Top 35 mẫu Viết bài văn thuyết minh về bình ngô đại cáo

Sinx.edu.vn xin giới thiệu tới các em 35 mẫu Viết bài văn thuyết minh về bình ngô đại cáo giúp các em làm bài văn có nhiều cách viết bài văn thuyết minh về bình ngô đại cáo đa dạng hơn được điểm tốt trong môn Ngữ văn.

1 60 lượt xem


Nội dung bài viết

Viết bài văn thuyết minh về bình ngô đại cáo

I) Dàn ý viết bài văn thuyết minh về bình ngô đại cáo

Dàn ý viết bài văn thuyết minh về bình ngô đại cáo (Mẫu 1)

1. Mở bài

Giới thiệu về tác giả Nguyễn Trãi và tác phẩm Bình Ngô đại cáo.

2. Thân bài

2.1. Tác giả Nguyễn Trãi:

a. Sự nghiệp và đời sống:

- Nguyễn Trãi (1380-1442), tên hiệu là Ức Trai, quê gốc ở huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương, sau đó chuyển về Định Khê, Thường Tín, Hà Nội.

- Sinh ra trong một gia đình danh giá, cha là Nguyễn Phi Khanh, đã đỗ thái học sinh (tiến sĩ) dưới thời nhà Trần, mẹ là Trần Thị Thái con của quan Tư đồ Trần Nguyên Đán.

- Năm 1400, Nguyễn Trãi đỗ thái học sinh và cùng cha phục vụ triều nhà Hồ, nhưng năm 1407, khi nhà Hồ đổ bể, giặc Minh xâm lược, Nguyễn Phi Khanh bị bắt sang Trung Quốc, còn Nguyễn Trãi bị giam tại thành Đông Quan.

- Năm 1417, gia nhập nghĩa quân Lam Sơn, trở thành cố vấn cho Lê Lợi, có nhiều đóng góp quan trọng giúp nghĩa quân chiến thắng giặc Minh và lập nên triều nhà Hậu Lê.

- Nhà Hậu Lê thành lập không lâu thì đối mặt với cuộc khủng hoảng, xảy ra mâu thuẫn nội bộ trong nước => Nguyễn Trãi bị nghi ngờ và không được tin dùng trong suốt 10 năm.

- Năm 1440, vua Lê Thái Tông mời Nguyễn Trãi ra giúp đỡ đất nước.

- Năm 1442, thảm kịch Lệ chi viên xảy ra, dẫn đến kết cục đau lòng - Nguyễn Trãi bị kết án tru di tam tộc.

b. Sự nghiệp sáng tác:

* Các tác phẩm chủ yếu trong các lĩnh vực:

- Lịch sử: Văn bia Vĩnh Lăng, Lam Sơn thực lục ghi chép về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.

- Chính trị quân sự bao gồm Quân trung từ mệnh tập, Bình Ngô đại cáo.

- Địa lý: Dư địa chí - cuốn sách địa lý cổ nhất tại Việt Nam.

- Văn học:

  • Chữ Hán: Tập thơ Ức Trai
  • Chữ Nôm: Tập thơ Quốc âm - cuốn sách viết bằng tiếng Việt đầu tiên còn tồn tại đến ngày nay.

* Nhà văn nổi tiếng với những luận điểm xuất sắc:

- Để lại một số lượng tác phẩm đáng kể, ngoài Quân trung từ mệnh tập và Bình Ngô đại cáo như đã nói ở trên, còn có khoảng 28 tác phẩm khác thuộc các thể loại chiếu, biểu, ... dưới triều Lê.

- Bản chất tư tưởng chính là lòng nhân ái, lòng yêu nước và tình thương dân.

- Đặc điểm nghệ thuật: Cấu trúc logic rõ ràng, lập luận sắc bén, sử dụng các kỹ thuật viết linh hoạt tùy thuộc vào mục đích, yêu cầu và đối tượng.

