Top 40 mẫu Phân tích Tức cảnh Pác Bó

Sinx.edu.vn xin giới thiệu tới các em 40 mẫu Phân tích Tức cảnh Pác Bó giúp các em làm bài văn có nhiều cách phân tích Tức cảnh Pác Bó đa dạng hơn được điểm tốt trong môn Ngữ văn.

1 79 lượt xem


Nội dung bài viết

Phân tích Tức cảnh Pác Bó

I) Sơ đồ tư duy phân tích Tức cảnh Pác Bó

Sơ đồ tư duy phân tích Tức cảnh Pác Bó (Mẫu 1)

Bài thơ Tức cảnh Pác Bó của Hồ Chí Minh

Sơ đồ tư duy phân tích Tức cảnh Pác Bó (Mẫu 2)

Phân tích bài thơ Tức cảnh Pác Bó của Hồ Chí Minh

II) Dàn ý phân tích Tức cảnh Pác Bó

Dàn ý phân tích Tức cảnh Pác Bó (Mẫu 1)

1. Mở bài:

- Giới thiệu tổng quan về tác giả, tác phẩm: “Tức cảnh Pác Pó”, một bài thơ nổi tiếng trong thời gian hoạt động cách mạng của chủ tịch Hồ Chí Minh.

- Khái quát về nội dung tác phẩm: Bài thơ miêu tả cuộc sống hàng ngày của Bác ở núi rừng Pác Pó cùng tinh thần lạc quan, phong thái ung dung và sự tự tại của người chiến sĩ cách mạng.

Trích dẫn:

“Sáng ra bờ suối, tối vào hang,

Cháo bẹ, rau măng vẫn sẵn sàng.

Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng,

Cuộc đời cách mạng thật là sang”.

2. Thân bài

Luận điểm 1: Cuộc sống sinh hoạt và làm việc của Bác ở núi rừng Pác Pó

- Phép đối lập: sáng >< tối, ra >< vào thể hiện cuộc sống đều đặn và nhịp nhàng của Bác khi ở Pác Pó. “Suối” và “hang” là 2 địa điểm làm việc, sinh hoạt chính của Bác, mà đây đều là những nơi hoang dã ẩn chứa rất nhiều nguy hiểm và khó khăn.

- Bác dùng thức ăn giản dị như cháo bẹ và rau măng, những món ăn phổ biến trong rừng và luôn có sẵn. Không chỉ là về tính sẵn có tự nhiên của thức ăn, mà còn là về tâm thế sẵn sàng đương đầu với những thách thức và khó khăn, điều mà người chiến sĩ cách mạng luôn mang theo.

- Bàn làm việc của Bác là những tảng đá chông chênh, điều kiện làm việc thiếu thốn. Tuy nhiên, trên đó, Bác vẫn thực hiện những công việc quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến vận mệnh của cách mạng Việt Nam.

=> Những điều này thể hiện cuộc sống sinh hoạt khó khăn, thiếu thốn và luôn rình rập hiểm nguy nơi núi rừng hoang dã.

Luận điểm 2: Phong thái ung dung và tinh thần lạc quan, sống hòa hợp với thiên nhiên của Bác

- Dù đối diện với những khó khăn, thiếu thốn về mọi mặt, Bác vẫn giữ tinh thần lạc quan và luôn đầy hứng khởi khi chia sẻ về cuộc sống của mình.

- Đối với Bác, sống giữa thiên nhiên hoang dã là điều Bác hằng mơ ước, là biểu hiện của tình yêu sâu đậm đối với tự nhiên và mong muốn hòa mình vào với nó, để cảm nhận sự tinh túy nhất của cuộc sống.

- Câu thơ cuối cùng: “Cuộc đời acsch mạng thật là sang”. Cái sang của Bác không nằm ở vẻ xa hoa vật chất, mà nó hiện diện trong việc sống trong lòng thiên nhiên, dưới bầu trời tổ quốc, hy sinh bản thân cho sự độc lập của dân tộc -> Đó chính là cái sang của những người làm cách mạng.

Luận điểm 3: Nghệ thuật

- Thể thơ tứ tuyệt ngắn gọn, chứa đựng hàm súc.

- Sử dụng ngôn ngữ giản dị, chân thực, mộc mạc cùng với giọng điệu vui vẻ, hóm hỉnh thể hiện tinh thần lạc quan của Bác.

- Sử dụng phép đối chỉnh một cách hiệu quả, tăng cường giá trị nghệ thuật của tác phẩm.

3. Kết bài:

- Khẳng định lại giá trị của bài thơ: 'Tức cảnh Pác Pó' không chỉ là một tác phẩm văn học giản dị và mộc mạc, mà còn là biểu hiện của lối sống cao quý và phẩm chất cách mạng rực rỡ trong tâm hồn của Bác.

- Bình luận và liên hệ với tác phẩm: Hồ Chí Minh không chỉ là một nhà lãnh đạo vĩ đại, một anh hùng giải phóng dân tộc và một danh nhân văn hóa được thế giới tôn vinh, mà còn là một nghệ sĩ tài ba, có khả năng hội tụ và thể hiện tinh hoa của dân tộc, sức sống của thời đại.

Dàn ý phân tích Tức cảnh Pác Bó (Mẫu 2)

1. Mở bài

Giới thiệu về tác phẩm:

- Trong bài thơ 'Tức cảnh Pác Bó', Chủ tịch Hồ Chí Minh khắc họa một hình ảnh đặc biệt về cuộc sống gian khổ và lòng trung thành với cách mạng của mình.

- Bài thơ này không chỉ là một tác phẩm văn học nghệ thuật mà còn là một bức tranh sống động về tâm hồn và tinh thần kiên định của người lãnh đạo cách mạng.

2.Thân bài

* Hoàn cảnh sáng tác của bài thơ:

- Sau khi Pháp đầu hàng trước quân phát xít Đức vào tháng 6 năm 1940, Bác Hồ đang ở Trung Quốc, sẵn sàng trở về Việt Nam để đứng đầu phong trào cách mạng.

- Tháng 2/1941, ông trở về Pác Bó và chọn địa điểm này làm trung tâm hoạt động. Ở đây, Bác sống trong điều kiện khó khăn, thiếu thốn.

* Phân tích nội dung bài thơ:

(i) Ba dòng đầu:

- Bài thơ mô tả điều kiện sống và làm việc của Bác Hồ hoàn toàn dựa vào tài nguyên tự nhiên:

+ Bác ở trong một hang động lạnh lẽo và ẩm ướt, hạn chế trong không gian bởi hoạt động bí mật. Sáng ra bờ suối, rồi vào hang, nhưng Bác đã biến nơi này thành một cuộc sống tự do và thoải mái.

+ Thức ăn của Bác chỉ là cháo bẹ và rau măng, bàn làm việc là một bàn đá chông chênh ở bên bờ suối.

=> Sự tương phản giữa hai hình ảnh: một bàn làm việc thô sơ và công việc lịch sử quan trọng của Đảng được thực hiện bởi Bác Hồ, nhấn mạnh sự giản dị và tầm tư tưởng cao cả của Bác, một lãnh đạo cách mạng kiệt xuất.

(ii) Dòng thơ cuối cùng:

Bác cảm nhận cuộc đời cách mạng thực sự tuyệt vời! Sự diễn đạt hóm hỉnh và sâu lắng, thể hiện niềm tin lớn lao vào lý tưởng và tương lai xán lạn của cách mạng Việt Nam.

3. Kết bài

Bài thơ ngắn gọn nhưng sâu sắc, giúp ta hiểu thêm về những khó khăn của Bác trong thời kỳ đầu trở về nước. Đó là một bài học về tinh thần cách mạng và quan điểm sống cao quý của người chiến sĩ cách mạng.

Dàn ý phân tích Tức cảnh Pác Bó (Mẫu 3)

1. Mở bài: giới thiệu về tác phẩm Tức cảnh Pác bó của Hồ Chí Minh

Ví dụ:

Nhiều tác phẩm đã được sáng tác để tôn vinh sự giản dị và tấm gương đạo đức của Bác. Hồ Chí Minh không chỉ là một vị cha già của dân tộc, mà còn là biểu tượng của lòng nhân ái và sự hy sinh cho nhân dân Việt Nam. Ngoài vai trò là một nhà chính trị và lãnh đạo, Bác cũng được biết đến như một nhà thơ tài năng với nhiều tác phẩm xuất sắc. Trong số đó, 'Tức cảnh Pác bó' là một tác phẩm nổi tiếng, nơi Bác thể hiện tình yêu sâu sắc đối với thiên nhiên và con người.

2. Thân bài: Phân tích bài thơ 'Tức cảnh Pác Bó' của Hồ Chí Minh

(1) Đời sống và làm việc tại pác bó:

   - Sinh hoạt của Bác:

     + Về thời gian, Bác mô tả về hai khung thời gian sáng và tối, hàng ngày tại Pác Bó.

     + Không gian sinh hoạt của Bác chủ yếu là bên cạnh suối và trong hang động.

     + Bác thường di chuyển giữa hang và suối, thể hiện phong cách sống đơn giản, đều đặn và bình dị.

   - Cảnh làm việc của Bác:

     + Bác làm việc trên bàn đá chông chênh không bằng phẳng, gặp khó khăn về điều kiện làm việc.

     + Bác ăn măng và bẹ, thể hiện một cuộc sống đầm bạc và gian khổ.

(2) Quan điểm về cuộc sống ở Pác Bó:

   - Bác cảm thấy hạnh phúc và mãn nguyện với cuộc sống ấy, bởi vì đã hiến dâng tất cả cho dân tộc.

   - Bác sống một cách giản dị, trung thành và hiến dâng hết mình, cả thể xác lẫn tinh thần, cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc.

3. Kết bài: nêu cảm nhận của em về tác phẩm Tức cảnh Pác bó của Hồ Chí Minh

Ví dụ:

'Tức cảnh Pác Bó,' một tác phẩm văn học rất nổi tiếng của Hồ Chí Minh, mô tả sự gian khổ của cuộc sống tại Pác Bó, với những điều kiện sống khắc nghiệt và thức ăn đơn điệu. Tuy nhiên, dường như những khó khăn ấy không làm Bác mất đi sự lạc quan; ngược lại, Bác vẫn tươi vui và hạnh phúc với cuộc sống và lý tưởng của mình.

 

Dàn ý phân tích Tức cảnh Pác Bó (Mẫu 4)

1. Mở bài

Giới thiệu tác giả Hồ Chí Minh và bài thơ Tức cảnh Pác Bó.

Lưu ý: Học sinh tự lựa chọn cách viết mở bài trực tiếp hoặc gián tiếp tùy thuộc vào năng lực của bản thân mình.

2. Thân bài

“Sáng ra bờ suối, tối vào hang”: hành động lặp đi lặp lại, thường xuyên liên tục hằng ngày của Bác như một vòng tuần hoàn tự nhiên. Câu thơ cho ta thấy nơi ở gắn với hành động ra vào của Bác là chiếc hang. Điều kiện sống vô cùng vất vả, khó khăn, gian khổ, vì sự nghiệp cách mạng của nước nhà mà Người phải ở trong hang với nhiều mối đe dọa nguy hiểm.

“Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng”: vị lãnh tụ của chúng ta không ăn sơn hào hải vi, hàng ngày Bác gắn bó với cháo, măng. Đây là những món ăn giản dị, mộc mạc gắn liền với miền quê cách mạng. Cuộc sống khó khăn, thiếu thốn nhưng Người vẫn luôn lạc quan, vui vẻ đón nhận.

“Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng”: giữa núi rừng Pác Bó có một vị lãnh tụ ngồi nghiên cứu con đường cứu nước bên bàn đá chông chênh. Chúng ta thường biết đến các cuộc họp Đảng, bàn luận chiến thuật ở nơi mặt trận hoặc ở trung tâm hội nghị, nghiêm trang, lộng lẫy. Nhưng đối với Bác Hồ, việc nghiên cứu con đường cứu nước của người được thực hiện ở nơi rừng núi, vách đá cho thấy sự khác biệt đáng trân trọng của vị lãnh tụ này.

“Cuộc đời cách mạng thật là sang”: cả cuộc đời Bác gắn liền với cách mạng, với con đường cứu nước. Dù cho điều kiện ngoại cảnh, điều kiện kháng chiến có vất vả, gian khổ, khó khăn thế nào thì lí tưởng, suy nghĩ cao đẹp của Người cũng khiến cho cuộc đời Bác trở nên cao đẹp và “sang” hơn bất cứ khi nào hết.

→ Bài thơ cho ta cách nhìn rõ nét hơn về cuộc đời, con người cũng như những khó khăn mà Bác phải trải qua để thêm yêu thương, ngưỡng mộ Bác và trân tọng nền độc lập, tự do mà ta đang được hưởng.

3. Kết bài

Khái quát lại giá trị nội dung, nghệ thuật của tác phẩm đồng thời rút ra bài học, liên hệ bản thân.

Dàn ý phân tích Tức cảnh Pác Bó (Mẫu 5)

1. Mở bài:

- Giới thiệu tác giả, tác phẩm: “Tức cảnh Pác Bó” là bài thơ nổi tiếng trong thời gian hoạt động cách mạng của chủ tịch Hồ Chí Minh.

- Khái quát nội dung tác phẩm: Bài thơ khắc họa lại cuộc sống sinh hoạt của Bác ở núi rừng Pác Bó và tinh thần lạc quan, phong thái ung dung, tự tại của người chiến sĩ cách mạng.

2. Thân bài

* Luận điểm 1: Cuộc sống sinh hoạt và làm việc của Bác ở núi rừng Pác Bó

- Phép đối chỉnh: sáng >< tối, ra >< vào thể hiện cuộc sống đều đặn, nhịp nhàng, ngày nào cũng như ngày nào của Bác...

- Thức ăn của Bác thì đơn sơ, giản dị: cháo ngô với rau măng. Đây đều là những thức ăn trong rừng, luôn có sẵn. Cụm từ “vẫn sẵn sàng” không chỉ muốn nói về sự sẵn có, tự nhiên của thức ăn, mà đó dường như còn là tâm thế luôn sẵn sàng đương đầu với thử thách, khó khăn của người chiến sĩ cách mạng.

- Điều kiện làm việc thiếu thốn: bàn làm việc của Bác là những tảng đá chông chênh. Trên chiếc bàn ấy, Bác đang làm những công việc vô cùng quan trọng, liên quan đến vận mệnh của cách mạng Việt Nam.

* Luận điểm 2: Phong thái ung dung, tinh thần lạc quan, sống hòa hợp với thiên nhiên của Bác.

- Dù cuộc sống vô cùng khó khăn, thiếu thốn về mọi thứ nhưng Bác vẫn luôn giữ tinh thần lạc quan, giọng điệu hóm hỉnh, vui đùa khi kể về cuộc sống của mình...

- Câu thơ cuối cùng như một lời thốt ra từ chính trái tim của Bác: “Cuộc đời cách mạng thật là sang”. Cái sang của Bác không phải là sang trọng về vật chất, mà cái sang ấy là cái sang khi được sống giữa thiên nhiên...

*Luận điểm 3: Nghệ thuật

- Thể thơ tứ tuyệt ngắn gọn, hàm súc.

- Ngôn ngữ giản dị, chân thật, mộc mạc cùng giọng điệu vui đùa, hóm hỉnh thể hiện tinh thần lạc quan của Bác.

- Phép đối chỉnh mang lại hiệu quả nghệ thuật cao.

3. Kết bài:

- Khẳng định lại giá trị tác phẩm: Bài thơ “Tức cảnh Pác Bó” là một bài thơ giản dị, mộc mạc, thể hiện lối sống cao đẹp, phẩm chất cách mạng sáng ngời trong con người Bác.

- Liên hệ và đánh giá tác phẩm: Hồ Chí Minh không chỉ là vị lãnh tụ vĩ đại, anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới mà còn là một nghệ sĩ tài năng, hội tụ được tinh hoa dân tộc, khí thế thời đại.

Phân tích Tức cảnh Pác Bó hay nhất (So ...

 

III) Các bài văn mẫu phân tích Tức cảnh Pác Bó

Phân tích Tức cảnh Pác Bó (Mẫu 1)

Hồ Chí Minh là một vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc, một người cha kính yêu của nhân dân đồng thời cũng là một nhà thơ lớn của dân tộc. Các tác phẩm của Người hầu hết đều viết về cuộc sống gian khổ nhưng lại toát lên tinh thần yêu đời lạc quan vô cùng. Một trong số những tác phẩm tiêu biểu chính là bài thơ “ Tức cảnh Pác Bó” . Bài thơ đã để lại ấn tượng sâu sắc với bạn đọc trong nước và cả ngoài nước.

Bài thơ “Tức cảnh Pác Bó” được sáng tác vào tháng 2 năm 1941, sau ba mươi năm bôn ba và hoạt động cách mạng ở nước ngoài, Bác trở về để lãnh đạo cách mạng Việt Nam một cách trực tiếp với mục đích nhanh chóng giành được thắng lợi, giải phóng nhân dân khỏi ách áp bức. Bác sống và làm việc trong một hang núi nhỏ sát biên giới Việt - Trung, đó là hang Pác Bó. Cuộc sống sinh hoạt và làm việc đã khiến Bác có cảm hứng sáng tác nên bài thơ này.

Hai câu thơ đầu tiên của bài như miêu tả lối sống và nếp sinh hoạt của Bác:

“Sáng ra bờ suối tối vào hang”

Câu thơ bảy chữ với phép đối “ sáng ra”-“ tối vào” đã giúp chúng ta thấy được nếp sinh hoạt đều đặn của Bác. Ngày nào cũng vậy, cứ mỗi buổi sáng là Bác sẽ ra ngoài để làm việc chính sự còn đến tối là trở vào hang để nghỉ ngơi sau một ngày làm việc. Mặc dù công việc vô cùng bận rộn và căng thẳng nhưng chúng ta thấy ở Người toát nên một niềm lạc quan yêu đời, sống hòa nhập với thiên nhiên núi rừng. Do cuộc sống và làm việc khó khăn nên bữa ăn của Bác cũng vô cùng đạm bạc:

“Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng”

“Cháo bẹ” và “rau măng” là hai món ăn vô cùng đơn sơ giản dị và là những món ăn quen thuộc ở núi rừng Tây Bắc. Bằng giọng điệu đùa vui hóm hỉnh của mình, Bác đã cho thấy được sự vui vẻ hoàn toàn thích ứng với hoàn cảnh khó khăn. Mặc dù là Người lãnh đạo cả dân tộc trong kháng chiến, đóng vai trò vô cùng quan trọng với đất nước nhưng Người không hề than vãn gì về hoàn cảnh sống của mình mà ngược lại có tỏ ý hài lòng về những thứ mình đang sử dụng. Sự hy sinh đó của Bác khiến cho chúng ta không thể không cảm phục và ngưỡng mộ con người này.

Hai câu thơ sau công việc và quan điểm của Bác về cuộc đời cách mạng:

“Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng

Cuộc đời cách mạng thật là sang”

Từ láy “chông chênh” đã giúp người đọc hình dung chiếc bàn làm việc của Người không hề đứng vững chãi là lại khập khiễng bên thấp bên cao. Nơi làm việc của Người chỉ gói gọn trên một chiếc bàn cũ không vững nhưng dù hoàn cảnh làm việc khó khăn bao nhiêu thì Người lại càng quyết tâm bấy nhiêu. Bác đã không ngại khó khăn gian khổ để làm việc phục vụ sự nghiệp giải phóng đất nước. Với Người đó là niềm hạnh phúc không thể nào nói hết được và chính vì vậy mà Người đã cho rằng “cuộc đời cách mạng thật là sang”. Chỉ một câu thơ thôi đã cho thấy tinh thần thép và tấm lòng yêu nước thương dân vô bờ bến của Người.

Như vậy chỉ với bốn câu thơ ngắn, bằng giọng điệu đùa vui hóm hỉnh, Bác Hồ đã tái hiện lại cuộc sống sinh hoạt và làm việc của mình đầy gian khổ khó khăn nhưng qua đó toát lên tinh thần lạc quan, niềm tin vào tương lai tương sáng của Người. Người đúng là vị lãnh tụ kính yêu của cả dân tộc Việt Nam!

Phân tích Tức cảnh Pác Bó (Mẫu 2)

Chủ tịch Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ muôn vàn kính yêu của dân tộc Việt Nam. Người không chỉ là một nhà quân sự tài ba, một vị lãnh tụ vĩ đại mà còn là một người nghệ sĩ chân chính . “Tức cảnh Pác Bó” được Bác Hồ sáng tác tại hang Pác Bó thuộc tỉnh Cao Bằng vào năm 1941. Bài thơ có thể coi là một trong những sáng tác đặc sắc nhất trong đời hoạt động nghệ thuật của Người.

Tại hang Pác Bó, Người đã sống trong một hoàn cảnh vô cùng khó khăn, thiếu thốn và gian khổ nhưng trong hoàn cảnh ấy, Người vẫn vui vẻ, lạc quan…

Trước hết, hai câu thơ mở đầu đã tái hiện cuộc sống của Bác tại hang Pác Bó:

“Sáng ra bờ suối tối vào hang

Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng”

Hai câu thơ đã gợi mở không gian, thời gian và hoàn cảnh Bác sống rất cụ thể. Câu thơ đầu “Sáng ra bờ suối, tối vào hang” với nhịp ¾ cùng hình ảnh đối “sáng- tối”, “ra- vào” gợi nhịp sống đều đặn của Bác Hồ. Không gian sống, không gian sinh hoạt của người là ở “suối”, là “hang”, là những nơi thâm sâu cùng cốc, những nơi con người thường e ngại, không muốn sống tại đó. Tuy nhiên, đọc câu thơ, ta lại thấy tâm thế rất ung dung, chủ động đón của Bác.

Và bữa ăn của Bác cũng hết sức đạm bạc, thanh dã đó là có cháo bẹ, có rau măng. Đây là những bữa ăn quen thuộc của Bác, lấy nguyên liệu sẵn có từ tự nhiên nơi núi rừng và nó cũng gợi ta nghĩ về cuộc sống sinh hoạt của các bậc trí thức ngày trước. Trong hoàn cảnh khó khăn đó, những bữa ăn có cơm ngon là điều rất khó. Nhưng Người lại nói “vẫn sẵn sàng”. Điều này cho thấy tinh thần rất lạc quan của Người…

Không chỉ sống trong không gian đầy hiểm trở với những bữa ăn đạm bạc mà bàn làm việc của Bác với:

“Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng”

Phiến đá bên bờ suối Lenin gợi ra sự không cân bằng, nhấp nhô nhưng vượt lên trên tất cả, Người vẫn quyết tâm làm việc. Người không ngại ngần những gian khổ để tìm ra con đường đi đúng cho dân tộc mình. Người cần tìm một lý tưởng đúng đắn. Như vậy, tại hang Pác Bó, với những bữa ăn thanh đam, với chỗ làm việc trên một phiến đá, những vị lãnh tụ muôn vàn kính yêu của dân tộc ta vẫn sẵn sàng đón nhận, coi như đó là một lẽ tự nhiên trong cuộc đời. Hỏi rằng trên thế giới này có mấy vị lãnh tụ nào giống Bác?

Ba câu đầu, Bác tập trung nói về không gian mình sinh sống, làm việc và đến câu thơ cuối, Người cho rằng:

'Cuộc đời Cách mạng thật là sang”

Vì sao cuộc sống ở nơi thâm sâu cùng cốc đó, Người lại cho là “sang”? Cái 'sang” ở đây có lẽ không phải đến từ những thức ăn, từ nơi làm việc mà “sang” vì tại đây, Người đã sống một cuộc đời Cách mạng, một cuộc đời cống hiến, vì nhân dân, vì đất nước và đó là một cuộc đời đầy ý nghĩa.

Chỉ với bốn câu thơ ngắn gọn, súc tích, qua đó chúng ta đã thấy chân dung tinh thần của một vị lãnh tụ- một con người không ngần ngại những gian khổ, dù sống trong hoàn cảnh nào cũng vì dân vì đất nước.

Mỗi lần đọc bài thơ, ta lại nhớ đến hình ảnh vị lãnh tụ kính yêu trong cuộc kháng chiến trường kì của dân tộc. Thế mới biết rằng hòa bình mà chúng ta đang hưởng, cuộc sống không có bom rơi đạn nổ ngày nay đã phải đổi lấy bao mồ hôi, công sức của lớp lớp thế hệ đi trước. Do đó, là những con người được sống trong bối cảnh hiện đại, không nghe thấy tiếng súng, chúng ta phải gìn giữ hòa bình, phải gắng sức đưa đất nước sánh vai với các cường quốc năm châu như Bác Hồ lúc sinh thời từng mong muốn.

Phân tích Tức cảnh Pác Bó (Mẫu 3)

Tức cảnh Pác Bó là một trong những bài thơ tứ tuyệt tiêu biểu cho phong cách thơ Hồ Chí Minh. Bài thơ thể hiện niềm vui, niềm tin mãnh liệt và nghị lực phi thường của Bác trong hoàn cảnh sống và làm việc giữa núi rừng Việt Bắc, sau mấy chục năm trời xa cách đất nước và dân tộc.

Sáng ra bờ suối, tối vào hang,

Cháo bẹ, rau măng vẫn sẵn sàng.

Bàn đá chông chênh, dịch sử Đảng,

Cuộc đời cách mạng thật là sang.

Thơ tứ tuyệt thường ngắn gọn, hàm súc nên muốn hiểu ý thơ, trước hết chúng ta phải nắm được hoàn cảnh ra đời của bài thơ.

Tháng 6 – 1940, tình hình thế giới có nhiều biến động lớn. Thực dân Pháp đầu hàng phát xít Đức. Lúc này, Bác đang hoạt động bí mật ở Côn Minh (Vân Nam, Trung Quốc). Tháng 2 năm 1941, Bác về nước và chọn Pác Bó làm căn cứ để từ đây trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng giải phóng dân tộc. Hoàn cảnh sống của Bác lúc này vô cùng khó khăn, thiếu thốn. Trời rét, sức khỏe yếu nhưng Bác phải ở trong cái hang nhỏ ẩm ướt, tối tăm. Ăn uống hết sức kham khổ, thức ăn hằng ngày phần lớn là cháo bột ngô và măng rừng. Bàn làm việc của Bác là một phiến đá ven suối.

Nhưng thiếu thốn, gian khổ không làm Bác bận lòng. Bác dành trọn tâm huyết để lãnh đạo phong trào cách mạng nên quên hết mọi gian nan; một mực phấn chấn, tin tưởng vào tương lai tươi sáng của đất nước.

Ba câu đầu của bài thơ tả cảnh sống và làm việc của Bác. Câu thứ nhất nói về nơi ở, câu thứ hai nói về cái ăn, câu thứ ba nói về phương tiện làm việc. Câu thứ tư đậm chất trữ tình, nêu cảm tưởng của Bác về cuộc sống của mình lúc bấy giờ. Trong hiện thực gian khổ, khó khăn, tâm hồn Bác vẫn ngời sáng một tinh thần cách mạng.

Sáng ra bờ suối, tối vào hang

Cái hang Bác ở có tên là hang Cốc Bó, chỉ khoảng hơn một mét vuông dưới đáy là tương đối bằng phẳng, đủ kê một tấm ván thay cho giường. Vách hang chỗ lồi cao, chỗ lõm sâu, không khí lạnh lẽo, ẩm thấp. Trước cửa hang là dòng suối nhỏ chảy sát chân ngọn núi. Bác đặt tên là suối Lênin và núi Mác. Bàn làm việc của Bác là phiến đá kê trên hai hòn đá và một hòn đá thấp hơn làm ghế cũng ở gần bờ suối.

Không gian sinh hoạt của Bác chia làm hai phần: một là hang, hai là suối. Hành động cũng chia hai: ra suối, vào hang. Thời gian biểu hằng ngày đều đặn: sáng ra, tối vào. Sáng ra bờ suối là để làm việc, tối vào hang là để nghỉ ngơi. Sự thật gần như chỉ có thế. Thực ra chất thơ giấu trong âm điệu, vẫn là nhịp 4/3 hay 2/2/1 /2 của câu thơ Đường luật bảy chữ, nhưng lồng vào trong đó là cái đều đặn, khoan thai như nhịp tuần hoàn của trời đất. Sáng rồi tối, tối rồi sáng; ra rồi vào, vào rồi ra… đơn giản, quen thuộc mà bền vững, ung dung.

Cái gian khổ của hoàn cảnh sống, sự hiểm nguy do kẻ thù luôn rình rập… tất cả đều như lặn chìm, tan biến trước phong thái an nhiên, tự tại của Bác Hồ:

Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng.

Bữa cơm đơn sơ, đạm bạc, quanh quẩn chỉ có cháo ngô và măng đắng, măng nứa, rau rừng… hết ngày này sang ngày khác, vẫn sẵn sàng nghĩa là các thứ đó luôn luôn có sẵn xung quanh. Mặt khác, cháo bẹ, rau măng còn gợi nhớ tới cảnh sống an bần lạc đạo của người xưa:

Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,

Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.

(Nguyễn Bỉnh Khiêm)

hoặc:

Trúc biếc, nước trong ta sẵn đó

(Nguyễn Trãi)

Sự thiếu thốn đã được thi vị hóa thành phong lưu. Xưa là ước lệ, tượng trưng, nay hoàn toàn là sự thật. Chỉ phớt qua một chút xưa là câu thơ đậm đà thêm ý vị.

Nhưng ý vị nhất vẫn là giọng điệu thơ. Cháo bẹ, rau măng cũng như Sáng ra, tối vào là nhịp điệu an nhiên, chan hòa bên trong. Ba chữ vẫn sẵn sàng nâng câu thơ lên thành một lời bình phẩm với giọng điệu lạc quan, gần như tự hào, nghĩa là an nhiên, tự tại ở mức cao hơn.

