nữ sĩ lại không chọn nắng? Thời điểm chiều tà làm cho lòng người nôn nấu một nỗi hoài cổ, chất xúc tác làm tâm trạng con người cất thành tiếng.

Bức tranh thiên nhiên hoang sơ đượm màu buồn, liệu tâm hồn nữ sĩ có đủ mạnh mẽ vượt qua? Điệp từ “chen” nhấn mạnh sự đơn lẻ, cô liêu. Sự sống sắp lụi tàn, hoa lá cỏ cây đang cuống quýt, nồng say bám chặt lấy sự sinh tồn trên mảnh đất cằn cỗi.

“Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà”

Bức tranh lúc này đã có sự xuất hiện của con người nhưng nó có thể làm mờ nhạt bớt phần nào trong sự trống vắng của tâm hồn người thứ lữ? ” Tiều vài chú” chỉ có một vài chú tiều đi gom củi phía dưới chân núi. Từ đó, làm tăng cường độ mỏng manh của sự sống. Nó hư vô, mờ ảo như thể sẽ biến mất. Tác giả đã dùng nghệ thuật phép đảo để thay đổi trật tự cú pháp ở hai câu này làm toát lên cảnh hắt hiu, hoang sơ của con đèo này.

Từ láy ”lom khom” chỉ hoạt động gồng gánh gian nan và “lác đác” nói lên mức độ số lượng được ước tính cụ thể. Những hình ảnh ước lệ ấy đã bộc lộ ra hết cảm xúc, muốn lắm, cần lắm được chạm đến sự sống và khao khát được nhìn thấy con người. Ôi chỉ là ảo ảnh! Nơi này, nữ sĩ biết tìm đâu người bạn đường để trò chuyện chia sẻ bao nỗi niềm.

“Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia”

Hai câu luận tiếp theo làm trỗi dậy nỗi niềm tiềm ẩn của người thứ lữ. ”Con quốc quốc” “Cái gia gia” âm hưởng nhẹ nhàng mà thấm đẫm đến tâm can con người. Người khách phương xa cô đơn nghe văng vẳng tiếng chim cuốc mà lòng tê tái, não nề.

Ở đây, tác giả dùng thủ pháp dùng động để tả tĩnh thật tinh tế, thứ âm thanh coi cuốc nơi xa kia làm bệ phóng cho tác giả gửi trọn nỗi niềm về đất nước và gia đình trên cuộc hành trình của mình. Thương nước nhà đang chìm trong tình cảnh loạn lạc, xót xa thân phận gái xa nhà độc hành. Nỗi lòng thương xót ấy như được trùng trùng điệp điệp không ngơi nghỉ.

“Dừng chân nghỉ lại trời non nước
Một mảnh tình riêng ta với ta.”

Hai câu kết đưa xúc cảm của nữ sĩ lên đến đỉnh điểm của cảm xúc cao trào. ”Dừng chân” phần nào làm cho mạch cảm hứng của người đọc ngắt đoạn. Nhờ đó, mới diễn tả hết tâm trạng của nữ sĩ giữa núi rừng heo hút. Cái mênh mông, vô tận của núi rừng níu chân người thứ lữ. Ai đã từng một mình trước biển mà không choáng ngợp ?Ai đã yêu một người mà chưa từng nhớ nhung?

Thật vậy, giữa thế giới bao la, vô tận ấy làm đôi chân nhỏ bé không thể bước nổi. Sự đơn độc ấy làm người thứ lữ yếu đuối. Người con gái ấy lại một lần nữa khao khát được hòa mình vào thiên nhiên núi rừng, được che lấp sự yếu đuối, đơn độc nơi mình. Núi rừng bao la, rộng lớn bao nhiêu thì sự cô đơn, trống vắng của nữ sĩ lại càng tăng bấy nhiêu.

Từ đó, ta đủ cảm nhận “mảnh tình riêng” đơn độc đến tiếc nuối. Thể thơ thất ngôn bát cú với cấu trúc đề thực luận kết, cách hiệp vần và phép đối trong bài thơ tóm gọn bao cảm xúc trong lòng người đọc. Những tâm tư ấy đẹp biết bao qua lăng kính của tâm hồn người nữ sĩ một lòng một người yêu nước, thương dân.

Bài thơ “Qua đèo Ngang” mang đến một phong cách mới mẻ về bức tranh thiên nhiên hùng vĩ, mang đậm chất trữ tình của nữ sĩ. Những vần thơ ấy sẽ còn mãi trong tâm trí người đọc, có một người yêu thiên nhiên, yêu đất nước đến vậy.

Phân tích bài thơ Qua đèo ngang (Mẫu 10)

Xã hội phong kiến luôn có sự chèn ép, ràng buộc tự do của những người phụ nữ bất hạnh, chỉ sống phụ thuộc, không làm chủ cho bản thân mình. Xã hội hiện đại bây giờ, phụ nữ luôn được tôn trọng, bình đẳng, không phân biệt đối xử như ngày xưa nữa.

Tình cảm yêu mến, muốn được bảo vệ hạnh phúc tự do cho mình, cũng không hề kém cạnh các đại nam nhi. Đối với bà Huyện Thanh Quan tuy không đi ra chiến trường chiến đấu, nhưng bà đã gửi gắm tinh thần, sự cổ động mạnh mẽ vào thơ, để tiếp thêm một phần sức mạnh, công lao của mình cho đất nước.

Qua đèo ngang gợi lên sự điềm tĩnh, nhẹ nhàng, trầm buồn của bà Huyện Thanh Quan làm tiêu biểu cho phong cách thơ. Bài thơ Qua đèo ngang được tác giả sáng tác trong hoàn cảnh vào Phú Xuân(Huế) nhận chức và đi ngang qua đèo này. Cảm hứng chủ đạo của bài thơ là nỗi buồn man mác, nhớ nhà, quê hương, thương cho thân người con gái yếu đuối đường xa. Bài thơ được sáng tác theo thể thất ngôn bát cú. Với 8 câu thơ mà đã thấy được những thần thái, cái hồn trong cảnh vật và con người trước cảnh núi rừng hiu quạnh.

Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà

Cỏ cây chen lá, đá chen hoa

Hai câu đề hiện rõ khung cảnh rừng núi hoang sơ lúc bóng xế tà. Một cảnh chiều nặng nề làm cho lòng người trở nên u buồn, gợn sầu hơn. Tất cả như gợi lên nỗi nhớ muốn tỏ rõ nỗi lòng mà không ai bầu bạn, sẻ chia. Chỉ có cây cỏ chen lá, đá chen hoa hiu quạnh. Điệp từ chen khẳng định sức sống mạnh mẽ của cỏ, cây, bấu víu để sinh sôi nảy nở.

Lom khom dưới núi tiều vài chú

Lác đác bên sông chợ mấy nhà

Đến hai câu thơ tiếp theo thì mới thấy bóng dáng của con người. người tiều phu đi lượm củi vẫn tạo cảm giác vô định, lom khom từ ngữ nhấn mạnh thể hiện sự vất vả của người tiều phu, phải đi kiếm từng khúc củi, ước tính số lượng cụ thể, sự sống hiếm hoi, xa vời, tìm một người bạn trở nên khó khăn hơn. Tiếp đến hai câu thơ luận phần nào cảm xúc của tác giả như được thể hiện rõ nét hơn:

Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc

Thương nhà mỏi miệng cái gia gia

Giữa chốn rừng sâu vắng lặng, vang lên tiếng chim cuốc đau lòng não ruột. Đó cũng có thể là thanh âm thật là hay là tiếng lòng trong tâm trạng nhà thơ. Mượn bút pháp ước lệ và nghệ thuật chơi chữ để nói lên tiếng lòng mình trước cảnh. Tiếng chim kêu làm tăng phần cô quạnh, phải chăng đó là tâm trạng hoài vọng nhớ thương nước nhà?

Cái bao la, vô tận của non nước làm chơi vơi bóng hình một mình giữa thiên nhiên, hồn cảnh - hồn người như hòa lẫn vào nhau, làm nỗi buồn da diết bị lắng đọng cùng.

Dừng chân đứng lại trời non nước

Một mảnh tình riêng ta với ta

Tiếng lòng non nước thấm thía, không san sẻ buộc nhà thơ thốt lên giãi bày ta với ta nghe chua xót. Chỉ ta mới hiểu được lòng ta, sự cô đơn như tăng lên gấp bội. Dù sầu muội như bà Huyện Thanh Quan vẫn cảm nhận được vẻ đẹp non nước dù nơi dừng chân có vẻ hoang sơ, nhưng đã tô lên vẻ đẹp hùng vĩ, bao la của núi rừng.

Bài thơ Qua Đèo Ngang vừa gợi lên một bức tranh về cảnh đẹp thiên nhiên núi rừng hoang sơ, hùng vĩ, vừa gợi ra khung cảnh sống giản dị, đơn sơ mà ấm áp. Từ đó mang lại những cảm xúc, nỗi niềm, riêng tư của tác giả với tình yêu quê hương, đất nước da diết khi xa quê hương, lẻ loi một bóng hình nơi đất khách quê người.

Phân tích bài thơ Qua đèo ngang (Mẫu 11)

Bà Huyện Thanh Quan là một trong những câu bút vàng của nền văn học Việt Nam. Trong một lần vào Huế nhận chức qua con đèo vắt ngang từ Hà Tĩnh và Quảng Bình đó cũng là ranh giới tự nhiên của hai tỉnh . bước đến đèo ai cũng phải ngỡ ngàng trước vẻ đẹp của nó, vẻ đẹp hùng vĩ núi non trùng điệp, đại dương bao la dưới nền trời xanh thẳm. Trước vẻ đẹp ấy bà đã sáng tác bài thơ Qua đèo Ngang.

Đằng sau bức tranh thiên nhiên kì vĩ đó là tâm trạng người thi sĩ cô đơn, nhớ nhà và biết bao hoài niệm về một thời huy hoàng đã qua. Có lẽ Qua đèo Ngang là bài thơ hay nhất trong các bài sáng tác về địa danh này. Mở đầu bài thơ là hai câu miêu tả thời gian và địa điểm khi tác giả đặt chân tới nơi đây:

“Bước tới đèo Ngang bóng xế tà

Cỏ cây chen lá đá chen hoa”

Không gian và thời gian được tác giả thể hiện qua hình ảnh “bóng xế tà” là lúc chiều chiều mà hoàng hôn đã buông xuống, dường như thời khắc này lòng ai cũng nặng trĩu và mệt mỏi vừa kết thúc một ngày vất vả. Không gian mênh mang, hùng vĩ của đèo Ngang lại càng làm lòng người thêm gợi buồn, gợi sầu hơn. Trong văn học Việt Nam cảnh chiều tà, cánh chim mỏi….. dùng để riêng tả nỗi buồn không biết chia sẻ cùng ai.

Hoàng hôn xuống, cái bóng tối bao phủ lấy nơi này nỗi buồn, cô đơn, lạc lõng càng bám riết hơn làm lòng người cảm thấy hiu quạnh đến não lòng. Chỉ còn cỏ cây, lá, đá chen chúc, quấn quýt nhau để giành lấy sự sống sinh sôi, nảy nở. Hai câu đầu nói về khung cảnh thiên nhiên, đến hai câu sau tác giả miêu tả cảnh sinh hoạt của con người.

“Lom khom dưới núi tiều vài chú

Lác đác trên sông chợ mấy nhà”

Đọc hai câu thơ, ta cũng cảm thấy có cái gì đó một chút gợi buồn man mác. Hình ảnh thấp thoáng “ tiều vài chú” đang lom khom dưới núi nhặt những cành củi khô, còn trên sông cũng chỉ có “lác đác” mấy ngôi nhà. Khi nói đến chợ ai cũng nghĩ tới hình ảnh nhộn nhịp, lời ra tiếng vào của những người bán hàng, nhưng ở đây dù ở chợ nhưng cũng chỉ có lác đác mấy ngôi nhà.

Phép đảo ngữ ở hai câu thơ này, bà Huyện Thanh Quan đã nhấn mạnh một lần nữa sự hoang sơ, hẻo lánh của nơi đây làm tăng thêm nỗi buồn chơi vơi. Sự sống nơi đèo Ngang mong manh, hiu quanh và hoang sơ. Hình ảnh nơi đây như đã nhuộm nỗi buồn của người thi sĩ, sự sống nơi đây thật lẻ loi muốn tìm người bạn tâm sự mà cũng chẳng có. Hai câu thơ tiếp theo tâm trạng của tác giả như trỗi dậy:

“Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc

Thương nhà mỏi miệng cái da da”

“Nhớ” và “thương” là cảm xúc từ mỗi trái tim con người, nó làm tăng thêm nỗi niềm của tác giả khi nhớ về gia đình, nhớ về quê hương. Điệp từ “cuốc cuốc”, “da da” đã tạo nên âm điệu du dương, dìu dặt làm lòng lữ khách thêm tái tê. Thủ pháp nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, lấy động tả tĩnh của tác được sử dụng một cách thật điêu luyện.

Trên nền nhớ thương là tiếng chim kêu càng làm tăng thêm nỗi nhớ trong lòng người thi sĩ xa quê, tâm tình của tác giả giả thăm thẳm, mênh mang, day dứt không nguôi… Hai câu thơ cuối của bài thơ dường như tâm trạng của tác giả được đẩy lên đến đỉnh điểm:

“Dừng chân nghỉ lại trời non nước

Một mảnh tình riêng ta với ta”

Đọc hai câu thơ ta cảm thấy thật não nề trong lòng nặng trĩu nỗi buồn da diết không dứt. Tác giả dừng chân nghỉ lại thấy mình nhỏ bé lạc lõng giữa đất trời bao la rộng lớn không một nơi bám giữ, cảnh đất trời mênh mang khiến tác giả chỉ còn thấy “ một mảnh tình riêng” và mảnh tình ấy chỉ còn riêng “ ta với ta”. Một mình lạc lõng giữa thiên nhiên hiu hắt, nỗi buồn ấy dâng lên đến cực độ, xuyên thấu vào trái tim, buồn đến ngả nghiêng xoay chuyển đất trời.

Với giọng điệu tha thiết, tâm tình, lúc trầm lúc bổng kết hợp với các biện pháp nghệ thuật tả cảnh ngụ tình độc đáo, lấy động tả tĩnh, phép đảo ngữ, điệp ngữ….. đã mang đến cho bài thơ những cả xúc dạt dào đi thấu vào tấm lòng người đọc. Đọc bài thơ Qua đèo Ngang ta càng hiểu thêm được tấm lòng của người con khi xa quê hương và tăng thêm niềm tin yêu đối với quê hương mình.

Phân tích bài thơ Qua đèo ngang (Mẫu 12)

Trong thế giới văn hóa đương đại, nếu chúng ta bắt gặp sự sắc sảo, mạnh mẽ, bứt phá trong thơ của Hồ Xuân Hương, thì nhất định sẽ cảm nhận được sự điều tĩnh, nhẹ nhàng, trầm buồn trong những bài thơ của Bà Huyện Thanh Quan. 'Qua đèo Ngang' là minh chứng rõ nét cho phong cách tinh tế ấy.

Bài thơ 'Qua đèo Ngang' chịu ảnh hưởng của bối cảnh khi tác giả, sau khi nhậm chức ở Phú Xuân (Huế), vượt qua đèo này. Cảm xúc chủ yếu của bài thơ là nỗi buồn man mác, nỗi nhớ quê hương và tình thương dành cho phụ nữ trên đường xa.

Bài thơ tuân theo thể thất ngôn bát cú với cấu trúc đề, thực, luận kết. Mặc dù chỉ có 8 câu thơ, nhưng tác phẩm đã thành công trong việc truyền đạt tâm hồn, cảm xúc của cảnh vật và con người đối diện với khung cảnh trời núi hiu quạnh như thế này.

Hai câu đề mở ra trước mắt độc giả bức tranh hoang sơ của đèo Ngang:

Bước chân vượt qua đèo Ngang, bóng tối dần buông xuống
Cỏ cây kề bên lá, lá xen lẫn cùng hoa

Không gian và thời gian tại đèo Ngang hiện hữu trong 'bóng tối dần buông xuống'. Nó không chỉ là khung cảnh mà còn chứa đựng cảm xúc nặng nề, hòa quyện cùng nỗi buồn và nỗi sầu. Ca dao, dân ca thường mô tả buổi chiều như khoảnh khắc biểu lộ nỗi buồn không biết nói cùng ai. Mặt trời dần chìm xuống núi, bóng tối bao phủ. Cảm giác cô đơn, lạc lõng tràn ngập. Cảnh thiên nhiên tại đây trở nên quạnh hiu, chỉ có cỏ cây và hoa, hòa quyện như tình yêu đan xen trong nỗi buồn. Từ 'chen' như một điểm nhấn tăng cường sự hiu quạnh của địa điểm này.

Lom khom dưới chân núi, tiều tiện vài chú
Lác đác ven sông, chợ nhỏ mấy nhà

Hình ảnh con người chỉ xuất hiện ở 'tiều tiện vài chú'. Chúng như là những hạt bụi tiều tiện bé nhỏ, tận dụng cuộc sống dưới chân núi. Tuy nhiên, sự sống này mong manh và hữu vô. Bằng cách đảo ngược cú pháp ở hai câu thơ này, Bà Huyện Thanh Quan nhấn mạnh sự hoang sơ và hiu quạnh tại đèo Ngang. Sử dụng từ láy 'lom khom' và 'lác đác' không chỉ mô tả công việc gian khổ của những người đàn ông nhỏ bé này mà còn thể hiện sự cô đơn, lạc lõng. Những hình ảnh này trong thơ làm nổi bật sự độc đáo và mong manh trong cuộc sống.

Danh sách những bài Phân tích bài thơ Qua đèo Ngang- Bà Huyện Thanh Quan xuất sắc nhất

Chuyển sang hai câu thực, cảm xúc và tâm sự của tác giả nổi dậy bất ngờ

Nhớ quê như một nỗi đau sâu cuốc cuốc
Thương nhớ nhà, mỏi miệng cái da da

Âm thanh cuốc cuốc và da da tạo nên bức tranh êm đềm, nhưng sâu thẳm và đầy cảm xúc. Người du khách nghe thấy tiếng cuốc và da da vang lên, lòng như đau nhói, buồn thấu đáo. Sử dụng thủ pháp lấy động tả tĩnh, tác giả hình dung cảnh tượng yên bình, nhưng lại kèm theo âm thanh nao lòng. Tiếng cuốc, tiếng da da khiến tác giả nhớ về quê nhà, thương nhớ những khoảnh khắc gia đình, càng làm nổi bật nỗi đau khi phải xa quê, đơn độc giữa đường xa.

Hai câu thơ kết thúc khiến cảm xúc và nỗi niềm của tác giả đạt đến đỉnh điểm

Dừng bước lại, trời non nước
Mảnh tình riêng biệt ta với ta

Chỉ với bốn từ 'dừng bước lại', nỗi đau và sự lạc lõng của tác giả trở nên da diết và buồn thâm thúy. Dù trời non nước bao la, con người vẫn nhỏ bé, tác giả cảm thấy lạc lõng giữa vô vàn. Mảnh tình nhỏ bé, chỉ thuộc về 'ta với ta'. Nỗi buồn dường như đạt đến cực điểm, làm thấm đẫm tâm can và nghiêng ngả trên trời đất.