* Nhà thơ lãng mạn sâu sắc:

- Các tác phẩm còn lại bao gồm hai tập thơ Ức Trai thi tập và Quốc âm thi tập

- Bản chất:

  • Miêu tả hình ảnh của anh hùng vĩ đại Nguyễn Trãi: Mang trong mình lý tưởng nhân nghĩa, tình yêu nước và lòng thương dân; ý chí kiên cường chống lại sự xâm lược từ bên ngoài và sự bạo lực của quyền lực; các phẩm chất tốt làm mẫu mực cho một người anh hùng.
  • Với tư cách của một con người bình thường, ông hiện thân với những đặc điểm của một con người đời thường giản dị, trải qua những gian khổ của cuộc sống xã hội, ông cảm thấy đau đớn trước sự bất công của xã hội, trước sự bạc bẽo và nham hiểm của cuộc sống; ông cũng có tình yêu sâu sắc với thiên nhiên, đất nước và con người, đồng thời thể hiện những mối quan hệ tình cảm sâu sắc giữa cha con, vua dân và bạn bè.

2.2. Tác phẩm Bình Ngô đại cáo:

a. Ngữ cảnh ra đời:

- Xuất hiện vào cuối năm 1427, đầu năm 1428 sau khi quân nghĩa Lam Sơn tiêu diệt được 15 vạn quân giặc, khi Vương Thông đang cố thủ tại thành Đông Quan và phải rút quân về nước.

- Nguyễn Trãi theo lệnh của vua Lê Lợi viết Bình Ngô đại cáo để thông báo với thiên hạ rằng dân tộc ta đã giành lại độc lập, tuyên bố độc lập, mở ra một trang mới trong lịch sử của quốc gia.

b. Ý nghĩa của tiêu đề:

- 'Bình Ngô', có nghĩa là làm yên bình quân Minh xâm lược, đánh bại giặc dữ (vì vua Minh đến từ nước Ngô, biểu tượng cho một quốc gia, một dân tộc. Theo một giải thích khác, giặc Ngô còn là thuật ngữ chung chỉ kẻ thù từ phương Bắc, đặc điểm chung của họ là tàn bạo và không nhân đạo).

- Hai chữ 'đại cáo' nghĩa là một bản cáo quan trọng, thể hiện sự quan trọng của sự kiện cần tuyên bố, cũng như khẳng định tư tưởng cao cả của dân tộc.

- Khái niệm 'cáo': (Tham khảo từ sách giáo khoa)

c. Cấu trúc:

Đoạn 1 tóm tắt nội dung chính nghĩa, đoạn 2 phân tích tội ác của kẻ thù, phần 3 mô tả diễn biến của cuộc khởi nghĩa, đoạn 4 là tuyên bố chiến thắng, khẳng định sự công bằng.

d. Nội dung:

- Đoạn 1: Tóm lược về nội dung chính nghĩa với hai điểm chính:

  • Tư tưởng nhân nghĩa 'Việc làm nhân nghĩa nền tảng ở việc bảo vệ dân tộc/Quân đánh trước để loại bỏ bạo lực', đặt nhân dân làm trung tâm, thể hiện lòng yêu nước, lòng thương dân, và sự hy sinh tất cả cho nhân dân.
  • Xác định quyền chủ quyền của dân tộc qua nhiều khía cạnh khác nhau bao gồm: Hiến pháp, biên giới lãnh thổ, lịch sử đấu tranh, triều đại cai trị và văn hoá xã hội.

- Đoạn 2: Phân tích tính phi nhân nghĩa của quân Minh xâm lược và sự tàn ác của chúng trên đất nước ta:

  • Mang danh nghĩa của vua Trần để đưa quân đội xâm lược nước ta.
  • Thực hiện việc tàn sát và hủy diệt dân chúng một cách tàn bạo, tận dụng cơ hội thu thuế, bóc lột dân lao động, đẩy dân chúng vào nguy cơ, tận dụng mọi cách để cướp tài nguyên và phá hủy nền nông nghiệp của dân ta.

- Đoạn 3:

+ Tái hiện tài năng và phẩm hạnh của vua Lê Lợi.

+ Mô tả lại cuộc khởi nghĩa Lam Sơn qua nhiều giai đoạn.

- Đoạn 4:

  • Tuyên bố chiến thắng, khẳng định sự độc lập chủ quyền của dân tộc, tính chất chính nghĩa của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, mở ra một thời kỳ mới trong lịch sử dân tộc, thời kỳ của sự độc lập, tự do và toàn vẹn lãnh thổ.
  • Rút ra bài học từ lịch sử cho dân tộc dựa trên tư tưởng về mệnh trời, quy luật của tự nhiên trong ngũ hành, bát quái, Kinh Dịch:

e. Nghệ thuật:

- Kết hợp một cách hài hòa giữa phần chính luận và văn chương nghệ thuật.