Hai câu thơ đầu tả thực, câu thơ thứ ba vừa tả thực vừa trữ tình, ở trên chưa có bóng dáng con người thì đến đây, con người đã hiện ra sống động và có hành động rõ ràng:

Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng,

Nếu trong cụm từ vẫn sẵn sàng mới thấp thoáng một chút vui thì đằng sau tính từ chông chênh đã là một nụ cười hóm hỉnh, thâm thúy. Chông chênh vốn nghĩa là không vững, không có chỗ dựa chắc chắn. Chiếc bàn đá của Bác quả là chông chênh thật vì nó chỉ là một phiến đá. Đó là thứ bàn làm việc bất đắc đĩ. Nhưng hàm ý của từ chông chênh không nhằm nói tới đặc điểm của cái bàn đá cụ thể mà là ẩn dụ về tình thế muôn vàn khó khăn của cách mạng nước ta và cách mạng thế giới lúc bấy giờ. Năm ấy, phe phát xít đang thắng ở khắp các mặt trận. Vậy mà trong cái thế chông chênh đó, Bác Hồ vẫn bình tĩnh dịch sử Đảng (lịch sử Đảng cộng sản Liên Xô, viết bằng tiếng Nga) cho cán bộ ta nghiên cứu và học tập những kinh nghiệm phong phú, quý báu để vận dụng vào thực tiễn phong trào đấu tranh cách mạng của dân tộc.

Việc làm này của Bác có tác dụng đặt nền móng về mặt lí luận cho cách mạng Việt Nam. Đấy là một điều hết sức cần thiết. Đem đối lập tính chất nghiêm túc, quan trọng của công việc với cái vẻ đơn sơ, chông chênh của bàn đá, mới nghe tưởng chừng có chút hài hước, đùa vui nhưng kì thực lại mang ý nghĩa cách mạng thật lớn lao.

Nhớ lại thời gian đó, cả thế giới đang đứng trước nguy cơ chìm đắm trong thảm họa phát xít. Vậy mà Hội nghị Trung ương Đảng ta lần thứ VIII (tháng 5 – 1941) vẫn khẳng định rằng cách mạng trong nước sẽ thắng lợi. Đó chẳng phải là trong chông chênh tình thế mà Bác vẫn khẳng định thắng lợi chắc chắn của sự nghiệp giải phóng đất nước, giải phóng dân tộc hay sao? Đó là tầm nhìn chiến lược, tầm suy nghĩ sáng suốt của một lãnh tụ tài ba.

Lắng nghe giọng điệu câu thơ mới thấy thật rõ. Ở nhịp bốn (Bàn đá chông chênh) âm thanh tuy có phần trúc trắc (ba thanh bằng, một thanh trắc), gợi liên tưởng đến tình thế nguy hiểm; nhưng ở nhịp ba (dịch sử Đảng), trái lại, âm thanh rắn, khỏe, (ba thanh trắc) tỏ rõ ý chí kiên quyết chiến đấu và tin tưởng. Câu thơ toát lên một tư thế chủ động, vững vàng trước mọi nguy nan của Bác, điểm thêm một nụ cười thanh thoát, cao vời.

Người xưa khi bất đắc chí thường lánh về chốn núi rừng để vui thú lâm tuyền cho khuây khỏa tâm hồn, nhưng Bác lại khác. Bác đến với núi rừng không phải với mục đích ở ẩn mà là để mưu tính cho từng bước đi của phong trào cách mạng giải phóng dân tộc.

Xưa, trong những ngày lánh mình ở Côn Sơn, Nguyễn Trãi đã thi vị hóa cuộc sống đạm bạc của mình:

Côn Sơn có suối nước trong,

Ta nghe suối chảy như cung đàn cầm.

Côn Sơn có đá tần vần,

Mưa tuôn đá sạch ta nằm ta chơi.

Nay, Bác Hồ làm việc trong cảnh:

Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng.

Trong bóng dáng của vị tiên bên suối là cốt cách của một lãnh tụ cách mạng kiên cường.

Nếu ở ba câu thơ đầu, niềm vui, niềm tự hào còn ẩn chứa bên trong thì đến câu thơ kết, niềm vui ấy đã bộc lộ rõ ràng qua từ ngữ, tiết tấu và âm hưởng. Cái nghèo nàn, thiếu thốn vật chất đã được chuyển hóa thành cái giàu sang tinh thần. Bác đánh giá hiện thực ấy với nụ cười hóm hỉnh, thâm thúy của một triết nhân:

Cuộc đời cách mạng thật là sang!

Như vậy, suối không chỉ là chỗ làm việc, hang không chỉ là chỗ nghỉ ngơi mà hang còn mở ra phía suối, tạo nên không gian thoáng đãng, đủ chỗ cho nhịp sống của con người hoà vào nhịp của đất trời. Gian nan, vất vả cũng như tan biến vào cái nhịp tuần hoàn, thư thái ấy. Cháo bẹ và rau măng là kham khổ, nghèo nàn, nhưng đã được nâng lên thành cái sẵn sàng, đầy đủ, thành một thoáng vui. Đến việc dịch sử Đảng trên bàn đá chông chênh thì đã lồng lộng cái thế vững chắc của tiến trình cách mạng giữa gian nguy. Cuộc đời cách mạng thật là sang! Tinh thần của bài thơ tụ lại cả ở từ sang này. Niềm tin, niềm tự hào của Bác tỏa sáng cả bài thơ.

Chính sự ra vào ung dung, tinh thần vẫn sẵn sàng, khí tiết, cốt cách vững vàng trong tình thế chông chênh đã làm nên cái sang, cái quý trong cuộc đời của con người một lòng một dạ phấn đấu hi sinh cho sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc và nhân loại bị áp bức trên toàn thế giới.

Bài thơ tứ tuyệt ngắn gọn nhưng đã giúp chúng ta hiểu thêm về một quãng đời hoạt động của Bác Hồ. Vượt lên mọi khó khăn, gian khổ, Bác vẫn sống ung dung, thanh thản và tin tưởng tuyệt đối vào thắng lợi của sự nghiệp cách mạng. Bên cạnh đó, bài thơ còn là bài học thấm thía về thái độ sống và quan điểm sống đúng đắn, tích cực của một chiến sĩ cộng sản chân chính.

Phân tích Tức cảnh Pác Bó (Mẫu 4)

Bác đã từng nói: 'Tôi chỉ có một ham muốn, một ham muốn tột bậc là làm sao cho dân ta ai cũng được cơm ăn áo mặc ai cũng được học hành'. Chính bởi hoài bão ấy mà trong khoảng thời gian hoạt động cách mạng, cho dù gian khổ đến đâu Bác cũng vượt qua. Bài thơ 'Tức cảnh Pác Bó' chính là một minh chứng như vậy. Tác phẩm không chỉ nói lên cuộc sống khó khăn vất vả mà còn cho người đọc cảm nhận được tinh thần lạc quan, yêu đời. Tuy thiếu thốn về vật chất nhưng tâm hồn Bác vẫn tràn đầy tình yêu thiên nhiên và lòng tin vào tương lai tươi sáng.

'Sáng ra bờ suối, tối vào hang,

Cháo bẹ, rau măng vẫn sẵn sàng.

Bàn đá chông chênh, dịch sử Đảng,

Cuộc đời cách mạng thật là sang.'

Sau gần ba mươi năm hoạt động cách mạng ở nước ngoài, tháng 2 năm 1941, Bác trở về Tổ quốc trực tiếp lãnh đạo phong trào giải phóng dân tộc. Khi đó Bác đã sống và làm việc trong hoàn cảnh vô cùng gian khổ: trong hang Pác Bó - một hang núi nhỏ thuộc huyện Hà Giang, tỉnh Cao Bằng. Vậy mà đối với Bác đó dường như chẳng hề chi, vẫn phong thái ung dung, ẩn sâu bên trong đó là một ý chí và lòng yêu nước mãnh liệt:

'Sáng ra bờ suối, tối vào hang'

Câu thơ mang âm hưởng nhịp nhàng mà hài hoà, nề nếp. Giống như một thói quen thường ngày của Bác vậy, phong cách sống và làm việc của Bác được diễn ra chỉ với 1 câu thơ: cứ như thường lệ, vào mỗi buổi sáng Bác lại ra bờ suối làm việc cùng với tiếng suối róc rách chảy, với phiến đá gần đó, Người giao hoà tâm hồn mình với thiên nhiên, không giống như những vị hiền triết ngày xưa mà Người luôn tập trung suy nghĩ lo cho dân cho nước. Và đến tối là quãng thời gian mà người được nghỉ ngơi. Mọi thứ đều rất dung dị bình yên không có chuyện gì vậy, nhưng đâu ai biết rằng tiết trời miền núi, rét mướt như vậy mà Bác phải làm việc trong cái hang nhỏ ẩm ướt vậy mà Bác đâu có quan tâm đến chúng. Câu thơ đầu thể hiện thái độ hào hứng, hòa mình cùng khung cảnh thiên nhiên đất trời.

Đến câu thơ tiếp theo, câu thơ thứ hai, miêu tả bữa ăn thiếu thốn mà đạm bạc của Người:

'Cháo bẹ, rau măng vẫn sẵn sàng'

Đây là những món ăn có sẵn và dễ kiếm nơi núi rừng Pác Bó. Chẳng phải những món ăn sơn hào hải vị mà chỉ là 'cháo bẹ, rau măng', Người đều hài lòng với cuộc sống nơi đây. Từ 'sẵn sàng' phải chăng thể hiện tinh thần cách mạng của Người hay cũng chính là để nói lên những món ăn thanh đạm nơi núi rừng luôn sẵn có để phục vụ Bác? Dù là gì đi nữa, câu thơ cũng mang đến cho người đọc cảm giác hóm hỉnh của vị cha già dân tộc. Người không than vãn mà chấp nhận cuộc sống như một lẽ tự nhiên.

Nếu như câu thơ thứ nhất về thói quen sinh hoạt, câu thơ thứ hai miêu tả những bữa ăn hàng ngày thì đến câu thơ thứ ba là hình ảnh Người đang làm việc:

'Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng'

Chẳng phải là một chiếc bàn ghế nghiêm chỉnh, thoải mái mà là hình ảnh vị lãnh tụ đặt cuốn sử lên trên một phiến đá, ngồi tập trung nghiên cứu đường lối cách mạng. Cách gieo vần bằng 'ang' gợi cảm giác mở ra và vang xa, đồng thời mang đến cảm giác vững vàng và khoáng đạt cho bài thơ. Hai chữ 'chông chênh' là từ láy tạo hình kết hợp với những từ mang vần chắc 'dịch sử Đảng' thật khoẻ như mang đến sự cân bằng cho câu thơ. Thật thú vị chủ thể giữa bức tranh chính là nhà thơ chứ không phải thiên nhiên. Nhà thơ sống hoà hợp với thiên nhiên chính là một chiến sĩ cách mạng vĩ đại. Đằng sau hình ảnh Bác đang ngồi dịch sử Đảng còn là hình tượng của vị lãnh tụ vĩ đại, của dân tộc Việt Nam.

Tuy nơi đây, điều kiện vật chất còn khó khăn, thiếu thốn, cuộc sống còn vất vả cực khổ nhưng tinh thần ý chí của Bác luôn vững vàng:

'Cuộc đời cách mạng thật là sang'

Chẳng cần đến những vật chất xa hoa, đủ đầy tiện nghi, Bác chỉ cần có vậy cuộc sống giản dị mà đôi phần khắc khổ. Nhưng mọi việc đó đâu ngăn cản được một tinh thần thép, một ý chí kiên cường và tình yêu thương cho dân cho nước. Ba câu thơ đầu là hình ảnh nơi Pác Bó - nơi Bác đã sống để hoạt động cách mạng, với bao điều cực khổ nhưng đối với Người như vậy đã đủ đầy lắm rồi. Từ 'sang' cuối bài thơ đã làm nổi bật ý nghĩa của toàn bài. Đó chính là một nhãn tự của bài thơ thất ngôn này. Không chỉ mang đến cho người đọc niềm tin niềm tự hào về tương lai phía trước mà còn cho thấy sự tích cực lạc quan của Người.

Thơ của Bác vừa giản dị song vô cùng hàm súc, vừa hoà hợp với thiên nhiên nhưng luôn gắn liền với nhiệm vụ cách mạng. Bài thơ 'Tức cảnh Pác Bó' vừa mang màu sắc cổ điển lại vừa thể hiện tinh thần thời đại mang đầy ý chí, niềm tin và sự lạc quan của Người. Chính nó đã khiến chúng ta càng cảm phục hơn về Bác và hiểu rõ hơn vị Cha già của dân tộc.

Cảm nhận bài thơ Tức cảnh Pác Bó hay ...

Phân tích Tức cảnh Pác Bó (Mẫu 5)

Tinh thần lạc quan, ung dung tự tại trong mọi hoàn cảnh sống là nét đặc điểm nổi bật trong tính cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tinh thần đó đã trở thành một vũ khí để chiến đấu và chiến thắng mọi gian khó và kẻ thù. Thơ tức là người, thơ Bác thể hiện rõ phẩm chất cách mạng cao quý của người chiến sĩ cộng sản kiên trung. Bài thơ 'Tức cảnh Pác Bó' được sáng tác tháng 2 năm 1941 ở núi rừng Pác Bó là một trong rất nhiều bài thơ mang đậm phong cách ấy của Bác:

Sáng ra bờ suối, tối vào hang,

Cháo bẹ, rau măng vẫn sẵn sàng.

Bàn đá chông chênh, dịch sử Đảng,

Cuộc đời cách mạng thật là sang.

Thời gian này Bác về nước, trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam. Trong điều kiện sống rất kham khổ: 'Cháo bẹ rau măng', làm việc thiếu thốn 'bàn đá chông chênh', bài thơ tràn ngập niềm vui và dí dỏm của một con người biết vượt lên hoàn cảnh để hướng tới một mục tiêu cao cả, đó là sự nghiệp giải phóng dân tộc.

Mở đầu bài thơ tứ tuyệt, Bác viết:

Sáng ra bờ suối, tối vào hang.

Câu thơ gọn gàng, súc tích, chỉ có bảy chữ mà có cả thời gian, hành động. Thời gian là 'sáng', 'tối', không gian là 'bờ suối', 'hang' và trên nền của thời gian, không gian ấy xuất hiện bóng dáng của một người đang miệt mài làm việc. Cái từ ngữ chỉ hành động 'sáng ra', 'tối vào' gợi cho ta sự liên tưởng ấy. Điểm sáng của câu thơ ở chỗ tác giả rất chú ý đến trật tự của hai vế câu. Nếu nói: 'Tối vào hang, sáng ra bờ suối' thì trật tự này tạo nên giá trị biểu nghĩa khác. Chất lạc quan vốn là bản tính của con người gang thép ấy nên trật tự tất yếu của câu thơ phải là:

Sáng ra bờ suối, tối vào hang.

Với trật tự này, cảnh như vận động, không đứng yên, theo quy luật tuần hoàn của thời gian. Vì vậy, ta không lấy làm lạ khi bắt gặp thái độ 'vẫn sẵn sàng' của Bác ở câu thơ kế tiếp:

Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng.

Thơ nói về một khí phách, một thái độ, một nhân sinh quan mà lời thơ vẫn dung dị như lời nói hàng ngày. Đặc điểm của thơ tứ tuyệt là câu, chữ hết sức tiết kiệm và một bài thơ hay đã bật lên được 'chữ thần'. Cụm từ 'vẫn sẵn sàng' là điểm sáng của bài thơ.

Câu thơ làm ta liên tưởng đến triết lí sống của người quân tử ngày xưa, 'quân tử ăn chẳng cần no'. Bác sẵn sàng chấp nhận cuộc sống vật chất kham khổ với thái độ vui đùa, cười cợt. Bác coi thường cái gian khổ thậm chí cả những khi thân xác bị đọa đày đau xót, người chiến sĩ cách mạng ấy vẫn đùa cợt, dí dỏm. Những bài thơ 'Pha trò', 'Ghẻ', 'Dây trói'... trong 'Nhật kí trong tù' là thái độ ung dung tự tại trước những hoàn cảnh khắc nghiệt với lời thơ hóm hỉnh bất ngờ.

Khác với người xưa: 'An bần lạc đạo', Bác Hồ là con người lao động, luôn luôn hành động vì một lí tưởng cao cả:

Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng.

Làm việc trong hoàn cảnh thiếu thốn những tiện nghi cần thiết, mượn đá làm bàn, bàn đá lại 'chông chênh', chi tiết vui, ngộ và đó là một sự vật. Trong cách nhìn sự vật. Bác thường phát hiện những chi tiết ngộ nghĩnh, điều đó biểu hiện một tâm hồn lạc quan.

Bài thơ kết thúc:

Cuộc đời cách mạng thật là sang!

Ngôn ngữ thơ bình dị mà ý thơ thì lớn lao. Nếu điểm sáng của hai câu thơ đầu là thái độ 'vẫn sẵn sàng' thì sức nặng của bài thơ được dồn vào câu kết, đặc biệt với cụm từ 'thật là sang!'. Đây cũng là một cách nói vui, nói quá lên, chất hài hước đó ta thường gặp trong thơ và trong cuộc sống đời thường của Bác. Chất hài hước này làm cho bài thơ gợi lên niềm lạc quan cách mạng sáng ngời.

Bài thơ 'Tức cảnh Pác Bó' là một bài thơ giản dị mà sâu sắc. Bài thơ thể hiện một đạo lí sống cao đẹp nhưng lời thơ tự nhiên, không một chút vẽ vời hoa mĩ. Giọng điệu thơ rất gần với cách nói hàng ngày, ta có cảm giác Bác không cố ý làm bài thơ nhưng nó cứ đọng lại mãi trong tâm trí ta, sức sống lâu bền của bài thơ chính là chỗ đó.

Phân tích Tức cảnh Pác Bó (Mẫu 6)

Bác Hồ không chỉ là vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, Bác còn là một đại thi gia của dân tộc. Những tác phẩm mà người để lại cho kho tàng văn học dân tộc tuy không cầu kì, chau chuốt nhưng đều là những viên dạ minh châu không thể thay thế, là niềm tự hào của nước nhà. Một trong số những bài thơ như thế là “Tức cảnh Pác- bó” được viết vào tháng 2 năm 1941, tại hang Pác- bó(Cao Bằng), khi Người trở về Việt Nam hoạt động và làm việc sau hơn ba mươi năm hoạt động cách mạng ở nước ngoài.

Đến với bài thơ ta đã nhận thấy một sự vô tư từ ngay trong cách diễn đạt:“Sáng ra bờ suối, tối vào hang” Nhịp thơ 3/3 với dấu phẩy ở giữa dòng chia câu thơ làm hai vế cân xứng như là một lời kể tự nhiên về nhịp sống thường ngày của Bác nơi núi rừng Pác- bó. Hoạt động và sinh sống ở nước ngoài nhiều năm, Bác vốn đã quen với một nếp sống có kỉ luật, ở tại hang Pác- bó cũng vậy, Bác sinh hoạt và làm việc điều độ theo thời gian phân bố. Sáng thì ra suối, để sinh hoạt, để làm việc rồi đến tối trở về hang để nghỉ ngơi. Bác sinh hoạt có nề nếp và đồng thời ăn uống cũng đạm bạc: “Cháo bẹ, rau măng vẫn sẵn sàng”. Hai từ “sẵn sàng” thốt lên nghe thì có vẻ như gợi ra một sự đủ đầy, muốn là có ngay mà không hề thiếu thốn một điều gì. Nhưng thực chất, bữa cơm hàng ngày của người chỉ có bẹ chuối và măng rừng, những thức rất đỗi là giản dị, nếu không muốn gọi là kham khổ. Ở nơi núi rừng Pác- bó này không thể tìm đâu ra một thứ gì tốt hơn là cháo bẹ, là rau măng, điều này đã chính tỏ Bác đang phải làm việc và sinh hoạt trong một hoàn cảnh vô cùng thiếu thốn, ăn uống chỉ có thể gọi là đủ no. Nhưng những khó khăn ấy lại được Hồ Chủ Tịch thốt lên bằng giọng nhẹ nhàng sảng khoái chứng tỏ, Bác đối với những khó khăn vật chất tầm thường đều không coi là quan trọng. Đối với Bác, việc quan trọng nhất lúc này là dân, là nước, là đánh đuổi quân xâm lược: “Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng”. Sau ba mươi năm hoạt động cách mạng quay về nước, Bác Hồ vẫn ngày ngày tiếp tục con đường tìm ánh sánh cho dân tộc. Trong cái lạnh của núi rừng, trong sự thiếu thốn của vật chất, trên một chiếc bàn đá không mấy chắc chắn, Người đang tỉ mẩn dịch lịch sử Đảng Cộng Sản Liên Xô làm tài liệu cho các chiến sĩ cách mạng học tập. Hai hình ảnh đối lập, một bên là chiếc bàn đá “chông chênh” bấp bênh, không chắc chắn với một bên là công việc trọng đại mà Bác đang làm: mở đường cho tri thức cách mạng đến với những người chiến sĩ cách mạng. Điều này càng làm nổi bật lên sự thiếu thốn trong hoàn cảnh sống và làm việc của Bác đòng thời nổi bật được trọng trách to lớn mà Bác đang gồng gánh trên vai. Sau bao nhiêu những những khó khăn về vật chất, những điều quan trọng phải làm, Bác Hồ đã kết thúc bài thơ: “Cuộc đời cách mạng thật là sang”. Chỉ một từ “sang” làm cho tư tưởng bải thơ vụt sáng. Phải chăng người đọc thắc mắc vì sao Bác gọi cuộc đời cách mạng gian khổ là “sang”. Cái sang ở đây không phải là cái sang về vật chất mà mà giàu có về rất nhiều điều khác. “Sang” là ở một cuộc sống hòa mình với thiên nhiên, tuy không xa hoa nhưng giản dị, hòa hợp với thiên nhiên khiến cho tâm hồn tươi tắn thanh thản. “Sang” ở đây là một tấm lòng hạnh phúc khi được hoạt động và làm việc vì nhân dân, vì đất nước, làm công việc có ý nghĩa cho cuộc đời. “Sang” ở đây là tuy thiếu về vật chất nhưng tinh thần thì luôn tràn trề đủ đầy một niềm lạc quan vào ngày giải phóng dân tộc đang dần tới.

Với lời thơ giản dị, tự nhiên, giọng thơ sảng khoái mang đầy tinh thần lạc quan, Hồ Chủ Tịch đã cho ta thấy cái “thú lâm tuyền” của Người nhưng không phải là cái thú vui của Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm năm xưa “lánh đục về trong” mà là sự tạo nhã, hòa hợp với thiên nhiên ngay trong cuộc đời người lính. Ở Hồ Chí Minh, niềm vui hòa hợp với thiên nhiên vẫn gắn với cuộc đời cách mạng, cuộc đời hoạt động sôi nổi không ngừng nghỉ vì dân vì nước. Bài thơ là sự diễn tả những hoạt động thường nhật của Bác Hồ trong những ngày hoạt động ách mạng ở hang Pác- bó, Cao Bằng. Qua bài thơ, hình ảnh Bác Hồ trong lòng người đọc càng thêm đẹp, thêm sáng lấp lánh trong sự giản dị, lạc quan, tình yêu thiên nhiên sâu sắc, tinh thần cách mạng và tài năng thơ ca tuyệt diệu. Nhân cách cao khiến của Người còn sáng mãi trong lòng mọi con dân nước Việt.

Phân tích Tức cảnh Pác Bó (Mẫu 7)

     Hồ Chí Minh là người lãnh đạo lỗi lạc của dân tộc ta, là nhà thơ lớn, danh nhân văn hóa thế giới. Cuộc đời thơ ca của Người luôn song hành với cuộc đời chính trị. Người đã để lại cho đất nước một sự nghiệp văn chương đồ sộ và phong phú. Trong đó, bài thơ 'Tức cảnh Pác Bó',được ra đời trong thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp vô cùng khó khăn, gian khổ. Lúc bấy giờ Bác phải sống và làm việc trong hoàn cảnh hết sức thiếu thốn: ở trong hang Pác Bó; ăn cháo ngô thay cơm, ăn măng rừng thay rau; bàn làm việc là bàn đá chông chênh bên bờ suối. Bài thơ đã diễn tả được phong thái ung dung ,tinh thần lạc quan yêu đời, 'thú lâm tuyền' khoáng đạt, tươi sáng của Bác.

     Sống với cái thiếu thốn, gian khổ nhưng không làm Bác bận lòng. Bác dành trọn tâm huyết để lãnh đạo phong trào cách mạng nên quên hết mọi gian nan; một mực phấn chấn, tin tưởng vào tương lai tươi sáng của đất nước.

     Ba câu đầu của bài thơ tả cảnh sống và làm việc của Bác. Câu thứ nhất nói về nơi ở, câu thứ hai nói về cái ăn, câu thứ ba nói về phương tiện làm việc. Câu thứ tư đậm chất trữ tình, nêu cảm tưởng của Bác về cuộc sống của mình lúc bấy giờ. Trong hiện thực gian khổ, khó khăn, tâm hồn Bác vẫn ngời sáng một tinh thần cách mạng.

Sáng ra bờ suối, tối vào hang

     Cái hang Bác ở có tên là hang Cốc Bó, chỉ khoảng hơn một mét vuông dưới đáy là tương đối bằng phẳng, đủ kê một tấm ván thay cho giường. Vách hang chỗ lồi cao, chỗ lõm sâu, không khí lạnh lẽo, ẩm thấp. Trước cửa hang là dòng suối nhỏ chảy sát chân ngọn núi. Bàn làm việc của Bác là phiến đá kê trên hai hòn đá và một hòn đá thấp hơn làm ghế cũng ở gần bờ suối.

     Không gian sinh hoạt của Bác chia làm hai phần: một là hang, hai là suối. Hành động cũng chia hai: ra suối, vào hang. Sáng ra bờ suối là để làm việc, tối vào hang là để nghỉ ngơi, vẫn là nhịp 4/3 hay 2/2/1 /2 của câu thơ Đường luật bảy chữ, nhưng lồng vào trong đó là cái đều đặn, khoan thai như nhịp tuần hoàn của trời đất. Sáng rồi tối, tối rồi sáng; ra rồi vào, vào rồi ra… đơn giản, quen thuộc mà bền vững, ung dung.

     Cái gian khổ của hoàn cảnh sống, sự hiểm nguy do kẻ thù luôn rình rập… tất cả đều như lặn chìm, tan biến trước phong thái an nhiên, tự tại của Bác Hồ:

Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng.

     Bữa cơm đơn sơ, đạm bạc, quanh quẩn chỉ có cháo ngô và măng đắng, măng nứa, rau rừng… hết ngày này sang ngày khác, vẫn sẵn sàng nghĩa là các thứ đó luôn luôn có sẵn xung quanh. Mặt khác, cháo bẹ, rau măng còn gợi nhớ tới cảnh sống an bần lạc đạo của người xưa:

Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.

(Nguyễn Bỉnh Khiêm)

     Hai câu thơ đầu tả thực, câu thơ thứ ba vừa tả thực vừa trữ tình, ở trên chưa có bóng dáng con người thì đến đây, con người đã hiện ra sống động và có hành động rõ ràng :

Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng,

     Nếu trong cụm từ vẫn sẵn sàng mới thấp thoáng một chút vui thì đằng sau tính từ chông chênh đã là một nụ cười hóm hỉnh, thâm thúy. Chông chênh vốn nghĩa là không vững, không có chỗ dựa chắc chắn, là ẩn dụ về tình thế muôn vàn khó khăn của cách mạng nước ta và cách mạng thế giới lúc bấy giờ. Đem đối lập tính chất nghiêm túc, quan trọng của công việc với cái vẻ đơn sơ, chông chênh của bàn đá, mới nghe tưởng chừng có chút hài hước, đùa vui nhưng kì thực lại mang ý nghĩa cách mạng thật lớn lao. Câu thơ toát lên một tư thế chủ động, vững vàng trước mọi nguy nan của Bác, điểm thêm một nụ cười thanh thoát, cao vời. Người xưa khi bất đắc chí thường lánh về chốn núi rừng để vui thú lâm tuyền cho khuây khỏa tâm hồn, nhưng Bác lại khác. Bác đến với núi rừng không phải với mục đích ở ẩn mà là để mưu tính cho từng bước đi của phong trào cách mạng giải phóng dân tộc. Cái nghèo nàn, thiếu thốn vật chất đã được chuyển hóa thành cái giàu sang tinh thần:

Cuộc đời cách mạng thật là sang!

     Như vậy, suối không chỉ là chỗ làm việc, hang không chỉ là chỗ nghỉ ngơi mà hang còn tạo nên không gian thoáng đãng, đủ chỗ cho nhịp sống của con người hoà vào nhịp của đất trời. Gian nan, vất vả cũng như tan biến vào cái nhịp tuần hoàn, thư thái ấy. Cháo bẹ và rau măng là kham khổ, nghèo nàn, nhưng đã được nâng lên thành cái sẵn sàng, đầy đủ, thành một thoáng vui. Đến việc dịch sử Đảng trên bàn đá chông chênh thì đã lồng lộng cái thế vững chắc của tiến trình cách mạng giữa gian nguy. Cuộc đời cách mạng thật là sang! Tinh thần của bài thơ tụ lại cả ở từ sang này. Niềm tin, niềm tự hào của Bác tỏa sáng cả bài thơ.

Phân tích Tức cảnh Pác Bó (Mẫu 8)

Sau hơn 30 năm bôn ba nước ngoài tìm đường đi cho cách mạng nước nhà đến năm 1941 Bác Hồ trở về nước lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Giữa lúc này tình hình thế giới và trong nước có nhiều biến chuyển to lớn. Tại đây Người đã triệu tập cuộc họp bộ chính trị quan trọng để tính toán đường đi nước bước cho cách mạng. Nơi ở của Người là hang Pác Bó. Và bài thơ Tức cảnh Pác Bó cũng ra đời trong chính hoàn cảnh đó.