Bài thơ 'Qua đèo Ngang' với giọng điệu da diết, trầm bổng và những kỹ thuật nghệ thuật độc đáo đã để lại trong lòng độc giả những cảm xúc khó phai. Câu chuyện của bài thơ dường như vẫn còn vang vọng mãi mãi.

Câu thơ thể hiện niềm tự hào, kiêu hãnh về đất nước Việt Nam. Thiên nhiên ở quê hương chúng ta tươi đẹp, phong cảnh hòa quyện, tràn đầy sức sống. Đó là nguồn cảm hứng bất tận cho thơ ca. Thiên nhiên có thể lấp lánh như trong giấc mơ, cũng có thể rực rỡ, hùng vĩ như ánh mặt trời. Nhưng đồng thời, cảnh đẹp cũng có thể buồn bã, u tối dưới bàn tay của những nhà thơ, chứa đựng tâm sự u hoài khi sáng tác. Nguyễn Du đã từng nói: 'Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ'. Câu thơ này khiến ta liên tưởng đến bài thơ Qua đèo Ngang của bà Huyện Thanh Quan.

Bước chân tới đèo Ngang, bóng xế tà.

Cỏ cây xen kẽ đá, lá rải hoa Lom khom dưới chân núi, tiều vài chú Lác đác ven sông, chợ mấy căn nhà Nhớ quê nước đau lòng từng gia đình

Thương nhà, mệt mỏi, lời kể của ông bà
Dừng bước, đứng lại, trời cao, nước biển rộng
Một tình yêu riêng, ta và đất đai.

Để thấu hiểu và trân trọng bài thơ, ta cần đánh giá cao cả tài năng và tư tưởng của bà Huyện Thanh Quan, người luôn dành trái tim cho quê hương, đất nước, và gia đình. Có ai dám khẳng định rằng phụ nữ trong xã hội truyền thống không trải qua những cảm xúc thiêng liêng như vậy?

Chỉ cần đọc hai dòng đầu của bài thơ:

Bước chân chinh phục đèo Ngang, bóng xế tà
Cỏ cây xen kẽ đá, lá xen lẫn hoa

Phân tích bài thơ Qua đèo Ngang, đây là một tuyển tập văn mẫu độc đáo

cảm nhận ngay nỗi u sầu xa cách.

Câu thơ sử dụng từ ngữ bóng xế tà và điệp từ chen, cùng với cách gieo vần lưng lá, đá, tạo nên bức tranh cô đơn, yên bình. Tà như mô tả một khái niệm chuẩn bị biến mất, làm câu thơ trở nên buồn thảm. Có câu ca dao nói rằng:

Nghe tiếng vịt kêu chiều vắng
Luyến tiếc mẹ ơi, chín chiều lòng buồn

Nhận ra rằng, tình cảm quý báu của chúng ta thường gặp nhau ở một thời điểm duy nhất, đó chính là thời gian. Trong bài thơ Qua đèo Ngang, tác giả chợt lộ diện cảm xúc man mác khi bà Huyện Thanh Quan gặp ánh hoàng hôn tô điểm cảnh đẹp tại Hoành Sơn. Cảnh vật trở nên buồn bã và trống trải hơn với sự xuất hiện của điệp từ chen ở câu thứ hai. Điều này khiến độc giả cảm nhận được hình ảnh hoang vắng của đèo Ngang khi bóng tà buông xuống, mặc dù nơi này rất tuyệt vời với cỏ cây, đá, lá và hoa. Vì vậy, thi sĩ đã nhìn xa phía chân đèo để tìm kiếm sự sống động, và ở phía xa xa dưới chân đèo, hình ảnh hiện ra:

Dưới chân núi, một vài người tiều phu nô đùa
Bên sông, chợ nhỏ mấy nhà

Câu thơ mô tả bức tranh ánh hoàng hôn lạnh lẽo, những người tiều phu đang mài dao, và những gian hàng nhỏ xiêu xiêu dưới làn gió. Sự đảo ngữ trong từ ngữ 'lom khom', 'lác đác' như làm nổi bật tâm trạng u hoài. Tác giả tìm kiếm sự sống, nhưng điều đó lại làm cho cảnh vật trở nên héo hắt, buồn bã, và vắng vẻ hơn. Sự đối lập giữa hai câu thơ làm cho cảnh sắc trở nên thưa thớt, rời rạc. Từ 'vài' và 'mấy' nhấn mạnh sự vắng vẻ tại đây. Trong cảnh vắng đó, bỗng dưng, tiếng kêu đều đều vang lên, man mác của loài chim quốc quốc, chim gia gia trong bóng hoàng hôn buông xuống.

Từ ghép đau lòng, mỏi miệng tạo cảm giác tha thiết và ray rứt. 'Nhớ nước', 'thương nhà' là nỗi niềm của con chim quốc, chim gia gia, liệu tác giả muốn truyền đạt tâm sự từ đáy lòng hay không? Có lẽ từ ghép quốc quốc gia gia là cách nghệ thuật để nói về Tổ quốc và gia đình của bà Huyện Thanh Quan trong tác phẩm này?

Sự song song giữa ý và lời trong hai câu thơ của bài này nhấn mạnh tình cảm của bà Huyện Thanh Quan đối với Tổ quốc và gia đình một cách tinh tế. Từ thực tế xã hội đương đại và cảnh thực của đèo Ngang đều làm tác giả nhớ đến chính mình và chia sẻ tâm tư:

Đứng lại, nhìn xung quanh, trời cao bao la
Mảnh tình riêng, ta và bản thân.

Câu chốt của bài thơ, ta cảm nhận nỗi u hoài về quá khứ của nhà thơ. Bước dừng và nhìn, chỉ thấy trời, non, và nước. Khám phá vũ trụ rộng lớn, bao quanh là bầu trời với núi, sông, khiến con người cảm thấy nhỏ bé, cô đơn, trống vắng. Tại đây, chỉ có bà với chính bản thân, kèm theo một tình cảm riêng biệt dành cho đất nước, cho máu mình, làm cho lòng nhà thơ như lạnh lẽo. Vũ trụ bao la quá! Sự cô đơn của con người! Tất cả được diễn đạt tinh tế dưới bút phê của nữ sĩ tài năng. Từ 'ta với ta' là minh chứng cho nghệ thuật tinh tế trong sáng tạo thơ ca của bà Huyện Thanh Quan. Vì cũng là 'ta với ta' nhưng nhà thơ Nguyễn Khuyến lại nói:

Bác đến chơi, ta với ta

Là sự hòa quyện của hai người: mặc dù là hai nhưng lại là một, dù là một nhưng lại là hai. Ngược lại, bà Huyện lại thể hiện:

Mảnh tình riêng, chỉ mình ta.

Tô điểm thêm vẻ đơn sắc, lẻ loi của bản thân. Qua câu thơ, ta như hiểu rõ hơn nỗi lòng tâm sự của tác giả trước vẻ đẹp hiên ngang của quê hương...

Phân tích xong bài thơ, hiểu sâu hơn, thấu hiểu tình cảm của nhà thơ nữ thời xưa, giúp ta thêm yêu quý đất nước và con người Việt Nam. Tư tưởng vững vàng, suy nghĩ tích cực, góp phần xây dựng quê hương Việt Nam phong phú, bảo tồn dấu tích của người xưa như một di sản lâu dài, nhắc nhở và truyền đạt cho thế hệ sau.

Từ xưa đến nay, nhiều nhà thơ mô tả cảnh đèo Ngang, nhưng không ai có thành công như bà Huyện Thanh Quan. Tác phẩm của bà chứa đựng tâm hồn, tình cảm, nỗi lòng và tài năng của một bút tuyệt vời. Bài thơ đều vần chữ 'a', như tâm sự hoài cổ của tác giả. Không có dấu hiệu nào của ồn ào trong cách miêu tả. Tất cả đều yên bình, sâu lắng như chính tâm sự của tác giả.

Thơ vang lên, như âm nhạc hồn hậu, làm rung động tâm hồn như chính những cảm xúc sâu thẳm của bà Huyện Thanh Quan khi bước chân lên đèo Ngang, dưới bức tranh hoàng hôn núi rừng. Ta lại trải qua những cảm xúc đó khi đọc bài Chiều hôm nhớ nhà, như trong câu thơ:

Bầu trời chiều rực rỡ bóng hoàng hôn
Âm thanh ốc xa vang, trống rộn.

Để bày tỏ lòng biết ơn đối với nhà thơ đã mang lại những trải nghiệm tuyệt vời, tình cảm sâu sắc từ đáy lòng, từ những động lòng chân thực. Người ta đã ghi tên bà, Huyện Thanh Quan, vào lịch sử như một nguồn cảm hứng bất tận, một biểu tượng với non sông, đất nước đã qua thời gian.

Phân tích bài thơ Qua đeo Ngang văn 8 ...

Phân tích bài thơ Qua đèo ngang (Mẫu 13)

Bà Huyện Thanh Quan là một nhà thơ nữ nổi tiếng. Một trong những tác phẩm nổi bật của bà là bài thơ Qua Đèo Ngang.

Bài thơ bắt đầu với những hình ảnh về thiên nhiên tươi đẹp của Đèo Ngang:

“Bước tới Đèo Ngang, bóng xế tà,
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa”

Nhân vật trữ tình đến với Đèo Ngang vào thời điểm “bóng xế tà”. Thiên nhiên ở Đèo Ngang hiện lên với vẻ đẹp tràn đầy sức sống. Sử dụng từ ngữ tinh tế - từ “chen” kết hợp với hình ảnh “đá, lá, hoa” để tôn vinh sự sống động của thiên nhiên.

Trong bức tranh thiên nhiên, con người xuất hiện. Nhà thơ sử dụng nghệ thuật đảo ngữ kết hợp với những hình ảnh trong hai câu thơ tiếp theo: “lom khom - tiều vài chú”, “lác đác - chợ mấy nhà” để gợi lên hình ảnh vài chú tiều đứng lom khom dưới chân núi cùng với mấy căn nhà nhỏ lác đác. Nhấn mạnh sự nhỏ bé của con người giữa vẻ rộng lớn, bao la của thiên nhiên để làm nổi bật nỗi cô đơn của nhân vật trữ tình.

“Nhớ nước, đau lòng, con quốc quốc,
Thương nhà mỏi miệng, cái gia gia.”

Hình ảnh của “con quốc quốc” và “cái gia gia” không chỉ đề cập đến hai loài chim (chim đỗ quyên, chim đa đa), mà còn truyền tải âm thanh da diết của tiếng kêu “quốc quốc”, “đa đa”, thể hiện sự nhớ thương sâu sắc đối với đất nước, quê hương.

Sau đó, nhà thơ đứng một mình tại nơi Đèo Ngang, nhìn xa xa chỉ thấy thiên nhiên vô biên (bao gồm bầu trời, núi non, dòng sông). Cảm giác cô đơn với “một mảnh tình riêng” không có ai chia sẻ:

“Dừng chân đứng lại trời, non, nước
Một mảnh tình riêng, ta với ta”

Thiên nhiên rộng lớn đến thế, tác giả càng trở nên nhỏ bé. Cái mảnh tình nhỏ nhoi ấy chỉ thuộc về “ta với ta”. Trong bài thơ “Bạn đến chơi nhà”, Nguyễn Khuyến đã dùng cụm từ “ta với ta” để diễn tả tình bạn tri kỉ, thắm thiết. Trong bài thơ Qua Đèo Ngang, cụm từ “ta với ta” lại nổi bật thêm nỗi cô đơn của tác giả.

Bài thơ “Qua Đèo Ngang” của Bà Huyện Thanh Quan có giá trị sâu sắc. Tác giả đã chia sẻ những tâm sự chân thành của mình trong bài thơ này.

Phân tích bài thơ Qua đèo ngang (Mẫu 14)

Bà Huyện Thanh Quan là một nhà thơ nổi tiếng trong văn học Việt Nam thời Trung đại. Tác phẩm Qua Đèo Ngang là một ví dụ rõ nét về phong cách sáng tạo của bà, đồng thời mang đến thông điệp ý nghĩa.

Bà Huyện Thanh Quan đã khởi đầu bài thơ bằng việc miêu tả thiên nhiên ở Đèo Ngang, nơi hiện lên với vẻ đẹp hoang sơ nhưng rất sống động:

“Bước tới Đèo Ngang, bóng xế tà,
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa”

Câu đầu tiên khơi gợi về không gian và thời gian. Nhân vật trữ tình đến đèo Ngang khi “bóng xế tà”, thời điểm cuối ngày khi mọi vật đều dần về nghỉ ngơi. Cảnh đèo Ngang hiện lên trong câu thứ hai. Cách sử dụng từ “chen” kết hợp với hình ảnh “đá, lá, hoa” cho thấy sự sống đang bừng nở mãnh liệt.

Ở hai câu thơ tiếp theo, con người xuất hiện nhưng lại rất nhỏ bé giữa vẻ đẹp thiên nhiên rộng lớn:

“Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà”

Nghệ thuật đảo ngữ trong hai câu thơ “lom khom - tiều vài chú”, “lác đác - chợ mấy nhà” nhấn mạnh hình ảnh vài chú tiều đứng lom khom dưới chân núi và những căn nhà nhỏ thưa thớt, lác đác ven sông. Con người chỉ là một chấm buồn nhỏ bé giữa vũ trụ rộng lớn.

“Nhớ nước, đau lòng, con quốc quốc,
Thương nhà mỏi miệng, cái gia gia.”

Hai câu thơ tiếp theo bộc lộ tâm trạng của nhân vật trữ tình. Ở đây, “con quốc quốc” và “cái gia gia” không chỉ là hình ảnh thực về hai loại chim (chim đỗ quyên, chim đa đa) mà còn gợi lên âm thanh của loài chim này - “quốc quốc”, “đa đa” vang lên nghe sao da diết, xót xa. Không chỉ vậy, khi ghép lại hai từ “quốc” và “gia” lại sẽ thành “quốc gia” như một lời bộc lộ gián tiếp tình yêu dành cho đất nước.

Lúc này, nhân vật trữ tình đang đứng một mình tại nơi Đèo Ngang, đưa mắt nhìn ra xa cũng chỉ thấy thiên nhiên rộng lớn phía trước. Sự cô đơn bao trùm lấy toàn bộ không gian. Cụm từ “một mảnh tình riêng” ý chỉ tình cảm riêng tư không có ai để chia sẻ:

“Dừng chân đứng lại trời, non, nước
Một mảnh tình riêng, ta với ta”

Cái mảnh tình con con ấy cũng chỉ có “ta với ta”. Ta từng bắt gặp trong “Bạn đến chơi nhà”, Nguyễn Khuyến dùng cụm từ “ta với ta” - “Bác đến chơi đây ta với ta” để diễn tả tình bạn tri kỉ, thắm thiết. Còn trong thơ Bà Huyện Thanh Quan, cụm từ “ta với ta” chỉ càng làm tăng thêm nỗi cô đơn, trống vắng của nhân vật trữ tình hay chính là của tác giả.

Bài thơ Qua Đèo Ngang là lời bộc lộ nỗi nhớ quê hương, đất nước cũng như xót xa trước cảnh ngộ đất nước của Bà Huyện Thanh Quan. Nội dung và nghệ thuật bài thơ khá ấn tượng, mang dấu ấn sáng tác của nhà thơ.

Phân tích bài thơ Qua đèo ngang (Mẫu 15)

Bà Huyện Thanh Quan là một nữ thi sĩ nổi tiếng. Một trong những bài thơ của bà có thể kể đến Qua Đèo Ngang.

Bài thơ được mở đầu bằng những hình ảnh thiên nhiên đèo Ngang tràn đầy sức sống:

“Bước tới Đèo Ngang, bóng xế tà,
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa”

Nhân vật trữ tình bước đến đèo Ngang vào thời điểm “bóng xế tà”. Thiên nhiên đèo Ngang hiện lên với vẻ đẹp trần đầy sức sống. Biện pháp tu từ điệp ngữ - từ “chen” kết hợp với hình ảnh “đá, lá, hoa” gợi ra sự trỗi dậy của thiên nhiên.

Trong nền bức tranh thiên nhiên, con người đã xuất hiện. Nhà thơ đã sử dụng nghệ thuật đảo ngữ kết hợp với đối trong hai câu thơ tiếp theo: “lom khom - tiều vài chú”, “lác đác - chợ mấy nhà” gợi ra hình ảnh vài chú tiều với dáng đứng lom khom dưới chân núi cùng mấy căn nhà nhỏ lác đác. Tác dụng nhằm nhấn mạnh sự nhỏ bé của con người giữa thiên nhiên rộng lớn, bát ngát để làm nổi bật lên nỗi cô đơn của nhân vật trữ tình.

“Nhớ nước, đau lòng, con quốc quốc,
Thương nhà mỏi miệng, cái gia gia.”

Hình ảnh “con quốc quốc” và “cái gia gia” không chỉ là hình ảnh thực về hai loại chim (chim đỗ quyên, chim đa đa) mà còn gợi âm thanh “quốc quốc”, “đa đa” da diết, bộc lộ nỗi lòng nhớ thương của mình với đất nước, quê hương.

Và rồi nhà thơ đứng một mình tại nơi Đèo Ngang, đưa mắt nhìn ra xa cũng chỉ thấy thiên nhiên rộng lớn phía trước (có bầu trời, có núi non, dòng sông). Sự cô đơn với “một mảnh tình riêng” không có người chia sẻ:

“Dừng chân đứng lại trời, non, nước
Một mảnh tình riêng, ta với ta”

Thiên nhiên rộng lớn bao nhiêu, tác giả càng nhỏ bé bấy nhiêu. Và cái mảnh tình con con ấy cũng chỉ có “ta với ta”. Nếu trong “Bạn đến chơi nhà”, Nguyễn Khuyến dùng cụm từ “ta với ta” - “Bác đến chơi đây ta với ta” để diễn tả tình bạn tri kỉ, thắm thiết. Thì trong bài Qua đèo Ngang, cụm từ “ta với ta” càng bộc lộ thêm nỗi cô đơn của tác giả.

Như vậy, bài thơ “Qua Đèo Ngang” của Bà Huyện Thanh Quan rất giàu giá trị. Tác giả đã gửi gắm nỗi niềm tâm sự của bản thân vào bài thơ.

Phân tích bài thơ Qua đèo ngang (Mẫu 16)

Bà Huyện Thanh Quan là một trong số những nữ thi sĩ nổi tiếng của nền văn học trung đại. Tác phẩm nổi tiếng của bà là bài thơ Qua đèo Ngang.

Mở đầu bài thơ, Bà Huyện Thanh Quan đã gợi mở về thời gian, không gian cũng như điểm nhìn của bài thơ. Nhân vật trữ tình đến đèo Ngang khi màn đêm đã dần buông xuống - thời điểm mà vạn vật cũng như con người trở về nhà để sum họp, nghỉ ngơi sau một ngày. Từ đó sự cô đơn càng được bộc lộ rõ hơn.

“Bước tới đèo Ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa”

Điệp từ “chen”, kết hợp với việc sử dụng vần lưng “đá - lá” cùng với vần chân “tà – hoa” cho thấy vạn vật đang trỗi dậy. Thiên nhiên nơi đèo Ngang hoang vu nhưng vẫn tràn đầy sức sống.