- Phần chính luận được thể hiện thông qua cấu trúc chặt chẽ của tác phẩm, lập luận sắc bén, ngôn từ sắc sảo, hùng tráng.

- Phần văn chương nghệ thuật có văn phong phong phú, pha trộn giữa việc tái hiện các sự kiện một cách khách quan và bày tỏ trực tiếp cảm xúc của tác giả. Lối viết đậm tính nghệ thuật, sử dụng hình tượng sống động tạo nên sức mạnh gợi cảm, mở ra không gian miêu tả rộng lớn, áp dụng kiến thức về lịch sử và truyền thống một cách thông minh.

3. Kết bài

Tóm lược cảm nhận.

Dàn ý viết bài văn thuyết minh về bình ngô đại cáo (Mẫu 2)

1. Mở bài

Giới thiệu khái quát về tác phẩm
2. Thân bài

a. Bối cảnh sáng tác
- Năm 1428, đất nước được giải phóng, không còn dấu vết quân Minh nào trên lãnh thổ Việt Nam
- Lê Lợi ủy quyền cho Nguyễn Trãi soạn thảo bản Cáo để thông báo cho cả nước về sự kiện lịch sử quan trọng này.

b. Tiêu đề, thể loại
- Tiêu đề: Tuyên bố rõ ràng về việc dẹp yên giặc Ngô
- Thể loại: Cáo cáo
- Loại văn xuôi thường được sử dụng trong những sự kiện lớn để truyền đạt thông điệp quan trọng đến quốc gia và dân tộc. Sử dụng ngôn từ sâu sắc, lập luận sắc bén và chặt chẽ, đây là loại văn hùng biện, chính luận mang tính chiến lược và tư duy cao.

c. Bản Chất

- Phần 1: Từ đầu đến....'Chứng minh cho sự đẹp đẽ'
+ Bày tỏ quan điểm cốt lõi về công lý: hòa bình cho nhân dân bằng cách loại trừ bạo lực
+ Khẳng định quyền lực của dân tộc qua nhiều khía cạnh: lãnh thổ, văn hiến, lịch sử, tập quán văn hóa, phẩm chất nhân văn,...

- Phần 2: 'Gần đây' → 'Ai dám nói dối'
+ Phân tích sự tàn bạo và vi phạm nhân quyền của quân địch
+ Thể hiện lòng xót thương, phẫn nộ trước cảnh đau buồn, khổ đau của nhân dân

- Phần 3: 'Chúng ta ở đây để xây nên chính nghĩa' → 'Chưa bao giờ thấy trước'
+ Mô tả những thách thức ban đầu của đội quân Lam Sơn
+ Sức mạnh, tài năng, và sự đoàn kết tạo nên những chiến công vĩ đại, đánh bại quân giặc Minh

- Phần 4: Phần còn lại
+ Tuyên bố chấm dứt cuộc chiến
+ Khẳng định sự độc lập và hòa bình cho dân tộc

d. Nghệ thuật:
- Sử dụng ngôn từ sắc bén, lập luận chính xác và đầy đủ.
- Hình ảnh và biểu tượng nghệ thuật đậm chất tưởng tượng, lối viết tràn ngập cảm xúc.
- Kết hợp một cách linh hoạt các thủ pháp như liệt kê, so sánh, đối lập,...
- Sử dụng giọng điệu thơm ngát, biến đổi tinh tế

3. Kết bài

Tôn vinh lại giá trị của tác phẩm

 

Dàn ý viết bài văn thuyết minh về bình ngô đại cáo (Mẫu 3)

1. Mở bài:

- Dẫn dắt vấn đề: Khái quát về tác giả, tác phẩm, giá trị nội dung, nghệ thuật của bài Bình Ngô đại cáo.

2. Thân bài:

- Nêu luận đề chính nghĩa: Cốt lõi nhân nghĩa chính là yên dân và trừ bạo. Nhân nghĩa không bó hẹp trong khuôn khổ tư tưởng Nho giáo mà rộng hơn là làm thế nào để đem lại cuộc sống yên bình cho nhân dân. Bên cạnh đó khẳng định nước ta tuy là một nước nhỏ nhưng vẫn có thể tự hào về:

  • Nền văn hiến lâu đời.
  • Cương vực lãnh thổ.
  • Phong tục tập quán.
  • Lịch sử và chế độ riêng.