Hang Pác Bó hay còn có tên gọi khác là Cấn Bó nghĩa là đầu nguồn. Sau khi về nước Bác chủ yếu sinh sống và làm việc tại đây, nơi có điều kiện sinh hoạt vô cùng khó khăn vất vả.

Kể lại những ngày tháng đó Đại tướng Võ Nguyên Giáp từng có chia sẻ: “ Nơi ở đầu tiên của Người là hang Pác Bó tuy ẩm lạnh nhưng là nơi có địa thế tốt nhất. Địa điểm thứ hai là một hốc núi nhỏ ở rất cao và sâu trong rừng bên ngoài là những cành lau. Những khi trời mưa to rắn rết chui cả vào chỗ nằm. Có buổi sáng Người thức dậy thấy con rắn rất lớn nằm khoanh tròn cạnh người. Sức khỏe Người vì thế có phần giảm sút. Bệnh sốt rét diễn ra liên miên cũng không có thuốc trị chỉ có vài cành lá sắc theo mẹo của người dân địa phương.

Có thời gian chuyển sang vùng Mán Trắng gạo cũng chẳng có ăn Bác và các đồng chí phải ăn cháo bẹ cả tháng ròng rã. Thế nhưng dù ở bất cứ hoàn cảnh nào Bác cũng thích ứng rất nhanh chưa bao giờ kêu khó ngại khổ. Thậm chí còn thấy Bác vui hơn bao giờ hết vì cuối cùng sau bao nhiêu năm xa quê hưng Người đã được trở về sống với lí tưởng vĩ đại của dân tộc, với cuộc kháng chiến vệ quốc vĩ đại.

Chẳng vì thế mà bốn câu thơ trong bài Tức cảnh Pác Bó được viết với một tâm thế vui đùa hóm hỉnh, vui tươi. Ngoài việc nêu lên một hoàn cảnh sống vô cùng khó khăn khắc nghiệt đằng sau đó còn là cả một trạng hết sức thoải mái và lạc quan phơi phới.

Sáng ra bờ suối, tối vào hang

Câu thơ ngắt nhịp ở giữa tạo thành hai vế sóng đôi toát lên sự nhịp nhàng nề nếp theo một quy luật nhất định. Sáng ra bờ suối tối lại vào. Thể hiện một giờ giấc sinh hoạt rất đều đặn của Người.

Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng

Nếu câu thơ thứ nhất nói về quy luật sinh hoạt thì câu thơ thứ hai lại nói về bữa ăn của Bác. Chỉ có cháo bẹ và rau măng. Nếu hiểu theo nghĩa đơn giản thì thức ăn ở đây như cháo bẹ và rau măng lúc nào cũng sẵn sàng. Còn nếu muốn hiểu theo cách khác có thể hiểu là dù trong hoàn cảnh thiếu thốn về vật chất nhưng tinh thần cách mạng luôn luôn sẵn sàng. Tuy nhiên đối chiếu với nét vui đùa hóm hỉnh ở trên thì có lẽ cách hiểu thứ nhất có vẻ hợp lí hơn rất nhiều.

Câu thơ thứ nhất nói về sinh hoạt, thì câu thơ thứ hai nói về ăn, câu thứ ba nói về công việc. Cả ba câu thơ đều là những câu thơ miêu tả cuộc sống chân thực tạo nên một sự hài hòa cho tứ thơ.

“Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng”

ở đây ta cần chú ý đến cách gieo vần độc đáo của Người. Gieo vần ang vừa khỏe khoắn lại vừa tạo được tiếng vang xa tạo nên một cảm giác vô cùng vững vàng và vững chắc. Từ láy chông chênh là từ láy duy nhất trong bài nhưng không hề tạo nên một thế khấp khểnh thiếu vững chắc mà ba chữ cuối “Dịch sử Đảng” với những âm chắc nịch khỏe khoắn và gân guốc như làm hài hòa cả ba câu thơ.

Đến câu thơ này ta cũng có thể đoán ra chủ thể của bài thơ là ai và làm công việc gì. Đó không phải là một vị khách lâm tuyền an nhàn mà là một chiến sĩ Cách mạng đang làm công việc trọng đại mang tính vận mệnh của quốc gia dân tộc. Chủ thể không hề bị chi phối bởi thiên nhiên mà thậm chí còn là trung tâm của tất cả. Hơn thế nữa nó còn tô đậm hình tượng người chiến sĩ Cách mạng giữa một khung cảnh đơn sơ giản dị cũng giống như sự nghiệp cách mạng vậy.

Bài thơ khép lại bằng hình ảnh:

“Cuộc đời Cách mạng thật là sang”

Chữ “sang” có thể coi là đắt giá nhất trong bài. Đó chính là cảm nhận xuất phát từ trái tim của người chiến sĩ cách mạng. Với Người dù bao khó khăn gian khổ cũng chẳng là gì bởi đã dấn thân vào con đường này thì không bao giờ biết sờn lòng nản chí. Cuộc sống của người chiến sĩ cách mạng nay đây mai đó nhưng vẫn luôn làm chủ hoàn cảnh và cuộc đời. Chữ sang cũng chính là chốt làm bừng sáng giá trị của toàn bài.

Có thể nói Tức cảnh Pác Bó là một trong những tác phẩm vô cùng giản dị nhưng lại chứa đựng biết bao nhiêu ý nghĩa sâu sắc. Nó mang tính thời đại và vận mệnh lớn. Không hề xa hoa ở câu chữ nhưng lại mang đến cho người đọc một cảm nhận vô cùng độc đáo và thoải mái.

Bài thơ: Tức cảnh Pác Bó | Mẹ ơi ...

Phân tích Tức cảnh Pác Bó (Mẫu 9)

Không chỉ là nhà hoạt động cách mạng kiên trung, bất khuất Bác còn là một con người hết sức lạc quan trong hoàn cảnh khó khăn, khắc nghiệt. Những vần thơ hóm hỉnh như:

Khách đến thì mời ngô nếp nướng
Săn về thường chén thịt rừng quay
Non xanh nước biếc tha hồ dạo,
Rượu ngọt, chè tươi mặc sức say

Những vần thơ như vậy xuất hiện khá nhiều trong các tác phẩm của Bác. Đặc biệt trong thời gian đầu cuộc kháng chiến của dân tộc còn gặp nhiều khó khăn, phải hoạt động nơi rừng núi Cao Bằng, nhưng không vì thế mà tinh thần ung dung, lạc quan bị mất đi. Nó được thể hiện rõ nét nhất trong bài thơ Tức cảnh Pác Bó.

Mở đầu bài thơ gợi nên không gian hoạt động bí mật của Người ở Việt Bắc: Sáng ra bờ suối tối vào hang. Câu thơ tạo thành hai vế rất cân đối với nhau, thời gian sáng tối, không gian suối – hang, hoạt động ra – vào, cho thấy nhịp sinh hoạt hết sức nề nếp, đều đặn và hết sức nhịp nhàng của người.

Đồng thời cũng cho thấy không gian hoạt động bí mật và còn hết sức khó khăn. Trong giai đoạn đầu, cách mạng còn non yếu, chưa có thế và lực nên phải hoạt động bí mật và gặp nhiều khó khăn nhưng người chiến sĩ cách mạng vĩ đại vẫn hết sức ung dung, tự tại. Quy luật vận động đó cũng khẳng định tinh thần làm chủ hoàn cảnh, chủ động, lạc quan của người chiến sĩ cách mạng.

Không chỉ khó khăn, thiếu thốn trong không gian sống, mà sự khó khăn ấy còn hiện lên trong cả bữa ăn, nơi làm việc của Bác:

Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng
Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng

Câu thơ cho thấy tâm thế ung dung, lạc quan của Bác. Núi rừng thiên nhiên Việt Bắc vẫn luôn sẵn sàng cháo bẹ, rau măng phục vụ cho người chiến sĩ cách mạng. Câu thơ vừa cho thấy cái gian khổ, khắc nghiệt mà Bác phải đối mặt, nhưng đằng sau đó còn là nụ cười hóm hỉnh của một con người tuy sống trong hoàn cảnh khó khăn nhưng vẫn hết sức lạc quan yêu đời.

Và hàng ngày Người vẫn ngồi bên bàn đá chông chênh viết Đường cách mệnh, phục vụ cho cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc. Hai chữ chông chênh gợi lên tư thế không chắc chắn, không vững vàng, cho thấy những khó khăn chất chồng của hiện thực cuộc kháng chiến. Nhưng trên nền hoàn cảnh khắc nghiệt đó, người chiến sĩ cách mạng vẫn vượt lên để hoàn thành nhiệm vụ, để thực hiện nghĩa vụ, lí tưởng cao đẹp của mình, quả đáng trân trọng và khâm phục.

Dù hoạt động cách mạng gian khổ là vậy, nhưng câu kết của toàn bài lại đem đến cho người đọc sự bất ngờ, mà cao hơn chính là cảm phục: Cuộc đời cách mạng thật là sang. Sang được hiểu là sang trọng, đầy đủ. Nhưng trong hoàn cảnh của Bác, ăn uống, nghỉ ngơi thiếu thốn trăm bề liệu có thật sang không?

Đối với Bác điều đó không phải sang, mà cái sang nhất ở đây chính là dịch sử Đảng, là được hoạt động cách mạng để thực hiện lí tưởng đẹp đẽ của mình, đem lại độc lập, tự do, cho dân tộc. Giọng điệu thơ tự nhiên, dí dỏm, mà cũng rất khẩu khí, khẳng định tinh thần thép của người chiến sĩ cách mạng.

Bài thơ sử dụng thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, ý tại ngôn ngoại, lời thơ hàm súc cô đọng, cùng với giọng điệu thơ hỏm hỉnh, vui đùa đã làm nổi bật lên chân dung người chiến sĩ cách mạng. Đó là một con người mang trong mình phong thái ung dung, lạc quan, mang trong mình lí tưởng cao đẹp, cứu nước, cứu đời.

Phân tích Tức cảnh Pác Bó (Mẫu 10)

Bác Hồ không chỉ là vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, Bác còn là một đại thi gia của dân tộc. Những tác phẩm mà người để lại cho kho tàng văn học dân tộc tuy không cầu kì, chau chuốt nhưng đều là những viên dạ minh châu không thể thay thế, là niềm tự hào của nước nhà. Một trong số những bài thơ như thế là “Tức cảnh Pác- bó” được viết vào tháng 2 năm 1941, tại hang Pác- bó(Cao Bằng), khi Người trở về Việt Nam hoạt động và làm việc sau hơn ba mươi năm hoạt động cách mạng ở nước ngoài.

Đến với bài thơ ta đã nhận thấy một sự vô tư từ ngay trong cách diễn đạt:

“Sáng ra bờ suối, tối vào hang”

Nhịp thơ 3/3 với dấu phẩy ở giữa dòng chia câu thơ làm hai vế cân xứng như là một lời kể tự nhiên về nhịp sống thường ngày của Bác nơi núi rừng Pác- bó. Hoạt động và sinh sống ở nước ngoài nhiều năm, Bác vốn đã quen với một nếp sống có kỉ luật, ở tại hang Pác- bó cũng vậy, Bác sinh hoạt và làm việc điều độ theo thời gian phân bố. Sáng thì ra suối, để sinh hoạt, để làm việc rồi đến tối trở về hang để nghỉ ngơi. Bác sinh hoạt có nề nếp và đồng thời ăn uống cũng đạm bạc:

“Cháo bẹ, rau măng vẫn sẵn sàng”

Hai từ “sẵn sàng” thốt lên nghe thì có vẻ như gợi ra một sự đủ đầy, muốn là có ngay mà không hề thiếu thốn một điều gì. Nhưng thực chất, bữa cơm hàng ngày của người chỉ có bẹ chuối và măng rừng, những thức rất đỗi là giản dị, nếu không muốn gọi là kham khổ. Ở nơi núi rừng Pác- bó này không thể tìm đâu ra một thứ gì tốt hơn là cháo bẹ, là rau măng, điều này đã chứng tỏ Bác đang phải làm việc và sinh hoạt trong một hoàn cảnh vô cùng thiếu thốn, ăn uống chỉ có thể gọi là đủ no. Nhưng những khó khăn ấy lại được Hồ Chủ Tịch thốt lên bằng giọng nhẹ nhàng sảng khoái chứng tỏ, Bác đối với những khó khăn vật chất tầm thường đều không coi là quan trọng. Đối với Bác, việc quan trọng nhất lúc này là dân, là nước, là đánh đuổi quân xâm lược:

“Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng”

Sau ba mươi năm hoạt động cách mạng quay về nước, Bác Hồ vẫn ngày ngày tiếp tục con đường tìm ánh sáng cho dân tộc. Trong cái lạnh của núi rừng, trong sự thiếu thốn của vật chất, trên một chiếc bàn đá không mấy chắc chắn, Người đang tỉ mẩn dịch lịch sử Đảng Cộng Sản Liên Xô làm tài liệu cho các chiến sĩ cách mạng học tập. Hai hình ảnh đối lập, một bên là chiếc bàn đá “chông chênh” bấp bênh, không chắc chắn với một bên là công việc trọng đại mà Bác đang làm: mở đường cho tri thức cách mạng đến với những người chiến sĩ cách mạng. Điều này càng làm nổi bật lên sự thiếu thốn trong hoàn cảnh sống và làm việc của Bác đồng thời nổi bật được trọng trách to lớn mà Bác đang gồng gánh trên vai. Sau bao nhiêu những những khó khăn về vật chất, những điều quan trọng phải làm, Bác Hồ đã kết thúc bài thơ:

'Cuộc đời cách mạng thật là sang”

Chỉ một từ “sang” làm cho tư tưởng bài thơ vụt sáng. Phải chăng người đọc thắc mắc vì sao Bác gọi cuộc đời cách mạng gian khổ là “sang”. Cái sang ở đây không phải là cái sang về vật chất mà mà giàu có về rất nhiều điều khác. “Sang” là ở một cuộc sống hòa mình với thiên nhiên, tuy không xa hoa nhưng giản dị, hòa hợp với thiên nhiên khiến cho tâm hồn tươi tắn thanh thản. “Sang” ở đây là một tấm lòng hạnh phúc khi được hoạt động và làm việc vì nhân dân, vì đất nước, làm công việc có ý nghĩa cho cuộc đời. “Sang” ở đây là tuy thiếu về vật chất nhưng tinh thần thì luôn tràn trề đủ đầy một niềm lạc quan vào ngày giải phóng dân tộc đang dần tới.

Với lời thơ giản dị, tự nhiên, giọng thơ sảng khoái mang đầy tinh thần lạc quan, Hồ Chủ Tịch đã cho ta thấy cái “thú lâm tuyền” của Người nhưng không phải là cái thú vui của Nguyễn Trãi, Nguyễn BỈnh Khiêm năm xưa “lánh đục về trong” mà là sự tạo nhã, hòa hợp với thiên nhiên ngay trong cuộc đời người lính. Ở Hồ Chí Minh, niềm vui hòa hợp với thiên nhiên vẫn gắn với cuộc đời cách mạng, cuộc đời hoạt động sôi nổi không ngừng nghỉ vì dân vì nước.

Bài thơ là sự diễn tả những hoạt động thường nhật của Bác Hồ trong những ngày hoạt động cách mạng ở hang Pác- bó, Cao Bằng. Qua bài thơ, hình ảnh Bác Hồ trong lòng người đọc càng thêm đẹp, thêm sáng lấp lánh trong sự giản dị, lạc quan, tình yêu thiên nhiên sâu sắc, tinh thần cách mạng và tài năng thơ ca tuyệt diệu. Nhân cách cao khiến của Người còn sáng mãi trong lòng mọi con dân nước Việt.

Phân tích Tức cảnh Pác Bó (Mẫu 11)

Bác không chỉ là nhà hoạt động cách mạng kiên trung, không khuất phục, mà còn là một con người vô cùng lạc quan trong hoàn cảnh khó khăn, gay go. Những đoạn thơ hóm hỉnh như:

Khách đến thì mời ngô nướng
Săn về thì thường chén thịt rừng quay
Non xanh nước biếc tha hồ dạo,
Rượu ngọt, chè tươi mắc sức say

Những vần thơ như vậy thường xuất hiện trong các tác phẩm của Bác. Đặc biệt là trong thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến của dân tộc, khi cần phải hoạt động tại rừng núi Cao Bằng, nhưng không phải vì vậy mà tinh thần ung dung, lạc quan bị mất đi. Điều này được thể hiện rõ nhất trong bài thơ Tức cảnh Pác Bó.

Bài thơ khởi đầu tạo ra không gian hoạt động bí mật của Người ở Việt Bắc: Sáng ra bờ suối, tối vào hang. Câu thơ tạo thành hai vế rất cân đối, thời gian sáng tối, không gian suối – hang, hoạt động ra – vào, cho thấy nét đều đặn, sinh động và hết sức mềm mại của người.

Bác không chỉ là nhà hoạt động cách mạng kiên cường, bất khuất, mà còn là một con người hết sức lạc quan trong hoàn cảnh khó khăn, gian khó. Trong giai đoạn đầu, khi cách mạng còn non yếu, chưa có thế lực, phải hoạt động bí mật và gặp nhiều khó khăn nhưng người chiến sĩ cách mạng vĩ đại vẫn hết sức ung dung, tự tin. Quy luật vận động đó cũng khẳng định tinh thần làm chủ hoàn cảnh, chủ động, lạc quan của người chiến sĩ cách mạng.

Không chỉ gian khổ, thiếu thốn trong không gian sống, mà sự khó khăn ấy còn hiện lên trong cả bữa ăn, nơi làm việc của Bác:

Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng
Bàn đá chông chênh dấu vết lịch sử Đảng

Câu thơ thể hiện tâm trạng ung dung, lạc quan của Bác. Núi rừng thiên nhiên Việt Bắc vẫn luôn sẵn sàng cháo bẹ, rau măng phục vụ cho người chiến sĩ cách mạng. Câu thơ không chỉ thể hiện cái khổ, khắc nghiệt mà Bác phải đối mặt, mà còn là nụ cười hóm hỉnh của một con người sống trong hoàn cảnh khó khăn nhưng vẫn hết sức lạc quan yêu đời.

Và hàng ngày Người vẫn ngồi bên bàn đá chông chênh viết Đường cách mệnh, phục vụ cho cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc. Hai chữ chông chênh gợi lên tư thế không chắc chắn, không vững vàng, cho thấy những khó khăn chất chồng của hiện thực cuộc kháng chiến. Nhưng trên nền hoàn cảnh khắc nghiệt đó, người chiến sĩ cách mạng vẫn vượt lên để hoàn thành nhiệm vụ, để thực hiện nghĩa vụ, lý tưởng cao đẹp của mình, xứng đáng được trân trọng và kính phục.

Mặc dù hoạt động cách mạng gian khổ, nhưng kết luận của toàn bài lại mang đến cho người đọc sự bất ngờ, mà cao hơn chính là sự cảm phục: Cuộc đời cách mạng thật là tuyệt vời. Tuyệt vời được hiểu là tinh túy, đầy đủ. Nhưng trong hoàn cảnh của Bác, ăn uống, nghỉ ngơi thiếu thốn liệu có thực sự tuyệt vời không?

Với Bác, điều đó không phải là tuyệt vời, mà tuyệt vời nhất ở đây chính là di sản Đảng, là được hoạt động cách mạng để thực hiện lý tưởng đẹp đẽ của mình, mang lại độc lập, tự do, cho dân tộc. Giọng điệu thơ tự nhiên, hóm hỉnh, mà cũng rất kiêu hãnh, khẳng định tinh thần thép của người chiến sĩ cách mạng.

Bài thơ sử dụng thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, ý tại ngôn ngoại, lời thơ hàm súc cô đọng, cùng với giọng điệu thơ hóm hỉnh, vui đùa đã làm nổi bật chân dung người chiến sĩ cách mạng. Đó là một con người mang trong mình phong thái ung dung, lạc quan, mang trong mình lý tưởng cao đẹp, cứu nước, cứu đời.

Phân tích Tức cảnh Pác Bó (Mẫu 12)

Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là nhà cách mạng vĩ đại mà còn là nhà văn, nhà thơ lớn. Những tác phẩm người để lại có giá trị rất lớn đối với nền văn học Việt Nam. Tiêu biểu nhất có lẽ là bài thơ Tức cảnh Pác Pó.

Sinh thời Hồ Chí mInh không có ý định xây dựng cho mình một sự nghiệp văn chương, Bác cũng không nhận mình là nhà văn, nhà thơ. Chỉ đơn giản, Người thích văn, thơ, Người nhận ra rằng văn thơ cũng có thể trở thành vũ khí chiến đấu. Người từng viết:

'Ngâm thơ ta vốn không ham

Nhưng vì trong ngục biết  làm chi đây

Ngày dài ngâm ngợi cho khuây

Vừa ngâm vừa đợi đến ngày tự do'.

Quan điểm sáng tác của Bác rất đặc biệt, Bác xem văn nghệ là vũ khí, nghệ sĩ là vũ khí chiến đấu, văn chương cần phục vụ cách mạng. Sự nghiệp sáng tác của Bác nổi bật nhất ở ba thể loại: văn chính luận, truyện và kí, thơ ca.

Có thể nói, sự nghiệp sáng tác văn thơ của chủ tịch Hồ Chí Minh chính là di sản văn hoá vô giá, rất nhiều tác phẩm đã để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng mỗi người Việt Nam. Những tác phẩm ấy chứa đựng giá trị truyền thống và hiện đại là kết tinh của dân tộc và của nhân loại.

'Sáng ra bờ suối tối vào hang

Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng

Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng

Cuộc đời cách mạng thật là sang'.

Tức cảnh Pác Pó ra đời sau khi Bác Hồ trở về nước với hơn ba mươi năm bôn ba khắp năm châu bốn bể. Lúc này tình hình trong nước và thế giới rất phức tạp, Bác đã về nước và trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Người đã chọn hang Pác Pó (Cao Bằng) là nơi ở và làm việc của mình. Tuy sống trong hoàn cảnh vô cùng khó khăn và khổ cực, nhưng người chiến sĩ cách mạng ấy vẫn vui vẻ, lạc quan yêu đời. 'Đối với Nguyễn Ái Quốc và các bạn chiến đấu của Người, những ngày tháng ở Pác Pó tựa như những ngày vui bất tận, rực rỡ sắc màu của cảnh chờ đợi những chuyển biến vĩ đại'. Được sống giữa thiên nhiên đất trời, người tức cảnh sinh tình, sáng tác bài thơ Tức cảnh Pác Pó.

Ngay ở tên của tác phẩm, Bác cũng đặt tên là 'Tức', ở đây có nghĩa là thấy cảnh đẹp liền nảy sinh thơ, hoàn toàn không có sự chuẩn bị, đó là những câu thơ ngẫu hứng sau những giờ làm việc. Bài thơ là một tâm thế thoải mái, ung dung tự tại.

'Sáng ra bờ suối tối vào hang'

Mở đầu tác phẩm là những hình ảnh đối lập 'sáng' và tối, 'ra' và 'vào' 'bờ suối' và 'vào hang'. Câu thơ đã cho ta thấy đó là nhịp sống thường ngày của Bác trong những ngày sống tại hang Pác Pó. Câu thơ cũng tái hiện nơi sống và làm việc của Người. Một nơi thật khó khăn, thiếu thốn, nhưng tâm thế của Bác coi đó là sự hưởng thụ, an nhàn.

'Cháo bẹ, rau măng vẫn sẵn sàng'

Ở câu thơ thứ hai, là hình ảnh bữa cơm giản dị của Người. Chúng ta bắt gặp hình ảnh măng trong thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm:

'Thu ăn măng trúc, đông ăn giá

Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao'.

Có thể thấy sự tương đồng giữa Bác và Nguyễn Bỉnh Khiêm, đó là những món ăn dân dã, giản dị, một cuộc sống tự cung, tự cấp. Ấy vậy mà người chiến sĩ cách mạng dùng từ 'sẵn sàng', dường như đối với Bác, việc ăn những món ăn ấy là một thú vui, sự thích nghi với hoàn cảnh, khắc phục khó khăn, đó là một tư thế chủ động, tinh thần lạc quan. Người biết rằng, lúc bấy giờ đồng bào ta còn nghèo, nhiều nơi nhân dân còn đói, việc ăn cháo và măng đối với Bác cũng là điều hiển nhiên, không ca thán.

'Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng'

 Những tưởng một vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc, nơi làm việc của Người phải là nơi văn phòng sang trọng, sạch sẽ. Ấy vậy mà nơi làm việc của một Chủ tịch nước lại là chiếc 'bàn đá chông chênh'. Từ láy 'chông chênh' cho thấy điều kiện làm việc thiếu thốn, tạo cảm giác bấp bênh, không bằng phẳng, tạo sự khó khăn. Trái ngược với hình ảnh thiếu thốn ấy, nơi chiếc bàn đá ấy đã viết ra biết bao nhiêu quyết định, những hướng đi mới cho cách mạng Việt Nam. Câu thơ miêu tả điều kiện làm việc thiếu thốn của Bác đồng thời nói lên công việc người làm 'dịch sử Đảng' - đó là một tài liệu vô cùng quan trọng đối với các cán bộ cách mạng. Tuy sống trong hoàn cảnh thiếu thốn, nhưng sự lạc quan luôn luôn có trong con người Bác.

'Cuộc đời cách mạng thật là sang'.

 Bài thơ kết thúc bằng chữ 'sang', một vị lãnh tụ ngồi giữa thiên nhiên, vạch ra những con đường đi giải cứu cả một dân tộc thoát khỏi cảnh lầm than. Được cống hiến sức mình phục vụ cho nhân dân là một niềm hạnh phúc đối với Bác. Người không quản ngại khó khăn, gian khổ mang lại độc lập cho dân tộc. Đưa ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin soi rọi những kiếp người đang sống trong cảnh tăm tối. Từ 'sang' phần nào bộc lộ phong thái ung dung, lạc quan, yêu đời của Bác. Người không cần một chỗ làm việc sang trọng, việc đứng trong hàng ngũ của Đảng chiến đấu là một niềm vinh dự, trên thế giới thật hiếm có ai 'sang' theo kiểu của Bác.

Bài thơ là sự kết hợp giữa cổ điển và hiện đại, ngôn từ hàm súc, giàu sức gợi hình, nhân vật trữ tình có phong thái ung dung hoà mình vào thiên nhiên, nhưng đề tài của Bác gắn liền với tính thời sự và cách mạng. Niềm tin, niềm tự hào của Bác tỏa sáng cả bài thơ. Chính sự ung dung, tinh thần sẵn sàng, vững vàng tạo nên cái quý trong cuộc đời của con người một lòng một dạ với đất nước, dân tộc. Chỉ với bốn câu thơ ngắn gọn, chúng ta đã hiểu thêm về một giai đoạn trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Bác. Vượt lên mọi khó khăn, Người tin tưởng vào sự nghiệp thắng lợi của cách mạng. Thơ của Bác vừa giản dị, lại đầy ý nghĩa sâu xa, vừa đậm chất cổ điển, vừa mang hơi hướng thời đại. Tức cảnh Pác Pó là đại diện của hồn thơ đó.

Viết đoạn văn ngắn cảm nhận về bài thơ ...

Phân tích Tức cảnh Pác Bó (Mẫu 13)

“Bác Hồ, Người là niềm tin thiết tha nhất trong lòng dân và trong trái tim nhân loại.” Có một câu hát như thế đã đi qua biết bao những tháng năm. Hồ Chí Minh- vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, con người “ chỉ biết quên mình cho hết thảy” không phải ngẫu nhiên được Thế giới tôn vinh là Danh nhân Văn hóa. Người không chỉ là một nhà lãnh đạo tài ba, một nhà Văn hóa lớn, một nhà tư tưởng lớn mà còn là một Nhà văn, một thi sĩ. Trong cuốn” Nhật kí trong tù” được viết trong khoảng thời gian Bác bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam, nhà thi sĩ ấy đã từng bộc bạch:

“Ngâm thơ ta vốn không ham”.

Con người ấy chưa một lần nhận mình là thi sĩ. Bác chỉ khẳng định tình yêu đối với văn nghệ nói chung và văn chương nói riêng. Nhưng Người cha già dân tộc chưa một lần nhận mình là thi sĩ ấy đã để lại cho nền Văn học Việt Nam cả một gia tài quý báu. Một trong số đó, bài thơ “ Tức cảnh Pác Bó” để lại trong lòng người đọc những ấn tượng sâu sắc.

Tháng Hai năm 1941, sau ba mươi năm bôn ba hoạt động ở nước ngoài, Bác Hồ đã về nước để trực tiếp lãnh đạo cuộc cách mạng của dân tộc. Người sống trong hang Pác Bó- một hang núi nhỏ sát với biên giới Việt- Trung. Trước cửa hang, có một phiến đá gồ ghề được Bác chọn làm nơi ngồi dịch sử Đảng bên một con suối trong vắt được Người đặt tên là suối Lê-nin. Tại đây, Bác Hồ viết bài thơ “Tức cảnh Pác Bó” để nói về cuộc sống kham khổ những ngày đầu của cuộc kháng chiến dai dẳng đánh đuổi thực dân xâm lược, đồng thời thể hiện một tinh thần lạc quang thông qua nhãn quang của người chiến sĩ Cách mạng.

Bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật. Câu thơ mở đầu gợi hình dung về cuộc sống sinh hoạt và làm việc của Bác tại hang Pác Bó (Cao Bằng):

“Sáng ra bờ suối, tối vào hang”

Nhịp thơ 4/3, chia câu thơ thành hai vế đối nhau rất chỉnh. Đối vế: “ Sáng ra bờ suối “/ “ tối vào hang”, đối thời gian “sáng”/ “tối”, đối hoạt động “ra”/ “vào”, đối không gian thiên nhiên rộng mở “bờ suối” với không gian nhỏ chật hẹp “hang”. Nghệ thuật đối kết hợp với các động từ được sử dụng hết sức giản dị như vẽ ra trước mắt chúng ta một cuộc sống bí mật, tuy thế mà vẫn rất có quy củ, nề nếp. Đặc biệt, giọng thơ cũng giúp ta cảm nhận được tâm trạng thoải mái, ung dung, hòa điệu cùng nhịp sống núi rừng của Bác. Phải chăng đó là bởi con người yêu thiên nhiên, luôn hòa mình với thiên nhiên, đắm say trước vẻ đẹp của thiên nhiên ngay cả trong hoàn cảnh tù đày:

“Trong tù không rượu cũng không hoa
Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ
Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ.”

Nếu như câu thơ thứ nhất giới thiệu khái quát về cuộc sống tại hang Pác Bó – Cao Bằng thì câu thơ thứ hai tiếp tục làm rõ về những ngày sáng sống giản dị và có phần khó khăn ấy:

“Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng”

Câu thơ hoàn toàn được thêu dệt bằng bút pháp tả thực. Đó là những món ăn hàng ngày của Bác ở rừng Pác Bó. Cách diễn đạt của nhà thi sĩ ấy rất hóm hỉnh, làm cho câu thơ ánh lên nét cười. Cháo bẹ, rau măng là những món ăn nghèo đạm bạc nhưng chứa chan tình cảm bởi đó là những thức ăn do thiên nhiên ban tặng và người dân cung cấp. Thưởng thức cháo bẹ, rau măng là niềm vui của người chiến sĩ cách mạng luôn biết sống gắn bó với thiên nhiên, với nhân dân. Qua đó có thể thấy Bác Hồ là một người có tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống tha thiết và coi thường mọi khó khăn gian khổ. Có phải vì thế mà sau này, Người đã răn dạy thế hệ sau:

“Không có việc gì khó
Chỉ sợ lòng không bền
Đào núi và lấp biển
Quyết chí ắt làm nên”?

Câu thơ thứ nhất và câu thơ thứ hai nói về cuộc sống sinh hoạt hàng ngày của Người chiến sĩ cách mạng để rồi đến câu thơ thứ ba, Bác viết về những công việc trong công cuộc hoạt động cách mạng của mình:

“Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng”

Từ láy “chông chênh” gợi tự thế không vững chãi, không bằng phẳng, không ổn định. Bàn đá chông chênh hay cũng chính là hình ảnh tượng trưng cho cuộc cách mạng của nhân dân ta thời kì đầu rất khó khăn, gian khổ. Đồng thời đó cũng là một hình ảnh có thực về hòn đá được Người chọn làm nơi làm việc bên con suối trong vắt được Bác đặt tên là suối Lê-nin. Có thể thấy cuộc sống sinh hoạt đã đạm bạc, nghèo khó, cuộc sống làm việc lại càng thiếu thốn hơn. Bác Hồ hiện lên vừa như một người khách lâm tuyền, vừa là một chiến sĩ cách mạng vĩ đại.

Bài thơ kết lại với câu thơ nêu cảm nghĩ của Bác về cuộc đời Cách mạng:

“Cuộc đời cách mạng thật là sang”

Câu thơ được viết bằng kiểu câu cảm thán dùng để khẳng định: cuộc đời cách mạng sang. “ Sang” là sự giàu có, là tinh thần của một tâm hồn luôn tìm thấy sự thư thái giữa thiên nhiên. “ Sang” cũng còn là sự sang trọng, giàu có của một con người luôn tự thấy mình sống có ích cho cách mạng, cho nhân dân.

Chỉ bằng bốn câu thơ ngắn gọn, giọng thơ gần gũi, ngôn ngữ thơ giản dị, “ Tức cảnh Pác Bó” như một bức tranh tốc kí với những đường nét rất đỗi thanh sơ, chất phác và mộc mạc về cuộc sống sinh hoạt và làm việc của vị lãnh tụ vĩ đại nói riêng cũng như những chiến sĩ cách mạng nói riêng những năm đầu cuộc kháng chiến đầy gian nan và thử thách. Từ đó giúp cho thế hệ sau hiểu hơn về giá trị của sự sống hòa bình mà ngày nay ta đang có, biết sống và học tập để trở thành người có ích cho xã hội, góp phần dựng xây và gìn giữ quê hương đất nước.

Phân tích Tức cảnh Pác Bó (Mẫu 14)

Hồ Chí Minh là một nhà chính trị quân sự tài ba, một nhà thơ, nhà văn lớn của dân tộc Việt Nam ở thế kỉ XX. Bài thơ 'Tức cảnh Pác Bó' được Bác sáng tác vào tháng 2 năm 1941, tại Pác Bó (Cao Bằng). Qua bài thơ, chúng ta thấy được tinh thần lạc quan, phong thái ung dung của Người trong cuộc sống cách mạng đầy gian khổ. Có thể nói, tác phẩm là một bức chân dung tự họa của người chiến sĩ cộng sản.

Bài thơ được viết trong hoàn cảnh sau ba mươi năm bôn ba hoạt động cách mạng ở nước ngoài, đến đầu năm 1941, Bác trở về nước, trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Người đã sống và làm việc tại hang Pác Bó (Cao Bằng) trong một điều kiện sinh hoạt vô cùng khó khăn, thiếu thốn, gian khổ. Thế nhưng, khi phải đối diện với hoàn cảnh đó, Bác Hồ vẫn vui vẻ, lạc quan, tràn đầy tinh thần làm việc cách mạng hăng say bởi Bác đang được sống và làm việc ngay trên mảnh đất quê hương, đang trực tiếp dẫn dắt cả dân tộc ta tiến lên giành lấy ngọn cờ độc lập, hòa bình của đất nước.

Trước hết hai câu thơ mở đầu là lời giới thiệu về cuộc sống của Bác ở Pác Bó – một cuộc sống khó khăn, thiếu thốn:

Sáng ra bờ suối tối vào hang
Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng.

Chỉ hai câu thơ rất ngắn gọn, gồm có mười bốn chữ cái nhưng nhà thơ đã gợi mở ra một không gian – thời gian sống, làm việc rất cụ thể, rõ ràng: nơi ở trong hang núi, nơi làm việc thì bên bờ suối và thức ăn là cháo bẹ, rau măng. Cách ngắt nhịp 4/3 thường thấy của thể thơ tứ tuyệt, kết hợp với lời thơ cân đối ( sáng – tối, ra – vào, ra suối – vào hang) đã cho thấy một nếp sống sinh hoạt và làm việc rất đều đặn, trở thành một thói quen trong một hoàn cảnh đặc biệt của Bác: 'Cháo bẹ' (cháo ngô), rau măng (măng nứa, măng tre, măng rừng) thật đạm bạc, đều là những thức ăn đơn sơ có sẵn của thiên nhiên núi rừng. Nhưng Bác không hề cảm thấy khắc khổ mà ngược lại thấy rất thoải mái, ung dung: 'vẫn sẵn sàng'. Từ 'vẫn' đã cho thấy sự tương phản hoàn toàn giữa một bên là sự thiếu thốn về vật chất với một bên là tinh thần thanh thản, lạc quan trước hoàn cảnh đó. Ta đọc ở đây một nụ cười kín đáo hồn nhiên rất giản dị, chân thành, khiến người đọc có cảm giác như Bác đang bằng lòng, thích thú và vui sướng với cuộc sống như vậy. Đó là một cuộc sống chan hòa với thiên nhiên, với chốn lâm tuyền của núi rừng bí ẩn. Chẳng thế mà chúng ta luôn thấy, thiên nhiên từ lâu đã trở người bạn 'tri kỉ' trong thơ của Người:

Cảnh rừng Việt Bắc thật là hay
Vượn hót chim kêu suốt cả ngày...

Hay:

Tiếng suối trong như tiếng hát xa
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa...

Cảm xúc, tâm trạng đó của Bác đã làm toát lên ở Người vẻ đẹp thanh cao trong sáng của một tâm hồn yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống, coi thường vật chất bên ngoài, rất gần với cách thể sống của những bậc hiền nhân xưa:

Thu ăn măng trúc, đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao
Rượu đến cội cây ta sẽ uống
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao.

(Nhàn – Nguyễn Bỉnh Khiêm)

Tuy nhiên, nếu người xưa tìm đến thiên nhiên, đến núi non lâm tuyền là để lánh đục tìm trong, thể hiện tâm thế 'an bần lạc đạo', là cách để họ di dưỡng tinh thần mà trốn tránh sự đời thì ở Bác dù có hòa mình với vũ trụ, với thiên nhiên hoa lá cỏ cây, trăng gió vẫn hiện lên tư thế của một người chiến sĩ cộng sản yêu nước, thương dân đang trực tiếp tham gia cách mạng cùng với nhân dân:

Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng
Cuộc đời cách mạng thật là sang.

'Bàn đá chông chênh' vừa là chiếc bàn của thiên nhiên rừng núi, lại vừa là chiếc bàn của lòng người. Bác đã biến phiến đá thông thường của tự nhiên làm thành chiếc bàn kê thật giản dị, đơn sơ cạnh một công việc lớn lao cao cả: 'dịch sử Đảng'. Với việc sử dụng ba thanh trắc liền kề liên tiếp ở ba tiếng cuối câu thơ thứ ba tạo nên âm hưởng chắc khỏe cho lời thơ, đồng thời thể hiện một tư thế, một tâm hồn, một bản lĩnh cứng cỏi, vững vàng, chắc chắn. Vì thế, chiếc bàn đá chông chênh kia thực chất là hình ảnh ẩn dụ để chỉ 'tấm lòng vững như bàn thạch của người cách mạng đã nhìn đá ra bàn...' (Chế Lan Viên). Câu thơ đã dựng lên hình tượng người chiến sĩ cách mạng trong một tư thế uy nghi, sừng sững, thật lớn lao trong một không gian rừng núi yên tĩnh. Và Bác hiện lên như một ông tiên giáng trần đang đọc sách và thưởng ngoạn cảnh núi non lâm tuyền ở Pác Bó.

Khép lại bài thơ, lời thơ thẳng thắn, nhẹ nhàng, chất chứa một nụ cười lạc quan:

Cuộc đời cách mạng thật là sang.

Chỉ cần nhắc tới hai tiếng 'cách mạng' thôi là chúng ta đã cảm thấy sự hiểm nguy, vất vả và gian khó như thế nào. Vậy mà Bác lại cảm thấy việc làm đó 'thật là sang'. Phải chăng cái 'sang' mà Bác nói tới ở đây là vì giờ đây Bác đang được sống với thiên nhiên núi rừng Pác Bó, nơi quê hương Việt Nam yêu dấu mà suốt cả cuộc đời Người muốn đấu tranh để bảo vệ nó, và cao hơn, cái 'sang' của công việc làm cách mạng đó là ý nghĩa, mục đích tôn chỉ cao đẹp mà Bác làm là: cứu dân, cứu nước, đem lại hòa bình, hạnh phúc cho nhân dân. Bởi cả cuộc đời Bác đều dành trọn cho cách mạng vì nước, vì non. Ta đọc trong câu thơ là một tấm lòng rộng mở, một nhân cách vĩ đại, lớn lao ở Người:

Bác ơi! tim Bác mênh mông thế
Ôm cả non sông mọi kiếp người.

Bài thơ được viết theo thể thơ tứ tuyệt, có sự kết hợp giữa chất cổ điển và tinh thần hiện đại, giọng điệu dí dỏm, vui tươi, ngôn từ dễ hiểu, giản dị, hình ảnh đời thường mộc mạc... tất cả đã làm nên thành công của tác phẩm. Khép lại trang thơ, người đọc thấy được một tinh thần lạc quan, một phong thái ung dung thanh thản, một bản lĩnh thép cứng cỏi, phi thường vượt lên trên gian khó và luôn mang trong mình trái tim nhân hậu, bao dung: yêu thiên nhiên, yêu đất nước sâu sắc ở Hồ Chí Minh.

Phân tích Tức cảnh Pác Bó (Mẫu 15)

Thú lâm tuyền đã từng xuất hiện trong thơ ca của các nhà nho xưa như Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm. Và niềm vui thú khi được sống cùng thiên nhiên đó cũng xuất hiện trong thơ ca Hồ Chí Minh, tiêu biểu là bài thơ 'Tức cảnh Pác Bó':

'Sáng ra bờ suối, tối vào hang
Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng
Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng
Cuộc đời cách mạng thật là sang'.

Bài thơ này được Bác viết vào tháng 2 năm 1941, sau ba mươi năm bôn ba và hoạt động cách mạng ở nước ngoài, Bác trở về để lãnh đạo cách mạng Việt Nam một cách trực tiếp với mục đích nhanh chóng giành được thắng lợi, giải phóng nhân dân khỏi ách áp bức.

Bác sống và làm việc trong một hang núi nhỏ sát biên giới Việt - Trung, đó là hang Pác Bó. Con suối cạnh hang Pác Bó được Bác đặt tên là suối Lê-nin. Ngày ngày, nhịp sinh hoạt của Bác cứ diễn ra đều đặn, sáng sớm Bác ra bờ suối làm việc, tối đến Bác vào trong hang để nghỉ ngơi. Và khi nhắc đến chỗ ở, khung cảnh sinh hoạt thường ngày của mình, Bác đã dùng một giọng điệu thơ hết sức vui tươi xen lẫn sự hóm hỉnh: 'Sáng ra bờ suối, tối vào hang'

Nhịp thơ 4/3 cùng với phép đối 'sáng' - 'tối', 'ra - vào' đã cho chúng ta thấy được nếp sinh hoạt nhịp nhàng, đều đặn của Bác. Không gian sinh hoạt của Người được diễn ra ở hai địa điểm: hang và suối. Song song với đó là hai hành động 'ra bờ suối' , 'vào hang' cứ tuần hoàn, nối tiếp nhau như sự tuần hoàn của tự nhiên, tạo vật. Câu thơ chỉ có 7 tiếng ngắn gọn nhưng đã miêu tả được chi tiết hoàn cảnh sống của Bác qua thời gian 'sáng' - 'tối', hoạt động 'ra' - 'vào' và địa điểm 'bờ suối' - 'hang'.

Qua giọng điệu thơ dí dỏm, bạn đọc phần nào hình dung được tâm thế chủ động, sống hòa hợp với thiên nhiên của Bác. Chính tâm hồn ung dung, thoải mái đã giúp Bác chiến thắng mọi hoàn cảnh khắc nghiệt. Sống và làm việc trong hoàn cảnh khó khăn như vậy nên bữa ăn của Bác cũng hết sức đạm bạc, dân dã: 'Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng'.

Nhắc đến núi rừng Tây Bắc chúng ta không thể không nhắc đến hai sản vật 'cháo bẹ' và 'rau măng'. Đây là những món ăn quen thuộc có mặt hàng ngày trong bữa ăn của Bác. Cháo ngô, măng rừng đã thay thế cho cơm. 'Cháo bẹ', 'rau măng' luôn được chuẩn bị đầy đủ để phục vụ cho các bữa ăn của Người. Ngoài ra, chúng ta có thể nhận thấy rằng Hồ Chí Minh đón nhận những điều đó bằng một tâm thế 'sẵn sàng' của người chiến sĩ cách mạng không đầu hàng trước mọi hoàn cảnh.

Bác không những không yêu cầu được chăm sóc, phục vụ tốt hơn hay than vãn, phàn nàn về cuộc sống ấy mà ngược lại, Người tỏ ra hoàn toàn vui vẻ và thích ứng với hoàn cảnh gian khổ. Trong khi đất nước bị xâm lược, cuộc sống nhân dân điêu đứng, lầm than, Bác không thể chỉ nghĩ cho riêng bản thân mình mà Bác nghĩ cho toàn thể nhân dân, dân tộc.

Nếu phiến đá bên bờ suối Lê-nin gợi ra sự không cân bằng, nhấp nhô, khập khiễng bao nhiêu thì quyết tâm làm việc của Bác lại cứng rắn, quyết liệt bấy nhiêu. Công việc của Bác cần có sự tập trung cao độ. Ta có thể hình dung Bác dịch cuốn 'Lịch sử Đảng Cộng sản Liên Xô' để làm tài liệu học tập cho các cán bộ cách mạng lúc bấy giờ trên bàn làm việc không được cân bằng do từ láy tượng hình 'chông chênh' gợi ra.

Cả cuộc đời hoạt động cách mạng không mệt mỏi, Người đã thấy rằng: 'Cuộc đời cách mạng thật là sang'. Được mang sức lực của mình phục vụ cho nhân dân, đất nước là một niềm hạnh phúc đối với Hồ Chí Minh. Bác không quản ngại khó khăn, gian truân để cống hiến, mang lại độc lập, tự do cho dân tộc. Lý tưởng cách mạng đã soi sáng cho con đường của người chiến sĩ cộng sản. Từ 'sang' đã phần nào bộc lộ phong thái ung dung, lạc quan, yêu đời của Bác.

Bác không cần một chỗ ở sang trọng, những bữa ăn đầy đủ cá thịt hay cần một chiếc bàn làm việc bằng phẳng. Điều Bác cần là được đứng trong hàng ngũ Đảng Cộng sản, chiến đấu để mang lại cuộc sống hòa bình, no ấm cho nhân dân. Chắc có lẽ trên thế giới hiếm có ai 'sang' theo kiểu của Bác. Bằng tinh thần yêu nước sâu sắc, Bác Hồ đã luôn khắc phục, vượt lên trên hoàn cảnh để cống hiến cho sự nghiệp giải phóng dân tộc.

Ba câu đầu của bài thơ thiên về tả cảnh, chỉ đến câu thơ cuối Bác Hồ mới bộc lộ tâm trạng nhưng dường như nụ cười vui tươi vẫn thấp thoáng sau mỗi câu thơ của Người. Nó đã đẩy lùi đi tất cả những khó khăn, nguy hiểm và tiếp thêm tinh thần cho Bác, một tinh thần 'thép' giữa hoàn cảnh sống và làm việc thiếu thốn, gian khổ.

Bài thơ 'Tức cảnh Pác Bó' được viết theo thể thất ngôn tứ tuyệt cùng với cách ngắt nhịp 4/3 đã tạo nên nhịp điệu thơ nhẹ nhàng, khoan thai. Giọng thơ hài hước, hóm hỉnh đã cho thấy tinh thần lạc quan, sự ung dung trong hoàn cảnh đầy khó khăn của người chiến sĩ cộng sản. Đối với Bác, không có niềm vui nào lớn hơn là niềm vui làm cách mạng, mang lại độc lập cho dân tộc và sống hòa hợp với thiên nhiên.

Phân tích Tức cảnh Pác Bó (Mẫu 16)

Tức cảnh Pác Bó là một trong những bài thơ tứ tuyệt tiêu biểu cho phong cách thơ Hồ Chí Minh. Bài thơ thể hiện niềm vui, niềm tin mãnh liệt và nghị lực phi thường của Bác trong hoàn cảnh sống và làm việc giữa núi rừng Việt Bắc, sau mấy chục năm trời xa cách đất nước và dân tộc.

Trong ba câu thơ đầu bài thơ, Bác nhắc đến điều kiện ở - ăn - làm việc của mình. Ăn và ở là hai nhu cầu tất yếu của con người. Và riêng Bác, khi nói đến đời sống sinh hoạt của mình, Người luôn đề cập thêm vấn đề công việc. Ấy bởi Bác là người luôn luôn làm việc, suốt đời lo cho dân, cho nước. Điều đó cho thấy tấm lòng của Bác vĩ đại đến nhường nào Câu thơ đầu nói về nơi ở của người chiến sĩ. Nhịp thơ 4/3 tạo thành hai vế sóng đôi. Câu thơ toát lên một cảm giác về sự nhịp nhàng, nề nếp: sáng ra, tối vào. Không gian: suối – hang, thời gian: sáng – tối, hoạt động: vào – ra. Nghệ thuật đối làm nổi bật không gian hoang sơ, khó khăn, nếp sống hài hòa, gắn bó với thiên nhiên của Bác. Giọng điệu cấu thơ rất thoải mái cho thấy sự ung dung, sự hòa nhịp của Bác Hồ với núi rừng nơi đây. Cuộc sống đều đặn với khung cảnh bờ suối bình dị, với nơi ở là hang tối. Không chỉ khó khăn về nơi ở, đồ ăn uống của Bác cũng rất hạn chế. Đó chỉ là những thứ rất dân dã, sẵn có của núi rừng như cháo bẹ, rau măng: 'Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng'. Câu thơ sử dụng nghệ thuật liệt kê, tái hiện chân thật cuộc sống của người chiến sĩ Cách mạng. Giọng thơ đùa vui, hóm hỉnh; câu thơ vẫn tiếp tục mạch cảm xúc hòa nhịp với cuộc sống núi rừng. Cuộc sống nơi đây nhiều gian khổ, khó khăn nhưng Người luôn vui thích, bằng lòng với cuộc sống ấy. Thậm chí Người còn cảm thấy rất thoải mái, rất sảng khoái.

Niềm vui ấy đã làm cho Bác say mê làm việc, say mê trong bước đường hoạt động và lãnh đạo kháng chiến: 'Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng'. Đây là hình tượng trung tâm của bài thơ. Cuộc sống giữa núi rừng thật gian khổ, vất vả, thiếu thốn. Nơi làm việc cũng không lấy gì thoải mái vì bàn đá chông chênh, nhưng dáng điệu của Bác vẫn lồng lộng đường hoàng. Bác say mê với công việc, tập trung cao độ vào công việc mà chẳng hề quan tâm đến vật chất quanh mình. Từ láy chông chênh vừa tạo hình, vừa gợi cảm. Đó là thế không vững chãi vì không có chỗ dựa. Bàn làm việc là tảng đá không chắc chắn nhưng Người vẫn làm việc say sưa, khỏe khoắn với công việc: dịch sử Đảng, tìm ra đường lối để thực hiện cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Phép đối (đối ý, đối thanh) cho thấy điều kiện làm việc rất đơn sơ nhưng công việc rất lớn lao. Câu thơ mang giọng điệu mạnh mẽ, khắc họa chân thực, sinh động phong thái ung dung, lạc quan của người chiến sĩ.

Ba câu thơ đầu thể hiện một cách đầy đủ niềm vui thú được sống với rừng, suối của Bác Hồ. Cuộc sống của Bác nhiều gian khổ, khó khăn nhưng Bác hoà nhịp với cuộc sống núi rừng ấy, với suối, với hang, với cháo bẹ, với rau măng, với bàn đá. Cuộc sống đó với Người không những không nghèo khổ, thiếu thốn mà còn dư thừa, sang trọng. Có được điều đó là do tinh thần lạc quan của Bác. Vì thế: 'Cuộc đời cách mạng thật là sang'. 'Sang' ở đây là sang trọng, cao sang, nghĩa là rất đầy đủ, cao quý. Sở dĩ Người cảm thấy nó 'thật là sang' bởi vì nó là cuộc đời cách mạng, được cống hiến cho cách mạng. Với những người cách mạng, nhất là những người dẫn đường như Bác 'Người đi trước ngàn sương muôn tuyết. Dắt dìu dân nước Việt Nam ta' (Tố Hữu - Ba mươi năm đời ta có Đảng) thì khó khăn, gian khổ chỉ là sự trả giá, nói như Nguyễn Trãi: 'Khó khăn thì mặc có màng bao'. Thử so sánh hai hoàn cảnh sống: ở Pác Bó Việt Nam và hơn một năm sau đó, gần 30 nhà ngục ở Quảng Tây, Trung Quốc, điều kiện tinh thần tuy có khác nhau nhưng hoàn cảnh sống không hơn là mấy. Nói như thế mà thương Bác vô cùng, hiểu Bác vô cùng. Trong gian truân, Người đâu nghĩ đến bản thân mình. Nghĩ đến sự nghiệp của cách mạng, đất nước mà Người vui, nhất là tin, tin vào thời cơ độc lập đang đến gần. Vì thế 'sang' được coi là nhãn tự của câu thơ và câu thơ được coi là thần cú của bài thơ. Khẩu khí này khác hẳn với những câu thơ Người viết hơn một năm sau đó trong 'Nhật kí trong tù'. Bởi lẽ cái thiếu thốn đọa đày nơi ngục tù với Người là một thứ cực hình tra tấn, còn ở bài thơ này, nó lại là một niềm vui, nguồn cảm hứng thi nhân.

'Tức cảnh Pác Bó' là một bài thơ tứ tuyệt rất giản dị nhưng rất hàm súc, ý nghĩa thật sâu xa. Lời thơ pha giọng vui đùa cho ta thấy tinh thần lạc quan, phong thái ung dung cả Bác Hồ trong cuộc sống đầy gian khổ ở núi rừng Việt Bắc. Tinh thần ấy đã giúp Bác vượt qua mọi khó khăn gian khổ để lãnh đạo cách mạng Việt Nạm giành thắng lợi vẻ vang.

Tìm hiểu chi tiết văn bản: Tức cảnh Pác ...

Phân tích Tức cảnh Pác Bó (Mẫu 17)

Một ngày xuân năm 1941, 'Trắng rừng biên giới nở hoa mơ' lãnh tụ cách mạng - anh hùng giải phóng dân tộc Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, sau 30 năm buôn ba tìm đường cứu nước, cuối cùng quay về Việt Nam để chỉ huy cuộc kháng chiến chống Pháp. Người chọn Pác Bó (Cao Bằng) làm căn cứ kháng chiến, biến nơi này thành nguồn gốc của cách mạng. Hồ Chí Minh có một sự nghiệp chính trị vĩ đại, đồng thời cũng có một sự nghiệp văn chương đồ sộ, có thể nói rằng đời cách mạng của Người luôn kết hợp với đời sống văn chương. Văn chương là vũ khí đấu tranh, là bảo vệ, đồng thời cũng là thú vui tao nhã lúc rảnh rang, những khía cạnh đó có mối liên hệ rất sâu sắc. Vì vậy, trong những ngày sống và làm việc tại Pác Bó, dù hoàn cảnh khó khăn, cách mạng nước ta vẫn tràn đầy lạc quan, yêu đời, phong thái ung dung. Tác phẩm Tức cảnh Pác Bó chính là minh chứng cho tình yêu và sự gắn bó mạnh mẽ với thiên nhiên Pác Bó và niềm tự hào với 'Cuộc đời cách mạng thật là tuyệt vời' của Người.

Ở hai câu thơ đầu tiên, Bác đã mô tả cuộc sống tại Pác Bó của mình bằng giọng thơ tự nhiên, ngôn ngữ giản dị:

“Buổi sáng suối ra rửa, chiều tối vào hang
Cháo bẹ, rau măng sẵn sàng đây”

Chỉ trong hai câu thơ nhỏ, phong cách thơ tứ tuyệt, Bác đã khéo léo mở ra không gian sống và làm việc tại Pác Bó một cách rõ ràng. Những hình ảnh như “suối”, “hang” thường xa lạ với chúng ta ngày nay, nhưng với Bác, đó là những gì gần gũi, quen thuộc nhất. Cuộc sống của Bác bắt đầu từ việc buổi sáng ra suối rửa mặt, sau đó làm việc cả ngày bên bờ suối, khi tối đến thì hang chính là nhà, nơi để Bác nghỉ ngơi, dưỡng sức. Mặc dù cuộc sống khó khăn, nhưng Bác vẫn học cách thích nghi, sống hòa mình với thiên nhiên. Nhịp thơ 4/3 và hai vế tiểu đối “buổi sáng suối ra rửa/chiều tối vào hang” tạo ra sự nhịp nhàng, nền nã của cuộc sống, thể hiện phong thái ung dung nhẹ nhàng của Bác.

Không chỉ về điều kiện sống, thức ăn ở Pác Bó cũng rất thiếu thốn, suốt năm Bác chỉ ăn “cháo bẹ, rau măng” để no bụng. Mặc dù là thức ăn đơn điệu, không có nhiều chất dinh dưỡng, nhưng Bác vẫn coi trọng nó. Bác viết “Cháo bẹ rau măng sẵn sàng đây”, thể hiện tâm thế của Bác trước điều kiện sống thiếu thốn, nhưng không từ bỏ, vì Bác hiểu rõ khó khăn của đồng bào, nên không có gì để than vãn. Bác vẫn sẵn lòng ăn với tâm thế vui vẻ, thậm chí coi đó là một niềm vui của người làm cách mạng, sống với thiên nhiên, không gì quý hơn. Đồng thời, lời ca ngợi sự dồi dào măng, bắp ở Pác Bó, chứng tỏ sự dũng cảm của người chiến sĩ cách mạng không bao giờ sợ đói, vì luôn có thức ăn sẵn sàng cho họ.

Hồ Chí Minh sống gắn bó với thiên nhiên, cuộc sống đơn giản nhưng tràn đầy ý nghĩa. Bác là một người chiến sĩ cách mạng, sống với trách nhiệm với dân tộc, luôn luôn luôn lạc quan và ung dung trong mọi hoàn cảnh, từ đó thể hiện sự mạnh mẽ và vẻ vang của cuộc nghiệp cách mạng.

“Đá chông chênh dấu tích Đảng
Đời cách mạng thật là phong đẳng”

Sống giữa hoàn cảnh khó khăn, đơn sơ, tấm lòng cách mạng của Hồ Chí Minh được thể hiện rõ. Hình ảnh “đá chông chênh” không chỉ gợi lên hoàn cảnh thiếu thốn, khó khăn, mà còn thể hiện tâm trạng của cách mạng Việt Nam những ngày đầu kháng chiến chống Pháp. Bác luôn dành toàn tâm toàn ý cho việc lãnh đạo cách mạng, luôn kiên trì và vững bền trong chiến đấu, với lòng tự hào và lòng yêu nước không ngừng.