Trong khung cảnh thiên nhiên đó, hình ảnh con người hiện lên với vẻ nhỏ bé, chỉ là một điểm buồn lặng lẽ:

“Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà”

Từ ngôn từ “lom khom” và “lác đác” kết hợp với nghệ thuật đảo ngữ nhấn mạnh sự thưa thớt, nhỏ bé của con người. Nhà thơ áp dụng biện pháp tu từ đảo ngữ và sáng tạo đối với các yếu tố thiên nhiên như ngư, tiều, canh, mục để thể hiện cảm xúc và sự tưởng tượng.

Bà Huyện Thanh Quan đã sử dụng biện pháp tu từ đảo ngữ kết hợp với đối tượng trong hai câu thơ:

“Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia”

Hình ảnh “con quốc quốc” và “cái gia gia” không chỉ là mô tả về hai loài chim (chim đỗ quyên, chim đa đa). Tiếng kêu “quốc quốc”, “đa đa” nghe da diết đã thể hiện sự nhớ thương của tác giả đối với đất nước, quê hương.

“Dừng chân đứng lại: trời, non, nước
Một mảnh tình riêng ta với ta”

Ở hai câu kết, tác giả đã thể hiện nỗi cô đơn sâu sắc. Một mình nơi đèo Ngang rộng lớn, hoang vắng trong buổi hoàng hôn, nữ sĩ cảm thấy mình như sống trong tâm trạng cô đơn, lẻ loi, giữa một khung cảnh thiên nhiên hoang vắng bao la của “trời, non, nước”. Cụm từ “ta với ta” là ba chữ đắt giá kết hợp với điệp ngữ láy âm, đặt trong mối tương phản với “trời, non, nước” đã cho thấy sự bao la với sự lẻ loi, đơn côi và nhỏ bé của con người.

Bài thơ Qua Đèo Ngang mang đậm phong cách sáng tạo của Bà Huyện Thanh Quan. Qua tác phẩm, nhà thơ cũng gửi gắm lòng yêu quê hương, đất nước.

Tổng hợp kết bài Qua Đèo Ngang - Văn 7 ...

Phân tích bài thơ Qua đèo ngang (Mẫu 17)

Bài thơ Qua đèo ngang của Bà Huyện Thanh Quan được sáng tác khi bà đi ngang con đèo này để vào kinh thành Huế nhận chức làm quan. Bài thơ nói lên nỗi nhớ quê hương gia đình của người con gái đi xa, nỗi thương thân của phụ nữ nơi đất khách quê người. Lối thơ nhẹ nhàng điềm tĩnh của tác giả được thể hiện rõ qua bài thơ này.

“Trèo đèo hai mái chân vân

Lòng về Hà Tĩnh, dạ ân Quảng Bình”

Nằm giữa hai đầu nỗi nhớ, gánh trọn ân tình của nữ sĩ về bức tranh thiên nhiên hoang sơ đậm chất tình. Bà Huyện Thanh Quan dùng lối viết tự nhiên mà sâu lắng, hoài cảm đi vào lòng người. Trên con đường vào Phú Xuân, nữ sĩ bắt gặp phong cảnh đèo Ngang, từ đó khơi gợi nỗi buồn của người con gái đường xa chất chứa bao nỗi nhớ thương:

“Bước tới đèo Ngang,bóng xế tà

Cỏ cây chen lá, đá chen hoa”

Bức tranh vẽ ra vào buổi chiều tà, vào thời gian vắng vẻ và hoang vu trong ngày. Nếu được thay bằng “nắng tà” thì khung cảnh sẽ sinh động hơn. Một buổi chiều có nắng vàng, hoa lá và đá, vậy tại sao nữ sĩ lại không chọn nắng? Thời điểm chiều tà làm cho lòng người nôn nấu một nỗi hoài cổ, chất xúc tác làm tâm trạng con người cất thành tiếng.

Bức tranh thiên nhiên hoang sơ đượm màu buồn, liệu tâm hồn nữ sĩ có đủ mạnh mẽ vượt qua? Điệp từ “chen” nhấn mạnh sự đơn lẻ, cô liêu. Sự sống sắp lụi tàn, hoa lá cỏ cây đang cuống quýt, nồng say bám chặt lấy sự sinh tồn trên mảnh đất cằn cỗi.

“Lom khom dưới núi tiều vài chú

Lác đác bên song chợ mấy nhà”

Bức tranh lúc này đã có sự xuất hiện của con người nhưng nó có thể làm mờ nhạt bớt phần nào trong sự trống vắng của tâm hồn người thứ lữ? ” Tiều vài chú” chỉ có một vài chú tiều đi gom củi phía dưới chân núi. Từ đó, làm tăng cường độ mỏng manh của sự sống. Nó hư vô, mờ ảo như thể sẽ biến mất. Tác giả đã dùng nghệ thuật phép đảo để thay đổi trật tự cú pháp ở hai câu này làm toát lên cảnh hắt hiu, hoang sơ của con đèo này.

Từ láy ”lom khom” chỉ hoạt động gồng gánh gian nan và “lác đác” nói lên mức độ số lượng được ước tính cụ thể. Những hình ảnh ước lệ ấy đã bộc lộ ra hết cảm xúc, muốn lắm, cần lắm được chạm đến sự sống và khao khát được nhìn thấy con người. Ôi chỉ là ảo ảnh! Nơi này, nữ sĩ biết tìm đâu người bạn đường để trò chuyện chia sẽ bao nỗi niềm.

“Nhớ nước đau lòng con quốc quốc

Thương nhà mỏi miệng cái gia gia”

Hai câu luận tiếp theo làm trỗi dậy nỗi niềm tiềm ẩn của người thứ lữ. ”Con quốc quốc” “Cái gia gia” âm hưởng nhẹ nhàng mà thấm đẫm đến tâm can con người. Người khách phương xa cô đơn nghe văng vẳng tiếng chim cuốc mà lòng tê tái, não nề.

Ở đây, tác giả dùng thủ pháp dùng động để tả tĩnh thật tinh tế, thứ âm thanh coi cuốc nơi xa kia làm bệ phóng cho tác giả gửi trọn nỗi niềm về đất nước và gia đình trên cuộc hành trình của mình. Thương nước nhà đang chìm trong tình cảnh loạn lạc, xót xa thân phận gái xa nhà độc hành. Nỗi lòng thương xót ấy như được trùng trùng điệp điệp không ngơi nghỉ.

“Dừng chân nghỉ lại trời non nước

Một mảnh tình riêng ta với ta”

Hai câu kết đưa xúc cảm của nữ sĩ lên đến đỉnh điểm của cảm xúc cao trao. ”Dừng chân” phần nào làm cho mạch cảm hứng của người đọc ngắt đoạn. Nhờ đó, mới diễn tả hết tâm trạng của nữ sĩ giữa núi rừng heo hút. Cái mênh mông, vô tận của núi rừng níu chân người thứ lữ. Ai đã từng một mình trước biển mà không choáng ngợp ?Ai đã yêu một người mà chưa từng nhớ nhung?

Thật vậy, giữa thế giới bao la, vô tận ấy làm đôi chân nhỏ bé không thể bước nổi. Sự đơn độc ấy làm người thứ lữ yếu đuối. Người con gái ấy lại một lần nữa khao khát được hòa mình vào thiên nhiên núi rừng, được che lấp sự yếu đuối, đơn độc nơi mình. Núi rừng bao la, rộng lớn bao nhiêu thì sự cô đơn, trống vắng của nữ sĩ lại càng tăng bấy nhiêu.

Từ đó, ta đủ cảm nhận “mảnh tình riêng” đơn độc đến tiếc nuối. Thể thơ thất ngôn bát cú với cấu trúc đề thực luận kết, cách hiệp vần và phép đối trong bài thơ tóm gọn bao cảm xúc trong lòng người đọc. Những tâm tư ấy đẹp biết bao qua lăng kính của tâm hồn người nữ sĩ một lòng một người yêu nước, thương dân.

Bài thơ “Qua đèo Ngang” mang đến một phong cách mới mẻ về bức tranh thiên nhiên hùng vĩ, mang đậm chất trữ tình của nữ sĩ. Những vần thơ ấy sẽ còn mãi trong tâm trí người đọc, có một người yêu thiên nhiên, yêu đất nước đến vậy.

Phân tích bài thơ Qua đèo ngang (Mẫu 18)

Bà Huyện Thanh Quan là một thi sĩ nổi tiếng trong văn học trung đại Việt Nam. Tác phẩm “Qua Đèo Ngang” là một ví dụ điển hình cho phong cách thơ của bà. Bài thơ đã mô tả khung cảnh thiên nhiên Đèo Ngang với sự hoang sơ và tính sống động của con người. Tác giả cũng đã gửi gắm nỗi nhớ nước thương nhà vào bài thơ.

Nhà thơ đã miêu tả khung cảnh thiên nhiên tại Đèo Ngang vào một buổi chiều tà:

“Bước tới Đèo Ngang, bóng xế tà,
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa”

Cụm từ “bóng xế tà” gợi lên thời điểm hoàng hôn. Nhà thơ đứng một mình trước nơi Đèo Ngang. Câu thơ “Cỏ cây chen đá, lá chen hoa” là hình ảnh tượng trưng, khắc họa khung cảnh thiên nhiên ở Đèo Ngang. Việc sử dụng từ “chen” kết hợp với hình ảnh “đá, lá, hoa” rất tinh tế. Vẻ đẹp thiên nhiên của Đèo Ngang mặc dù hoang sơ nhưng lại tràn đầy sức sống. Khung cảnh này được nhà thơ diễn tả chỉ với vài nét vẽ nhưng rất chân thực và sinh động.

Và không thể thiếu hình ảnh con người trong bức tranh thiên nhiên này. Nghệ thuật đảo ngữ “lom khom - tiều vài chú” cho thấy hình ảnh vài chú tiều đứng lom khom dưới chân núi. Còn “lác đác - chợ mấy nhà” gợi lên hình ảnh vài căn nhà nhỏ bé thưa thớt, lác đác bên sông. Nhà thơ muốn nhấn mạnh sự nhỏ bé của con người trước thiên nhiên rộng lớn. Con người chỉ là một chấm buồn lặng lẽ giữa một thiên nhiên vô biên. Thiên nhiên là trung tâm của bức tranh ở Đèo Ngang.

Thiên nhiên càng vắng vẻ, tâm trạng tác giả càng cô đơn. Điều đó được thể hiện rõ trong những câu thơ tiếp theo:

“Nhớ nước, đau lòng, con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng, cái gia gia”

Hình ảnh “con quốc quốc” và “cái gia gia” không chỉ là hình ảnh thực về hai loại chim (chim đỗ quyên, chim đa đa). Việc sử dụng thủ pháp lấy động tả tĩnh: tiếng kêu “quốc quốc”, “đa đa” để thể hiện nỗi lòng nhớ thương của tác giả với đất nước, quê hương. Đọc đến đây, chúng ta dường như có thể nghe thấy tiếng kêu đầy xót xa, đau đớn vang vọng trong bất lực.

Câu thơ “Dừng chân đứng lại, trời, non, nước” miêu tả hình ảnh nhà thơ đứng một mình tại nơi Đèo Ngang, nhìn ra xa chỉ thấy thiên nhiên vô biên phía trước (bao gồm bầu trời, núi non, dòng sông). Sự cô đơn của nhà thơ: “một mảnh tình riêng” - tình cảm riêng tư không có ai để chia sẻ:

“Dừng chân đứng lại trời, non, nước
Một mảnh tình riêng, ta với ta'

Trong thơ của Nguyễn Khuyến, cũng có đoạn sử dụng cụm từ “ta với ta”:

“Đầu trò tiếp khách trầu không có
Bác đến chơi đây ta với ta”

Trong “Bạn đến chơi nhà”, từ “ta” đầu tiên chỉ chủ nhà - nhà thơ, còn từ “ta” thứ hai chỉ người bạn - khách đến chơi. Từ “với” thể hiện mối quan hệ thân thiết, gắn bó như không có khoảng cách. Điều này thể hiện tình bạn sâu sắc của nhà thơ. Trong thơ của Bà Huyện Thanh Quan, cụm từ “ta với ta” ở đây chỉ nhà thơ, khi đó bà chỉ có một mình đối diện với chính mình, cô đơn và lẻ loi. Sự cô đơn ấy dường như không có ai để chia sẻ.

Như vậy, bài thơ Qua Đèo Ngang đã thể hiện được tâm trạng của Bà Huyện Thanh Quan trước khung cảnh hoang sơ của đèo Ngang. Bài thơ chứa đựng những tình cảm, ý nghĩa sâu sắc.

Phân tích bài thơ Qua đèo ngang (Mẫu 19)

Xã hội ngày xưa chật vật, áp đặt, gò ép phụ nữ, họ chỉ biết sống dưới bóng của nam giới, không tự chủ. Ngược lại, thời hiện đại, phụ nữ được tôn trọng, đồng đẳng, không bị phân biệt đối xử. Tình yêu và tự do không phải chỉ là đặc quyền của nam giới. Bà Huyện Thanh Quan, mặc dù không tham gia chiến trận, nhưng đã đóng góp tinh thần, sức mạnh của mình vào những bài thơ, làm giàu thêm phần cho đất nước.

'Qua đèo ngang' mang lại sự êm đềm, nhẹ nhàng, đầy bản lĩnh của bà Huyện Thanh Quan, là biểu tượng cho phong cách thơ của bà. Bài thơ được viết khi bà đang ở Phú Xuân (Huế), đi qua đèo này. Tác phẩm nói lên nỗi buồn sâu sắc, lòng nhớ nhà, quê hương và tình thương đối với phụ nữ yếu đuối đi xa. Bài thơ tuân theo thể thức ngôn bát cú, với 8 câu thơ thể hiện tâm hồn và cảnh vật trước núi rừng hiu quạnh.

'Bước chân tới Đèo Ngang, bóng xế tà
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa'

Hai câu thể hiện rõ hình ảnh rừng núi hoang sơ khi 'bóng xế tà' buông xuống. Khung cảnh chiều u buồn, gợn sầu, thể hiện sự nhớ nhung muốn chia sẻ nỗi lòng mà không có ai bên cạnh. Chỉ có 'cây cỏ chen đá, lá chen hoa' hiu quạnh. Từ 'chen' làm nổi bật sức sống của cỏ, cây, đồng thời truyền đạt ý chí sinh sôi, nảy nở.

'Lặng lẽ dưới núi, tiều vài chú
Lác đác bên sông, chợ mấy nhà'

Phân tích bài thơ Qua đèo Ngang - Bà Huyện Thanh Quan

Chỉ sau hai câu thơ tiếp theo, hình ảnh con người mới hiện hữu. 'Người tiều phu' lựa chọn lượm củi, từ 'lom khom' nhấn mạnh sự vất vả, cực nhọc của họ. Việc kiếm từng khúc củi trở nên khó khăn, số lượng cảm nhận được là ít ỏi, tạo nên sự cô đơn trong tìm kiếm bạn đồng hành.

Chuyển sang hai câu thơ tiếp theo, tác giả truyền đạt cảm xúc của mình rõ ràng hơn:

'Nhớ quê, đau lòng con cuốc cuốc
Thương nhà, mỏi miệng gia gia'

Ở giữa khu rừng sâu, tiếng chim cuốc vang lên như tiếng lòng đau đớn. Đó có thể là cảm xúc của nhà thơ hay âm thanh của chính cảnh. Bằng ngôn từ và nghệ thuật chơi chữ, tác giả lên tiếng về tâm trạng trước cảnh đẹp. Tiếng kêu của chim làm tăng lên cảm giác cô đơn, có lẽ là biểu hiện của tâm trạng nhớ thương quê hương?

Sự bao la, vô tận của non nước như làm tan biến bóng dáng một mình giữa thiên nhiên, hồn cảnh - hồn người hòa quyện vào nhau, tạo nên nỗi buồn da diết lưu lại.

'Dừng chân đứng lại, trời non nước
Mảnh tình riêng, ta với ta'

Phân tích bài thơ Qua đèo ngang (Mẫu 20)

“Có nơi đâu đẹp tuyệt vời
Như sông như núi, như người Việt Nam”

Câu thơ thể hiện lòng tự hào, kiêu hãnh về đất nước, non sông Việt Nam. Thiên nhiên Việt Nam được tôn vinh với vẻ đẹp mơ hồ, tràn đầy sức sống. Vì thế, thiên nhiên luôn là đề tài bất tận trong thơ ca. Có lúc lấp lánh, huyền diệu như giấc mơ, có lúc rực rỡ, kiêu sa như ánh mặt trời. Bài thơ “Qua Đèo Ngang” của Bà Huyện Thanh Quan là minh chứng cho điều này.

“Bước tới Đèo Ngang, bóng chiều tà,
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.
Lom khom dưới núi, tiều vài chú,
Lác đác bên sông, chợ vài nhà.
Nhớ nước, đau lòng, con đất này,
Thương nhà mỏi miệng, quê thân già.
Dừng chân đứng lại, trời, non, nước,
Một mảnh tình riêng, ta với ta.”

Câu thơ mở đầu giới thiệu về không gian, thời gian. Điệp từ “bóng chiều tà” nêu bật thời điểm chiều tà bao trùm lên đèo Ngang. Sau đó, nhà thơ sử dụng từ “chen” và hình ảnh “lá, đá” để tạo ra sự cô đơn, tĩnh lặng. Tà như là biểu tượng của sự tàn lụa, phai mờ. Thời gian làm cho câu thơ trở nên buồn bã hơn. Ca dao có câu:

“Vẳng nghe chim vịt kêu chiều
Đang nhớ mẹ, chín chiều ruột đau”

Thì mới hiểu, những cảm xúc cao quý của mỗi người dường như gặp nhau tại một thời điểm duy nhất. Đó là thời gian. Và thời khắc tuyệt vời nhất để thể hiện sự nhớ nhung đầy khắc khoải chính là khi chiều về. Trên bài thơ “Qua Đèo Ngang”, tác giả bỗng dưng mang đến cảm xúc sâu sắc khi bà gặp ánh hoàng hôn che phủ cảnh vật.

Không chỉ có thiên nhiên, con người cũng là một phần của bức tranh ở Đèo Ngang:

“Lom khom dưới núi, tiều vài chú
Lác đác bên sông, chợ vài nhà”

Câu thơ tái hiện hình ảnh trong hoàng hôn buông, mấy người tiều phu vẫn đang đốn củi, và mấy gian hàng chợ lung linh trong gió. Đảo ngữ của hai từ “lom khom, lác đác” ở đầu câu làm nổi bật sự u hoài ở đây. Nhà thơ đi tìm sự sống, nhưng sự sống đó lại làm cho cảnh vật héo hắt, buồn tẻ hơn, xa cách hơn.

Sự đối lập trong hai câu khiến cảnh sắc trên sông, dưới núi trở nên rời rạc, thưa thớt hơn. Từ “vài, mấy” nhấn mạnh sự vắng vẻ ở đây. Trong sự hiu quạnh đó, bỗng vang lên tiếng kêu đều đều, man mác của loài chim quốc quốc, chim gia gia trong bóng hoàng hôn buông xuống.