Bài thơ 'Tức cảnh Pác Bó' của Bác là một biểu tượng sâu sắc về hoạt động cách mạng tại Việt Nam. Bác không chỉ là người sống hòa mình với thiên nhiên, mà còn là một chiến sĩ cách mạng chân chính, luôn khao khát giành lại độc lập cho dân tộc.

Phân tích Tức cảnh Pác Bó (Mẫu 18)

Văn học Việt Nam ghi nhận nhiều tác giả có đóng góp quan trọng, mỗi giai đoạn lịch sử mang dấu ấn văn học riêng. Trong đó, không ai không biết đến Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ vĩ đại, nhà thơ tuyệt vời của văn học Việt Nam, qua bài thơ Tức cảnh Pác Bó, Bác đã cho thấy góc nhìn tích cực trong cuộc chiến đấu khốc liệt.

Bài thơ mở đầu với cuộc sống tại Pác Bó của Bác:

“Bình minh suối, tối vào hang
Cháo bẹ rau măng vẫn ăn no lòng”

“Bình minh - tối vào” là những hành động hàng ngày của Bác, một vòng tuần hoàn tự nhiên. Cuộc sống vất vả, gian khổ, Bác sống trong hang, ăn cháo, măng - những món ăn giản dị gắn với miền quê cách mạng. Dù khó khăn nhưng Bác luôn lạc quan, vui vẻ.

Cuộc sống khó khăn không làm giảm bớt sự tập trung của Bác cho cách mạng:

“Bàn đá chông chênh lưu giữ dấu vết Đảng
Cuộc đời cách mạng đẹp tựa trăng sao”

Giữa rừng núi Pác Bó, một vị lãnh tụ ngồi suy tư về con đường cứu nước trên bàn đá chông chênh. Cuộc họp Đảng không chỉ diễn ra ở những nơi trang trọng, lộng lẫy mà còn ở nơi hoang sơ, mộc mạc như đó. Bài thơ thể hiện sự khác biệt đặc biệt của Bác Hồ và con đường cứu nước của Người.

Cuộc sống của Bác đơn giản, mộc mạc nhưng luôn tươi đẹp và lạc quan, thậm chí trong những khó khăn nhất. Bài thơ vẫn giữ nguyên giá trị và để lại ấn tượng sâu sắc.

Phân tích Tức cảnh Pác Bó (Mẫu 19)

     Trong tim mỗi con người Việt Nam ta không bao giờ có thể quên được những cống hiến, hi sinh của chủ tịch Hồ Chí Minh đối với dân tộc mình. Bác không chỉ dạy chúng ta sống ở trên đời sao có ích, Bác còn để lại nền văn học Việt Nam ta những bài thơ hay đặc sắc. Tiêu biểu trong những bài thơ ấy phải kể đến bài thơ Tức cảnh Pác Bó của Người.

     Ba câu thơ đầu thể hiện được cuộc sống sinh hoạt của Hồ Chí Minh ở Pác bó. Nơi đây không có những món ngon vật lạ, không trang hoàng lộng lẫy như phủ chúa xưa mà nơi đây chỉ có những món ăn thiên nhiên luôn sẵn có:

Sáng ra bờ suối tối vào hang
Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng
Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng

     Buổi sáng thức giấc, Người ra bờ suối trong lành, tối Người lại trở về hang sâu. Nơi đây Người làm bạn với thiên nhiên, ăn ở với thiên nhiên hòa mình vào thiên nhiên mà sống chan hòa. Thức ăn hàng ngày của một vị lãnh tụ là cháo bẹ và rau măng. Những thứ ấy không xa xỉ nhưng luôn sẵn có.

     Điều đó cho thấy được sự thanh cao đạm bạc trong cuộc sống của Người. Nơi hang tối ấy Người vẫn không ngừng làm việc để tìm những bước tiến cho cách mạng nước nhà. Chẳng có bàn lim ghế gỗ, Người ngồi trên bàn ghế đá chông chênh để dịch sử Đảng. Ở đây ta thấy được một cuộc sống thanh bình không bom đạn, giản dị nhưng thanh cao, khó khăn mà yên bình không tiếng súng.

     Sống trong hoàn cảnh ấy, Người không những không chán nản mà còn cho đó là “sang”: Cuộc đời cách mạng thật là sang. Đối với Người như vậy là quá sang rồi bởi vì ở ngoài kia Người biết còn có hàng trăm nghìn người không có gì để ăn, những đứa trẻ khát sữa, những người mẹ nhịn đói cho con ăn, những người bà còng lưng gồng gánh, những người lính ăn bữa này nhịn bữa kia.

     Bài thơ chỉ vỏn vẹn có bốn câu thôi nhưng đã thể hiện được cuộc sống của Hồ Chí Minh nơi pác Bó. Đồng thời qua đó ta cũng cảm nhận được vẻ đẹp trong nhân cách của Người, giản dị đạm bạc và thanh cao.

Phân tích Tức cảnh Pác Bó (Mẫu 20)

“Lãnh tụ nhân dân, nghệ sĩ tâm hồn
Vùng miền chúng ta, lòng luôn hồng hoang
Trái tim bao la, rộn rã hạnh phúc
Mang cả buồn vui, căm phẫn, say mê ...”

(Giang Nam)

“Buồn vui, căm phẫn, say mê ...” của Bác phát xuất từ lòng yêu nước, yêu dân tộc cháy bỏng. Bác vừa là nhà lãnh đạo chính trị, vừa là nhà thơ, cả hai vai trò này đều là để thể hiện tình yêu cao quý đó. Thường thấy cả hai công việc hòa quyện vào một trong con người Bác, đặc biệt trong những bài thơ Người viết về rừng núi Việt Bắc, thể hiện sự lãnh đạo cách mạng của Người như trong bài thơ Tức cảnh Pác Bó.

Bài thơ sử dụng thể Đường luật tứ tuyệt một cách xuất sắc, tuân thủ đúng nguyên tắc của thể loại này. Câu Khai đầu tiên của bài thơ giới thiệu thời gian, địa điểm và hành động thường ngày của nhà thơ một cách rõ ràng, đầy đủ. Việc lặp lại hành động “ra, vào” trong bài thơ thể hiện sự thường xuyên, lặp đi lặp lại như một chu trình tự nhiên.

Bác đang đóng vai trò lãnh đạo cách mạng trong nước. Công việc của một lãnh tụ chính trị khác biệt hoàn toàn so với một nhà thơ, đặc biệt là với một nhà lãnh đạo đang đấu tranh chống lại bè phái thống trị để bảo vệ độc lập, tự do cho dân tộc.

Mặc dù vai trò lãnh tụ yêu cầu nhiều công việc khác nhau, nhưng lúc bắt đầu không có điều kiện, Bác phải tìm nơi ẩn náu để bảo vệ sự an toàn và khởi đầu hoạt động. Trong những hoàn cảnh khó khăn, “Sáng ra, tối vào” mang ý nghĩa sâu xa về ánh sáng và an toàn trong cuộc đời lãnh tụ.

Nếu câu Khai giới thiệu thời gian, địa điểm làm việc và nghỉ ngơi, thì câu Thừa nhà thơ giới thiệu bữa ăn hàng ngày của mình: Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng. Đó không chỉ là một bữa ăn mà là mọi bữa.

Cụm từ “vẫn sẵn sàng' khiến người đọc cảm nhận được điều đó. Đó là bữa ăn để nuôi mạng sống mà người phải chấp nhận. Nhưng Hồ Chí Minh vẫn: Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng. Điều này thể hiện sự kiên trì, sự đam mê của Người trong công việc.

Trong bài thơ Tức cảnh Pác Bó, câu chuyện của Bác với bàn đá chông chênh là ý nghĩa sâu xa về tinh thần nghệ sĩ và sự đam mê trong công việc của Người.

Dù ở một hang bên bờ suối, ăn cháo bẹ rau măng, và có bàn làm việc là bàn đá chông chênh, nhưng Bác vẫn cảm nhận rằng: Cuộc đời cách mạng thật là sang.

Dù ở một hang bên bờ suối, ăn cháo bẹ rau măng, và có bàn làm việc là bàn đá chông chênh, nhưng Bác vẫn cảm nhận rằng: Cuộc đời cách mạng thật là sang.

Không sợ hãi trước nguy hiểm nào.
Còn với Phan Chu Trinh thì:
Khó khăn chỉ là câu chuyện đơn giản.

Đó là tinh thần lạc quan trước những khó khăn, nguy hiểm, và gian khổ của những người dấn thân vào con đường cách mạng giải phóng dân tộc. Đây là con đường gian khổ, nước mắt, máu, mà chỉ những ai có tinh thần lạc quan mới có thể thành công.

Trước cái chết vẫn lạc quan không sợ hãi, thì sống với “cháo bẹ, rau măng” đã thấy đủ hạnh phúc! Ngày trước, sau khi nghỉ hưu, Nguyễn Trãi tìm niềm vui trong việc trồng cây trúc, thông và ngắm suối mát. Trong:

Nghìn mẫu xanh rợp bóng
Dưới gốc đâu là nơi ta thường ngồi
Câu hỏi chẳng cần đợi lời
Nửa đời vui mãi trong sáng khơi
Điều gì còn chần chừ để làm?

Dù đều tìm vui trong thiên nhiên nhưng niềm vui của Hồ Chí Minh và Nguyễn Trãi khác biệt nhau. Tóm tắt khác biệt đó là: với Nguyễn Trãi, niềm vui sau khi đã hoàn thành công việc chống quân nhà Minh, sau đó làm quan và xa lánh cuộc sống “bình dân”; còn với Hồ Chí Minh, niềm vui khi mới bắt đầu cuộc kháng chiến chống Pháp, trực tiếp lãnh đạo cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân.

Bài thơ Tức cảnh Pác Bó có ngôn ngữ đơn giản, dễ hiểu và thể hiện rõ ràng khó khăn, gian khổ của lãnh tụ trong những ngày đầu cách mạng. Âm điệu của bài thơ và ngữ nghĩa toàn bài làm cho người đọc cảm nhận được sự thấu hiểu và chấp nhận cuộc sống khó khăn vì lý tưởng cao cả mà nhà thơ đang theo đuổi. Nhiều người học được bài học lạc quan từ bài thơ này.

Bài viết số 7 lớp 9 đề 5: Bài thơ Tức ...

Phân tích Tức cảnh Pác Bó (Mẫu 21)

Một ngày xuân năm 1941, “Trắng rừng biên giới nở hoa mơ” lãnh tụ cách mạng - anh hùng giải phóng dân tộc Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, sau 30 năm trời buôn ba tìm đường cứu nước, cuối cùng cũng quay trở về Việt Nam để trực tiếp chỉ huy cuộc kháng chiến chống Pháp. Người chọn Pác Bó (Cao Bằng) làm căn cứ địa kháng chiến, biến nơi đây trở thành cái cội nguồn của cách mạng nước nhà. Hồ Chí Minh có một sự nghiệp chính trị vẻ vang, đồng thời cũng có một sự nghiệp văn chương đồ sộ, có thể nói rằng đời cách mạng của Người luôn song hành với đời sống văn chương. Văn chương là vũ khí đấu tranh, là khôi giáp bảo vệ, đồng thời cũng là thú vui tao nhã lúc rảnh rang, những khía cạnh ấy có sự gắn bó mật thiết vô cùng. Thế nên trong những ngày sống và làm việc tại Pác Bó, dẫu hoàn cảnh khó khăn thiếu thốn đủ đường, cách mạng nước ta còn non trẻ lại phải chống chọi với cả một đế quốc to lớn nhưng Bác giữ cho mình một tinh thần lạc quan, yêu đời, phong thái ung dung. Tác phẩm Tức cảnh Pác Bó ra đời trong hoàn cảnh ấy chính là minh chứng cho tấm lòng yêu, gắn bó tha thiết với thiên nhiên Pác Bó và tấm lòng sâu nặng với “Cuộc đời cách mạng thật là sang” của Người.

Ở hai câu thơ đầu tiên Bác đã tái hiện lại hoàn cảnh sống và sinh hoạt của mình tại Pác Bó với giọng thơ tự nhiên, ngôn ngữ giản dị:

“Sáng ra bờ suối tối vào hang
Cháo bẹ rau măng đã sẵn sàng”

Chỉ với hai câu thơ ngắn gọn thế nhưng đúng với phong cách thơ tứ tuyệt, lời ít ý nhiều mà không gian sinh hoạt và làm việc của Bác đã được gợi mở một cách rõ ràng. Các hình ảnh “bờ suối”, “hang” vốn là những hình ảnh khá xa lạ đối với chúng ta hiện nay, thế nhưng với Bác đó là những hình ảnh gắn bó, gần gũi và thân thuộc nhất. Cuộc sống của Bác bắt đầu với việc buổi sáng ra suối tắm giặt, sau đó làm việc luôn bên bờ suối, đến khi tối đến thì hang chính là nhà, là nơi để Bác nghỉ ngơi, dưỡng sức sau một ngày dài vất vả. Phải nói rằng đó là một cuộc sống không dễ dàng gì, nhưng Hồ Chí Minh lại không cho là vậy, trước hoàn cảnh vất vả, Người lại học cách thích nghi, sống chan hòa với thiên nhiên. Điều đó được chứng minh bởi nhịp thơ 4/3, cùng với 2 vế tiểu đối “sáng ra bờ suối/tối vào hang” gợi cho người đọc sự nhịp nhàng, nề nếp của cuộc sống sinh hoạt, nhân vật trữ tình trong hoàn cảnh ấy có một phong thái ung dung nhẹ nhàng, lưng gánh bao nhiêu trọng trách, nhưng tâm hồn vẫn rất thảnh thơi, coi nhẹ sự gian khổ của đời cách mạng.

Không chỉ về điều kiện sinh hoạt, mà ngay cả thức ăn đồ uống ở nơi núi rừng Pác Bó cũng rất thiếu thốn, quanh năm Người chỉ ăn “cháo bẹ, rau măng” làm no bụng. Đó là thứ thức ăn nhạt vị, lại không có mấy chất dinh dưỡng, ăn nhiều có lẽ cũng có phần không chịu được. Nhưng khi vào thơ của Hồ Chủ tịch, thái độ của Người với hai thứ “cháo bẹ, rau măng” không khỏi khiến người ta thêm kính trọng. Bác viết “Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng”, mấy chữ “vẫn sẵn sàng” có nhiều điều cần phải phân tích. Thứ nhất nó nói lên tâm thế của Hồ Chủ tịch khi đứng trước điều kiện sinh hoạt thiếu thốn, dẫu có phải ăn bắp, ăn măng trường kỳ, nhưng Người chưa từng chê bai, bởi Người hiểu rõ gian khó của nước nhà, nhân dân không có cơm ăn, thì Người ăn cháo bẹ rau măng cũng chẳng có gì mà than vãn. Hồ Chí Minh khi đứng trước hai thức ấy, vẫn sẵn sàng ăn một cách vui vẻ, ngon lành, thậm chí thấy đó là một cái thú của người làm cách mạng, sống ở rừng thì ăn sản vật của rừng núi, chan hòa với thiên nhiên, còn gì quý hóa hơn thế nữa. Một ý thứ hai nữ về mấy chữ “vẫn sẵn sàng”, đây cũng có thể được xem là lời khen kín đáo của Bác về sự dồi dào măng, bắp của căn cứ địa Pác Bó, thế nên làm cách mạng ở đây người chiến sĩ chẳng bao giờ lo đói, bởi lúc nào cũng có sẵn bắp, sẵn măng cho Người ăn thoải mái.

Có thể thấy Hồ Chí Minh sống chan hòa, gắn bó với thiên nhiên, với cuộc sống đạm bạc như vậy rất có phong vị của các bậc hiền nhân thời xưa, có thể ví với Nguyễn Trãi, hay Nguyễn Bỉnh Khiêm, bởi đức tính thanh cao, giản dị, rất biết thưởng thức cái thú với hoa lá, cỏ cây. Nhưng Người không giống như các bậc hiền triết thời xưa, thích tìm chốn hoang vu, không người để tận hưởng cuộc sống an nhàn không màng thế sự, xa lánh cuộc đời, hay ôm nỗi đau bất đắc chí mà trốn tránh thế nhân,... Người sống với với tư cách là một người chiến sĩ cách mạng hết lòng vì Tổ quốc, ý thức trách nhiệm với dân tộc khiến Người luôn luôn cố gắng, chính vì vậy trong các hoàn cảnh khó khăn, thiếu thốn thì tâm hồn lạc quan và phong thái ung dung biết thưởng thức đã giúp Người khuây khỏa, ý chí chiến đấu từ đó lại càng trở nên mạnh mẽ. Tâm hồn chiến sĩ và tâm hồn nghệ sĩ hòa vào làm một càng khiến cho sự nghiệp cách mạng của Người thêm vẻ vang, rực rỡ. Và hai câu thơ tiếp theo đã cho thấy tấm lòng tha thiết của Người đối với sự nghiệp cách mạng vĩ đại:

“Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng
Cuộc đời cách mạng thật là sang”

Sống giữa cảnh đơn sơ, giản dị, nhiều vất vả, khó khăn thì tấm lòng sâu nặng với cách mạng của Hồ Chí Minh càng được bộc lộ rõ ràng. Hình ảnh “bàn đá chông chênh” không chỉ cho chúng ta thấy được hoàn cảnh làm việc thiếu thốn, khó khăn, mà nó còn mang đến cho người đọc những cảm giác không vững vàng, có nhiều thiếu hụt, điều đó gợi ra tình thế của cách mạng Việt Nam những năm đầu kháng chiến chống Pháp. Đảng ta mới thành lập, còn non trẻ, lực lượng quân đội còn yếu kém, thiếu thốn mọi mặt cả về cơ sở vật chất lẫn lương thực thực phẩm. Chúng ta chỉ có nhiều nhất là tinh thần yêu nước, tinh thần tự tôn dân tộc, và lòng căm thù giặc sâu sắc. Bấy nhiêu ấy khiến người đứng đầu trực tiếp chỉ huy cách mạng là Hồ Chủ tịch có nhiều lo lắng. Thế nhưng người chiến sĩ cách mạng, người sáng lập ra Đảng cộng sản Việt Nam ta có lúc nào nao núng? Người vẫn một lòng “dịch sử Đảng”, một lòng lãnh đạo nhân dân ta tiến về phía trước bằng toàn bộ khối óc và thân thể, luôn vững vàng tư tưởng, kiên trì trong tranh đấu, chưa một phút nào buông lỏng. Và dẫu có nhiều khó khăn chồng chất, từ điều kiện sống cá nhân, đến điều kiện cách mạng của dân tộc, nhưng tấm lòng Hồ Chí Minh giữa núi rừng Tây Bắc dành cho cách mạng vẫn luôn sáng rõ và tươi đẹp “Cuộc đời cách mạng thật là sang”. Người ý thức rằng, mình sinh ra là để làm cách mạng, để đóng góp một phần công sức giành lại nền độc lập của dân tộc mà mấy trăm năm nay cha ông đã đổ máu xương để gìn giữ. Với Hồ Chí Minh, chẳng sự nghiệp nào, chẳng lý tưởng nào lúc này “sang” hơn lý tưởng cách mạng, lý tưởng cứu quốc nữa. Người ca ngợi cách mạng, đồng thời cũng thể hiện lòng tự hào, tấm lòng tha thiết không đổi với cách mạng của một người chiến sĩ cộng sản, một nhà trí thức tiến bộ, một nghệ sĩ có tâm hồn thanh cao, giản dị. Như vậy có thể thấy rằng trái ngược với “bàn đá chông chênh” đầy thiếu thốn, thì với Bác “cuộc đời cách mạng thật là sang”, thật đầy đủ, thật giàu có. Có sung túc, giàu có ấy nó ngự trị ở trong tâm hồn người chiến sĩ cách mạng, Người giàu có nhất là lòng yêu nước, lý tưởng cách mạng, và tinh thần lạc quan, yêu đời, gắn bó tha thiết với thiên nhiên. Có thể thấy những dòng thơ đầu là phong thái ung dung, đủng đỉnh, thì đến câu thơ cuối chính là tiếng cười hóm hỉnh, tươi vui của Bác, vượt lên trên tất cả gian khó, vang vọng khắp núi rừng.

Tức cảnh Pác Bó là một bài thơ hay và sâu sắc của Bác trong quá trình hoạt động cách mạng tại Việt Nam. Với giọng thơ vui tươi, lạc quan, ngôn ngữ giản dị, ở đó ta không chỉ thấy hiện lên một Hồ Chí Minh với phong thái ung dung, tự tại, sống chan hòa với thiên nhiên, mà còn thấy hình ảnh một chiến sĩ cách mạng hết lòng vì Tổ quốc, với lý tưởng cách mạng sâu sắc, cùng một tâm hồn thanh cao, giản dị vô cùng.

Phân tích Tức cảnh Pác Bó (Mẫu 22)

Nền văn học Việt Nam đã ghi danh nhiều tác giả với những cống hiến quan trọng. Mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau lại có những dấu mốc văn học khác nhau. Trong đó, không thể không nhắc đến tác giả Hồ Chí Minh - một vị lãnh tụ vĩ đại và cũng là một nhà thơ xuất sắc của nền văn học Việt Nam, với hình ảnh của chính mình - người chiến sĩ cách mạng trong cuộc kháng chiến, Bác đã mang đến cho bạn đọc góc nhìn, khía cạnh vô cùng lạc quan trong hoàn cảnh chiến đấu đầy gian khổ qua bài thơ Tức cảnh Pác Bó.

Mở đầu bài thơ là hình ảnh cuộc sống của Bác ở Pác Bó:

“Sáng ra bờ suối, tối vào hang
Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng”

“Sáng ra - tối vào” là những hành động lặp đi lặp lại, thường xuyên liên tục hằng ngày của Bác như một vòng tuần hoàn tự nhiên. Câu thơ cho ta thấy nơi ở gắn với hành động ra vào của Bác là chiếc hang. Điều kiện sống vô cùng vất vả, khó khăn, gian khổ, vì sự nghiệp cách mạng của nước nhà mà Người phải ở trong hang với nhiều mối đe dọa nguy hiểm. Vị lãnh tụ của chúng ta không ăn sơn hào hải vi, hàng ngày Bác gắn bó với cháo, măng. Đây là những món ăn giản dị, mộc mạc gắn liền với miền quê cách mạng. Cuộc sống khó khăn, thiếu thốn nhưng Người vẫn luôn lạc quan, vui vẻ đón nhận.

Cuộc sống tuy có khó khăn là thế nhưng không ảnh hưởng được đến sự chuyên tâm của Bác dành cho cách mạng:

“Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng
Cuộc đời cách mạng thật là sang”

Giữa núi rừng Pác Bó có một vị lãnh tụ ngồi nghiên cứu con đường cứu nước bên bàn đá chông chênh. Chúng ta thường biết đến các cuộc họp Đảng, bàn luận chiến thuật ở nơi mặt trận hoặc ở trung tâm hội nghị, nghiêm trang, lộng lẫy. Nhưng đối với Bác Hồ, việc nghiên cứu con đường cứu nước của người được thực hiện ở nơi rừng núi, vách đá cho thấy sự khác biệt đáng trân trọng của vị lãnh tụ này. Cả cuộc đời Bác gắn liền với cách mạng, với con đường cứu nước. Dù cho điều kiện ngoại cảnh, điều kiện kháng chiến có vất vả, gian khổ, khó khăn thế nào thì lí tưởng, suy nghĩ cao đẹp của Người cũng khiến cho cuộc đời Bác trở nên cao đẹp và “sang” hơn bất cứ khi nào hết. Bài thơ cho ta cách nhìn rõ nét hơn về cuộc đời, con người cũng như những khó khăn mà Bác phải trải qua để thêm yêu thương, ngưỡng mộ Bác và trân trọng nền độc lập, tự do mà ta đang được hưởng.

Cuộc sống của Bác hiện lên vô cùng giản dị, mộc mạc nhưng vô cùng tươi đẹp, lạc quan. Trong những hoàn cảnh khó khăn, éo le nhất, Bác vẫn biết cách khiến cho cuộc sống của mình trở nên tốt đẹp hơn. Nhiều năm tháng qua đi nhưng bài thơ vẫn giữ nguyên vẹn những giá trị tốt đẹp ban đầu của nó và để lại nhiều ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc.

Phân tích Tức cảnh Pác Bó (Mẫu 23)

Bác Hồ về nước tháng 2/1941, sau 30 năm bôn ba khắp năm châu bốn biển để tìm đường cứu nước. Khi đó, tình hình thế giới và trong nước có những biến động vô cùng to lớn (đại thế chiến thứ hai, Pháp lại khủng bố cách mạng dã man, Nhật vào Đông Dương; ở châu Âu, Pháp đầu hàng phát xít Đức..), Bác đã triệu tập Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ VIII, vạch đường lối cách mạng trong tình hình mới, quyết định thành lập Mặt trận Việt Minh (Việt Nam độc lập đồng minh) đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân đánh Pháp đuổi Nhật, tranh thủ thời cơ giành độc lập cho Tổ quốc.

Bác sống ở hang Pác Bó (đúng tên là Cấn Bó, nghĩa là đầu nguồn), trong điều kiện sinh hoạt hết sức gian khổ.

Đồng chí Võ Nguyên Giáp kể lại: “Nơi ở đầu tiên của Bác tại Pác Bó tuy ẩm lạnh nhưng vẫn là nơi ở tốt nhất. Địa điểm thứ hai là một hốc núi nhỏ ở rất cao và rất sâu trong rừng, bên ngoài chỉ rất ít cành lau. Những khi trời mưa to, rắn rết chui cả vào chỗ nằm. Có buổi sáng, Bác thức dậy thấy một con rắn rất lớn nằm khoanh tròn ngay cạnh Người (...) Sức khoẻ của Bác có phần giảm sút. Bác sốt rét luôn. Thuốc men gần như không có gì ngoài ít lá rừng lấy về sắc uống theo cách chữa bệnh của đồng bào địa phương. Thức ăn cũng rất thiếu (...)

Có thời gian, cơ quan chuyển vào vùng núi đá trên khu đồng bào Mán trắng, gạo cũng không có, Bác cũng như các anh em khác phải ăn toàn cháo bẹ hàng tháng ròng. Ở bất cứ hoàn cảnh nào, tôi cũng thấy Bác thích nghi một cách rất tự nhiên. Chẳng hiểu Bác được rèn luyện từ bao giờ, như thế nào mà mọi biến cố đều không mảy may lay chuyển được...”

Mặc dù sống trong điều kiện gian khổ, hiểm nghèo như vậy nhưng Bác Hồ rất vui. Bác rất vui vì sau bao năm xa nước nay được sống và trực tiếp lãnh đạo phong trào trong nước. Đặc biệt, vì với nhân quan chính trị sắc bén. Người biết rằng thời cơ giành độc lập hoàn toàn đang tới, dù cục diện trước mắt còn tất đen tối. “Đối với Nguyễn Ái Quốc và các bạn chiến đấu của Người những ngày tháng ở Pác Bó tựa như những ngày vui bất tận, rực rỡ sắc màu của cảnh chờ đợi những chuyển biến vĩ đại (...) chưa bao giờ Nguyễn Ái Quốc làm việc nhiệt tình như vậy, Người như trẻ ra đến hai, ba chục tuổi.

Bài thơ với bốn câu, có giọng đùa vui hóm hỉnh, đã toát lên một cảm giác vui thích, thoải mái. Phân tích bài thơ chính là phân tích tìm hiểu niềm vui thoải mái đó, vì đằng sau niềm vui đó là vẻ đẹp của một tâm hồn bình dị mà thanh cao, hồn nhiên mà đầy bản lĩnh của Bác Hồ.

Câu mở đầu bài thơ có giọng điệu phơi phới, thoải mái, đọc lên, ta có cảm tưởng Bác Hồ sống thật ung dung hoà hợp nhịp nhàng với điệu sông núi rừng:

Sáng ra bờ suối, tối vào hang.

Câu thơ ngắt nhịp ở giữa, tạo thành hai vế sóng đôi toát lên cảm giác nhịp nhàng, nề nếp: sáng ra, tối vào... Câu thứ hai là một nét cười đùa, cho biết thức ăn của con người sống ở suối, hang ấy thật đầy đủ, đầy đủ tới dư thừa:

Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng.

Câu thơ này, có thể hiểu là: dù chỉ có cháo bẹ, rau măng nhưng tinh thần cách mạng vẫn sẵn sàng. Cách hiểu ấy không sai về mặt ngữ pháp, nhưng e không thích hợp lắm với giọng đùa vui thoải mái của cả bài thơ. Có lẽ nên hiểu là: thức ăn (cháo bẹ, rau măng) thì lúc nào cũng có sẵn đó.

Câu thứ nhất nói về ở, câu thứ hai nói về ăn, câu thứ ba nói về làm việc, cả ba câu đều là thuật tả sinh hoạt vật chất, chỉ đến câu kết mới phát biểu cảm xúc, ý nghĩ.

Hiểu như vậy, sẽ phù hợp với mạch thơ, với kết cấu chặt chẽ của bài thơ hơn. Ở đây ta chú ý cách gieo vần bằng (âm ang), gợi cảm giác mở ra và vang xa, đồng thời tạo nên cái thế vững vàng và cảm giác khoáng đạt của bài thơ. Câu thứ ba vần trắc làm nổi bật lên hình tượng ở trung tâm bài thơ, được đặc tả bằng những nét bút đậm, khỏe, sinh động:

Bàn đá chông chênh, dịch sử Đảng.

Hai chữ “chông chênh” là từ láy duy nhất của bài thơ, rất tạo hình; ba chữ “dịch sử Đảng” toàn vần trắc, thật khoẻ, gân guốc như cân lại ba câu

Vần bằng vang xa. Đó là hình tượng nhân vật trữ tình được đặt ở trung tâm bài thơ; như vậy con người là chủ thể của thiên nhiên chứ không bị lấn át, hoà lan trong thiên nhiên. Và thật là thú vị, vị “khách lâm tuyền” sống hoà hợp nhịp nhàng với suối, với hang kia, chính là người chiến sĩ cách mạng vĩ đại, đang tựa vào thiên nhiên để hoạt động cải tạo xã hội. Đằng sau cái dáng tạo hình cụ thể của Bác đang ngồi dịch sử Đảng toát lên tư thế lồng lộng của vị lãnh tụ dân tộc, nhà cách mạng vĩ đại - một hình tượng thật đẹp. Bác Hồ đang sáng tạo ra lịch sử nơi “đầu nguồn” - trên cái bối cảnh thiên nhiên, có suối, có rừng... Cảnh tượng ấy, cuộc sống ấy quả thật là đẹp “thật là sang”! Bài thơ kết thúc bằng chữ “sang”, có thể gọi là chữ nhãn tự (chữ mất) đã kết tinh, bật sáng tinh thần toàn bài.

Thơ Bác Hồ vừa rất mực giản dị, song lại rất hàm súc, gợi lên bao ý nghĩa sâu xa; vừa đậm đà màu sắc cổ điển, vừa thể hiện đầy đủ tinh thần thời đại. Bài Tức cảnh Pác Bó là điển hình của hồn thơ, phong cách thơ đó.

Phân tích Tức cảnh Pác Bó (Mẫu 24)

Bác Hồ về nước tháng 2/1941, sau 30 năm bôn ba khắp năm châu bốn biển để tìm đường cứu nước. Khi đó, tình hình thế giới và trong nước có những biến động vô cùng to lớn (đại thế chiến thứ hai, Pháp lại khủng bố cách mạng dã man, Nhật vào Đông Dương; ở châu Âu, Pháp đầu hàng phát xít Đức...), Bác đã triệu tập Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ VIII, vạch đường lối cách mạng trong tình hình mới, quyết định thành lập Mặt trận Việt Minh (Việt Nam độc lập đồng minh) đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân đánh Pháp đuổi Nhật, tranh thủ thời cơ giành độc lập cho Tổ quốc.

Bác sống ở hang Pác Bó (đúng tên là Cấn Bó, nghĩa là đầu nguồn), trong điều kiện sinh hoạt hết sức gian khổ. Đồng chí Võ Nguyên Giáp kể lại: “Nơi ở đầu tiên của Bác tại Pác Bó tuy ẩm lạnh nhưng vẫn là nơi ở tốt nhất. Địa điểm thứ hai là một hốc núi nhỏ ở rất cao và rất sâu trong rừng, bên ngoài chỉ rất ít cành lau. Những khi trời mưa to, rắn rết chui cả vào chỗ nằm. Có buổi sáng, Bác thức dậy thấy một con rắn rất lớn nằm khoanh tròn ngay cạnh Người (...) Sức khỏe của Bác có phần giảm sút. Bác sốt rét luôn. Thuốc men gần như không có gì ngoài ít lá rừng lấy về sắc uống theo cách chữa bệnh của đồng bào địa phương. Thức ăn cũng rất thiếu (...).

Có thời gian, cơ quan chuyển vào vùng núi đá trên khu đồng bào Mán trắng, gạo cũng không có, Bác cũng như các anh em khác phải ăn toàn cháo bẹ hàng tháng ròng. Ở bất cứ hoàn cảnh nào, tôi cũng thấy Bác thích nghi một cách rất tự nhiên. Chẳng hiểu Bác được rèn luyện từ bao giờ, như thế nào mà mọi biến cố đều không mảy may lay chuyển được...”

Mặc dù sống trong điều kiện gian khổ, hiểm nghèo như vậy nhưng Bác Hồ rất vui. Bác rất vui vì sau bao năm xa nước nay được sống và trực tiếp lãnh đạo phong trào trong nước. Đặc biệt, vì với nhân quan chính trị sắc bén. Người biết rằng thời cơ giành độc lập hoàn toàn đang tới, dù cục diện trước mắt còn tất đen tối. “Đối với Nguyễn Ái Quốc và các bạn chiến đấu của Người những ngày tháng ở Pác Bó tựa như những ngày vui bất tận, rực rỡ sắc màu của cảnh chờ đợi những chuyển biến vĩ đại (...) chưa bao giờ Nguyễn Ái Quốc làm việc nhiệt tình như vậy, Người như trẻ ra đến hai, ba chục tuổi.

Bài thơ với bốn câu, có giọng đùa vui hóm hỉnh, đã toát lên một cảm giác vui thích, thoải mái. Phân tích bài thơ chính là phân tích tìm hiểu niềm vui thoải mái đó, vì đằng sau niềm vui đó là vẻ đẹp của một tâm hồn bình dị mà thanh cao, hồn nhiên mà đầy bản lĩnh của Bác Hồ.

Câu mở đầu bài thơ có giọng điệu phơi phới, thoải mái, đọc lên, ta có cảm tưởng Bác Hồ sống thật ung dung hòa hợp nhịp nhàng với núi rừng:

Sáng ra bờ suối, tối vào hang.

Câu thơ ngắt nhịp ở giữa, tạo thành hai vế sóng đôi toát lên cảm giác nhịp nhàng, nề nếp: sáng ra, tối vào... Câu thứ hai là một nét cười đùa, cho biết thức ăn của con người sống ở suối, hang ấy thật đầy đủ, đầy đủ tới dư thừa:

Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng.

Câu thơ này, có thể hiểu là: dù chỉ có cháo bẹ, rau măng nhưng tinh thần cách mạng vẫn sẵn sàng. Cách hiểu ấy không sai về mặt ngữ pháp, nhưng e không thích hợp lắm với giọng đùa vui thoải mái của cả bài thơ. Có lẽ nên hiểu là: thức ăn (cháo bẹ, rau măng) thì lúc nào cũng có sẵn đó.

Câu thứ nhất nói về ở, câu thứ hai nói về ăn, câu thứ ba nói về làm việc, cả ba câu đều là thuật tả sinh hoạt vật chất, chỉ đến câu kết mới phát biểu cảm xúc, ý nghĩ.

Hiểu như vậy, sẽ phù hợp với mạch thơ, với kết câu chặt chẽ của bài thơ hơn. Ở đây ta chú ý cách gieo vần bằng (âm ang), gợi cảm giác mở ra và vang xa, đồng thời tạo nên cái thế vững vàng và cảm giác khoáng đạt của bài thơ. Câu thứ ba vần trắc làm nổi bật lên hình tượng ở trung tâm bài thơ, được đặc tả bằng những nét bút đậm, khoẻ, sinh động:

Bàn đá chông chênh, dịch sử Đảng.

Hai chữ “chông chênh” là lừ láy duy nhất của bài thơ, rất tạo hình; ba chữ “dịch sử Đảng” toàn vần trắc, thật khoẻ, gân guốc như cân lại ba câu vần bằng vang xa. Đó là hình tượng nhân vật trữ tình được đặt ở trung tâm bài thơ; như vậy con người là chủ thể của thiên nhiên chứ không bị lấn át, hòa lẫn trong thiên nhiên. Và thật là thú vị, vị “khách lâm tuyền” sống hoà hợp nhịp nhàng với suối, với hang kia, chính là người chiến sĩ cách mạng vĩ đại, đang tựa vào thiên nhiên để hoạt động cải tạo xã hội. Đằng sau cái dáng tạo hình cụ thể của Bác đang ngồi dịch sử Đảng toát lên tư thế lồng lộng của vị lãnh tụ dân tộc, nhà cách mạng vĩ đại - một hình tượng thật đẹp. Bác Hồ đang sáng tạo ra lịch sử nơi “đầu nguồn” - trên cái bối cảnh thiên nhiên, có suối, có rừng... Cảnh tượng ấy, cuộc sống ấy quả thật là đẹp “thật là sang”! Bài thơ kết thúc bằng chữ “sang”, có thể gọi là chữ nhãn tự (chữ mắt) đã kết tinh, bật sáng tinh thần của toàn bài.

Thơ Bác Hồ vừa rất mực giản dị, song lại rất hàm súc, gợi lên bao ý nghĩa sâu xa; vừa đậm đà màu sắc cổ điển, vừa thể hiện đầy đủ tinh thần thời đại. Bài Tức cảnh Pác Bó là điển hình của hồn thơ, phong cách thơ đó.

Cảm nhận về bài thơ Tức cảnh Pác Bó của ...

Phân tích Tức cảnh Pác Bó (Mẫu 25)

Tức cảnh Pác Bó là một trong những bài thơ tứ tuyệt tiêu biểu của Hồ Chí Minh, thể hiện niềm vui, niềm tin mạnh mẽ và nghị lực phi thường của Bác trong hoàn cảnh sống và làm việc tại núi rừng Việt Bắc, sau nhiều năm xa cách đất nước và dân tộc.

Sáng ra bờ suối, tối vào hang,
Cháo bẹ, rau măng vẫn sẵn sàng.
Bàn đá chông chênh, dấu vết của Đảng,
Cuộc đời cách mạng thật là lẽ sống.

Thơ tứ tuyệt thường ngắn gọn, chắc chắn để hiểu ý thơ, chúng ta cần hiểu rõ hoàn cảnh mà bài thơ được sáng tác.

Tháng 6 năm 1940, thế giới đang chứng kiến nhiều biến động lớn. Pháp đầu hàng Đức quốc xã. Lúc này, Bác đang hoạt động bí mật tại Côn Minh, Trung Quốc. Sau đó, Bác quyết định về nước và chọn Pác Bó làm căn cứ để lãnh đạo phong trào cách mạng giải phóng dân tộc. Cuộc sống của Bác lúc này vô cùng khó khăn, thiếu thốn. Bác phải ở trong hang nhỏ ẩm ướt, tối tăm. Ăn uống kham khổ, thức ăn chủ yếu là cháo ngô và măng rừng. Bàn làm việc của Bác là một phiến đá ven suối.

Thiếu thốn, gian khổ không làm Bác bận lòng. Bác tập trung toàn bộ tâm huyết để lãnh đạo phong trào cách mạng, quên hết mọi khó khăn, tin tưởng vào tương lai sáng sủa của đất nước.

Ba câu đầu của bài thơ miêu tả cuộc sống và công việc của Bác. Câu đầu nói về nơi ở, câu thứ hai nói về thực phẩm, câu thứ ba nói về phương tiện làm việc. Câu cuối thể hiện tâm hồn lạc quan, ngời sáng của Bác trong hoàn cảnh khó khăn, gian nan.

Sáng ra bờ suối, tối vào hang

Hang Cốc Bó là nơi Bác ở, diện tích hơn một mét vuông, có tấm ván thay thế giường. Vách hang lồi cao, lõm sâu, không khí lạnh lẽo, ẩm ướt. Trước cửa là suối Lênin và núi Mác. Bàn làm việc của Bác là một phiến đá kê trên hai hòn đá và một hòn đá thấp hơn làm ghế, gần bờ suối.

Không gian sinh hoạt của Bác được chia thành hai phần: hang và suối. Hành động hàng ngày của Bác cũng chia thành hai: ra suối và vào hang. Thời gian biểu hằng ngày luôn đều đặn: sáng ra làm việc, tối vào nghỉ ngơi. Tất cả đều được thực hiện với sự chắc chắn, như nhịp điệu tuần hoàn của thiên nhiên. Sự đơn giản, quen thuộc nhưng vẫn bền vững và ung dung như nhịp sống hàng ngày.

Gian khổ của cuộc sống, nguy hiểm do kẻ thù luôn rình rập... tất cả đều như tan biến trước phong thái an nhiên, tự tại của Bác Hồ.

Cháo ngô và măng rừng luôn sẵn sàng.

Bữa cơm đơn giản, đạm bạc, chỉ có cháo ngô và măng đắng, măng nứa, rau rừng... mỗi ngày vẫn luôn có sẵn, gợi nhớ cảnh sống giản dị của người xưa.

Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.

(Nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm)

hoặc:

Trúc biếc, nước trong ta luôn sẵn có

(Nhà thơ Nguyễn Trãi)

Sự thiếu thốn đã được biến thành phong cách lịch lãm. Xưa là tượng trưng, nay trở thành hiện thực. Chỉ cần thêm chút ít sự đậm đà, câu thơ đã trở nên phong phú hơn.

Nhưng điều đặc biệt nhất vẫn là cách thể hiện của thơ. Cháo bẹ, rau măng như Sáng ra, tối vào mang một âm điệu an nhiên, hòa hợp bên trong. Ba chữ này khiến câu thơ trở thành một lời nhận xét với tư duy lạc quan, gần như tự hào, thể hiện sự an nhiên, tự do cao cả hơn.

Hai câu đầu mô tả thực tế, câu thứ ba không chỉ mô tả thực tế mà còn có tính trữ tình, từ đó con người bắt đầu hiện hữu rõ ràng và hành động rõ ràng:

Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng,

Trong cụm từ 'vẫn sẵn sàng' có một chút niềm vui nhẹ, và sau từ 'chông chênh' là một nụ cười hóm hỉnh, thâm trầm. 'Chông chênh' có nghĩa là không ổn định, không có nơi chắc chắn. Chiếc bàn đá mà Bác Hồ sử dụng thật chông chênh vì nó chỉ là một phiến đá. Đó là một chiếc bàn làm việc không đáng kể. Tuy nhiên, từ 'chông chênh' không chỉ ám chỉ đặc điểm của chiếc bàn đá cụ thể mà còn ẩn chứa ý nghĩa về tình thế khó khăn của cách mạng Việt Nam và thế giới vào thời điểm đó. Lúc ấy, phe phát xít đang chiến thắng ở khắp mọi mặt trận. Mặc dù với tình hình khó khăn như vậy, Bác Hồ vẫn điều hành lịch sử Đảng (lịch sử Đảng cộng sản Liên Xô, bằng tiếng Nga) để cán bộ của chúng ta có thể học hỏi và áp dụng những kinh nghiệm quý báu đó vào thực tiễn của cuộc đấu tranh cách mạng của dân tộc.

Hành động này của Bác đã đặt nền tảng lí luận cho cách mạng ở Việt Nam. Điều này là rất cần thiết. Sự đối lập giữa sự quan trọng, nghiêm túc của công việc và cái bề ngoài đơn giản, không ổn định của chiếc bàn đá, có vẻ như hơi hài hước và vui vẻ, nhưng thực ra lại chứa đựng một ý nghĩa cách mạng to lớn.

Kỷ niệm lại thời điểm đó, toàn thế giới đang đối diện với nguy cơ chìm đắm trong thảm họa phát xít. Tuy nhiên, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ VIII (tháng 5 – 1941) khẳng định rằng cách mạng nội bộ sẽ đạt được chiến thắng. Điều này không phải là một tuyên bố trong hoàn cảnh khó khăn, mà chính Bác Hồ khẳng định sự thành công không thể phủ nhận của cuộc đấu tranh giải phóng quốc gia và dân tộc. Đó chính là tầm nhìn chiến lược, suy luận sáng suốt của một nhà lãnh đạo tài ba.

Nhìn vào giọng điệu mới của câu thơ, ta cảm nhận rõ hơn. Trong nhịp bốn (Bàn đá chông chênh), âm thanh có phần lắng đọng (ba thanh bằng, một thanh lắc), khiến ta liên tưởng đến tình hình nguy cơ; nhưng trong nhịp ba (dịch sử Đảng), âm thanh lại mạnh mẽ, sức khỏe (ba thanh lắc) thể hiện ý chí quyết tâm chiến đấu và niềm tin. Câu thơ toát lên tư thế mạnh mẽ, kiên định trước mọi thách thức của Bác, với nụ cười tự tin, tao nhã.

Người xưa khi gặp khó khăn thường lui về núi rừng để tìm niềm vui tâm hồn, nhưng Bác Hồ lại có quan điểm khác. Bác không đến với núi rừng để trốn tránh mà để xây dựng chiến lược cho phong trào cách mạng giải phóng dân tộc.

Ngày xưa, khi lánh mình ở Côn Sơn, Nguyễn Trãi đã tận hưởng cuộc sống đơn giản của mình:

Côn Sơn có dòng suối trong ngọt,
Nghe suối chảy như tiếng cung đàn cầm.
Côn Sơn có đá vững chắc,
Mưa rơi làm sạch đá, ta nằm đây thư thả chơi.
Nay, Bác Hồ làm việc trong hoàn cảnh:
Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng.

Dưới hình tượng của vị tiên bên suối hiện lên cốt cách của một lãnh tụ cách mạng mạnh mẽ.

Nếu trong ba câu thơ đầu, niềm vui, niềm tự hào còn ẩn chứa, thì ở câu thơ kết, niềm vui ấy đã rõ ràng qua từ ngữ, lối diễn đạt và âm điệu. Sự thiếu thốn vật chất đã được biến đổi thành sự giàu có tinh thần. Bác đánh giá hiện thực ấy với một nụ cười hóm hỉnh, sâu sắc như của một triết gia:

Cuộc đời cách mạng thật là phong phú!

Do đó, suối không chỉ làm chỗ làm việc, hang không chỉ là chỗ nghỉ ngơi mà cả hang và suối còn mở ra nhau, tạo nên không gian thoáng đãng, phù hợp với nhịp sống của con người hòa mình vào nhịp của thiên nhiên. Sự khó khăn, vất vả cũng như tan biến vào nhịp tuần hoàn, sự thư thái ấy. Cháo bẹ và rau măng ban đầu mang ý nghĩa khó khăn, nghèo nàn, nhưng đã được biến thành sự sẵn sàng, đầy đủ, trở nên vui vẻ. Còn việc dịch sử Đảng trên bàn đá chông chênh thì đã phản ánh rõ sự vững chắc của tiến trình cách mạng giữa những khó khăn. Cuộc đời cách mạng thật là phong phú! Tinh thần của bài thơ tụ lại ở từ này. Niềm tin, niềm tự hào của Bác chiếu sáng khắp bài thơ.

Chính sự ra vào nhẹ nhàng, tinh thần sẵn sàng, ý chí, cốt cách mạnh mẽ trong hoàn cảnh khó khăn đã tạo nên sự phong phú, quý giá trong cuộc sống của một con người dồn hết tâm huyết vào sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc và nhân loại bị áp bức trên toàn thế giới.

Bài thơ ngắn này mang lại hiểu biết mới về thời kỳ hoạt động của Bác Hồ. Dù gặp nhiều khó khăn và gian nan, Bác vẫn sống tự do, thanh thản và tin tưởng tuyệt đối vào thành công của cuộc cách mạng. Bài thơ cũng là một bài học sâu sắc về thái độ sống và quan điểm tích cực của một người chiến sĩ cộng sản đích thực.

Phân tích Tức cảnh Pác Bó (Mẫu 26)

“Người lãnh tụ, nhà nghệ sĩ
Của mỗi người của cả trăm quê
Trái tim lớn đập hoài không nghỉ
Những buồn vui, căm giận, say mê ...”

(Giang Nam)

“Buồn vui, căm giận, say mê ...” của Bác xuất phát từ lòng yêu Tổ quốc, yêu dân tộc nồng nàn. Bác hoạt động chính trị (người lãnh tụ), và làm thơ (nhà nghệ sĩ) cũng là để thể hiện lòng yêu thương cao cả ấy. Nhiều lúc cả hai công việc như hòa làm một trong con người Bác. Điều ấy đã được chứng tỏ ở những bài thơ Người sáng tác ở núi rừng Việt Bắc khi từ nước ngoài về trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng trong nước mà bài thơ Tức cảnh Pác Bó là một ví dụ.

Bài thơ được làm theo thể Đường luật tứ tuyệt vời đúng niêm luật của thể loại thơ này. Mở đầu là câu Khai, nhà thơ viết: Sáng ra bờ suối, tối vào hang, Câu thơ giới thiệu thời gian, nơi chốn và việc thường làm được ngắt nhịp 4/3 bằng dấu phẩy một cách rõ ràng, dứt khoát. Đọc câu thơ ta có cảm giác ngày ngày, mỗi sáng mỗi tối nhà thơ đều lặp lại hành vi “ra, vào” ấy. Tại sao?

Bác đang trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng trong nước. Công việc của một lãnh tụ chính trị không giống công việc của một nhà thơ, nhất là với một lãnh tụ chính trị đang hoạt động chống lại tập đoàn thống trị để giành lại độc lập, tự do cho nước cho dân.

Tất yếu là lãnh tụ phải làm nhiều công việc đúng với vai trò lãnh đạo phong trào. Nhưng thuở ban đầu cơ ngơi không có, Để tránh bị truy lùng, Bác tìm nơi hiểm trở để đặt cơ quan đầu não cho hoạt động ban đầu. Công việc của lãnh tụ phần lớn là vạch đường lối, kỷ cương, kế hoạch,... Ánh sáng để làm việc và an toàn trong hoạt động cách mạng là ý nghĩa sâu xa của “Sáng ra, tối vào” ở câu Khai.

Nếu câu Khai giới thiệu thời gian, nơi chốn để làm việc và nghỉ ngơi thì ở câu Thừa nhà thơ giới thiệu bữa ăn hàng ngày của mình: Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng. Hai món trong một bữa: cháo ngô (bắp, bẹ), và rau măng. Nhưng không chỉ là một bữa mà là mọi bữa.

Cụm từ “vẫn sẵn sàng' gợi cho người đọc cảm nhận đó. Ấy là bữa ăn để nuôi mạng sống mà người dấn thân phải chấp nhận. Ngày trước, Lê Lợi và Nguyễn Trãi khi dấy nghĩa ở Lam Sơn cũng có lúc lâm vào hoàn cảnh:

Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần
Khi khôi huyện quân không một đội

Cực khổ từ miếng cơm manh áo, nơi ăn chốn ngủ nhưng Hồ Chí Minh vẫn: Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng. Một cách hiểu giản dị, nôm na là không có cả bàn để làm việc, dù là một việc quan trọng là dịch cuốn Lịch sử Đảng Cộng sản Liên Xô để làm tài liệu học tập tư tưởng cho cán bộ cách mạng thời bấy giờ. Không có bàn ư? Thì lấy đá làm bàn. Thử tưởng tượng hình ảnh Bác say sưa làm việc bên cái bàn “chông chênh” ấy để thấy rõ tính nghệ sĩ lẫn sự say mê công việc của Người! Câu chuyện của bài thơ có ý nghĩa như thế!

Dinh thự của một lãnh tụ chỉ là cái hang bên bờ suối, thức ăn mỗi bữa thuần là “cháo bẹ, rau măng, chỗ làm việc là bàn đá chông chênh ” bên suối, vậy mà Bác vẫn cho rằng: Cuộc đời cách mạng thật là sang. Câu hợp của bài thơ phảng phất phong thái của các chí sĩ thuộc thế hệ trước. Chuyện tù đày gian lao với Phan Bội Châu thì:

Bao nhiêu nguy hiểm sợ gì đâu.
Còn với Phan Chu Trinh thì:
Gian nan chỉ kể chuyện con con.

Ấy là tâm trạng lạc quan trước nguy hiểm, tù đày, gian khổ của những người chấp nhận dấn thân vào con đường cách mạng giải phóng dân tộc. Đây là con đường đầy nước mắt, đầy máu; là cái giá phải trả để có được độc lập và tự do. Không mang tâm trạng lạc quan trước gian khổ, nguy hiểm thì ít ai thành công, thành danh được.

Trước cái chết vẫn lạc quan không run sợ thì sống với “cháo bẹ, rau măng” cũng đã sang lắm rồi! Ngày trước, sau khi thôi làm quan, Nguyễn Trãi đã về Côn Sơn tìm vui với trúc, thông và với suối mát. Trong:

Nghìn mẫu xanh chen chúc
Ta đủng đỉnh ngâm dưới gốc
Hỏi ai sao chẳng sớm quay về
Nửa đời vui mãi trong lầm tục
Muôn chung chín vạc để làm gì?

Cũng là vui thú lâm tuyền nhưng cái vui của Hồ Chí Minh khác xa cái vui của Nguyễn Trãi. Khái quát về sự khác biệt ấy là: với Nguyễn Trãi, vui thú lâm tuyền sau khi đã hoàn thành sự nghiệp khởi nghĩa chống quân nhà Minh, sau đó làm quan, và rồi xa lánh đời “lầm tục”; còn với Hồ Chí Minh thì vui thú lâm tuyền lúc mới khởi nghĩa chống Pháp, đang trực tiếp lãnh đạo các lực lượng chống lại chủ nghĩa thực dân.

Tức cảnh Pác Bó, một bài thơ tứ tuyệt có ngôn ngữ giản dị; dễ hiểu và gợi những hình ảnh rõ ràng về sự khó khăn, gian khổ trong những ngày đầu cách mạng của một lãnh tụ. Âm điệu của bài thơ, nhất là những từ cuối của mỗi câu kết hợp với ngữ nghĩa của toàn bài khiến người đọc cảm nhận được sự thỏa mái, chấp nhận cảnh sống khó khăn lúc bấy giờ vì lý tưởng cao quý mà nhà thơ đang cố thực hiện. Hẳn nhiều người đọc cũng học được bài học lạc quan ở bài thơ này.

Phân tích Tức cảnh Pác Bó (Mẫu 27)

Hồ Chí Minh là một nhà chính trị quân sự tài ba, một nhà thơ, nhà văn lớn của dân tộc Việt Nam ở thế kỉ XX. Bài thơ 'Tức cảnh Pác Pó' được Bác sáng tác vào tháng 2 năm 1941, tại Pác Pó (Cao Bằng). Qua bài thơ, chúng ta thấy được tinh thần lạc quan, phong thái ung dung của Người trong cuộc sống cách mạng đầy gian khổ. Có thể nói, tác phẩm là một bức chân dung tự họa của người chiến sĩ cộng sản.

Bài thơ được viết trong hoàn cảnh sau ba mươi năm bôn ba hoạt động cách mạng ở nước ngoài, đến đầu năm 1941, Bác trở về nước, trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Người đã sống và làm việc tại hang Pác Pó (Cao Bằng) trong một điều kiện sinh hoạt vô cùng khó khăn, thiếu thốn, gian khổ.

Thế nhưng, khi phải đối diện với hoàn cảnh đó, Bác Hồ vẫn vui vẻ, lạc quan, tràn đầy tinh thần làm việc cách mạng hăng say bởi Bác đang được sống và làm việc ngay trên mảnh đất quê hương, đang trực tiếp dẫn dắt cả dân tộc ta tiến lên giành lấy ngọn cờ độc lập, hòa bình của đất nước. Trước hết hai câu thơ mở đầu là lời giới thiệu về cuộc sống của Bác ở Pác Pó – một cuộc sống khó khăn, thiếu thốn:

Sáng ra bờ suối tối vào hang
Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng.

Chỉ hai câu thơ rất ngắn gọn, gồm có mười bốn chữ cái nhưng nhà thơ đã gợi mở ra một không gian – thời gian sống, làm việc rất cụ thể, rõ ràng: nơi ở trong hang núi, nơi làm việc thì bên bờ suối và thức ăn là cháo bẹ, rau măng. Cách ngắt nhịp 4/3 thường thấy của thể thơ tứ tuyệt, kết hợp với lời thơ cân đối (sáng – tối, ra – vào, ra suối – vào hang) đã cho thấy một nếp sống sinh hoạt và làm việc rất đều đặn, trở thành một thói quen trong một hoàn cảnh đặc biệt của Bác:

'Cháo bẹ' (cháo ngô), rau măng (măng nứa, măng tre, măng rừng) thật đạm bạc, đều là những thức ăn đơn sơ có sẵn của thiên nhiên núi rừng. Nhưng Bác không hề cảm thấy khắc khổ mà ngược lại thấy rất thoải mái, ung dung: 'vẫn sẵn sàng'. Từ 'vẫn' đã cho thấy sự tương phản hoàn toàn giữa một bên là sự thiếu thốn về vật chất với một bên là tinh thần thanh thản, lạc quan trước hoàn cảnh đó.

Ta đọc ở đây một nụ cười kín đáo hồn nhiên rất giản dị, chân thành, khiến người đọc có cảm giác như Bác đang bằng lòng, thích thú và vui sướng với cuộc sống như vậy. Đó là một cuộc sống chan hòa với thiên nhiên, với chốn lâm tuyền của núi rừng bí ẩn. Chẳng thế mà chúng ta luôn thấy, thiên nhiên từ lâu đã trở người bạn 'tri kỉ' trong thơ của Người:

Cảnh rừng Việt Bắc thật là hay
Vượn hót chim kêu suốt cả ngày

Hay:

Tiếng suối trong như tiếng hát xa
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa...

Cảm xúc, tâm trạng đó của Bác đã làm toát lên ở Người vẻ đẹp thanh cao trong sáng của một tâm hồn yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống, coi thường vật chất bên ngoài, rất gần với cách sống của những bậc hiền nhân xưa:

Thu ăn măng trúc, đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao
Rượu đến cội cây ta sẽ uống
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao.

(Nhàn – Nguyễn Bỉnh Khiêm)

Tuy nhiên, nếu người xưa tìm đến thiên nhiên, đến núi non lâm tuyền là để lánh đục tìm trong, thể hiện tâm thế 'an bần lạc đạo', là cách để họ di dưỡng tinh thần mà trốn tránh sự đời thì ở Bác dù có hòa mình với vũ trụ, với thiên nhiên hoa lá cỏ cây, trăng gió vẫn hiện lên tư thế của một người chiến sĩ cộng sản yêu nước, thương dân đang trực tiếp tham gia cách mạng cùng với nhân dân:

Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng
Cuộc đời cách mạng thật là sang.