Từ ghép “đau lòng, mỏi miệng” khiến ta cảm thấy đầy xúc động, những cảm xúc sâu lắng. Từ “nhớ nước, thương nhà” là niềm đau lòng của con chim quốc quốc, chim đa đa, liệu đó có phải là cảm nhận sâu thẳm của tác giả hay chỉ là nghệ thuật ẩn dụ để diễn tả những tâm tư trong tâm hồn của nữ sĩ? Cụm từ quốc quốc gia có thể liên quan đến Tổ quốc và gia đình của Bà Huyện Thanh Quan ngày xưa?

Sự song song về ý, về lời trong hai câu thơ này nhấn mạnh tình cảm của Bà Huyện Thanh Quan đối với Tổ quốc, gia đình một cách khéo léo và tài tình. Thực tại của xã hội hiện đại và cảnh đẹp của đèo Ngang đã thôi thúc tác giả nhớ về chính mình và cảm thán:

“Dừng chân đứng lại trời non nước
Một mảnh tình riêng, ta với ta.”

Câu kết của bài thơ, ta cảm nhận nhà thơ dành nỗi u hoài cho quá khứ. Dừng lại và nhìn quanh chỉ thấy: trời, non, nước. Vũ trụ vô cùng lớn, xung quanh là một bầu trời với núi non, dòng sông khiến con người cảm thấy nhỏ bé, cô đơn, trống vắng, ở đây chỉ có mình tôi với tôi, với mảnh tình riêng dành cho nước, cho nhà trong huyết quản làm cõi lòng nhà thơ như tê tái.

Bài thơ “Qua Đèo Ngang” đã miêu tả khung cảnh thiên nhiên Đèo Ngang thoáng đãng, hiu quạnh, vẫn còn hơi thở của con người nhưng vẫn giữ được sự hoang sơ. Đồng thời thể hiện nỗi nhớ thương quê hương.

Giỏi Văn - Bài văn: Phân tích bài thơ ...

Phân tích bài thơ Qua đèo ngang (Mẫu 21)

Trong dòng văn thơ cổ Việt Nam có hai nữ thi sĩ được nhiều người biết đến đó là Hồ Xuân Hương và bà Huyện Thanh Quan . Nếu như thơ văn của Hồ Xuân Hương sắc sảo, góc cạnh thì phong cách thơ của bà Huyện Thanh Quan lại trầm lắng, sâu kín, hoài cảm…

Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà,

Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.

Lom khom dưới núi tiều vài chú,

Lác đác bên sông chợ mấy nhà.

Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc,

Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.

Dừng chân đứng lại trời non nước,

Một mảnh tình riêng ta với ta.

Tác giả bài thơ tên thật là Nguyễn Thị Hinh sống trong nửa đầu thế kỷ 19, quê ở làng Nghi Tàm, ven Hồ Tây, kinh thành Thăng Long. Bà xuất thân trong một gia đình quan lại, có nhan sắc, có học, có tài thơ Nôm, giỏi nữ công gia chánh – bà được vua Minh Mệnh vời vào kinh đô Phú Xuân làm nữ quan “Cung trung giáo tập”. Chồng bà là Lưu Nghi làm tri huyện Thanh Quan, tỉnh Thái Bình, nên người đời trân trọng gọi bà là Bà huyện Thanh Quan.

Bà chỉ còn để lại 6 bài thơ Nôm thất ngôn bát cú Đường luật: “Qua Đèo Ngang”, “Chiều hôm nhớ nhà”, “Thăng Long thành hoài cổ”, “Chùa Trấn Bắc”, “Chơi Đài Khán Xuân Trấn võ”. “Tức cảnh chiều thu”.

Thơ của bà hay nói đến hoàng hôn, man mác buồn, giọng điệu du dương, ngôn ngữ trang nhã, hồn thơ đẹp, điêu luyện.

Trên đường vào Phú Xuân…, bước tới Đèo Ngang lúc chiều ta, cảm xúc dâng trào lòng người, Bà huyện Thanh Quan sáng tác bài “Qua Đèo Ngang”. Bài thơ tả cảnh Đèo Ngang lúc xế tà và nói lên nỗi buồn cô đơn, nỗi nhớ nhà của người lữ khách – nữ sĩ.

Lần đầu nữ sĩ “bước tới Đèo Ngang”, đứng dưới chân con đèo “đệ nhất hùng quan” này, địa giới tự nhiên giữa hai tỉnh Hà Tĩnh – Quảng bình, vào thời điểm “bóng xế tà”, lúc mặt trời đã nằm ngang sườn núi, ánh mặt trời đã “tà”, đã nghiêng, đã chênh chênh. Trời sắp tối. Âm “tà” cũng gợi buồn thấm thía. Câu 2, tả cảnh sắc: cỏ cây, lá, hoa… đá.

Hai vế tiểu đối, điệp ngữ “chen”, vần lưng: “đá” – “lá”, vần chân: “tà” – “hoa”, thơ giàu âm điệu, réo rắt như một tiếng lòng, biểu lộ sự ngạc nhiên và xúc động về cảnh sắc hoang vắng nơi Đèo Ngang 200 năm về trước: “Cỏ cây chen đá, lá chen hoa”. Chỉ có hoa rừng, hoa dại, hoa sim, hoa mua. Cỏ cây, hoa lá phải “chen” với đá mới tồn tại được. Cảnh vật hoang sơ, hoang dại đến nao lòng.

Nữ sĩ sử dụng phép đối và đảo ngữ trong miêu tả đầy ấn tượng. Âm điệu thơ trầm bổng du dương, đọc lên nghe rất thú vị:

“Lom khom dưới núi tiều vài chú,Lác đác bên sông chợ mấy nhà”. Điểm nhìn đã thay đổi: đứng cao nhìn xuống dưới và nhìn xa. Thế giới con người là tiểu phu, nhưng chỉ có “tiều vài chú”. Hoạt động là “lom khom” vất vả đang gánh củi xuống núi. Một nét vẽ ước lệ rong thơ cổ (ngư, tiều, canh, mục) nhưng rất thần tình, tinh tế trong cảm nhận.

Mấy nhà chợ bên sông thưa thớt, lác đác. chỉ mấy cái lều chợ miền núi, sở dĩ nữ sĩ gọi “chợ mấy nhà” để gieo vần mà thôi: “tà” – “hoa” – “nhà”. Cũng là cảnh hoang vắng, heo hút, buồn hoang sơ nơi con đèo xa xôi lúc bóng xế tà.

Tiếp theo nữ sĩ tả âm thanh tiếng chim rừng: chim gia gia, chim cuốc gọi bầy lúc hoàng hôn. Điệp âm “con cuốc cuốc” và “cái gia gia” tạo nên âm hưởng du dương của khúc nhạc rừng, của khúc nhạc lòng người lữ khách. Lấy cái động (tiếng chim rừng) để làm nổi bật cái tĩnh, cái vắng lặng im lìm trên đỉnh đèo Ngang trong khoảnh khắc hoàng hôn, đó là nghệ thuật lấy động tả tĩnh trong thi pháp cổ. Phép đối và đảo ngữ vận dụng rất tài tình:

“Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc,

Thương nhà mỏi miệng cái gia gia”

Nghe tiếng chim rừng mà “nhớ nước đau lòng”, mà “thương nhà mỏi miệng” nỗi buồn thấm thía vào 9 tầng sâu cõi lòng, tỏa rộng trong không gian từ con đèo tới miền quê thân thương. Sắc điệu trữ tình dào dạt, thiết tha, trầm lắng. Lữ khách là một nữ sĩ nên nỗi “nhớ nước”, nhớ kinh kỳ Thăng Long, nhớ nhà, nhớ chồng con, nhớ làng Nghi Tàm thân thuộc không thể nào kể xiết!

Bốn chữ “dừng chân đứng lại” thể hiện một nỗi niềm xúc động đến bồn chồn. Một cái nhìn mênh mang: “Trời non nước”; nhìn xa, nhìn gần, nhìn cao, nhìn sâu, nhìn 4 phía… rồi nữ sĩ thấy vô cùng buồn đau, như tan nát cả tâm hồn, chỉ còn lại “một mảnh tình riêng”. Lấy cái bao la, mênh mông, vô hạn của vũ trụ, của “trời non nước” tương phản với cái nhỏ bé của “mảnh tình riêng”, của “ta” với “ta” đã cực tả nỗi buồn cô đơn xa vắng của người lữ khác khi đứng trên cảnh Đèo Ngang lúc ngày tàn. Đó là tâm trạng nhớ quê, nhớ nhà:

“Dừng chân đứng lại trời non nước,

Một mảnh tình riêng ta với ta”.

“Qua Đèo Ngang” là bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật tuyệt bút. Thế giới thiên nhiên kỳ thú của Đèo Ngang như hiển hiện qua dòng thơ. Cảnh sắc hữu tình thấm một nỗi buồn man mác. Giọng thơ du dương, réo rắt. Phép đối và đảo ngữ có giá trị thẩm mĩ trong nét vẽ tạo hình đầy khám phá. Cảm hứng thiên nhiên trữ tình chan hòa với tình yêu quê hương đất nước đậm đà qua một hồn thơ trang nhã.

Bài thơ “Qua Đèo Ngang” là tiếng nói của một người mà trở thành khúc tâm tình của muôn triệu người, nó là bài thơ một thời mà mãi mãi – bài thơ non nước.

Phân tích bài thơ Qua đèo ngang (Mẫu 22)

Một trong những tác phẩm đặc sắc của Bà Huyện Thanh Quan là “Qua Đèo Ngang”. Với bài thơ này, tác giả đã truyền tải tình yêu sâu sắc đến quê hương đất nước.

'Qua đèo ngang' thể hiện sự điềm tĩnh, nhẹ nhàng, trầm buồn của bà Huyện Thanh Quan, làm tiêu biểu cho phong cách thơ của bà. Bài thơ được viết khi tác giả đang ở Phú Xuân (Huế), nhận chức và đi qua đèo này. Cảm hứng chính của bài thơ là nỗi buồn man mác, nỗi nhớ quê hương, thương nhớ thân nhân trong chặng đường xa xôi của người con gái yếu đuối. Bài thơ được viết theo thể thất ngôn bát cú, với tám câu thơ đã lột tả được thần thái, tâm hồn của cảnh vật và con người trước cảnh núi rừng hiu quạnh.

“Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen lá, đá chen hoa”

Hai câu thơ rõ ràng miêu tả khung cảnh rừng núi hoang sơ vào lúc 'bóng xế tà'. Một cảnh chiều nặng nề làm cho lòng người trở nên u buồn, nỗi buồn sâu thẳm hơn. Tất cả như gợi lên nỗi nhớ, khát khao để tỏ rõ nỗi lòng mà không có ai bầu bạn, chia sẻ. Chỉ có 'cây cỏ chen lá, đá chen hoa' hiu quạnh. Từ 'chen' khẳng định sức sống mạnh mẽ của cỏ, cây, bám chặt để sinh sôi nảy nở.

“Dưới núi lom khom tiều vài chú
Bên sông lác đác chợ mấy nhà”

Đến hai câu thơ sau mới thấy sự hiện diện của con người. Hai từ 'lom khom', 'lác đác' cho thấy sự vắng vẻ, thưa thớt của con người. Trong khung cảnh thiên nhiên này, con người chỉ là một chấm nhỏ bé.

Tiếp theo, Bà Huyện Thanh Quan đã thể hiện tâm trạng của mình khi đứng trước đèo Ngang:

“Nhớ nước, đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia”

Giữa chốn rừng sâu vắng lặng, vọng lên tiếng chim quốc quốc đau lòng não ruột. Đây có thể là tiếng than trong lòng nhà thơ hay âm thanh thực sự của chim? Bằng nghệ thuật ước lệ và chơi chữ, nhà thơ diễn đạt tâm trạng của mình trước cảnh vật. Tiếng chim kêu làm thêm phần cô đơn, liệu đó có phải là tâm trạng hoài vọng, nhớ thương nước nhà?

Sự bao la, vô tận của non nước làm cho hình bóng một mình giữa thiên nhiên, hồn cảnh - hồn người như hòa lẫn vào nhau, làm nỗi buồn da diết bị lắng đọng cùng.

“Dừng chân đứng lại trời non nước
Một mảnh tình riêng ta với ta”

Tiếng lòng non nước thấm thía, không san sẻ buộc nhà thơ thốt lên giãi bày 'ta với ta' nghe chua xót. Chỉ mình mới hiểu được lòng mình, sự cô đơn như tăng lên gấp bội. Dù sầu muộn như bà Huyện Thanh Quan vẫn cảm nhận được vẻ đẹp non nước dù nơi dừng chân có vẻ hoang sơ, nhưng đã tô lên vẻ đẹp hùng vĩ, bao la của núi rừng.

Bài thơ 'Qua Đèo Ngang' vừa gợi lên một bức tranh về cảnh đẹp thiên nhiên núi rừng hoang sơ, hùng vĩ, vừa gợi ra khung cảnh sống giản dị, đơn sơ mà ấm áp. Từ đó mang lại những cảm xúc, nỗi niềm, riêng tư của tác giả với tình yêu quê hương, đất nước da diết khi xa quê hương, lẻ loi một bóng hình nơi đất khách quê người.

Phân tích bài thơ Qua đèo ngang (Mẫu 23)

Bà Huyện Thanh Quan là một nhà thơ nữ hiếm hoi của nền thi ca cổ đại của Việt Nam ta. Bà Huyện Thanh Quan có văn phong nhẹ nhàng sâu sắc, chứa đựng những tâm tư tình cảm sâu lắng, chất chứa trong lòng thông qua những lời thơ ẩn ý ngụ tình.

Bài thơ “Qua đèo ngang” là một bài thơ hay thể hiện sự cô đơn, buồn chán của tác giả trước cảnh hoàng hôn ở vùng đất hoang sơ cùng cốc, một thân một mình với những nỗi buồn khi nhớ về quê hương nơi xa xôi.

Bài thơ Qua đèo ngang được viết bắt thể thơ thất ngôn bát cú. Bài thơ chỉ có tám câu thơ ngắn ngủi nhưng nó đã lột tả được tâm trạng thần thái của bà Huyện Thanh Quan trước cảnh chiều tà hoang lạnh.

Bước tới đèo Ngang bóng xế tà

Cỏ cây chen lá, lá chen hoa

Trong hai câu thơ đầu này, không gian hiện lên vô cùng mênh mông, rộng lớn. Cảnh hoàng hôn xuống mặt trời đã tắt bóng, ánh nắng dần dần chuyển sang màu tối, bóng đêm bao phủ nơi đây. Không gian đã cô liêu lại cảm trở nên im ắng thanh tịnh tới nao lòng.

Điệp từ “chen” vào lối sử dụng từ ngữ khiến cho câu thơ trở nên vô cùng mềm mại. Tác giả đã vẽ lên một bức tranh vô cùng tươi đẹp về thiên nhiên nơi đây, hình ảnh cỏ cây hoa lá mọc bên nhau thật sinh động tươi đẹp. Nhưng tuyệt nhiên trong câu thơ không hề có sự xuất hiện của con người

Lom khom dưới núi tiều vài chú

Lác đác bên sông chợ mấy nhà

Trong bài thơ Qua đèo ngang bóng dáng của con người đã vô cùng ít xuất hiện, nếu có xuất hiện cũng bé nhỏ xa mờ. Trong hai câu thơ này tác giả có nhắc tới hình ảnh của con người “Lom khom dưới núi tiều vài chú” thể hiện sự mênh mang của không gian, sự bé nhỏ của con người trước cảnh vật thiên nhiên hùng vĩ.

Lác đác bên sông chợ mấy nhà, hình ảnh con người sự sống của con người hiện lên vô cùng thưa thớt, khiến cho khung cảnh đã hiu hắt, ảm đạm trước cảnh hoàng hôn càng trở nên buồn chán , hiu quạnh.

Tác giả sử dụng từ láy “lác đác” “lom khom” thể hiện sự thưa thớt, vắng vẻ, nhỏ bé của con người. Sự tinh tế trong từ ngữ của tác giả làm cho câu thơ trở nên sinh động vô cùng, làm cho bài thơ luôn gợi lên một nỗi buồn man mác.

Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc

Thương nhà mỏi miệng cái gia gia

Tác giả vô cùng tinh tế khi sử dụng “điệp âm” trong hai câu thơ này để tạo nên âm hưởng da diết, mênh mang tạo nên nỗi buồn nao lòng làm lay động tâm tư người đọc. Hình ảnh con cuốc cuốc là hình ảnh hiu hát, buồn tới nao lòng. Mỗi lần nghe tiếng cuốc kêu trên những cánh đồng xa thường gợi cho con người nhớ tới quê hương của mình. Nhớ những kỷ niệm vui buồn khó quên. Nỗi nhớ như xé lòng người lữ khách tha hương.

Trong hai câu thơ này tác giả khôn khéo khi sử dụng những từ đồng âm khác nghĩa, cùng nghĩa khác từ cuốc cuốc, da da, nước và nhà, nhớ và thương…để tạo ra hai câu thơ vô cùng độc đáo gợi lên nhiều cảm xúc. Câu thơ như có đủ chất nhạc, chất thơ ở trong đó khiến khi người đọc đọc lên cảm nhận được sự mênh mang da diết.

Dừng chân đứng lại trời non nước

Một mảnh tình riêng ta với ta

“Một mảnh tình riêng ta với ta” thể hiện tâm trạng cô đơn, chỉ một mình độc bước của tác giả trước cảnh hoàng hôn xế bóng, thể hiện nỗi cô đơn của người lữ khách trước cảnh đất nước phân chia hai miền do hai chế độ nhà Lê và nhà Nguyễn thống trị. Những cuộc chiến tranh nội chiến tương tàn, sát hại lẫn nhau làm cho người dân vốn đã khốn khổ lại càng thêm thê lương.

Trong bối cảnh nhà thơ Huyện Thanh Quan sống đất nước ta đang vô cùng rối ren, nên trong thơ của bà thường chứa đựng nỗi buồn hiu hắt về nhân tình thế thái.

Bài thơ Qua đèo ngang là một bài thơ hay thể hiện được bút pháp trữ tình sâu lắng của tác giả, thể hiện được lối chơi chữ nghệ thuật của bà Huyện Thanh Quang. Đồng thời qua bài thơ còn thể hiện cái nhìn nhân sinh quan, nỗi niềm của tác giả với triều đình nhà Lê thời đó.

Bài thơ “Qua đèo Ngang” với giọng điệu da diết, trầm bổng, du dương và những thủ pháp nghệ thuật độc đáo đã mang đến cho người đọc cảm xúc khó quên. Dư âm của bài thơ dường như còn vang vọng đâu đây.

Phân tích bài thơ Qua đèo ngang (Mẫu 24)

Nền văn học trung đại nổi bật lên với nhiều gương mặt nhà thơ nam, nhưng bên cạnh đó cũng là sự xuất hiện của tên tuổi những nhà thơ nữ tài năng, có thể kể đến Hồ Xuân Hương, Đoàn Thị Điểm, Bà Huyện Thanh Quan. Tuy những người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa vốn không được coi trọng nhưng bằng tài năng và trong nền văn học của nước nhà. Bài thơ Qua đèo ngang là một tác phẩm thơ nổi tiếng của bà Huyện Thanh Quan, nói về tình cảnh đơn độc của người con xa xứ và nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương da diết.