'Bàn đá chông chênh' vừa là chiếc bàn của thiên nhiên rừng núi, lại vừa là chiếc bàn của lòng người. Bác đã biến phiến đá thông thường của tự nhiên làm thành chiếc bàn kê thật giản dị, đơn sơ cạnh một công việc lớn lao cao cả: 'dịch sử Đảng'. Với việc sử dụng ba thanh trắc liền kề liên tiếp ở ba tiếng cuối câu thơ thứ ba tạo nên âm hưởng chắc khỏe cho lời thơ, đồng thời thể hiện một tư thế, một tâm hồn, một bản lĩnh cứng cỏi, vững vàng, chắc chắn.

Vì thế, chiếc bàn đá chông chênh kia thực chất là hình ảnh ẩn dụ để chỉ 'tấm lòng vững như bàn thạch của người cách mạng đã nhìn đá ra bàn...' (Chế Lan Viên). Câu thơ đã dựng lên hình tượng người chiến sĩ cách mạng trong một tư thế uy nghi, sừng sững, thật lớn lao trong một không gian rừng núi yên tĩnh. Và Bác hiện lên như một ông tiên giáng trần đang đọc sách và thưởng ngoạn cảnh núi non lâm tuyền ở Pác Pó.

Khép lại bài thơ, lời thơ thẳng thắn, nhẹ nhàng, chất chứa một nụ cười lạc quan: Cuộc đời cách mạng thật là sang. Chỉ cần nhắc tới hai tiếng 'cách mạng' thôi là chúng ta đã cảm thấy sự hiểm nguy, vất vả và gian khó như thế nào. Vậy mà Bác lại cảm thấy việc làm đó 'thật là sang'.

Phải chăng cái 'sang' mà Bác nói tới ở đây là vì giờ đây Bác đang được sống với thiên nhiên núi rừng Pác Pó, nơi quê hương Việt Nam yêu dấu mà suốt cả cuộc đời Người muốn đấu tranh để bảo vệ nó, và cao hơn, cái 'sang' của công việc làm cách mạng đó là ý nghĩa, mục đích tôn chỉ cao đẹp mà Bác làm là: cứu dân, cứu nước, đem lại hòa bình, hạnh phúc cho nhân dân.

Bởi cả cuộc đời Bác đều dành trọn cho cách mạng vì nước, vì non. Ta đọc trong câu thơ là một tấm lòng rộng mở, một nhân cách vĩ đại, lớn lao ở Người:

Bác ơi! tim Bác mênh mông thế
Ôm cả non sông mọi kiếp người.

Bài thơ được viết theo thể thơ tứ tuyệt, có sự kết hợp giữa chất cổ điển và tinh thần hiện đại, giọng điệu dí dỏm, vui tươi, ngôn từ dễ hiểu, giản dị, hình ảnh đời thường mộc mạc... tất cả đã làm nên thành công của tác phẩm. Khép lại trang thơ, người đọc thấy được một tinh thần lạc quan, một phong thái ung dung thanh thản, một bản lĩnh thép cứng cỏi, phi thường vượt lên trên gian khó và luôn mang trong mình trái tim nhân hậu, bao dung: yêu thiên nhiên, yêu đất nước sâu sắc ở Hồ Chí Minh.

Phân tích Tức cảnh Pác Bó (Mẫu 28)

Ở bất cứ hoàn cảnh nào, dù trong nhà tù của bọn Tưởng Giới Thạch, hay bên Pa-ri; đối mặt trực tiếp với gián điệp và thực dân Pháp hay những ngày trở về nước hoạt động cách mạng ta đều nhận ra con người hóm hỉnh, bông đùa, lạc quan vượt lên trên tất cả những khó khăn của đời sống ở Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đó là những nét tính cách được tôi luyện trong trường đấu tranh gian khổ. Và tất cả đã đi vào thơ Bác với những nét chân thực nhất. Tức cảnh Pác Bó là một trong số những bài thơ như thế !

Sáng ra bờ suối, tối vào hang

Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng

Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng

Cuộc đời cách mạng thật là sang

Tháng 2 năm 1941, sau hơn ba mươi năm bôn ba hoạt động cách mạng ở nước ngoài tìm đường giải phóng dân tộc, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh trở về nước, trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng trong nước. Pác Bó chính là nơi Người sống và hoạt động trong những ngày đầu tiên về nước. Đó là một địa danh nằm ở vùng núi Cao Bằng, ở đây đời sống vật chất còn rất khó khăn. Đã ngoài năm mươi tuổi rồi vậy mà Người phải sống trong một cái hang rất nhỏ, muốn ra vào phải trèo lên, chui xuống, tăm tối và ẩm ướt gọi là hang Cốc Bó, thôn Pác Bó, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng. Nhưng những thiếu thốn về vật chất không làm tinh thần Người nao núng. Bài thơ Tức cảnh Pác Bó đã ra đời trong hoàn cảnh như thế.

Câu thơ đầu tiên đã mở ra một không gian – thời gian: “Sáng ra bờ suối, tối vào hang”. Không gian ở đây là những mảng không gian của vùng sơn cước: suối và hang. Thời gian có sự luân chuyển: sáng đến tối. Không gian và thời gian đều có sự thay đổi, chuyển hoá. Nhưng thực ra không phải là sự chuyển hoá sang một không gian khác, mới hơn mà là sự lặp lại của những miền không gian đã quá quen thuộc: suối và hang. Hành động của con người chỉ gói trọn trong hai động từ: ra và vào. Câu thơ không dư thừa thông tin. Nó chỉ vừa đủ để thông báo một ngày rất bình thường như biết bao ngày khác. Sáng thì ra bờ suối làm việc, tối lại quay về hang. Lời thơ cân đối, đều đặn: sáng - tối ; suối - hang, ra - vào. Sự đều đặn đó thể hiện một nếp sống, một thói quen trong một hoàn cảnh đặc biệt.

Câu thơ thứ hai, Người nói đến sinh hoạt cụ thể nơi Pác Bó: “Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng”. “Cháo bẹ” là cháo ngô, “rau măng” là loại măng rừng được lấy làm thức ăn. Đó đều là những món ăn rất dân dã, đạm bạc của người dân vùng sơn cước. Ở thì ở trong hang, làm việc bên bờ suối, ăn cháo bẹ rau măng,… một cuộc sống đầy những thiếu thốn nhưng ta vẫn bắt gặp một tinh thần lạc quan, một nụ cười hóm hỉnh qua cụm từ “vẫn sẵn sàng”. “Vẫn sẵn sàng” có thể hiểu theo hai nghĩa: “cháo bẹ rau măng” - những thức ăn quen thuộc của người miền núi lúc nào cũng sẵn có. Nghĩa thứ hai bộc lộ rõ tinh thần của nhà thơ: dù cuộc sống thiếu thốn nhưng tinh thần cách mạng luôn sẵn sàng. Với nghĩa này, câu thơ toát lên một niềm lạc quan vượt lên trên hoàn cảnh sống. Câu thơ gợi nhớ đến vần thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm nói về cuộc sống vật chất đơn sơ, giản dị của mình:

Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,

Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.

Hay ta bắt gặp ở đây nghệ thuật trào lộng khi viết về những thiếu thốn vật chất trong đời sống đã có từ thơ ca truyền thống:

Đã bấy lâu nay, bác tới nhà,

Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa.

Ao sâu nước cả, khôn chài cá,

Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà.

(Nguyễn Khuyến, Bạn đến chơi nhà)

Đó là nét nhân cách rất đáng trọng của những con người “an bần lạc đạo”. Nghèo khổ không hề làm họ mất đi nụ cười. Họ cười hóm hỉnh chính cái nghèo của mình. Cuộc sống bi mà không làm họ lụy. Hồ Chí Minh vẫn giữ được những nét truyền thống trong cuộc sống của mình. Bác vẫn vui với cái nghèo của cuộc đời cách mạng, chấp nhận cuộc sống thiếu thốn về vật chất. Phải là một con người có tinh thần và nghị lực cách mạng phi thường mới có thể tạo cho mình một phong thái ung dung trong một hoàn cảnh như thế. Dù sống trong cảnh thiếu thốn con người đó vẫn sống và hoạt động say mê:

Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng

Cuộc đời cách mạng thật là sang.

Đến đây ta nhận ra điều khác biệt giữa Bác Hồ và các vị hiền triết xưa kia. Nếu như biết bao người: Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Khuyến về với chốn thôn dã, vui thú điền viên để lánh đời, quên đi thế sự đang xoay vần điên đảo thì Bác Hồ về với vùng sơn cước “thâm sơn cùng cốc” để hoạt động do yêu cầu cần giữ bí mật của cách mạng. Dù có ở vùng núi nhưng vẫn là dấn thân vào xã hội, vào trường hoạt động cách mạng gian khổ. Bác Hồ đâu phải là một ẩn sĩ mà là một chiến sĩ:

Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng

Câu thơ như muốn vượt qua những gì không ổn định để đi đến một thế vững vàng. Bàn đá chông chênh tạo nên một tư thế không vững chãi. Đó là nơi Bác ngồi làm việc. Bàn đá của thiên nhiên. Nhưng cụm từ “dịch sử Đảng” như một lời khẳng định chắc nịch cho sự vững lòng với công việc của mình. Để đến câu thơ cuối là một lời kết thúc vui tươi, hóm hỉnh:

Cuộc đời cách mạng thật là sang

Bác vẫn tìm ra một nét đặc biệt đằng sau tất cả những thiếu thốn vật chất của cuộc sống đời thường – cũng chính là một phần của cuộc đời cách mạng. Người tìm ra nét “sang” trong những gì giản dị, đơn sơ nhất. Từ “sang” vừa có nghĩa là sang trọng, giàu có vừa có nghĩa diễn tả một phong thái vượt lên trên tất cả những gì tầm thường của vật chất để có một tinh thần lạc quan, tự tại. Câu thơ như một nụ cười ngạo nghễ của một con người đã chiến thắng hoàn cảnh bằng chính tinh thần lạc quan của mình.

Bài thơ như một nhật kí bằng thơ ghi lại cuộc sống của Người nơi núi rừng Pác Bó. Người đọc nhận ra và kính trọng một nhân cách cao đẹp trong một cuộc sống rất đỗi đời thường. Đó chính là phong thái đặc biệt khó quên của Hồ Chủ tịch.

Trắc nghiệm Văn 8, bài 23: Tức cảnh Pác Pó

Phân tích Tức cảnh Pác Bó (Mẫu 29)

Sau hơn 30 năm tìm kiếm đường đi cho cách mạng Việt Nam ở nước ngoài, Bác Hồ trở về nước để lãnh đạo cách mạng. Trong bối cảnh thế giới và nội địa đang chuyển biến mạnh mẽ, Người đã tổ chức một cuộc họp quan trọng để định hình chiến lược cho cách mạng. Hang Pác Bó trở thành nơi ở chính thức của Người trong những ngày đó, mặc dù điều kiện sống ở đây rất khó khăn.

Hang Pác Bó, hay còn gọi là Cấn Bó, có ý nghĩa là đầu nguồn. Sau khi trở về, Bác chủ yếu sống và làm việc tại đây, nơi mà cuộc sống rất khắc nghiệt và đầy thách thức.

Kể lại về những ngày đó, Đại tướng Võ Nguyên Giáp từng nói: “Nơi ở đầu tiên của Người là hang Pác Bó, dù ẩm ướt nhưng địa thế tốt nhất. Địa điểm thứ hai là một hốc núi nhỏ, cao và sâu trong rừng với những cành lau xung quanh. Khi trời mưa, Người phải chui vào nơi nằm và thậm chí có lần Người nhìn thấy một con rắn lớn nằm bên cạnh. Sức khỏe của Người giảm do những điều này. Bệnh sốt rét thường xuyên và không có thuốc chữa, chỉ có vài cành lá theo mẹo của dân địa phương.

Khi di chuyển đến vùng Mán Trắng gạo, Bác và đồng đội phải ăn cháo bẹ suốt một tháng. Dù ở bất kỳ hoàn cảnh nào, Bác cũng biết cách thích nghi một cách nhanh chóng, không bao giờ than phiền về khó khăn. Thậm chí, Người cảm thấy vui vẻ hơn bao giờ hết vì cuối cùng, sau nhiều năm xa quê, Người được trở về và sống với lý tưởng vĩ đại của dân tộc và cuộc chiến vĩ đại bảo vệ quê hương.

Điều đó làm cho bốn câu thơ trong bài Tức cảnh Pác Bó mang một tâm trạng vui vẻ, hóm hỉnh, tràn đầy sự thoải mái và lạc quan dù miêu tả một cuộc sống khó khăn và đầy thách thức.

Sáng ra bờ suối, tối vào hang

Câu thơ đan xen giữa tạo nên hai phần văn chương, thể hiện sự điều độ và đều đặn trong cuộc sống của Bác Hồ.

Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng

Nếu câu thơ đầu nhấn mạnh quy luật cuộc sống, câu thơ thứ hai nói về bữa ăn của Bác với cháo bẹ và rau măng luôn sẵn sàng, có thể hiểu là tinh thần cách mạng luôn sẵn lòng dù vật chất thiếu thốn. Trong bối cảnh vui vẻ ấy, ta có thể hiểu như thế này là hợp lý nhất.

Ba câu thơ kể về sinh hoạt, ăn uống và công việc, tạo nên một bức tranh chân thực của cuộc sống, hài hòa và tự nhiên.

“Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng”

Bài thơ tạo nên sự vững chắc và mạnh mẽ qua cách gieo vần và tạo âm thanh, từ láy chông chênh đến Dịch sử Đảng, với âm chắc nịch và khỏe khoắn, làm hài hòa và làm nổi bật cả ba câu thơ.

Câu thơ này làm rõ chủ thể của bài thơ là một chiến sĩ Cách mạng đang làm công việc trọng đại cho quốc gia, không bị chi phối bởi thiên nhiên mà thậm chí còn là trung tâm của mọi sự kiện, tô đậm hình ảnh người chiến sĩ giữa một khung cảnh đơn sơ nhưng đầy ý nghĩa của cuộc sống và sự nghiệp cách mạng.

Bài thơ kết thúc với hình ảnh:

“Cuộc đời Cách mạng thật là sang”

Chữ “sang” là điều quý giá nhất trong bài thơ, là cảm nhận từ lòng người chiến sĩ cách mạng. Với họ, khó khăn cũng không là gì vì họ luôn kiên định và không bao giờ nản chí. Họ làm chủ cuộc sống và tạo ra giá trị trong mọi tình huống. Chữ “sang” là điểm nhấn quan trọng giữa bài thơ.

Tức cảnh Pác Bó, mặc dù đơn giản nhưng ẩn chứa nhiều ý nghĩa sâu sắc, phản ánh thời đại và vận mệnh lớn. Dù không hoa mỹ nhưng lại gợi lên cảm xúc độc đáo và thoải mái cho người đọc.

Phân tích Tức cảnh Pác Bó (Mẫu 30)

Đây là một bài thơ hay, nhưng có nhiều cách hiểu, từ đó có những cách phân tích không giống nhau. Bản thân mỗi cách hiểu và phân tích khó tránh được sự không nhất quán trong quá trình lĩnh hội hình tượng thơ. Cách phân tích sau đây cũng là một trong những con đường tiếp cận, với hi vọng không mắc lại những thiếu sót không nên có vừa nêu.

Chủ đề, tư tưởng của bài thơ rất dễ nắm bắt. Ấy là tinh thần lạc quan, phong thái ung dung của Bác Hồ trong cuộc sống cách mạng đầy gian khổ ở Pác Bó. Nhưng chủ đề ấy, tư tưởng lớn ấy được thể hiện trong bài thơ như thế nào lại là điều không dễ chỉ ra cho thấu đáo, cho hợp lí hợp tình. Nên chăng là khi phân tích bài thơ này phải đi theo hai bước:

Ở bước thứ nhất, khai thác khía cạnh gian khổ mà Người đã trải qua trong bước đầu 'nhóm lửa' ngọn lửa cách mạng từ cái nơi tăm tối, hoang vu. Tập hợp các chi tiết một cách hệ thống theo khía cạnh này ta thấy: ở thì ở suối, ở hang ('Sáng ra bờ suối, tối vào hang'). Không gian và cả thời gian chật chội, quẩn quanh, đơn điệu. Còn gì gò bó cho bằng những ngày, những tối, những tháng, những năm mà con người vốn phóng khoáng, tự do phải chịu cảnh nhàm chán không chịu đổi thay với hang, với suối quen thuộc đến trơ mòn. Sự tù túng hiện lên ở bài thơ và nhịp thơ. Riêng vể nhịp thơ có sự cứng nhắc, uể oải như cần một cái vươn vai mà không thể vươn vai. Tiếp đến là điều kiện ăn uống hằng ngày:

Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng.

Về câu thơ này có hai cách hiểu khác nhau. Theo cách hiểu thứ nhất: dù có phải ăn cháo bẹ, rau măng rất khổ nhưng tinh thần vẫn sẵn sàng. Còn cách hiểu thứ hai: trong hệ thống cả ba câu đầu, câu thứ hai toát lên cảm giác thích thú bằng lòng. Do hai cách hiểu này chúng ta buộc phải có cách hiểu thứ ba, vì với hai cách hiểu trên tuy khác nhau về nội dung mà giống nhau: nó không dựa trên sự nhất quán về phương pháp khi lĩnh hội một hình tượng thơ, rất dễ gây ra hiểu lầm và nhất là hiểu không toàn vẹn. Bởi nếu lúc nào dù gian khổ đến đâu Bác cũng sẵn sàng, hơn thế còn 'thích thú, bằng lòng' thì thử thách mà Người phải vượt qua, phải trải nghiệm là ở đâu ? Bởi nói đến ăn, đến ở, so với cái tiêu chí vừa nêu (cũng là mơ ước của nhiều người) nó là những đối cực. Vậy hiểu câu thơ thứ hai như thế nào ? Với cách hiểu thứ ba - mà khi phân tích câu đầu chúng ta đã nhập cuộc, câu thứ hai, trên ý nghĩa là hình tượng nên hiểu là những thiếu thốn điển hình. Thôi thì, trong điều kiện nào đó không có đủ thực phẩm cao sang cũng phải có cháo, có rau, nghĩa là chất tinh bột của gạo và rau xanh hái ở vườn nhà như câu thơ của Nguyễn Khuyến:

Cải chửa ra cây, cà mới nụ,

Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa.

(Bạn đến chơi nhà)

Nhưng cháo ở đây là cháo bẹ. Bẹ nghĩa là ngô, vốn không phải thức ăn quen thuộc đối với người miền xuôi, còn riêng Bác lại vừa về đến nước, có lẽ càng khó ăn hơn. Cháo bẹ đã không ngon, không đủ chất, còn không đủ no. Cháo ấy trộn với rau hay ăn nó với rau (chỉ một thứ rau măng) thì dù đói đến đâu cũng còn gì hào hứng nữa. Vậy thì hai chữ sẵn sàng ở đây, không nên hiểu là quá dư thừa, cần đến có ngay chưa một lần thiếu thốn, mà nên hiểu: nói thì nói đùa vui thế thôi, hóm hỉnh thế thôi, nhưng thật thì không một cái dạ dày nào có khả năng chấp nhận.

Thiếu thốn như thế tưởng đã đến mức điển hình, hoá ra không phải. Không những hai điều kiện sống là ở và ăn vừa nói, phương tiện làm việc của Bác lại chẳng ra sao:

Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng,

Bàn đá, đá ở đây là đá núi, đá tự nhiên đâu phải đá xẻ, đá đã được mài, nó còn thô ráp, gồ ghề, lồi lõm. Lấy đá ấy - dù hòn đá nhặt được tốt nhất để làm bàn, không hiểu Bác viết ra sao ?

Đặt ba điều ấy vào trong cùng một hệ thống, mới thấy sự nghiệp cách mạng mà Người chèo lái gian nan biết chừng nào. Hiểu như vậy mới thấy những hi sinh, từ những chuyện nhỏ nhặt nhất trong thời gian dài của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bởi Bác cũng là người, trên một phương diện, cũng bình thường như tất cả chúng ta nghĩa là biết đói, biết rét, biết thiếu thốn, ấy là chưa kể những chông gai mà Người đã vượt qua trên con đường cách mạng. Nhưng kì lạ thay, câu kết bài thơ không đi về hướng ấy:

Cuộc đời cách mạng thật là sang.

Sang ở đây là sang trọng, cao sang, nghĩa là rất đủ đầy, rất cao quý. Con người ở vào hoàn cảnh cao sang, nhất là 'thật là sang' thì hạnh phúc có thể coi là đã đến mức tột độ. Vậy mối liên hộ giữa mạch thơ gian khổ tột cùng kia với câu kết, với chữ 'sang' như thế nào ? Có lẽ nên hiểu chữ 'sang' và ý câu kết nghiêng về phía trí tuệ, phía tinh thần được lọc chất ra từ chính chặng đường gian khổ ấy. Sở dĩ Người cảm thấy nó 'thật là sang' là bởi vì nó là 'cuộc đời cách mạng', được cống hiến cho cách mạng. Với những người cách mạng, nhất là những người dẫn đường như Bác ('Người đi trước nghìn sương muôn tuyết - Dắt dìu dân, nước Việt Nam ta' - Tố Hữu, Ba mươi năm đời ta có Đảng) thì gian khổ, khó khăn là sự trả giá, nói như Nguyễn Trãi: 'Khó khăn thì mặc có màng bao'. Gian khổ thiếu thốn tột cùng mà bảo là 'sang' chính vì lẽ đó. Thử so sánh hai hoàn cảnh sống: ở Pác Bó, Việt Nam và hơn một năm sau đó, gần 30 nhà ngục ở Quảng Tây, Trung Quốc dưới thời Tưởng Giới Thạch, điều kiện tinh thần tuy hoàn toàn khác nhau, nhưng về vật chất, hoàn cảnh sống của Người không hơn là mấy. Nói như thế mà thương Bác vô cùng, hiểu Bác vô cùng. Trong gian truân, Người đâu nghĩ đến bản thân mình. Nghĩ đến sự nghiệp của cách mạng, của đất nước mà Người vui, nhất là tin, tin về thời cơ giành độc lập đang tới gần.

Vậy nhãn tự của bài thơ nên đặt ở chữ sang hay đặt ở cụm từ 'cuộc đời cách mạng' ? Bởi 'cuộc đời cách mạng' mới là bản lề khép mở bài thơ. Nó vừa đúc kết, chiêm nghiêm vừa là sự sang trang. Cách nói này không phải là cách nói cho vui theo hệ thống ý nghĩa được phân tích ở trên mà là những cảm nhận có thực ở Người. Khẩu khí này khác hẳn với những câu thơ Người viết hơn một nãm sau đó như 'Ăn cơm nhà nước ở nhà công' hoặc 'Rồng uốn vòng quanh chân với tay', trong Nhật kí trong tù. Bởi lẽ cái thiếu thốn đọa đày nơi tù ngục với Người là một thứ cực hình tra tấn, còn ở bài thơ đang phân tích, nó lại là một niềm vui, nguồn cảm hứng thi nhân.

Từ câu thơ thứ tư với ý nghĩa như một chiếc bản lề như đã nói, cần phải nhìn lại bài thơ. Đây là bước thứ hai. Cái sang ở đây bước sang một phạm trù khác: cái hùng, cái đẹp chuyển sang dạng đùa vui, hài hước, một hình thái thư giãn của cơ thể, của tâm hồn. Có những bài thơ sau này Bác làm với một giọng đùa vui như:

Cảnh rừng Việt Bắc thật là hay,

Vượn hót chim kêu suốt cả ngày.

(Cánh rừng Việt Bắc)

Cái ý vị đùa vui xuất hiện trong suốt cả bài thơ tạo ra một ý nghĩa kép cho từng câu thơ, có lẽ chính vì vậy đã có không ít người nhầm lẫn. Quả thật thế, hãy trở lại từ đầu:

Sáng ra hờ suối, tối vào hang,

Câu thơ tự vịnh về mình thật ung dung, tự tại: muốn ờ đâu thì ở, muốn đi đâu thì đi, kiểu 'Non nước dạo chơi tuỳ sở thích' (Nhật kí trong tù) hoặc 'Non xanh nước biếc tha hổ dạo' (Cảnh rừng Việt Bắc). Câu thơ như động tác co duỗi tự nhiên, thay đổi không khí hằng ngày chẳng có gì gò bó cả. Con người trong hoàn cảnh ấy là con người tự do. Sẵn sàng chấp nhận, sẵn sàng sống, sẵn sàng vui, cũng như 'cảm giác thích thú, bằng lòng' là trên ý nghĩa tinh thần ở hệ thống thứ hai của cùng một hình tượng, của chủ thể trữ tình. 'Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng' thật thoải mái, thậm chí thật hồ hởi vì nó rất vô tư: cần ăn là có, như 'Khách đến thì mời ngô nếp nướng - Săn về thường chén thịt rừng quay' (Cảnh rừng Việt Bắc). Cái khác thường thành cái ngày thường, cái bình thường là giọng thơ nói trạng, đùa vui để quên đi cái thiếu thốn, cái gian nan mà hằng ngày đối mặt. Con người Hồ Chí Minh là thế: trang trọng và vui đùa tùy nơi tùy lúc đã đành, có khi một câu nói của Người mang cả hai ý nghĩa ấy. Hiểu như thế khi nói về ăn, ở, sinh hoạt được người nghe dễ dàng chấp nhận, đồng tình. Nhưng còn khi làm việc, nhất là khi làm việc lớn như chuyển ngữ từ tiếng Nga sang tiếng Việt cuốn sách cẩm nang Lịch sử Đảng Cộng sản Liên Xô cho các đồng chí của mình thì sao ?

Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng

Một công việc với ý nghĩa cực kì lớn lao, quan trọng, cần phải bao nhiêu ý chí, nghị lực, tài năng, hoàn toàn đối lập với cái 'bàn đá chông chênh' tạm bợ. Không thể làm như thế, không ai làm như thế, nhưng Bác vẫn làm như thế, mà có sao đâu ? Công việc vẫn hoàn thành, âu cũng là một điều thú vị, thật vui đấy chứ, vui như cái cách ăn ở hằng ngày của 'cuộc đời cách mạng'. Có người cho rằng ở bài thơ này và một số bài thơ khác, Hồ Chí Minh có cái thú 'lâm tuyền' (thích nơi rừng suối như những ẩn sĩ thời xưa). Cách hiểu đó ở đây không hoàn toàn đúng ít nhất trong bài thơ này, Bác chỉ là một con người, nhất là một con người cách mạng. Làm gì có chỗ cho sự nghỉ ngơi, lánh đời, thưởng ngoạn. Nếu có bằng lòng hay thích thú đi chăng nữa là với con người cùng với hai tư cách vừa nêu, và cũng vì hai tư cách vừa nêu mà hình tượng thơ mới trở nên lấp lánh, sinh động, tạo nên cảm hứng nghệ thuật dồi dào cho người đón nhận nó.

Nếu cần nói thêm về nghệ thuật thơ Đường thì Tức cảnh Pác Bó là một bài thơ rất đúng niêm luật có lẽ bởi ý nghĩa thứ hai là nói chơi, còn ý nghĩa đầu tiên vẫn là nói thật. Tính nghiêm túc của bài thơ phải chăng là sự phản ánh nghiêm túc những đòi hỏi có thật của cuộc đời đối với con người cách mạng. Nhưng một khi đã đáp ứng được nó, trụ vững trước nó thì ai cấm cái quyền nói chêu của người đã biết tự rèn luyện mình và vượt lên tất cả ?

Phân tích Tức cảnh Pác Bó (Mẫu 31)

Bác Hồ không chỉ là lãnh tụ vĩ đại của Việt Nam, mà còn là nhà văn vĩ đại của dân tộc. Các tác phẩm mà Người để lại cho văn học dân tộc không chỉ đơn giản mà còn là niềm tự hào của cả quốc gia.

Khi đọc bài thơ này, ta cảm nhận được sự tự nhiên và vô tư trong cách diễn đạt.

“Sáng ra bờ suối, tối vào hang”

Câu thơ cuối với dấu phẩy chia câu làm hai phần cân đối như lời kể về cuộc sống hàng ngày của Bác tại núi rừng Pác Bó.

“Cháo bẹ, rau măng vẫn sẵn sàng”

Hai từ “sẵn sàng” thể hiện sự đầy đủ, không thiếu thốn. Tuy nhiên, bữa ăn hàng ngày của Bác chỉ có cháo bẹ và rau măng, rất giản dị và kham khổ. Bác sống và làm việc trong hoàn cảnh thiếu thốn nhưng vẫn tỏ ra nhẹ nhàng, sảng khoái, chứng tỏ quan trọng của tinh thần hơn là vật chất.

“Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng”

Sau 30 năm hoạt động cách mạng, Bác Hồ vẫn tiếp tục tìm ánh sáng cho dân tộc. Dù sống trong hoàn cảnh thiếu thốn, Người vẫn làm công việc trọng đại: mở đường cho tri thức cách mạng đến với các chiến sĩ.

'Cuộc đời cách mạng thật là sang”

Chữ “sang” không chỉ là giàu có về tinh thần mà còn là hạnh phúc khi làm việc ý nghĩa cho dân tộc. Dù thiếu vật chất, tinh thần vẫn tươi tắn, lạc quan vào ngày giải phóng dân tộc đang dần tới.

Lời thơ đơn giản, tự nhiên, và lạc quan của Hồ Chủ Tịch thể hiện sự hòa hợp với thiên nhiên và tinh thần cách mạng của Người, luôn hoạt động không ngừng nghỉ vì dân tộc và đất nước.

Bài thơ miêu tả cuộc sống hàng ngày của Bác Hồ ở hang Pác- bó, tôn vinh nhân cách cao quý, tài năng thơ ca, và tình yêu thiên nhiên sâu sắc của Người.