Bà Huyện Thanh Quan là một nữ sĩ tài năng dưới thời vua Minh Mạng, tài năng xuất chúng của bà đã được triều đình trọng dụng và được phân bổ chức Cung trung giáo tập, tức là một chức quan dạy lễ nghi cho các cung phi, cung chúa chốn thâm cung. Để nhận chức, bà đã phải rời quê hương đến kinh thành Huế, trên đường đi nhận chức bà đã dừng chân ở Đèo Ngang và sáng tác lên tác phẩm Qua Đèo Ngang:

“Bước tới đèo ngang bóng xế tà

Cỏ cây chen đá lá chen hoa”

Hai câu thơ đầu tiên đã mở ra không gian, thời điểm đầy đặc biệt của bức tranh thơ. Thời gian mà Bà Huyện Thanh Quan lựa chọn trong bài thơ này đó chính là không gian của buổi chiều tà, đây là thời điểm bà dừng chân nghỉ ngơi, lấy sức cho hành trình dài. Nhưng cũng chính thời điểm chiều ta cũng gợi nhắc cho người ta nhiều suy tư, trăn trở. Các nhà thơ miêu tả “bóng xế tà” gợi ra không khí chậm chãi, trầm buồn của không gian khi ánh sáng của một ngày bắt đầu lụi tắt.

Trong không gian ấy, khung cảnh thiên nhiên nơi Đèo Ngang cũng khiến cho con người rợn ngợp, trống trải. Cảnh cỏ cây, hoa lá cùng chen nhau trên những phiến đá gợi ra sự phát triển mạnh mẽ, tốt tươi của sự vật nhưng đồng thời cũng tạo ra sự trống vắng, hoang sơ của chốn núi rừng. Làm cho khung cảnh vốn tĩnh lặng lại càng trở nên buồn đến rợn ngợp.

Xem thêm: Tại sao nói: “ Hiền tài là nguyên khí của một quốc gia”

“Lom khom dưới núi tiều vài chú

Lác đác bên sông chợ mấy nhà”

Nếu như khung cảnh thiên nhiên núi rừng nơi đèo ngang khiến cho Bà Huyện Thanh Quan cảm thấy trống vắng, tịch mịch thì khi hướng cái nhìn về sự sống xung quanh lại mang lại cho tác giả cảm xúc của sự cô đơn, trống vắng. tác giả đã sử dụng các từ láy lom khom, lác đác để diễn tả sự ít ỏi, thưa thớt của những dấu hiệu sống, dấu hiệu của con người.

Vốn muốn tìm sự ấm áp trong không gian hoang lạnh nhưng khi nhìn về sự sống thưa thớt lại càng gợi lên sâu sắc sự cô đơn, khắc sâu thêm nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương da diết:

“Nhớ nước đau lòng con quốc quốc

Thương nhà mỏi miệng cái gia gia”

Tiếng chim văng vẳng trong không gian đầy da diết gợi lên nỗi nhớ quê hương, nỗi nhớ nhà của thi sĩ. Một mình nơi đất khách lại đứng trước không gian mênh mông vắng lặng của càng khiến cho con người trở nên nhỏ bé, càng cảm nhận sâu sắc hơn nỗi cô đơn của mình. Tác giả đã sử dụng phép chơi chữ để làm nổi bật lên nỗi nhớ nhà của mình. Quốc trong tiếng kêu quốc quốc là nỗi nhớ hướng về đất nước, về quê hương. Còn gia lại gợi nhắc đến nỗi nhớ về gia đình.

“Dừng chân đứng lại trời non nước

Một mảnh tình riêng ta với ta”

Dừng chân trong không gian núi trời mênh mông, bát ngát nhà thơ cảm nhận được nét đẹp của non sông gấm vóc của đất trời, tuy nhiên cũng chính không gian ấy lại làm sâu thêm nỗi cô đơn, lẻ loi của nhà thơ nơi đất khách quê người. Bởi những nỗi niềm, những tâm sự chẳng thể giãi bày cùng ai chỉ có thể ôm ấp cho riêng mình.

Hiephoanet.vn

Phân tích bài thơ Qua đèo ngang (Mẫu 25)

Bà Huyện Thanh Quan là một trong số những nữ sĩ tài danh xuất sắc của nền văn học trung đại Việt Nam, tuy nhiên những sáng tác của bà còn tồn tại đến ngày nay không còn nhiều. Có thể nói, bài thơ Qua đèo Ngang là một trong số những sáng tác xuất sắc nhất của bà. Ra đời khi Bà Huyện Thanh Quan lần đầu tiên xa nhà, xa quê hương, vào kinh đô Huế nhận chức “cung trung giáo tập”, bài thơ mang những nét đặc sắc cả về nội dung và nghệ thuật.

Trước hết, bài thơ đã vẽ nên một cảnh tượng, một bức tranh Đèo Ngang vừa thoáng đãng, vừa heo hút, hoang sơ nhưng vẫn thấp thoáng ở đó bóng hình, sự sống của con người. Mở đầu bài thơ cảnh tượng Đèo Ngang thoáng hiện lên nỗi buồn hiu quạnh.

Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen lá đá chen hoa

Hai câu thơ mở đầu bài thơ đã gợi lên thời gian, không gian nghệ thuật cho bài thơ, để rồi, từ trong khoảng không gian, thời gian ấy cảnh tượng đèo Ngang cứ thế dần hiện ra. Thời gian trong bài thơ được gợi lên thông qua cụm từ “bóng xế tà”. Có thể thấy đó là một buổi chiều chạng vạng – khoảng thời gian thường gợi lên trong mỗi người nỗi buồn man mác với nỗi trống vắng, cô đơn.

Không chỉ là thời gian chiều tà, bài thơ còn gợi lên một không gian cảnh vật nơi đèo Ngang rộng lớn, mênh mông – sự rộng lớn của không gian càng làm tăng thêm nỗi buồn và sự trống vắng. Và để rồi, trong khoảng không gian rộng lớn ấy, từng cảnh vật cứ thế chen chúc nhau mọc lên.

Sự chật chội, chen chúc ấy của cảnh vật được thể hiện rõ nét qua động từ “chen”. Động từ này không chỉ gợi lên sự chen chúc, hoang sơ, không có trật tự của cảnh vật mà qua đó nó còn thể sức sống của vạn vật trước sự khắc nghiệt của khí hậu và sự mênh mông của không gian. Thêm vào đó, bức tranh thiên nhiên nơi đèo Ngang còn hiện lên thấp thoáng sự sống của con người.

Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà

Hai từ láy “lom khom”, “lác đác” để diễn tả dáng hình của chú tiều và những ngôi nhà cùng nghệ thuật đảo ngữ, chúng được đặt lên ở đầu câu đã nhấn mạnh sự thưa thớt, ít ỏi. Thêm vào đó, việc sử dụng các từ ngữ “vài”, “mấy” đã làm tăng thêm sự nhỏ bé của bóng hình con người và sự thưa thớt, hoang vắng của cảnh vật. Để rồi từ những hình ảnh và từ ngữ ấy, tác giả đã gợi nên một bức tranh cảnh vật thưa thớt, hoang vắng dẫu đã có ánh lên sự sống của con người.

Như vậy, bài thơ Qua đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan đã vẽ nên một bức tranh cảnh vật đèo Ngang lúc chiều tà rộng lớn, mênh mông, thấp thoáng hiện lên bóng hình của con người, của sự sống nhưng vẫn còn hoang vắng, đìu hiu, gợi lên cảm giác man mác buồn và sự vắng lặng, cô đơn.

Không dừng lại ở đó, bài thơ Qua đèo Ngang còn thể hiện tâm trạng và nỗi lòng của nhà thơ.

Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia

Hai câu thơ đã cho thấy nghệ thuật sử dụng từ ngữ điêu luyện và tài tình của nữ sĩ Bà Huyện Thanh Quan – chữ quốc là nước là từ đồng âm với từ “cuốc” – chỉ một loài chim và “gia gia” là từ có âm gần giống với loài chim đa đa. Với nghệ thuật chơi chữ tài năng, hai câu thơ đã nói lên tâm trạng của bà vào thời điểm bước tới đèo Ngang.

Âm thanh văng vẳng của hai loài chim ấy phải chăng cũng chính là nỗi lòng của bà ngay lúc này – nỗi “nhớ nước”, “thương nhà”. Đồng thời, nỗi lòng ấy càng được tỏ rõ và nhấn mạnh khi tác giả khéo léo sử dụng nghệ thuật đảo ngữ, đưa hai từ “nhớ nước”, “thương nhà” lên đầu hai câu thơ.

Thêm vào đó, bài thơ còn diễn tả một cách trực tiếp nỗi cô đơn của nữ thi sĩ qua hai câu thơ kết thúc bài thơ.

Dừng chân đứng lại trời, non, nước
Một mảnh tình riêng, ta với ta

Giữa khoảng không gian rộng lớn của đất trời, dường như càng làm tô đậm thêm sự nhỏ bé, cô đơn của tác giả. Thêm vào đó, những sự vật tưởng như luôn song hành, đi cùng và quyện hòa vào nhau nên lại chia lìa, xa cách nhau – điều này thể hiện rõ nét qua việc sử dụng các dấu phẩy, tách các sự vật “trời”, “non”, “nước’.

Dường như, chính cái nhìn chia lìa, chính tâm trạng của tác giả đã có tác động sâu sắc tới cái nhìn đầy sự chia cách ở của cảnh vật. Và để rồi, câu thơ kết thúc bài thơ như một tiếng thở dài diễn tả trực tiếp nỗi niềm của nhà thơ. Không gian rộng lớn nhưng nơi đây chỉ có “mảnh tình riêng” – chỉ một mảnh tình riêng “ta với ta”.

Nếu như “ta” thường dùng để chỉ cái chung cho cả cộng đồng, tập thể thì giờ đây nó chỉ còn là cái cá nhân, cái riêng của tác giả. Để rồi, hai câu thơ cuối đã cho chúng ta thấy nỗi cô đơn, bơ vơ, lạc lõng giữa cái mênh mông, bao la, rộng lớn của thiên nhiên. Như vậy, bài thơ đã cho chúng ta thấy nỗi niềm của tác giả khi bước tới đèo Ngang – nỗi nhớ nước, nhớ nhà và nỗi cô đơn, lạc lõng.

Không chỉ thành công về mặt nội dung, bài thơ Qua đèo Ngang còn hấp dẫn bạn đọc bởi những nét độc đáo, đặc sắc về nghệ thuật. Trước hết, bài thơ đã đạt đến sự chuẩn mực trong việc sử dụng thể thơ Đường luật. Với thể thơ thất ngôn bát cú, mặc dù đã được Việt hóa, song bài thơ không những tuân thủ một cách nghiêm ngặt mà còn đạt đến độ chuẩn mực của thể thơ này về niêm, luật, vần với ngôn ngữ trau chuốt, giàu giá trị.

Thêm vào đó, thành công của bài thơ còn ở nghệ thuật tả cảnh ngụ tình được sử dụng tài năng và đem đến hiệu quả nghệ thuật to lớn. Ẩn sau bức tranh cảnh vật nơi đèo Ngang vào buổi xế chiều đã thể hiện một cách rõ nét nỗi niềm tâm trạng – nỗi buồn man mác của nhà thơ khi phải rời xa quê hương. Và cuối cùng, nghệ thuật đảo ngữ, chơi chữ cùng việc sử dụng các từ láy góp phần không nhỏ vào thành công của tác phẩm.

Tóm lại, bài thơ Qua đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan với những nét đặc sắc về nghệ thuật đã vẽ nên bức tranh cảnh vật chiều tà nơi đèo Ngang rộng lớn, mênh mông, đâu đó hiện lên sự sống của con người nhưng vẫn còn hoang dại và để rồi từ đó thể hiện rõ nét nỗi niềm tâm trạng của nữ thi sĩ.

Phân tích bài thơ Qua đèo ngang (Mẫu 26)

Cùng với Hồ Xuân Hương, Đoàn Thị Điểm, Bà Huyện Thanh Quan là ba gương mặt nhà thơ nữ nổi tiếng nhất thế kỉ XVIII, nếu như thơ của Hồ Xuân Hương có cái sắc sảo, cá tính thì thơ của Đoàn Thị Điểm lại nhẹ nhàng nhưng vô cùng da diết khi viết về quá khứ huy hoàng đã qua, khi nói về nỗi nhớ nhà, nỗi nhớ quê hương. Bài thơ Qua đèo ngang là tác phẩm nổi tiếng của Bà Huyện Thanh Quan.

Bà Huyện Thanh Quan hay viết về thiên nhiên, phần lớn vào lúc xế chiều, gợi lên cảm giác vắng lặng buồn buồn. Cảnh trong thơ bà giống như bức tranh thủy mặc, chấm phá, diễn tả bằng nghệ thuật ước lệ. tả cảnh để gửi gắm tình cảm nhớ thương da diết đối với quá khứ vàng son của một thời đã qua.

“Bước tới đèo ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen đá lá chen hoa”

Khi nhà thơ bước chân đến đèo ngang cũng là thời điểm chiều buông. Hình ảnh bóng xế tà không chỉ gợi ra không gian đất trời khi mặt trời bắt đầu lặn, màn đêm chuẩn bị buông, vừa gợi ra được nhịp vận động lờ lững, chậm chạp của những đám mây trên bầu trời. Không gian được gợi ra có chút hoang vắng, lại ẩn nhẫn sự cô đơn, lạc lõng của nhân vật trữ tình. “Cỏ cây chen đá lá chen hoa”, tác giả đã điệp từ chen vừa gợi ra cái đông đúc, rậm rạp của cỏ cây nơi mình đặt chân đến, đồng thời lại gợi ra được vẻ hoang sơ, tự nhiên của chốn núi rừng.

“Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà”

Từ láy “lom khom’ gợi ra dáng vẻ của người tiều phu trở về nhà trong khung cảnh chiều buông, “lác đác” lại gợi ra sự thưa thớt, trống vắng của không gian sống, không gian sinh hoạt. Trong hai câu thơ này, bóng dáng con người thấp thoáng dưới núi có phần nhỏ bé, không gian sống chưa kịp gợi lên sự ấm áp thì bị sự thưa thớt về khoảng cách đẩy lùi. Do đó có nói về con người, về sự sống thì cũng không làm cho bức tranh thơ bớt đi vẻ u buồn, tịch mịch. Cuộc sống đã thưa thớt lại tiêu điều đến thê lương với sự lác đác của lều chợ.

Tầm nhìn được mở rộng nhưng lại gợi sâu thêm nỗi cô đơn, trống vắng của con người tha phương nơi đất khách:

“Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia”

Thời điểm chiều tà với không gian vắng vẻ, u buồn thường gợi nhắc con người ta nhớ về quê hương, đặc biệt là đối với những người xa xứ. Bởi đây chính là thời điểm những người thân trong gia đình đều trở về cùng sum họp dưới mái ấm gia đình. Bởi vậy mà trong không gian chiều tà, tại đèo ngang vắng lặng, hoang sơ, nữ sĩ Bà Huyện Thanh Quan hướng nỗi nhớ của mình đến gia đình, đến quê hương. Đây là tình cảm đầy tha thiết, chân thành của một người con xa quê, bà nhớ nhà, nhớ quê hương. Một nỗi buồn trĩu nặng, khó nguôi ngoai.

Cảnh đèo ngang hiện lên với trời, non, nước đã gợi ra không gian mênh mông, bao la bát ngát mà xa lạ:

“Dừng chân đứng lại trời non nước
Một mảnh tình riêng ta với ta”

Trước không gian mênh mông của đất trời, của thiên nhiên,con người thường cảm nhận được sự rộng lớn, rợn ngợp mà thấu hiểu sâu sắc nỗi cô đơn, sự nhỏ bé của mình. Bà Huyện Thanh Quan cũng vậy, xa quê đi thực hiện nhiệm vụ không tránh khỏi những nỗi cô đơn nơi đất khách quê người. “Dừng chân” gợi ra sự nghỉ ngơi của đôi chân, nhưng lại mở ra sự vận động đầy da diết trong tâm hồn của người thi sĩ, đó chính là nỗi nhớ nhà, nỗi nhớ quê hương.

Trong không gian mênh mông, rợn ngợp lại chỉ có một mình nên Bà Huyện Thanh Quan cũng không thể dãi bày tâm sự với ai mà chỉ có thể ôm ấp cho riêng mình “Một mảnh tình riêng ta với ta”.

Như vậy, bài thơ Qua đèo ngang của Bà Huyện Thanh Quan nổi bật lên với cảm xúc u buồn cùng nỗi nhớ nhà, nhớ quê da diết của nhân vật trữ tình. Nỗi nhớ ấy không chỉ thể hiện tấm lòng yêu thương, tình yêu chân thành đối với quê hương đất nước mà còn thể hiện được tình cảnh lẻ loi, đơn độc của nhân vật này trong không gian hoang vắng, rợn ngợp của đất trời.

Phân tích bài thơ Qua đèo ngang (Mẫu 27)

Bà Huyện Thanh Quan là một nữ thi sĩ nổi tiếng của nền văn học Việt Nam trung đại. Trong đó, tác phẩm Qua Đèo Ngang đã mang đậm phong cách sáng tác của nhà thơ, cũng như gửi gắm thông điệp giá trị.

Mở đầu bài thơ, Bà Huyện Thanh Quan đã khắc họa thiên nhiên nơi đèo Ngang hiện lên với vẻ đẹp hoang sơ nhưng vẫn tràn đầy sự sống:

“Bước tới Đèo Ngang, bóng xế tà,
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa”

Câu thơ đầu tiên gợi mở về không gian, thời gian. Nhân vật trữ tình đến đèo Ngang khi “bóng xế tà” là thời điểm kết thúc của một ngày. Lúc này, vạn vật đã trở về nghỉ ngơi. Cảnh vật đèo Ngang hiện lên ở câu thơ thứ hai. Cách sử dụng điệp từ “chen” kết hợp với hình ảnh “đá, lá, hoa” cho thấy sự sống đang trỗi dậy mãnh liệt.

Ở hai câu thơ tiếp, con người xuất hiện nhưng lại vô cùng nhỏ bé giữa thiên nhiên rộng lớn:

“Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà”

Nghệ thuật đảo ngữ trong hai câu thơ “lom khom - tiều vài chú”, “lác đác - chợ mấy nhà” nhấn mạnh vào hình ảnh vài chú tiều với dáng đứng lom khom dưới chân núi và vài căn nhà nhỏ bé thưa thớt, lác đác bên sông. Con người chỉ là một chấm buồn nhỏ bé giữa vũ trụ rộng lớn.

“Nhớ nước, đau lòng, con quốc quốc,
Thương nhà mỏi miệng, cái gia gia.”

Hai câu thơ tiếp bộc lộ tâm trạng của nhân vật trữ tình. Ở đây, “con quốc quốc” và “cái gia gia” không chỉ là hình ảnh thực về hai loại chim (chim đỗ quyên, chim đa đa) mà còn gợi tả âm thanh của loài chim này - “quốc quốc”, “đa đa” vang lên nghe sao da diết, xót xa. Không chỉ vậy, khi ghép lại hai từ “quốc” và “gia” lại sẽ thành “quốc gia” như một lời bộc lộ gián tiếp tình yêu dành cho đất nước.