Phân tích Tức cảnh Pác Bó (Mẫu 32)

Bác Hồ mong muốn mọi người dân có đủ cơm áo và học hành, và nhờ hoài bão ấy mà Người vượt qua mọi khó khăn trong hoạt động cách mạng.

'Sáng ra bờ suối, tối vào hang,
Cháo bẹ, rau măng vẫn sẵn sàng.
Bàn đá chông chênh, dịch sử Đảng,
Cuộc đời cách mạng thật là sang.'

Sau hơn ba mươi năm hoạt động cách mạng ở nước ngoài, Bác trở về Việt Nam vào tháng 2 năm 1941, lãnh đạo phong trào giải phóng dân tộc. Bác sống và làm việc trong hoàn cảnh khó khăn tại hang Pác Bó, huyện Hà Giang, tỉnh Cao Bằng, nhưng vẫn phong trần và đầy ý chí, lòng yêu nước mạnh mẽ.

'Sáng ra bờ suối, tối vào hang'

Câu thơ này tả lại phong cách sống đơn giản, tự nhiên của Bác Hồ tại hang Pác Bó, kết hợp hài hoà với thiên nhiên và tâm hồn dành cho dân, cho nước.

Câu thơ này miêu tả bữa ăn giản dị của Bác Hồ, thể hiện sự thiếu thốn nhưng vẫn đầy lòng biết ơn và sẵn sàng vì lợi ích của cả cộng đồng.

'Cháo bẹ, rau măng vẫn sẵn sàng'

Đây là những món ăn phổ biến và dễ kiếm trong núi rừng Pác Bó. Dù không phải là những món ăn hấp dẫn, chỉ là 'cháo bẹ, rau măng', Bác vẫn hài lòng với cuộc sống ở đây, thể hiện tinh thần cách mạng và sự hài lòng với cuộc sống giản dị.

Câu thơ này tả lại cảnh Bác Hồ tham gia hoạt động hàng ngày, làm việc với sự tập trung và nghiêm túc.

'Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng'

Hình ảnh này nhấn mạnh sự kết hợp giữa văn hóa vùng miền và công việc nghiêm túc của Bác Hồ, thể hiện sự vững vàng trong hoàn cảnh khó khăn.

Dù đang sống trong hoàn cảnh khó khăn, Bác vẫn có ý chí mạnh mẽ và sự kiên định trong cuộc sống và công việc hàng ngày.

'Cuộc đời cách mạng thật là tươi sáng'

Không cần đến những tiện nghi xa hoa, Bác chỉ cần cuộc sống giản dị nhưng đầy ý nghĩa. Thơ thể hiện sự tích cực và lạc quan của Bác đối với cuộc sống và tương lai.

Thơ của Bác vừa giản dị vừa sâu sắc, luôn kết nối với nhiệm vụ cách mạng. Bài thơ 'Tức cảnh Pác Bó' là minh chứng cho tinh thần và niềm tin của Bác.

toplist.vn

Phân tích Tức cảnh Pác Bó (Mẫu 33)

Tinh thần lạc quan và sự kiên trung của Chủ tịch Hồ Chí Minh được thể hiện rõ trong bài thơ 'Tức cảnh Pác Bó', đánh dấu một phong cách cách mạng đặc biệt của Người.

Sáng ra bờ suối, tối vào hang,
Cháo bẹ, rau măng luôn có sẵn.
Bàn đá chông chênh, dấu ấn Đảng,
Cuộc đời cách mạng thật là tươi sáng.

Thời điểm này, Bác trở về lãnh đạo phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam, sống trong điều kiện khó khăn: 'Cháo bẹ, rau măng' và 'bàn đá chông chênh'. Bài thơ thể hiện niềm vui và sự hài hước của Người trong việc vượt qua khó khăn để hướng tới mục tiêu cao cả.

Bài thơ tứ tuyệt bắt đầu với câu:

Sáng ra bờ suối, tối vào hang.

Câu thơ ngắn gọn, súc tích, chứa đựng thời gian và hành động. Sự sắp xếp từ ngữ thể hiện sự lạc quan và quyết tâm của Người trong cuộc sống cách mạng.

Bình minh bên bờ suối, chiều tối vào hang.

Với thứ tự này, cảnh vật như đang chuyển động, không ngừng chuyển đổi theo chu kỳ của thời gian. Vì vậy, không có gì lạ khi ghi nhận thái độ 'vẫn sẵn lòng' của Bác trong câu thơ tiếp theo:

Cháo bẹ rau măng luôn sẵn lòng.

Thơ nói về tinh thần tự chủ, thái độ sống, quan niệm về cuộc sống mà từ ngữ của thơ vẫn giản dị như lời nói hàng ngày. Điểm nổi bật của thơ tứ tuyệt là sự tiết kiệm về từ ngữ, và một bài thơ tuy nhỏ nhưng đã mang tính biểu tượng. Cụm từ 'sẵn lòng' là điểm nhấn của bài thơ.

Câu thơ này gợi lên triết lý sống của những người quân tử xưa, 'quân tử ăn chẳng cần no'. Bác sẵn lòng chấp nhận cuộc sống khó khăn vật chất với tinh thần vui vẻ, hài hước. Bác không màng đến khó khăn thậm chí cả những cảnh đau khổ, người chiến sĩ cách mạng ấy vẫn giữ thái độ dí dỏm, hóm hỉnh. Những bài thơ 'Pha trò', 'Ghẻ', 'Dây trói'... trong 'Nhật kí trong tù' là minh chứng cho sự ung dung tự tại trước những tình huống khắc nghiệt với lời thơ đầy hài hước và sắc bén.

Khác biệt với người xưa, Bác Hồ là người lao động, luôn hành động vì một lý tưởng cao cả:

Đá chông chênh dịch sử Đảng.

Làm việc trong hoàn cảnh thiếu thốn những tiện nghi cần thiết, sử dụng đá làm bàn, bàn đá lại 'chông chênh', chi tiết vui vẻ và thú vị, và đó cũng là một sự vật. Bác thường chú ý đến những chi tiết ngộ nghĩnh, thể hiện tâm hồn lạc quan.

Bài thơ kết thúc bằng câu:

Cuộc sống cách mạng thật là kỳ diệu!

Ngôn ngữ thơ giản dị nhưng ý thơ to lớn. Nếu điểm sáng của hai câu thơ đầu là thái độ 'vẫn sẵn sàng' thì ý nghĩa chính của bài thơ nằm ở câu kết, đặc biệt với cụm từ 'thật là sang!'. Đây cũng là cách diễn đạt hài hước, lớn lên quá mức, một phong cách mà ta thường thấy trong thơ và cuộc sống hàng ngày của Bác. Phong cách hài hước này tạo nên niềm tin lạc quan, rực rỡ của cách mạng.

Bài thơ 'Tức cảnh Pác Bó' đơn giản nhưng sâu sắc. Nó thể hiện một triết lí sống cao đẹp mà văn từ tự nhiên, không hoa mỹ. Giọng điệu thơ gần gũi với cách nói hàng ngày, ta cảm nhận được Bác không cố ý sáng tác thơ nhưng nó mãi mãi lưu lại trong tâm hồn, sức sống lâu dài của bài thơ nằm ở đây.

Phân tích Tức cảnh Pác Bó (Mẫu 34)

Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam ta mà Người còn là một nhà thơ, nhà văn hóa lớn để lại cho đời nhiều tác phẩm nổi tiếng. Một trong số đó phải kể đến bài thơ Tức cảnh Pác Bó nói về cuộc sống của người trong những năm tháng kháng chiến ở chiến trường Việt Bắc.

Mở đầu bài thơ là cảnh sinh hoạt hằng ngày của Bác:

Sáng ra bờ suối, tối vào hang

Sáng ra - tối vào là những hành động lặp đi lặp lại, thường xuyên liên tục hằng ngày của Bác như một vòng tuần hoàn tự nhiên. Câu thơ cho ta thấy nơi ở gắn với hành động ra vào của Bác - vị lãnh tụ của cả một đất nước, một dân tộc chỉ là chiếc hang. Điều kiện sống vô cùng vất vả, khó khăn, gian khổ, tuy nhiên vì sự nghiệp cách mạng của nước nhà mà Người chấp nhận và vô cùng lạc quan với cuộc sống túng thiếu của mình.

Không chỉ là nơi ở mà đồ ăn thức uống của Người cũng vô cùng đạm bạc:

Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng

Vị lãnh tụ của chúng ta không ăn sơn hào hải vi, hàng ngày Bác gắn bó với cháo, măng. Đây là những món ăn giản dị, mộc mạc gắn liền với miền quê cách mạng. Cuộc sống khó khăn, thiếu thốn là thế nhưng Người vẫn luôn lạc quan, vui vẻ đón nhận với tâm thế thoải mái, sẵn sàng. Có thể thấy, Bác không chỉ là một vị lãnh tụ với tài thao lược hơn người mà còn là người cha già có cốt cách giản dị, lạc quan khiến chúng ta phải ngưỡng mộ.

Điều kiện làm việc của Bác cũng gây ấn tượng sâu sắc đối với người đọc:

Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng

Giữa núi rừng Pác Bó có một vị lãnh tụ ngồi nghiên cứu con đường cứu nước bên bàn đá chông chênh. Chúng ta thường biết đến các cuộc họp Đảng, bàn luận chiến thuật ở nơi mặt trận hoặc ở trung tâm hội nghị, nghiêm trang, lộng lẫy. Nhưng đối với Bác Hồ, việc nghiên cứu con đường cứu nước của người được thực hiện ở nơi rừng núi, vách đá nơi đá là bàn, đất là ghế. Câu thơ đã cho thấy sự khác biệt đáng trân trọng của vị lãnh tụ này so với các vị lãnh tụ chúng ta thường thấy.

Tuy nhiên, trong hoàn cảnh đấu tranh gian khổ đó, Bác vẫn vô cùng lạc quan, yêu đời, yêu cách mạng:

Cuộc đời cách mạng thật là sang

Cả cuộc đời Bác gắn liền với cách mạng, với con đường cứu nước. Dù cho điều kiện ngoại cảnh, điều kiện kháng chiến có vất vả, gian khổ, khó khăn thế nào thì lí tưởng, suy nghĩ cao đẹp của Người cũng khiến cho cuộc đời Bác trở nên cao đẹp và “sang” hơn bất cứ khi nào hết. Bài thơ cho ta cách nhìn rõ nét hơn về cuộc đời, con người cũng như những khó khăn mà Bác phải trải qua để thêm yêu thương, ngưỡng mộ Bác và trân trọng nền độc lập, tự do mà ta đang được hưởng.

Chúng ta đang sống ở nhiều năm tháng sau này, khi đất nước đã giành được độc lập, có được một cuộc sống tốt đẹp đáng mơ ước. Tuy nhiên, những gian khó mà Bác phải chịu để mang đến tự do cho ta, chúng ta mãi khắc ghi trong tim. Bài thơ nói riêng và nhiều tác phẩm khác nói chung đã giúp chúng ta thêm biết ơn Bác Hồ, đồng thời trân trọng cuộc sống mà mình đang có.

Phân tích Tức cảnh Pác Bó (Mẫu 35)

“Bác Hồ, niềm tin bền vững nhất trong lòng dân và trái tim nhân loại.” Một câu nói đã đi sâu qua nhiều thập kỷ. Hồ Chí Minh - lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, người “chỉ quên mình vì tất cả” không ngẫu nhiên được Thế giới vinh danh là Danh nhân Văn hóa. Người không chỉ là nhà lãnh đạo tài ba, một nhà Văn hóa lớn, một nhà tư tưởng hàng đầu mà còn là một Nhà văn, một nhà thơ. Trong tập “Nhật kí trong tù” viết trong thời gian Bác bị chính quyền Tưởng Giới Thạch giam giữ, nhà thơ đã tỏ rõ:

“Ngâm thơ ta không quá ham học”.

Người ấy không bao giờ tự nhận mình là thi sĩ. Bác chỉ thể hiện tình yêu đối với văn học nói chung và văn chương nói riêng. Nhưng Người cha già dân tộc chưa bao giờ tự cho mình là thi sĩ đã để lại cho Văn học Việt Nam một tài sản quý giá. Trong đó, bài thơ “Tức cảnh Pác Bó” để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả.

Tháng Hai năm 1941, sau ba mươi năm công việc nước ngoài, Bác Hồ trở về để lãnh đạo cuộc cách mạng của dân tộc. Người sống trong hang Pác Bó - gần biên giới Việt- Trung. Trước hang, có một phiến đá to được Bác chọn để ngồi suy ngẫm về lịch sử Đảng bên một con suối được Người đặt tên là suối Lê-nin. Tại đây, Bác Hồ sáng tác bài thơ “Tức cảnh Pác Bó” để nói về cuộc sống khó khăn thời chiến tranh giành độc lập, và thể hiện tinh thần lạc quan qua mắt của người chiến sĩ Cách mạng.

Bài thơ viết theo thể thất ngôn tứ tuyệt Đường luật. Câu thơ mở đầu gợi hình ảnh về cuộc sống và làm việc của Bác tại hang Pác Bó (Cao Bằng):

“Sáng ra bờ suối, tối vào hang”

Nhịp thơ 4/3, chia câu thơ thành hai vế đối nhau rất hài hòa. Đối vế: “ Sáng ra bờ suối “/ “ tối vào hang”, đối thời gian “sáng”/ “tối”, đối hoạt động “ra”/ “vào”, đối không gian thiên nhiên rộng lớn “bờ suối” với không gian nhỏ chật chội “hang”. Nghệ thuật đối kết hợp với các động từ được sử dụng rất giản dị như vẽ ra trước mắt chúng ta một cuộc sống bí mật, nhưng vẫn rất gọn gàng, nên thơ. Đặc biệt, giọng thơ cũng giúp ta cảm nhận được tâm trạng thoải mái, ung dung, hòa mình với nhịp sống của Bác trong núi rừng. Có lẽ vì con người yêu thiên nhiên, luôn hòa mình với thiên nhiên, đắm mình trong vẻ đẹp của thiên nhiên ngay cả trong tình hình giam giữ:

“Trong tù không rượu cũng không hoa,
Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ.
Người ngắm trăng qua cửa sổ,
Trăng soi khe cửa, ngắm nhà thơ.”

Nếu câu thơ đầu giới thiệu về cuộc sống tại hang Pác Bó – Cao Bằng, câu thứ hai làm rõ về những ngày sống giản dị và khó khăn ấy:

“Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng.”

Câu thơ diễn đạt bằng bút pháp tả thực. Đó là những món ăn hàng ngày của Bác ở rừng Pác Bó. Cách diễn đạt rất hóm hỉnh, làm cho câu thơ nổi lên với nụ cười. Cháo bẹ, rau măng là những món ăn nghèo đạm nhưng chứa đựng tình cảm vì chúng là quà tặng từ thiên nhiên và người dân. Thưởng thức cháo bẹ, rau măng là niềm vui của người chiến sĩ cách mạng luôn gắn bó với thiên nhiên và nhân dân. Qua đó thấy Bác Hồ là người yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống và coi thường khó khăn. Có lẽ vì thế, Người đã dạy dỗ thế hệ sau:

“Không có việc gì khó,
Chỉ sợ lòng không bền.
Đào núi, lấp biển,
Quyết tâm làm nên!”

Câu thơ đầu và câu thơ thứ hai mô tả cuộc sống hàng ngày của người chiến sĩ cách mạng, tiếp theo là câu thơ thứ ba, Bác viết về công việc trong cuộc cách mạng:

“Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng”

Từ “chông chênh” gợi lên hình ảnh không vững chãi, không bằng phẳng, không ổn định. Bàn đá chông chênh là biểu tượng của cuộc cách mạng thời kỳ đầu gian khổ. Hình ảnh này thể hiện thực tế về hòn đá Bác chọn làm nơi làm việc bên con suối Lê-nin. Cuộc sống sinh hoạt đạm bạc, cuộc sống làm việc thiếu thốn hơn. Bác Hồ hiện lên như một người khách lâm tuyền và chiến sĩ cách mạng vĩ đại.

Bài thơ kết thúc với cảm nghĩ về cuộc đời Cách mạng:

“Cuộc đời cách mạng thật là sang”

Câu thơ viết bằng kiểu câu cảm thán để khẳng định: cuộc đời cách mạng sang. “ Sang” là sự giàu có, tinh thần của một tâm hồn luôn tìm thấy sự thư thái giữa thiên nhiên. “ Sang” cũng là sự sang trọng, giàu có của một con người luôn tự thấy mình sống có ích cho cách mạng, cho nhân dân.

Chỉ qua bốn câu thơ ngắn gọn, giọng thơ gần gũi, ngôn ngữ thơ giản dị, “ Tức cảnh Pác Bó” như một bức tranh tốc kí với những đường nét rất đỗi thanh sơ, chất phác và mộc mạc về cuộc sống và làm việc của vị lãnh tụ vĩ đại nói riêng cũng như những chiến sĩ cách mạng nói riêng những năm đầu cuộc kháng chiến đầy gian nan và thử thách. Từ đó giúp cho thế hệ sau hiểu hơn về giá trị của sự sống hòa bình mà ngày nay ta đang có, biết sống và học tập để trở thành người có ích cho xã hội, góp phần dựng xây và gìn giữ quê hương đất nước.

Phân tích Tức cảnh Pác Bó (Mẫu 36)

Hồ Chủ tịch của chúng ta không chỉ được biết đến là nhà chính trị gia, người anh hùng vĩ đại trên mặt trận, luôn anh minh, tài ba, mà còn là một nhà thơ. Trong kho tàng văn học Việt Nam thật đồ sộ, trong đó sự đóng góp của Bác cũng không nhỏ, các tác phẩm ấy được ghi nhận, là những áng văn hay để đời. Bài thơ Tức cảnh Pác Bó là bài ca về tình yêu thiên nhiên, tình yêu cuộc sống, đầy lạc quan trong hoàn cảnh khó khăn thể hiện được phong cách sống của người chiến sĩ, thể hiện được vẻ đẹp phong cách nghệ thuật thơ Hồ Chí Minh.

Được sáng tác trong thời kì Bác trở về sau bao nhiêu tháng năm ròng rã bôn ba tìm đường cứu nước, quay về ở tại căn cứ của quan trọng của đất nước (Pác Bó - Cao Bằng) vị trí ấy bí mật để Bác trực tiếp lãnh đạo cách mạng.

Bài thơ chỉ gói gọn trong 4 câu, thể thơ Bác chọn để gửi gắm tâm tình là thơ thất ngôn tứ tuyệt. Nhan đề bài thơ có thể thấy được tâm trạng mà người viết muốn gửi gắm suy nghĩ nhất thời qua những câu thơ tả cảnh thiên nhiên.

“Sáng ra bờ suối, tối vào hang

Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng

Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng

Cuộc đời cách mạng thật là sang!”

Đọc 4 câu thơ ta đã tái hiện trong chúng ta là một khung cảnh khác xa với thứ nơi thủ đô, thành thị, không có tiếng xe cộ ồn ào. Mà Bác đang ở nơi rừng núi, yên tĩnh, tâm hồn con người cũng thoải mái cùng hòa với thiên nhiên, nhưng cùng với sự khó khăn, sự thiếu thốn vây quanh, giọng thơ của Bác vẫn cất lên đầy lạc quan yêu đời, dường như ở đây chỉ gồm sự đơn giản trong hoạt động sinh hoạt thường nhật, niềm vui được sống ở nơi đây. Câu thơ mở đầu dẫn ta đến gần với nơi Bác đang sống, không gian “bờ suối”, “vào hang”, thời gian được mở rộng “Sáng”, “Tối”, Bác của chúng ta thì hoạt động như mọi việc làm quen thuộc như thời khóa biểu “ra”, “vào”. Quy luật ấy tuy nhàm chán nhưng cũng vẫn thể hiện được phần nào sự chủ động trong chốn đầy tự nhiên ấy là tác phong người chiến sĩ cách mạng, chủ động trong cách chọn địa điểm hoạt động thông minh trong khoảng thời gian khi cách mạng nước nhà mới bắt đầu được khởi phát, Bác phải chọn nơi bí mật làm chính sự gây dựng phong trào, phải bí mật và đầy thử thách.

Ở các câu tiếp theo, sự thiếu thốn còn thể hiện trong ở cả đồ ăn để nạp năng lượng cho người chiến sĩ làm việc, nơi đây chỉ có “cháo bẹ”, “rau măng”. Cụm từ “vẫn sẵn sàng “ở đây khá hóm hỉnh một chút, còn được dùng với hai ý nghĩa rõ ràng đó là dù ở đây chỉ có ít lương thực, nhưng sản vật của núi rừng đặc trưng riêng của Pác Bó vẫn luôn đầy đủ, phục vụ Bác. Trên tất cả vẫn thấy được sự lạc quan, vượt mọi khó khăn gian khổ sống đúng với tác phong của người vẫn giản dị, không cầu kì, đầy sự yêu đời. Tình thần cách mạng dù vậy vẫn không dừng lại vẫn hăng say, nhiệt thành. Hồ Chí Minh với tâm thế “luôn sẵn sàng”, luôn biết tự suy nghĩ, và sống vì mục tiêu của Đảng, của đất nước chứ khác hẳn với các vị danh nhân thời xưa phải mai danh ẩn tích kìm hãm, quên đi việc chính trị khó khăn. Vì vậy mà câu thơ tiếp đây mới đầy ý nghĩa thoát ra:

“Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng”

Bác ta vẫn hăng hái như vậy, dù vất vả nhưng ý chí vẫn kiên cường, sự hy sinh quên mình để nghiên cứu con đường giúp cho cách mạng thắng lợi. Một câu mà ta tâm đắc nhất trong toàn bài đó là:

“Cuộc đời cách mạng thật là sang”

Từ “sang” không hề có ý nghĩa mỉa mai, châm biếm mà lại là sự vinh hạnh cho Bác một nét rất đặc trưng của cách mạng Việt Nam tuy hiện tại khó khăn nhưng ta vẫn tìm được “thức ăn”, “phong cảnh” phù hợp với mình. Đâu đó vẫn là sự tự chủ của con người vượt lên tất cả trở ngại trước mắt, sống theo kiểu khác đi cuộc đời nó vẫn là “sang”. “Sang” trong lòng vì ở đâu đó niềm vui vẫn xuất hiện vì đơn giản người hiểu mình đang được sống và lãnh đạo cách mạng trên quê hương mình, Người vẫn luôn tin tưởng một thắng lợi sẽ thật gần.

Với tâm hồn yêu thiên nhiên, yêu đời, yêu cuộc sống, sự dung dị thể hiện trong toàn bài mà bài thơ trở nên gần gũi mà đẹp đẽ. Thơ Bác giúp chúng ta học hỏi được từ nó tinh thần lạc quan, yêu đời, biết sống và theo đuổi lý tưởng cao đẹp. Một bài thơ cũng là một bằng chứng cho sự khó khăn của cách mạng thời mới thành lập. Càng thêm yêu quý khâm phục vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc ta và “Việt Nam luôn đẹp nhất vì có tên Người” !

Phân tích Tức cảnh Pác Bó (Mẫu 37)

Sau 30 năm bôn ba khắp năm châu bốn bể hoạt động cứu nước, tháng 2 - 1941, Nguyễn Ái Quốc đã bí mật về nước để trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Người sống trong hang Pác Bó, điều kiện sinh hoạt vật chật rất gian khổ, nhưng tất cả thiếu thốn đó đối với Bác không phải là gian khổ mà đều trở thành sang trọng, mà còn thật là sang. Bởi niềm vui vô hạn của người chiến sĩ yêu nước vĩ đại Hồ Chí Minh là được sống cuộc đời cách mạng cứu dân, cứu nước. Bài thơ Tức cảnh Pác Bó đã ra đời trong hoàn cảnh đó.

Bài thơ bốn câu, theo thể thất ngôn tứ tuyệt thật tự nhiên, bình dị, giọng điệu thoải mái pha chút vui đùa hóm hỉnh. Tất cả cho ta thấy một cảm giác vui thích sảng khoái. Ý nghĩa tư tưởng của bài thơ cũng toát lên từ đó. Đi tìm hiểu bài thơ chính là đi tìm hiểu niềm vui của nhân vật trữ tình.

Mở đầu bài thơ là câu thơ có giọng điệu rất tự nhiên, rất ung dung và thoải mái, hòa điệu với cuộc sống của núi rừng:

Sáng ra bờ suối tối vào hang

Câu thơ là sự khái quát của một nhịp sống đã trở thành nếp rất chủ động. Cách ngắt nhịp 4/3 đã tạo thành thế đôi sóng đôi rất nhịp nhàng: sáng ra - tối vào. Nếp sống ở đây chủ động mà đàng hoàng. Đàng hoàng vì ban ngày Bác làm việc đời thường. Tối mới trở về hang để ngủ. Với Bác, còn gì thú vị hơn khi ngày ngày được làm việc bên bờ suối, làm bạn với thiên nhiên, tối trở về nhà (nhà vẫn là hang núi) để nghỉ ngơi và lắng nghe tiếng suối chảy. Thật thú vị, thoải mái khi con người được sống giao hòa với thiên nhiên. Phải chăng quy luật vận động ấy là Bác đã vượt lên được hoàn cảnh. Đó chẳng phải là tinh thần lạc quan hay sao?

Chính sự cân đối ở câu thơ thứ nhất đã làm nền cho các câu thơ sau xuất hiện.

Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng

Nhịp 4/3 là nhịp thông thường ở thơ tứ tuyệt, nhưng ở câu này, nhịp 4 được chuyển thành nhịp 2/2 tạo thành một sự đều đặn cùng với hai thanh trắc liền nhau ở nhịp 3 (vẫn, sẵn) càng khẳng định thêm điều đó. Câu thơ toát nên một sự yên tâm về cuộc sống vật chật của Bác. Thơ xưa thường biểu lộ thú vui vì cảnh nghèo như Nguyễn Trãi đã từng viết: Nước là cơm rau hay tri tức. Điều khác biệt của Bác, với các nhà thơ xưa như Nguyễn Trãi là ở chỗ: Nguyễn Trãi sống ở chốn núi rừng vui với thiên nhiên (ở Côn Sơn) để quên đi nỗi đau không được giúp nước, giúp đời. Còn Bác Hồ sống ở chốn núi rừng, bằng lòng với cuộc sống đạm bạc nơi đầu nguồn để đem ánh sáng cứu dân cứu nước. Vì thế câu thơ thứ ba của bài thơ là một sự chuyển biến đột ngột:

Bàn đá chông chềnh dịch sử Đảng

Hai câu nói về chuyện ăn, chuyện ở thong dong bao nhiêu, thoải mái bao nhiêu thì câu nói về chuyện làm việc vất vả bấy nhiêu. Không có bàn, người chiến sĩ cách mạng phải dùng dạ làm bàn, lại là bàn đá chông chếnh. Rõ ràng là với từ chông chếnh, Bác đã lột tả được điều kiện làm việc rất khó khăn. Công việc lại càng khó khăn hơn, đòi hỏi người chiến sĩ cách mạng phải cố gắng hết sức, không ngừng không nghỉ. Ba tiếng cuối cùng sử dụng toàn thanh trắc để thể hiện sự vất vả, nhưng khỏe khoắn, kiên quyết. Như vậy đối với Bác lúc này, việc cách mạng là cần thiết nhất, phải vượt lên tất cả mọi khó khăn. Kết thúc bài thơ là một nhận xét, một kết thúc rất tự nhiên, bất ngờ và vô cùng thú vị:

Cuộc đời cách mạng thật là sang

Ba câu đầu của bài thơ nói về việc ở, việc ăn và việc làm. Câu thứ tư là một lời đánh giá làm người đọc bất ngờ. Và bằng phép loại suy, ta có thể khẳng định việc ăn, việc ở khộng phải là sang, chỉ có việc làm dịch sử Đảng là sáng nhất vì nó đem ánh sáng của chu nghĩa Mác – Lê Nin để phát động đấu tranh giải phóng dân tộc, đem lại cơm no, áo ấm và hạnh phúc cho toàn dân. Ở đây ta bắt gặp câu thơ có khẩu khí, nói cho vui, phần nào khoa trương (thường gặp trong hàng loạt những bài thơ xưa nói cho vui cảnh nghèo đã trở thành truyền thống) trong văn học phương Đông:

Ao sâu nước cả khôn chài cá,

Vườn rộng rào thưa khó đuổi gà…

(Bác đến chơi nhà - Nguyễn Khuyến)

Đúng là nói cho vui! Thật đấy mà lại đùa đấy! Nghèo nhưng mà lại chẳng nghèo! Giọng điệu thơ rất tự nhiên, dí dỏm thể hiện niềm vui của Nguyễn Khuyến khi có bạn đến nhà chơi.

Ta thấy ở đây niềm vui thích của Bác Hồ là rất thật, không chút gượng gạo, lên gân vì thế nên giọng thơ sảng khoái, ngân vang: Thật là sang. Rõ ràng trong cái sang của Bác, của người cách mạng không phải là điều kiện ăn ở, sinh hoạt mà chính là tri thức cách mạng để giải phóng đất nước, đem lại sự giàu sang, hạnh phúc cho cả dân tộc. Ý nghĩa của bài thơ thật lớn lao.

Tức cảnh Pác Bó là một bài thơ Đường rất đúng niêm luật có lẽ bởi ý thứ hai của nó là nói chơi, còn ý đầu tiên vẫn là nói thật. Tính nghiêm túc của bài thơ phải chăng là sự phản ánh nghiêm túc những đòi hỏi có thật của cuộc đời đối với con người cách mạng. Nhưng một khi đã đáp ứng được nó, trụ vững trước nó thì ai có thể cấm được cái quyền nói trêu của người đã biết tự rèn luyện mình mà vượt lên tất cả. Bài thơ đã vượt qua hành trình hơn 60 năm nhưng đến nay vẫn giữ nguyên được giá trị.

1 79 lượt xem