Lúc này đây, nhân vật trữ tình đang đứng một mình đứng tại nơi Đèo Ngang, đưa mắt nhìn ra xa cũng chỉ thấy thiên nhiên rộng lớn phía trước. Sự cô đơn bao trùm lấy toàn bộ không gian. Cụm từ “một mảnh tình riêng” ý chỉ tình cảm riêng tư không có ai để chia sẻ:

“Dừng chân đứng lại trời, non, nước
Một mảnh tình riêng, ta với ta”

Cái mảnh tình con con ấy cũng chỉ có “ta với ta”. Ta từng bắt gặp trong “Bạn đến chơi nhà”, Nguyễn Khuyến dùng cụm từ “ta với ta” - “Bác đến chơi đây ta với ta” để diễn tả tình bạn tri kỉ, thắm thiết. Còn trong thơ Bà Huyện Thanh Quan, cụm từ “ta với ta” chỉ càng làm tăng thêm nỗi cô đơn, trống vắng của nhân vật trữ tình hay chính là của tác giả.

Bài thơ Qua Đèo Ngang là lời bộc lộ nỗi nhớ quê hương, đất nước cũng như xót xa trước cảnh ngộ đất nước của Bà Huyện Thanh Quan. Nội dung và nghệ thuật bài thơ khá ấn tượng, mang dấu ấn sáng tác của nhà thơ.

Phân tích bài thơ Qua đèo ngang (Mẫu 28)

Bà Huyện Thanh Quan là một trong những nữ thi sĩ nổi tiếng của nền văn học trung đại. Tác phẩm nổi tiếng của bà phải kể đến bài thơ Qua đèo Ngang.

Mở đầu bài thơ, Bà Huyện Thanh Quan đã gợi mở ra về thời gian, không gian cũng như điểm nhìn của bài thơ. Nhân vật trữ tình tới đèo Ngang khi màn đêm đã dần buông xuống - thời điểm mà vạn vật cũng như con người trở về nhà để sum họp, nghỉ ngơi sau một ngày. Từ đó sự cô đơn càng được bộc lộ rõ hơn.

“Bước tới đèo Ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa”

Điệp từ “chen”, kết hợp với việc sử dụng vần lưng “đá - lá” cùng với vần chân “tà – hoa” cho thấy vạn vật đang trỗi dậy. Thiên nhiên nơi đèo Ngang hoang vu nhưng vẫn tràn đầy sức sống.

Và trong bức tranh thiên nhiên đó, con người xuất hiện mang vẻ nhỏ bé, chỉ là một chấm buồn lặng lẽ:

“Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà”

Từ láy “lom khom” và “lác đác” kết hợp với nghệ thuật đảo ngữ nhấn mạnh vào sự nhỏ bé, thưa thớt của con người. Nhà thơ sử dụng bút pháp miêu tả tượng trưng và ước lệ của thi pháp cổ (ngư, tiều, canh, mục) kết hợp với cảm hứng đầy thi cảm và sáng tạo.

Bà Huyện Thanh Quan đã sử dụng biện pháp tu từ đảo ngữ kết hợp với đối ở hai câu luận:

“Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia”

Hình ảnh “con quốc quốc” và “cái gia gia” không chỉ là hình ảnh thực về hai loại chim (chim đỗ quyên, chim đa đa). Tiếng kêu “quốc quốc”, “đa đa” nghe da diết đã còn bộc lộ nỗi lòng nhớ thương của mình với đất nước, quê hương.

“Dừng chân đứng lại: trời, non, nước
Một mảnh tình riêng ta với ta”

Ở hai câu kết, tác giả đã bộc lộ nỗi niềm cô đơn sâu sắc. Một mình nơi đèo Ngang rộng lớn, hoang vu trong buổi hoàng hôn, nữ sĩ thấy mình như sống trong tâm trạng lẻ bóng, cô đơn, giữa một khung cảnh thiên nhiên hoang vắng bao la của “trời, non, nước”. Cụm từ “ta với ta” là ba chữ đắt giá kết hợp với điệp ngữ láy âm, đặt trong mối tương phản với “trời, non, nước” đã cho thấy cái mênh mang bao la với sự lẻ loi, đơn côi và nhỏ bé của lòng người.

Qua Đèo Ngang mang đậm dấu ấn phong cách sáng tác của Bà Huyện Thanh Quan. Qua tác phẩm, nhà thơ cũng gửi gắm lòng yêu quê hương, đất nước.

Thanh Quân...

Phân tích bài thơ Qua đèo ngang (Mẫu 29)

Bà Huyện Thanh Quan, một nữ thi sĩ danh tiếng trong văn học trung đại của Việt Nam, đã tạo ra một tác phẩm xuất sắc mang tên 'Qua Đèo Ngang.' Đây là một ví dụ điển hình cho phong cách thơ của bà. Bài thơ này đã vẽ lên trước mắt độc giả một khung cảnh thiên nhiên tại Đèo Ngang vào buổi chiều tà. Trong bức tranh hình ảnh đó, vẻ thoáng đãng của Đèo Ngang được mô tả cùng với sự heo hút của nó. Khung cảnh này thể hiện sự sống của con người, mặc dù vẫn còn giữ nguyên sự hoang sơ. Tuy nhiên, không chỉ dừng lại ở việc mô tả thiên nhiên, tác giả còn truyền đạt thông điệp về tình yêu quê hương và niềm nhớ đối với quê nhà trong bài thơ này.

“Bước tới Đèo Ngang, bóng xế tà,
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa”

'Cụm từ 'bóng xế tà' đưa chúng ta đến thời điểm cuối cùng của một ngày. Nhà thơ đứng một mình tại nơi Đèo Ngang, trong bóng chiều tà. Sau đó, trong câu thơ 'Cỏ cây chen đá, lá chen hoa,' nhà thơ sử dụng một hình ảnh tượng trưng để mô tả vẻ đẹp thiên nhiên tại Đèo Ngang. Bằng cách sử dụng từ 'chen' để kết hợp với hình ảnh của 'đá, lá, hoa,' nhà thơ tạo ra một bức tranh ước lệ. Trong sự hoang sơ của nó, thiên nhiên tại Đèo Ngang tràn đầy sức sống. Khung cảnh này được nhà thơ khắc họa chỉ bằng vài nét mô tả, nhưng nó hiện ra một cách chân thực và sống động.'

Trong bức tranh thiên nhiên đó, hình ảnh con người là một phần không thể thiếu. Nhà thơ đã sử dụng nghệ thuật đảo ngữ để mô tả con người và môi trường xung quanh. Bằng cụm từ 'lom khom - tiều vài chú,' nhà thơ tạo ra hình ảnh một số chú tiều, với dáng đứng lom khom dưới chân núi. Đồng thời, qua 'lác đác - chợ mấy nhà,' tạo ra hình ảnh vài căn nhà nhỏ bé, thưa thớt, lác đác ven sông. Những tượng hình này nhấn mạnh sự nhỏ bé của con người trước bản vẻ mênh mông của thiên nhiên. Con người chỉ tồn tại như một điểm buồn lặng lẽ giữa vẻ đẹp hoang sơ và rộng lớn của thiên nhiên. Thiên nhiên là trung tâm chính trong bức tranh của Đèo Ngang.

Thiên nhiên càng cô quạnh, tâm trạng của tác giả lại càng cô đơn. Điều đó được bộc lộ rõ hơn ở những câu thơ tiếp theo:

“Nhớ nước, đau lòng, con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng, cái gia gia”

Hình ảnh của 'con quốc quốc' và 'cái gia gia' không chỉ đơn thuần là mô tả về hai loài chim, chim đỗ quyên và chim đa đa. Tác giả đã khéo léo sử dụng thủ pháp lấy động tả tĩnh bằng tiếng kêu 'quốc quốc,' 'đa đa' để thể hiện một cảm xúc sâu sắc, nỗi lòng nhớ thương đối với đất nước và quê hương. Đọc đến đây, chúng ta gần như có thể cảm nhận được tiếng kêu khắc khoải, da diết vang lên từ sâu thẳm trong lòng.

Câu thơ 'Dừng chân đứng lại, trời, non, nước' thể hiện hình ảnh nhà thơ đơn độc đứng tại Đèo Ngang, ánh mắt hướng về phía xa, nơi mà chỉ thấy vẻ đẹp rộng lớn của thiên nhiên trước mắt (bao gồm bầu trời, núi non, và dòng sông). Tâm trạng cô đơn của nhà thơ được thể hiện qua 'một mảnh tình riêng,' tình cảm riêng tư không thể chia sẻ với ai:

“Dừng chân đứng lại trời, non, nước
Một mảnh tình riêng, ta với ta'

Trong thơ Nguyễn Khuyến cũng đã từng sử dụng cụm từ “ta với ta”:

“Đầu trò tiếp khách trầu không có
Bác đến chơi đây ta với ta”

Trong bài thơ 'Bạn đến chơi nhà,' từ 'ta' đầu tiên chỉ đề cập đến nhà thơ, người chủ nhà, và từ 'ta' thứ hai chỉ người bạn, khách đến chơi. Sự xuất hiện của từ 'với' thể hiện mối quan hệ thân thiết và sự gắn bó, không có khoảng cách giữa hai người. Điều này thể hiện tình bạn mật thiết và sâu đậm của nhà thơ đối với người bạn.

Tuy nhiên, trong thơ của Bà Huyện Thanh Quan, cụm từ 'ta với ta' ở đây đều chỉ về nhà thơ chính bản thân, cho thấy tâm trạng của bà lúc này, cô đơn và lẻ loi. Sự cô đơn này dường như không thể chia sẻ với bất kỳ ai.

Như vậy, bài thơ 'Qua Đèo Ngang' đã thể hiện một cách rất sâu sắc tâm trạng của Bà Huyện Thanh Quan trước vẻ đẹp hoang sơ của Đèo Ngang. Bài thơ chứa đựng những tình cảm và ý nghĩa sâu xa.

Phân tích bài thơ Qua đèo ngang (Mẫu 30)

Có nơi đâu đẹp tuyệt vời

Như sông như núi, như người Việt Nam

Câu thơ thể hiện niềm kiêu hãnh, tự hào về non sông đất trời Việt Nam. Thiên nhiên trên quê hương ta có vẻ đẹp mộng mơ, chan hòa sức sống. Chính vì vậy, thiên nhiên luôn là đề tài bất tận của thi ca. Lúc thì lung linh, huyền diệu như trong mộng, lúc lại rực rỡ, kiêu sa tựa ánh mặt trời.

Nhưng đồng thời, cảnh vật cũng sẽ nhuốm màu ảm đạm, thê lương dưới ánh mắt của các nhà thơ mang một tâm sự u hoài khi sáng tác một bài thơ tức cảnh. Vì thế, đại thi hào Nguyễn Du đã từng nói: Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ. Câu thơ thật thích hợp khi ta liên tưởng đến bà Huyện Thanh Quan với bài thơ Qua đèo Ngang.

Bước tới đèo Ngang bóng xế tà.

Cỏ cây chen đá, lá chen hoa

Lom khom dưới núi, tiều vài chú

Lác đác bên sông, chợ mấy nhà

Nhớ nước đau lòng con quốc quốc

Thương nhà mỏi miệng cái gia gia

Dừng chân đứng lại, trời non, nước

Một mảnh tình riêng, ta với ta.

Phải hiểu rõ và yêu quý bài thơ mới thấy hết được tài năng cũng như tư tưởng luôn hướng về quê hương đất nước và gia đình của bà Huyện Thanh Quan. Ai dám bảo rằng người phụ nữ trong xã hội phong kiến không có được những tình cảm thiêng liêng đó? Chỉ mới đọc hai câu đầu của bài thơ thôi:

Bước tới đèo Ngang bóng xế tà

Cỏ cây chen đá, lá chen hoa

là ta đã nhận ngay ra một nỗi buồn xa vắng. Câu thơ xuất hiện cụm từ bóng xế tà và sự hiện diện của điệp từ chen cùng cách gieo vần lưng lá, đá đã tạo nên sự cô đơn, tĩnh mịch. Từ tà như diễn tả một khái niệm sắp tàn lụa, biến mất. Yếu tố thời gian làm cho câu thơ thêm phần buồn bã. Ca dao cũng đã có câu:

Vẳng nghe chim vịt kêu chiều

Bâng khuâng nhớ mẹ, chín chiều ruột đau

Thế mới biết, những tình cảm cao quý của mỗi người dường như gặp nhau ở một điểm. Đó chính là thời gian. Mà quãng thời gian thích hợp nhất để bộc lộ sự nhớ nhung khắc khoải chính là lúc chiều về. Ở bài thơ Qua đèo Ngang, tác giả bỗng dâng lên cảm xúc man mác khi bà bắt gặp ánh hoàng hôn bao phủ cảnh vật ở Hoành Sơn.

Cảnh vật đã buồn lại trống vắng hơn bởi điệp từ chen ở câu thứ hai. Nó làm cho người đọc thơ bỗng cảm nhận được sự hoang vắng của đèo Ngang lúc chiều tà, bóng xế mặc dù nơi đây rất đẹp: có cỏ cây, đá, lá, hoa. Vì ở đây vắng vẻ quá nên thi sĩ đã phóng tầm mắt để tìm kiếm một chút gì gọi là sự sống linh động. Và kìa, phía xa xa dưới chân đèo xuất hiện hình ảnh:

Lom khom dưới núi tiều vài chú

Lác đác bên sông, chợ mấy nhà

Câu thơ gợi cho tả hình dung trong ánh hoàng hôn lạnh lẽo, mấy người tiều phu đang đốn củi, mấy quán chợ xiêu xiêu trong gió. Đảo ngữ đưa hai từ láy lom khom, lác đác lên đầu câu đã được tác giả sử dụng như nhấn mạnh thêm sự u hoài ở đây. Nhà thơ đi tìm một sự sống nhưng sự sống đó lại làm cho cảnh vật héo hắt, buồn bã hơn, xa vắng hơn.

Sự đối lập vốn có của hai câu thực khiến cho cảnh trên sông, dưới núi thêm rời rạc, thưa thớt. Từ vài, mấy như càng nói rõ thêm sự vắng vẻ ở nơi này. Trong sự hiu quạnh đó, bỗng nhiên vẳng lên tiếng kêu đều đều, man mác của loài chim quốc quốc, chim gia gia trong bóng hoàng hôn đang buông xuống.

Từ ghép đau lòng, mỏi miệng khiến cho ta có cám giác tha thiết, ray rứt. Từ nhớ nước, thương nhà là nỗi niềm của con chim quốc, chim gia gia do tác giả cảm nhận được hay chính là nghệ thuật ẩn dụ để nói lên tâm sự từ trong sâu thẳm tâm hồn của nữ sĩ? Nghệ thuật chơi chữ quốc quốc gia gia phải chăng là Tổ quốc và gia đình của Bà Huyện Thanh Quan hồi đó?

Sự song song về ý, về lời của hai câu thơ trong phần luận của bài thơ này nhằm nhấn mạnh tình cảm của bà Huyện Thanh Quan đối với Tổ quốc, gia đình trước cảnh thật là khéo léo và tài tình. Từ thực tại của xã hội đương đời mà bà đang sống cho đến cảnh thực của đèo Ngang đã khiến cho tác giả sực nhớ đến mình và tâm sự:

Dừng chân đứng lại trời non nước

Một mảnh tình riêng ta với ta.

Câu kết của bài, ta cảm thấy nhà thơ có tâm sự u hoài về quá khứ. Dừng lại và quan sát bà chỉ thấy: trời, non, nước. Vũ trụ thật rộng lớn, xung quanh bà là cả một bầu trời với núi, với sông khiến cho con người cảm thấy mình bé nhỏ lại, đơn độc, trống vắng, ở đây, chỉ có một mình bà ta với ta, lại thêm mảnh tình riêng cho nước, cho nhà trong huyết quản đã làm cho cõi lòng nhà thơ như tê tái.

Vũ trụ bao la quá! Con người cô đơn quá! Tất cả lại được diễn tả dưới ngòi bút tài hoa của người nữ sĩ nên bài thơ là bức tranh đặc sắc. Từ ta với. ta như một minh chứng cho nghệ thuật điêu luyện trong sáng tác thơ ca của bà Huyện Thanh Quan. Bởi vì cũng ta với ta nhưng nhà thơ Nguyễn Khuyến lại nói: Bác đến chơi đây ta với ta.

Lại là sự kết hợp của hai người: tuy hai mà một, tuy một mà hai. Còn bà Huyện lại: Một mảnh tình riêng ta với ta. Đã tô đậm thêm sự lẻ loi, đơn chiếc của mình. Qua câu thơ, ta như cảm nhận sâu sắc hơn nỗi niềm tâm sự của tác giả trước cảnh tình quê hương...

Phân tích bài thơ rồi, em hiểu sâu sắc hơn, thấm thía hơn tình cảm của một nhà thơ nữ trong xã hội thời xưa, giúp em thêm yêu quý đất nước và con người Việt Nam. Em cảm thấy vững vàng trong tư tưởng và có những suy nghĩ tích cực hơn góp phần xây dựng quê hương đất nước Việt Nam thêm giàu đẹp, để giữ mãi được những dấu tích mà người xưa để lại như gửi gắm, nhắc nhở và trao gởi cho chúng em.

Từ xưa đến nay, có nhiều nhà thơ tả cảnh đèo Ngang nhưng không ai thành công bằng bà Huyện Thanh Quan vì trong tác phẩm của bà có cả tâm hồn, tình cảm, nỗi lòng và tài năng của một cây bút tuyệt vời. Cả bài thơ được gieo vần 'a' như chính tâm sự hoài cổ của tác giả. Chúng ta không tìm thấy dù chỉ một chút gọi là sự ồn ào trong cách miêu tả. Tất cả chỉ là sự trầm lắng, mênh mang như chính tâm sự của tác giả.

Lời thơ nghe xao xuyến, bồi hồi làm cho người đọc xúc động cũng chính là những cảm xúc sâu lắng của bà Huyện Thanh Quan khi đặt chân lên đèo Ngang trong khung cảnh miền núi khi hoàng hôn buông xuống. Cũng những cảm xúc ấy, ta sẽ gặp lại khi đọc bài Chiều hôm nhớ nhà của bà với câu:

Trời chiều bảng lảng bóng hoàng hôn

Tiếng ốc xa đưa, vẳng trống dồn.

Để tỏ lòng biết ơn đối với nhà thơ xưa đã cho ta những phút giây có được tình cảm tốt đẹp xuất phát từ đáy tâm hồn, từ sự rung cảm thật sự, người đời đã đặt một tên làng, một tên đường: Bà Huyện Thanh Quan để mãi mãi ghi nhớ tài năng cũng như tư tưởng tuyệt vời của người, nữ sĩ đối với non sông, đất nước một thời đã qua.

Phân tích bài thơ Qua đèo ngang (Mẫu 31)

Trong nền văn học hiện đại, nếu chúng ta nhìn thấy sự sắc sảo, mạnh mẽ, bứt phá trong thơ của Hồ Xuân Hương, thì chắc hẳn sẽ thấy được sự điềm tĩnh, nhẹ nhàng, trầm buồn của Bà Huyện Thanh Quan. Bài thơ “Qua đèo Ngang” là một điển hình cho phong cách ấy.

Bài thơ được viết khi tác giả đến Phú Xuân (Huế) nhậm chức và đi qua con đèo này. Cảm hứng chính của bài thơ là nỗi buồn man mác, nhớ nhà, nhớ quê hương và thương cho thân gái trên con đường xa xôi. Bài thơ được viết theo thể thất ngôn bát cú với cấu trúc đề, thực, luận kết.

Chỉ tám câu thơ nhưng đã diễn tả được tinh thần, bản sắc của cảnh vật cũng như của con người khi đứng trước cảnh trời núi hiu quạnh và tâm hồn man mác như thế này. Hai câu đầu tiên của bài thơ gợi lên trước mắt người đọc khung cảnh hoang sơ nơi Đèo Ngang:

“Bước tới đèo Ngang, bóng xế tà
Cỏ cây chen lá, lá chen hoa”

Không gian và thời gian ở Đèo Ngang được tác giả thể hiện qua từ 'bóng xế tà'. Có thể nói đây là thời điểm và cảm xúc trong lòng người dường như nặng nề, gợi buồn, gợi sầu hơn. Trong ca dao, dân ca, ta thường bắt gặp thời điểm chiều tà để diễn đạt nỗi buồn không thể chia sẻ cùng ai. Mặt trời lặn xuống núi, hoàng hôn sắp bao phủ lấy nơi này.

Cảm giác cô đơn, lạc lõng. Cảnh vật thiên nhiên ở đây dường như quạnh quẽ đến nao lòng. Chỉ có cỏ cây và hoa. Từ 'chen' dường như đã làm tăng thêm tính chất hiu quạnh của địa danh này. Hoa lá đang quấn quýt lấy nhau, bám chặt nhau để sống, sinh sôi.

“Nhóm nghiêng dưới chân núi, vài chú
Lác đác bên sông, mấy nhà thương bán”

Chỉ khi đến hai câu sau, hình ảnh con người mới nhẹ nhàng hiện lên, nhưng đó cũng chỉ là 'vài chú tiều'. Hóa ra chỉ là một vài chú tiều bé nhỏ đi hái củi dưới chân núi. Mặc dù có sự sống nhưng mong manh và hư vô quá. Với phép đảo trật tự cú pháp ở hai câu thơ này, Bà Huyện Thanh Quan đã một lần nữa nhấn mạnh sự hoang sơ, hiu quạnh của đèo Ngang.

Việc sử dụng hai từ láy 'nhóm nghiêng' và 'lác đác' vừa chỉ hoạt động vất vả với việc bán củi vừa chỉ ước tính số lượng cụ thể. Những hình ảnh ước lệ trong thơ Bà Huyện Thanh Quan đã lột tả hết thần thái cũng như cảm xúc của tác giả lúc đó. Những sự sống hiếm hoi, lẻ loi và mong manh đang chờn vờn ở ngay trước mắt nhưng xa lắm. Muốn tìm bạn để tâm sự cũng trở nên khó khăn. Sang đến hai câu thơ sau, cảm xúc và tâm sự của tác giả bỗng nhiên trỗi dậy

“Nỗi nhớ quê sâu sắc, lòng đau như cắt”
Thương nhà, miệng nói cạn lời, cái bóng gia đình”

Điệp âm 'nỗi nhớ quê sâu sắc' và 'cái bóng gia đình' đã tạo nên âm hưởng dìu dặt, du dương nhưng vô cùng nao nề thấm đến tâm can. Người lữ khách đường xa nghe văng vẳng tiếng cuốc và da da kêu mà lòng quạnh hiu, buồn tái tê. Thủ pháp lấy động tả tĩnh của tác giả thật đắc điệu, trên cái nền tĩnh lặng, quạnh quẽ bỗng nhiên có tiếng chim kêu thực sự càng thêm não nề và thê lương.

“Đứng lại dưới trời đất rộng lớn
Một cảm xúc riêng ta với ta”

Chỉ bốn chữ 'đứng lại dưới' đã khiến người đọc cảm thấy da diết, bồn chồn đến não nề. Cảnh trời nước mênh mông, vô tận nhưng con người thì bé nhỏ khiến cho tác giả thấy mình lạc lõng và không một nơi bấu víu. Đất trời rộng lớn, tác giả chỉ cảm thấy còn 'một cảm xúc riêng'. Và cái cảm xúc con con ấy cũng chỉ có 'ta với ta'. Nỗi buồn dường như trở nên cực độ, buồn thấu tận tâm can, buồn nghiêng ngả trời đất.

Bài thơ “Qua Đèo Ngang” với giọng điệu da diết, trầm bổng, du dương và những thủ pháp nghệ thuật độc đáo đã mang đến cho người đọc cảm xúc khó quên. Dư âm của bài thơ dường như còn vang vọng đâu đây.

Phân tích bài thơ Qua đèo ngang (Mẫu 32)

Qua Đèo Ngang là một tác phẩm tiêu biểu của Bà Huyện Thanh Quan. Bài thơ gửi gắm tấm lòng yêu nước sâu nặng của nhà thơ.

Mở đầu, tác giả gợi mở về thời gian, không gian cũng như điểm nhìn của bài thơ. Hai từ “bước tới” gợi lên sự ngạc nhiên khi đối mặt với con đèo. Đó là khoảnh khắc “bóng xế tà” khi chiều đã tàn và đêm đang buông xuống. Đứng trước đèo Ngang với rừng núi hoang sơ xa lạ, những xúc cảm trong lòng người trào dâng. Tiếng “tà” với âm điệu u buồn trong bài văn tạo nên giai điệu man mác, trở thành “nhịp” của tâm thơ:

“Gần đèo Ngang, bóng chiều dần tàn
Cỏ cây đan đá, lá thấm hoa”

Khung cảnh thiên nhiên hiện ra với sức sống mạnh mẽ. Từ “đan đá” kết hợp với vần lưng “cỏ - lá”, lại sử dụng vần chân “tàn - hoa” đã tạo nên giai điệu thơ mộng và sâu lắng. Cảnh đèo hiện lên thật hoang sơ và hàm ẩn.

Không chỉ có thiên nhiên, con người cũng xuất hiện trong bức tranh đó:

“Gánh gồng dưới núi, vài chú tiều
Bên sông chợ, nhà cửa lác đác”

Cách dùng từ “lom khom” và “lác đác” kết hợp với nghệ thuật đảo ngữ nhấn mạnh tính nhỏ bé, thưa thớt của con người.

Khung cảnh ngoại cảnh hòa hợp với tâm trạng của nữ sĩ trong buổi chiều tà nơi đèo. Nữ sĩ đã dùng biện pháp miêu tả tượng trưng và ước lệ của thi pháp cổ (ngư, tiều, canh, mục) kết hợp với cảm hứng thi cảm và sáng tạo.

“Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia”

Nghệ thuật đối và đảo ngữ được sử dụng ở phần thực tiếp tục được phát huy tác dụng một cách triệt để ở phần luận. Đó là tiếng chim cuốc, chim đa trong bóng chiều tà. Đó là “nhớ nước đau lòng” và “thương nhà mỏi miệng” đã được đặt trong thế đối và hòa hợp. Ý thơ đã thể hiện người nữ sĩ lấy ngoại cảnh để phô diễn tâm tình. Đây cũng là một nét đặc sắc và nổi bật trong phong cách sáng tác của bà huyện Thanh Quan. Thơ tả cảnh ngụ tình nên nhạc, nên họa đã diễn tả cảnh đèo Ngang lúc hoàng hôn với nỗi niềm thi sĩ làm ta cảm thương, vương vấn.

“Dừng chân đứng lại: trời, non, nước
Mảnh tình riêng ta với ta”

Hai câu cuối bài thơ như tụ lại toàn bộ nỗi nhớ thương sâu sắc và dồn dập của người nữ sĩ trong ánh chiều tà. Đứng một mình trước đèo cao, gió thổi mạnh trong buổi hoàng hôn, nữ sĩ cảm thấy mình như sống trong tâm trạng cô đơn, lẻ loi, giữa khung cảnh hoang vắng bao la của “trời, non, nước”.

Hai từ “đứng lại” biểu thị một tư thế, một tâm trạng xúc động và bồi hồi. “Ta với ta” là ba từ có ý nghĩa sâu sắc, kết hợp với đối với “trời, non, nước” đã thể hiện sự rộng lớn bao la so với sự lẻ loi, cô đơn và nhỏ bé của con người. Nó gợi lên một sự trống trải không thể tả được.

'Qua Đèo Ngang' là một kiệt tác thơ Nôm viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật. Bài thơ đã thể hiện phong cách sáng tạo của Bà Huyện Thanh Quan.

Thanh Quân...

Phân tích bài thơ Qua đèo ngang (Mẫu 33)

Đèo Ngang là một thắng cảnh đẹp của đất nước ta. Đứng ở trên đỉnh đèo, nhìn về bốn hướng hướng nào cũng để lại những ấn tượng sâu đậm trong lòng người đến nơi đây. Nhìn về phía đông là biển xanh thẳm, với từng đợt sóng vỗ vào sườn núi, phía tây là núi non trùng trùng điệp điệp, trông về phía bắc nam thì một khoảng trời màu đỏ thẫm của sỏi đá. Chính vì đẹp đến nao lòng người như vậy mà Đèo Ngang đã gợi biết bao cảm xúc, là nguồn cảm hứng cho các nhà văn, nhà thơ. Trong số đó, ta phải kể đến bài thơ Qua đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan. Đây là bài thơ bộc lộ tâm trạng, nỗi niềm của bà khi trên đường vào Huế để nhận chức. Qua đèo Ngang lấy cảm hứng chủ đạo là nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương da diết.

Bà Huyện Thanh Quan được biết đến là một trong số nữ sĩ tài danh hiếm có sống ở thế kỉ XIX. Tuy những sáng tác của bà còn để lại cho đời không nhiều (hiện nay chỉ còn để lại sáu bài thơ Đường luật) nhưng đó đều là những tác phẩm có giá trị. Những bài thơ Nôm của bà phần nhiều là tả cảnh, tỏ tình, nhưng bài nào cũng hay và tỏ ra bà là một người có tính tình đoan chính, thanh tao, một người có học thức thường nghĩ ngợi đến nhà, đến nước. Lời văn rất trang nhã, điêu luyện (Dương Quảng Hàm). Qua Đèo Ngang là bài thơ được viết theo thể thơ Thất ngôn bát cú Đường luật. Cảm hứng khơi nguồn sáng tác của bà chính là khung cảnh quê hương, đất nước, qua đó, bộc lộ tâm trạng con người. Bài thơ với hai câu đềkhắc họa chung về cảnh vật Đèo Ngang, hai câu thực miêu tả rõ nét cuộc sống con người nơi Đèo Ngang, hai câu luận khắc họa tâm trạng nhớ nước, thương nhà của tác giả và hai câu cuối thể hiện nỗi cô đơn đến tột cùng của bà.

Hầu hết trong các sáng tác của Bà Huyện Thanh Quan đều mở đầu bằng hình ảnh hoàng hôn. Và bài thơ này cũng không nằm ngoài mô tip đó:

Bước tới đèo Ngang bóng xế tà

Cỏ cây chen đá, lá xen hoa

Hai câu thơ đầu hiện lên với khung cảnh thiên nhiên nơi Đèo Ngang trầm buồn như bức tranh thuỷ mặc. Đèo Ngang hiện ra mang đầy vẻ hoang sơ và buồn bã. Không gian và thời gian được xác định rất rõ qua cụm từ “bóng xế tà” mà nữ sĩ sử dụng. Có thể thấy rằng đây chính là khoảng thời gian gợi tâm trạng trong lòng người. Ở ca dao, dân ca ta cũng bắt gặp những vần thơ viết về buổi chiều tà để diễn tả nỗi buồn không biết bày tỏ cùng ai. Mặt trời sắp xuống núi để đi ngủ, ánh hoàng hôn đã bao phủ kín nơi này. Cảm giác của nhà thơ lúc này thật cô đơn và lạc lõng biết bao nhiêu. Cảnh vật gợi buồn đến nao lòng. Ở đây chỉ cỏ cây và hoa. Từ “chen” được điệp lại hai lầm làm tăng thêm sự hiu quạnh ở nơi đây. Cỏ cây chen chúc nhau vươn ra chỗ có ánh nắng mặt trời để kiếm tìm sự sống. Hình ảnh ở trong hai câu thơ vừa mang tính ước lệ, vừa được chọn lọc rất kĩ càng gây ấn tượng mạnh cho người đọc.

Sau cảm nhận đầu tiên về khung cảnh nơi đây, tác giả phóng tầm mắt của mình ra xa hơn để tìm đến với con người. Theo lẽ đúng mà nói, cảnh thiên nhiên có thêm dấu chân của con người phải đẹp đẽ, sinh động hơn thế nhưng ở đây sự xuất hiện lác đác của con người chỉ khiến cho cảnh vật càng trở nên hiu hắt hơn bao giờ hết:

“Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà'

Câu thơ gợi ra cho ta cảnh trong bóng chiều lạnh lẽo có mấy chú tiều phu đang đi đốn củi, mấy quán chợ thưa thớt. Đảo ngữ đã đưa hai từ láy lom khom và lác đác lên đầu câu thơ đã được tác giả vận dụng một cách tài tình, hình ảnh này đã gợi lên một cuộc sống tẻ nhạt, buồn chán. Nơi đây khác hẳn với chốn kinh kì sôi động, náo nhiệt và nhiều bon chen. Nhà thơ đang muốn kiếm tìm sự sống nhưng dường như điều đó lại càng khiến cho cảnh vật chốn này thêm xa vắng, buồn bã hơn bội phần. Sự đối lập trong hai câu thơ thực này khiến cho cảnh dưới núi, trên sông thật thưa thớt. Từ “vài”, “mấy” đã càng làm tăng sự vắng vẻ ở chốn đèo Ngang này.

Trong không gian vắng lặng ấy từ phía xa xa bỗng vẳng lên tiếng chim quốc quốc, chim gia gia kêu đều đều:

Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia

Hai câu thơ này, Bà Huyện Thanh Quan đã sử dụng thính giác của mình để cảm nhận: tiếng chim quốc quốc, chim gia gia từ phía xa vọng lại, rơi vào khoảng không vắng vẻ, yên tĩnh của buổi chiều ở trên đèo cao. Từ khung cảnh thiên nhiên đó và hoàn cảnh của nhà thơ lúc này đã khiến cho bà liên tưởng đến nỗi nhớ nước và thương nhà của mình. Bà từng có khoảng thời gian được triệu về Huế để giữ chức cung trung giáo tập và bài thơ có lẽ được bà viết trong khoảng thời gian đó nên nỗi nhớ nhà được thể hiện rất rõ. Một người phụ nữ phải đi xa quê hương của mình đến một nơi khác để sinh sống thì trong lòng cũng chất chứa biết bao nhiêu nỗi buồn. Tiếng chim gia gia gợi biết bao nỗi niềm thiết tha như vậy, thế còn tiếng chim quốc quốc khắc khoải thì mang ý nghĩa gì? Nhà thơ thương cho cảnh nước nhà đang chìm trong cảnh loạn lạc, gia đình thì li tán không được sum vầy. Nỗi đau lòng khi nhớ nước có lẽ chính vì lí do như vậy. Điệp âm 'con cuốc cuốc' và 'cái gia gia' tạo nên một âm hưởng nghe thật du dương nhưng cũng đau đến xé lòng. Thủ pháp lấy động tả tĩnh của nhà thơ sử dụng thật điêu luyện, trên cái nền thật yên tĩnh, quạnh hiu đột nhiên có tiếng chim kêu thực sự càng thêm não nề.

Hai câu thơ ở phần luận của Qua đèo Ngang đã nhấn mạnh tình cảm của bà Huyện Thanh Quan dành cho Tổ quốc, cho gia đình. Từ hiện thực xã hội đương đời và cảnh vật nơi đèo Ngang khiến cho tác giả sực nhớ đến mình và thốt lên

Dừng chân dứng lại trời non nước
Một mảnh tình riêng ta với ta.

Dừng chân đứng lại để quan sát cảnh vật ở xung quanh nhưng hiện ra trước mặt bà chỉ là: trời, non, nước. Vũ trụ bao la, xung quanh bà là thiên nhiên rộng lớn với núi, sông khiến cho con người thật nhỏ bé, đơn độc. Nơi đây chỉ có một mình nhà thơ và cộng hưởng thêm tình cảm thiêng liêng dành cho nước, cho nhà khiến lòng bà càng thêm trống trải. Vũ trụ rộng lớn quá! Con người cô đơn biết nhường nào! Cụm từ “ta với ta” đã càng cho thấy rõ hơn tài năng điêu luyện của nhà thơ. Cũng là cụm từ này nhưng nhà thơ Nguyễn Khuyến lại viết:

Bác đến chơi đây ta với ta

Câu thơ của Nguyễn Khuyến là sự kết hợp của hai người: hai mà một, tuy một mà hai. Còn Bà Huyện lại nói:

Một mảnh tình riêng ta với ta.

Câu thơ đã nhấn mạnh vào sự lẻ loi, đơn côi của mình nơi thiên nhiên rộng lớn. Qua đây, ta đã cảm nhận rõ nét hơn về nỗi niềm tâm sự của nhà thơ trước cảnh quê hương, đất nước.

Không chỉ có giá trị nội dung sâu sắc mà bài thơ còn được người đọc yêu thích, đón nhận bởi đây là một minh chứng mẫu mực về nghệ thuật cổ điển Đường thi. Tác giả đã sử dụng thể thơ thất ngôn bát cú, các câu tuân thủ đúng về niêm, luật, vần, đối. Ngôn ngữ được trau chuốt kĩ càng, mượt mà mặc dù đã được Việt hóa. Đảo ngữ, chơi chữ được sử dụng linh hoạt mang đến giá trị đặc sắc cho bài thơ. Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình xuất sắc, chỉ nói về cảnh vật mà nỗi niềm, tâm trạng của tác giả được thể hiện rất rõ nét. Toàn bộ bài thơ được gieo vần 'a' như chính tâm sự hoài cổ của nữ sĩ. Bạn đọc không tìm thấy dù chỉ một chút gọi là sự ồn ào trong cách miêu tả của nhà thơ mà tất cả đều là sự trầm lặng như chính nỗi niềm của Bà Huyện.

Từ trước cho đến nay, có rất nhiều nhà thơ đã viết về đèo Ngang nhưng có lẽ không có ai thành công như bà Huyện Thanh Quan vì bài thơ có giá trị đặc sắc, không chỉ khắc họa thành công ảnh vật mà trong đó còn chưa đựng cả tâm hồn, tình cảm, nỗi lòng nhớ nước, thương nhà và tài năng của một cây bút tuyệt vời. Gấp trang sách lại mà trong lòng mỗi chúng ta vẫn còn bâng khuâng bao nỗi niềm cũng nữ sĩ. Bài thơ sẽ còn sống mãi với thời gian với những gì tươi đẹp nhất.

Phân tích bài thơ Qua đèo ngang (Mẫu 34)

Bà Huyện Thanh Quan là một trong những nữ thi sĩ nổi bật trong văn học Việt Nam trung đại. Tác phẩm đáng chú ý của bà là bài thơ “Qua Đèo Ngang”.

Đầu bài thơ, tác giả đã miêu tả thiên nhiên ở đèo Ngang rất sống động:

“Bước đến Đèo Ngang, bóng xế tà,
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa”

Khi Bà Huyện Thanh Quan đến đèo Ngang, đã là thời điểm “bóng xế tà” - lúc mặt trời sắp lặn. Đó là lúc con người trở về nhà sau một ngày dài. Trước mắt tác giả là cảnh thiên nhiên ở đèo Ngang đang tràn đầy sức sống. Sự kết hợp của “chen” với hình ảnh “đá, lá, hoa” cho thấy sự sống đang nảy nở. Khung cảnh đèo Ngang được miêu tả bằng vài nét nhưng rất sinh động và chân thực.

Và trong bối cảnh thiên nhiên đó, con người cũng xuất hiện. Nhà thơ đã dùng đảo ngữ trong hai câu thơ tiếp theo: “lom khom - tiều vài chú”, “lác đác - chợ mấy nhà” để diễn tả hình ảnh vài chú tiều dưới chân núi, vài căn nhà nhỏ bé bên sông. Cách sử dụng này nhấn mạnh sự nhỏ bé của con người giữa cảnh thiên nhiên bao la. Từ đó, sự cô đơn của tác giả càng được thể hiện rõ hơn.

“Nhớ nước, đau lòng, con quốc quốc,
Thương nhà mỏi miệng, cái gia gia.”

Hình ảnh “con quốc quốc” và “cái gia gia” không chỉ là mô tả hai loài chim (chim đỗ quyên, chim đa đa). Tiếng kêu “quốc quốc”, “đa đa” nghe rất da diết, thể hiện nỗi nhớ thương sâu sắc về đất nước, quê hương của nhà thơ.

Trước câu thơ “Dừng chân đứng lại, trời, non, nước” miêu tả hình ảnh nhà thơ đứng một mình tại Đèo Ngang, nhìn xa xăm chỉ thấy thiên nhiên bao la phía trước (bao gồm bầu trời, núi non, dòng sông). Sự cô đơn của nhà thơ: “một mảnh tình riêng” - tình cảm riêng tư không có ai để chia sẻ:

“Dừng chân đứng lại trời, non, nước
Một mảnh tình riêng, ta với ta”

Thiên nhiên rộng lớn, còn tác giả chỉ có “một mảnh tình riêng”. Và mảnh tình con con ấy cũng chỉ có “ta với ta”. Trong “Bạn đến chơi nhà”, Nguyễn Khuyến dùng cụm từ “ta với ta” để diễn tả tình bạn tri kỉ, thắm thiết. Trong bài Qua đèo Ngang, cụm từ “ta với ta” bộc lộ nỗi cô đơn của tác giả.

Bài thơ Qua Đèo Ngang gửi gắm nỗi lòng yêu quê hương, đất nước của Bà Huyện Thanh Quan.

Phân tích bài thơ Qua đèo ngang (Mẫu 35)

Ai từng đi qua con đường xuyên Việt, hẳn đều biết về đèo Ngang. Đây là một đèo dài và cao, nằm dọc theo sườn núi dốc, khó khăn của khúc cuối dãy Hoành Sơn, trước khi đổ ra biển. Hình ảnh đèo Ngang đã được đưa vào bài thơ “Qua Đèo Ngang” của Bà Huyện Thanh Quan, mang nhiều ý nghĩa sâu sắc.

Đèo Ngang là đường biên giới tự nhiên giữa Hà Tĩnh và Quảng Bình. Ngày xưa, nhiều người đi vào kinh đô Huế để thi cử hoặc phục vụ triều đình đã đi qua đèo này và bị cuốn hút bởi vẻ đẹp của nó để sáng tác thơ ca. Bà Huyện Thanh Quan, khi từ Thăng Long đến Huế nhậm chức Cung trung giáo tập (dạy dỗ các cung nữ trong cung), đã viết bài thơ 'Qua đèo Ngang'.

Đằng sau bức tranh thiên nhiên là tâm trạng của nữ danh họa: cô đơn, nhớ nhà và hoài niệm về một thời đại đã qua. Có thể xem đây là một trong những bài thơ hay nhất về cảnh đẹp này. Câu phá đề đơn giản chỉ là giới thiệu về thời điểm tác giả đến đèo Ngang:

Bước tới đèo Ngang lúc bóng tà đang xuống. Lúc này mặt trời đã lặn, phía tây chỉ còn ánh sáng yếu lên nền trời đang tối dần. Thời điểm này rất dễ gợi cảm giác buồn trong lòng người, đặc biệt là những người xa quê hương. Tuy nhiên, trời vẫn đủ sáng để nhà thơ nhận ra thiên nhiên ở đây đẹp như một bức tranh thủy mặc: “Cỏ cây chen đá, lá chen hoa”.

Có cái gì đó như linh hồn của vật thể hiện sau từng chữ. Câu văn mô tả sự sống mãnh liệt của một vùng rừng núi hoang vu. Cảnh đẹp nhưng buồn bã, quạnh hiu, thiếu hơi ấm con người. Những bông hoa rừng khắp nơi không đủ để làm sáng, làm vui bức tranh núi non khi ban đêm xuống.

Trong cảnh thiên nhiên bao la đó vẫn có bóng dáng con người và sự hiện hữu của cuộc sống, nhưng chỉ là ít ỏi, mờ nhạt, xa vời:

“Dưới chân núi, mấy chú tiều lom khom,
Ven sông, mấy nhà chợ lác đác.”

Ánh mắt sắc bén của nhà thơ lập tức nhận ra đặc điểm đặc trưng của con người và cảnh vật, vì vậy bà đã dùng nghệ thuật đảo ngữ để nhấn mạnh điều đó. Dáng vẻ lom khom của mấy chú tiều thu gom củi bên non sườn làm cho con người trở nên vốn đã nhỏ bé lại càng nhỏ bé hơn trước bao la thiên nhiên.

Cái chợ là nơi phản ánh sự sôi động của một cộng đồng làng xã, thường nên tấp nập, nhưng ở đây nó chỉ là mấy gian lều vô dụng ven sông… Bao phủ lên cảnh vật là một nỗi buồn đau đáu và nỗi buồn ấy thấm sâu vào lòng người:

“Nhớ quê buồn lòng con chim ỏi ỏi,
Thương nhà mỏi miệng người già già.”

Giữa không gian tĩnh lặng gần như hoàn toàn, bỗng dưng vang lên tiếng chim quê lặng lẽ, tiếng chim đa đa nao nức. Đó là những âm thanh thật sự cũng có thể là âm thanh vọng từ tâm trạng chứa đựng nỗi buồn thời đại của nhà thơ. Sử dụng bút pháp ước lệ và nghệ thuật chơi chữ (từ đồng âm khác nghĩa) để diễn đạt tâm trạng, đó là tài năng của nữ danh họa.

Tiếng chim hót không làm cảnh vật thêm vui tươi mà lại làm tăng sự quạnh quẽ, cô đơn. Có lẽ tiếng chim chính là tiếng lòng của người mang trong mình nỗi u buồn, hy vọng, nhớ nhà thương cảnh?!

Hồn cảnh, hồn người có điểm tương đồng, dù hình thức khác nhau hoàn toàn. Vẻ bao la, vô tận của non nước đẩy mạnh sự cô đơn, lẻ loi của con người và ngược lại. Do đó, nỗi buồn càng lắng đọng:

“Dừng bước ngắm trời, non, nước,
Một mảnh tình riêng, ta với ta.”

Thực sự là một nỗi buồn sâu sắc, khó tả, khó chia sẻ, giải thích. Nó như một khối hình, một mảnh tình riêng biệt khiến nhà thơ phải than thở chua xót: ta với ta. Chỉ mình ta hiểu được lòng ta! Vì vậy, sự cô đơn càng trở nên nặng nề hơn gấp bội.

Bài thơ “Qua Đèo Ngang” ra đời đã hơn một thế kỉ trước nhưng vẫn giữ được giá trị không bị ảnh hưởng bởi thử thách của thời gian. Nhiều người yêu thơ thuộc lòng bài thơ này và ca ngợi tài năng của tác giả. Thể thơ Đường trở nên gần gũi, dễ hiểu với người đọc nhờ ngôn ngữ giản dị, trong sáng và những hình ảnh dân dã quen thuộc của nữ danh họa.

Phân tích bài thơ Qua đèo ngang (Mẫu 36)

Bài thơ “Qua Đèo Ngang” của Bà Huyện Thanh Quan được sáng tác khi bà vượt qua con đèo này để vào kinh thành Huế nhận chức làm quan. Bài thơ thể hiện nỗi nhớ quê hương và gia đình của người con gái xa quê, nỗi thương thân của phụ nữ trong đất khách quê người. Phong cách thơ nhẹ nhàng điềm tĩnh của tác giả được thể hiện rõ qua bài thơ này.

“Trèo đèo hai chân vân
Lòng về Hà Tĩnh, dạ ân Quảng Bình”

Nằm giữa hai đầu nỗi nhớ, chứa đựng toàn bộ tình cảm của nữ danh họa về cảnh thiên nhiên hoang sơ đậm chất tình. Bà Huyện Thanh Quan sử dụng phong cách viết tự nhiên, sâu lắng, hoài cảm để chạm đến lòng người. Trên con đường vào Phú Xuân, nữ danh họa đã chứng kiến phong cảnh đèo Ngang, từ đó khơi gợi nỗi buồn của người con gái đi xa với bao nỗi nhớ thương:

“Bước qua đèo Ngang, bóng xế tà
Cỏ cây chen lá, đá chen hoa”

Bức tranh được vẽ vào buổi chiều tà, trong thời gian vắng vẻ và hoang vu trong ngày. Nếu thay đổi bằng “nắng tà”, khung cảnh sẽ trở nên sinh động hơn. Một buổi chiều có ánh nắng vàng, hoa lá và đá, vậy tại sao nữ sĩ không chọn ánh nắng? Thời điểm chiều tà làm lòng người trỗi dậy nỗi hoài cổ, xúc động làm tâm trạng con người trở thành tiếng nói.

Bức tranh thiên nhiên hoang sơ rất buồn, liệu tâm hồn của nữ sĩ có đủ mạnh mẽ để vượt qua? Từ “chen” nhấn mạnh sự đơn độc, cô đơn. Sự sống sắp lụi tàn, hoa lá cỏ cây cuộn tròn, nồng nàn bám chặt lấy sự sinh tồn trên mảnh đất cằn cỗi.

“Dưới núi tiều vài chú lom khom
Bên sông chợ mấy nhà lác đác”

Bức tranh lúc này có sự hiện diện của con người nhưng không làm mờ đi sự trống vắng trong tâm hồn người thứ ba? “Tiều vài chú” chỉ vài chú tiều đang hái củi dưới chân núi. Điều này tăng cường sự mong manh của sự sống. Nó mong manh, mơ hồ như sắp tan biến. Tác giả sử dụng nghệ thuật đảo ngữ để tạo ra cảnh hắt hiu, hoang vu của con đường này.

Từ “lom khom” chỉ hoạt động gánh nặng khó khăn và “lác đác” nói lên số lượng được ước tính cụ thể. Những hình ảnh ấy đã thể hiện hết cảm xúc, mong muốn được chạm đến sự sống và khát khao được gặp gỡ con người. Nhưng đó chỉ là ảo ảnh! Nơi này, nữ sĩ biết tìm đâu người bạn đường để trò chuyện chia sẻ nỗi niềm.

“Nhớ quê đau lòng, quê hương quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng, tủi nhục cả năm tháng”

Hai câu sau đánh thức nỗi khát khao sâu kín của người thứ lữ. “Quê hương quốc quốc”, “tủi nhục cả năm tháng” âm vang nhẹ nhàng, lan tỏa đến lòng người. Người xa xứ cô đơn nghe tiếng chim quê hương vang vọng, lòng thê lương, trĩu nặng.

Tại đây, tác giả sử dụng kỹ thuật âm hình để diễn tả sự tĩnh lặng tinh tế, những âm thanh xa xôi ở nơi xa xăm làm nền cho tác giả trao đi trọn vẹn nỗi nhớ về quê hương và gia đình trên chặng đường của mình. Tình cảnh đất nước đang bị đe dọa, lòng thương xót với số phận con gái xa nhà, đơn độc đi trên đường. Nỗi lòng thương xót đó như mênh mông không dứt.

“Dừng bước ngắm trời non nước
Một mảnh tình riêng, ta với mình.”

Hai câu kết đưa xúc cảm của nữ sĩ lên đến đỉnh điểm cao trào. “Dừng bước” làm mạch cảm hứng của người đọc gián đoạn. Nhờ đó, mới thể hiện hết tâm trạng của nữ sĩ giữa những núi rừng hoang sơ. Cảnh vật mênh mông, vô tận của núi rừng ôm trọn người thứ lữ.

Thật vậy, giữa cả thế giới bao la, vô tận ấy, đôi chân nhỏ bé của con người không thể bước nổi. Sự cô đơn ấy làm người con gái yếu đuối. Cô lại một lần nữa khao khát được hòa mình vào thiên nhiên núi rừng, được che lấp sự yếu đuối, cô đơn của mình. Dù núi rừng bao la, rộng lớn đến đâu, sự cô đơn, trống vắng của nữ sĩ lại càng tăng lên bấy nhiêu.

Từ đó, chúng ta đủ cảm nhận “mảnh tình riêng” đơn độc đến tiếc nuối. Thể thơ thất ngôn bát cú với cấu trúc đề thực luận kết, cách hiệp vần và phép đối trong bài thơ tóm gọn bao cảm xúc trong lòng người đọc. Những tâm tư ấy đẹp biết bao qua lăng kính của tâm hồn người nữ sĩ một lòng một dạ yêu nước, thương dân.

Bài thơ “Qua đèo Ngang” mang đến một phong cách mới mẻ về bức tranh thiên nhiên hùng vĩ, đậm chất trữ tình của nữ sĩ. Những vần thơ ấy sẽ mãi in đậm trong tâm trí người đọc, của một người yêu thiên nhiên, yêu đất nước đến thế.

Phân tích bài thơ Qua đèo ngang (Mẫu 37)

Trong nền văn học hiện đại nếu như chúng ta bắt gặp sự sắc sảo, mạnh mẽ, bứt phá trong thơ của Hồ Xuân Hương thì chắc hẳn rằng sẽ thấy được sự điềm tĩnh, nhẹ nhàng, trầm buồn của Bà Huyện Thanh Quan. Bài thơ 'Qua đèo Ngang' tiêu biểu cho phong cách ấy.

Bài thơ 'Qua đèo Ngang' được sáng tác khi tác giả vào Phú Xuân (Huế) nhận chức và đi qua đèo này. Cảm hứng chủ đạo của bài thơ là nỗi buồn man mác, nhớ nhà, nhớ quê hương và thương cho thân gái nơi đường xa. Bài thơ được sáng tác theo thể thất ngôn bát cú với cấu trúc đề, thực, luận kết.

Chỉ 8 câu thơ nhưng nó đã diễn tả được hết cái thần thái, cái hồn của cảnh vật cũng như của con người khi đứng trước cảnh trời núi hiu quạnh và lòng người man mác như thế này. Hai câu đề gợi lên trước mắt người đọc khung cảnh hoang sơ nơi đèo Ngang:

Bước tới đèo Ngang bóng xế tà

Cỏ cây chen lá, lá chen hoa

Không gian và thời gian ở đèo Ngang được tác giả thể hiện qua từ 'bóng xế tà'. Có thể nói đây là thời gian là cảm xúc trong lòng người dường như nặng nề, gợi buồn, gợi sầu hơn. Trong ca dao, dân ca, chúng ta vẫn bắt gặp thời điểm chiều tả để đặc tả nỗi buồn không biết bày tỏ cùng ai. Mặt trời xuống núi, hoàng hôn sắp bao phủ lấy nơi này.

Cảm giác cô đơn, lạc lõng. Cảnh vật thiên nhiên nơi đây dường như quạnh quẽ đến nao lòng. Chỉ có cỏ cây và hoa. Điệp từ 'chen' dường như đã làm tăng thêm tính chất hiu quạnh của địa danh này. Hoa lá đang quấn quýt lấy nhau, bám chặt nhau để sống, sinh sôi.

Lom khom dưới núi tiều vài chú

Lác đác bên sông chợ mấy nhà

Đến hai câu thực thì mới thấp thoáng hình ảnh con người, nhưng cũng chỉ là 'tiều vài chú'. Hóa ra chỉ là một vài chú tiều bé nhỏ đi nhặt củi ở dưới chân núi. Mặc dù có sự sống nhưng mong manh và hư vô quá. Với phép đảo trật tự cú pháp ở hai câu thơ này, Bà Huyện Thanh Quan đã một lần nữa nhấn mạnh sự hoang sơ, hiu quạnh của đèo Ngang.

Việc sử dụng hai từ láy 'lom khom' và 'lác đác' vừa chỉ hoạt động gánh củi vất vả vừa chỉ ước tính số lượng cụ thể. Những hình ảnh ước lệ trong thơ Bà Huyện Thanh Quan đã lột tả hết thần thái cũng như cảm xúc của tác giả lúc đó. Những sự sống hiếm hoi, lẻ loi và mong manh đang chờn vờn ở ngay trước mắt nhưng xa lắm. Muốn tìm bạn để tâm sự cũng trở nên khó khăn. Sang đến hai câu thơ luận thì cảm xúc và tâm sự của tác giả bỗng nhiên trỗi dậy

Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc

Thương nhà mỏi miệng cái gia gia

Điệp âm 'con cuốc cuốc' và 'cái da da' đã tạo nên âm hưởng dìu dặt, du dương nhưng vô cùng não nề thấm đến tâm can. Người lữ khách đường xa nghe văng vẳng tiếng cuốc và gia gia kêu mà lòng quạnh hiu, buồn tái tê. Thủ pháp lấy động tả tĩnh của tác giả thật đắc điệu, trên cái nền tĩnh lặng, quạnh quẽ bông nhiên có tiếng chim kêu thực sự càng thêm não nề và thê lương.

Nghe tiếng cuốc, tiếng da da mà tác giả 'nhớ nước' và 'thương nhà'. Thương cảnh nước nhà đang chìm trong cảnh loạn lạc, gia đình li tan; thương cho thân gái phải xa nhà quạnh hiu, đơn độc. Nỗi lòng của bà huyện thanh quan như sâu thẳm tầng mây, trùng trùng điệp điệp không dứt. Hai câu thơ kết thì cảm xúc và nỗi niềm của tác giả được đẩy lên đỉnh điểm:

Dừng chân nghỉ lại trời non nước

Một mảnh tình riêng ta với ta

Chỉ bốn chữ 'dừng chân nghỉ lại' cũng đã khiến người đọc cảm thấy da diết, bồn chồn đến não nề. Cảnh trời nước mênh mông, vô tận nhưng con người thì bé nhỏ khiến cho tác giả thấy mình lạc lõng và không một nơi bấu víu. Đất trời rộng lớn, tác giả chỉ cảm thấy còn 'một mảnh tình riêng'. Và cái mảnh tình con con ấy cũng chỉ có 'ta với ta'. Nỗi buồn dường như trở nên cực độ, buồn thấu tận tâm can, buồn nghiêng ngả trời đất.

Bài thơ 'Qua đèo Ngang' với giọng điệu da diết, trầm bổng, du dương và những thủ pháp nghệ thuật độc đáo đã mang đến cho người đọc cảm xúc khó quên. Dư âm của bài thơ dường như còn vang vọng đâu đây.

1 88 lượt xem