- Bản cáo trạng vạch rõ tội ác kẻ thù: Giặc Minh xảo quyệt thừa nước đục thả câu. Không những thế còn tàn sát, hành hạ, tước đoạt mạng sống con người một cách dã man (dẫn chứng).

- Tổng kết quá trình kháng chiến:

  • Xây dựng hình tượng người anh hùng áo vải bình thường nhưng có lòng yêu nước thương dân và căm thù giặc sâu sắc, có lí tưởng cao cả (so sánh với Trần Quốc Tuấn để thấy được lòng căm thù giặc và niềm tin sắt đá).
  • Khắc họa những chiến công oanh liệt hào hùng (dẫn chứng).

- Tuyên bố hòa bình mở ra kỉ nguyên mới.

* Nghệ thuật:

- Sử dụng từ ngữ hiển nhiên, vốn có.

- Biện pháp đối lập, lấy cái vô hạn của trúc Nam Sơn để nói đến cái vô hạn trong tội ác giặc Minh, lấy cái vô cùng của nước Đông Hải để nói lên sự dơ bẩn vô cùng.

- Nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật.

- Liệt kê, so sánh, đối lập để tạo thành bản anh hùng ca về những chiến công oanh liệt.

3. Kết bài:

Tóm tắt lại nội dung, nghệ thuật tiêu biểu.

Dàn ý viết bài văn thuyết minh về bình ngô đại cáo (Mẫu 4)

1. Mở bài

Giới thiệu tác giả Nguyễn Trãi và tác phẩm Bình Ngô đại cáo.

2. Thân bài:

2.1. Tác giả Nguyễn Trãi:

a. Thân thế, cuộc đời:

- Nguyễn Trãi (1380-1442), tên hiệu là Ức Trai, quê gốc ở huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương, sau đó dời đến Định Khê, Thường Tín, Hà Nội.

- Xuất thân trong một gia đình danh giá, cha là Nguyễn Phi Khanh, đã từng đỗ thái học sinh (tiến sĩ) dưới thời nhà Trần, mẹ là Trần Thị Thái con của quan Tư đồ Trần Nguyên Đán.

- Năm 1400, Nguyễn Trãi thi đỗ thái học sinh và cùng cha ra làm quan dưới triều nhà Hồ, năm 1407 nhà Hồ sụp đổ, giặc Minh xâm lược nước ta, Nguyễn Phi Khanh bị giặc bắt giải về Trung Quốc, còn Nguyễn Trãi bị giam lỏng tại thành Đông Quan.

- 1417, gia nhập nghĩa quân Lam Sơn, trở thành quân sư cho Lê Lợi, đóng góp nhiều công lao to lớn giúp nghĩa quân chiến thắng giặc Minh và lập ra nhà Hậu Lê.

- Nhà Hậu Lê thành lập không bao lâu thì gặp phải cuộc khủng hoảng nghiêm trọng, nội bộ đất nước xảy ra mâu thuẫn => Nguyễn Trãi bị nghi ngờ và không được tin dùng trong suốt 10 năm trời.

- Năm 1440 lại được vua Lê Thái Tông mời ra giúp nước.

- Năm 1442 thảm án Lệ chi viên ập xuống, dẫn đến kết cục vô cùng bi đát - Nguyễn Trãi phải chịu tội tru di tam tộc.

b. Sự nghiệp sáng tác:

* Các tác phẩm chính trong các lĩnh vực:

- Lịch sử: Văn bia Vĩnh Lăng, Lam Sơn thực lục ghi lại kể lại cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.

- Chính trị quân sự có Quân trung từ mệnh tập, Bình Ngô đại cáo.

- Địa lý: Dư địa chí - cuốn sách địa lý cổ nhất Việt Nam.

- Văn học:

  • Chữ Hán: Ức Trai thi tập
  • Chữ Nôm: Quốc âm thi tập - cuốn sách viết bằng tiếng Việt đầu tiên còn lại cho đến ngày hôm nay.

* Nhà văn chính luận kiệt xuất:

- Để lại một số lượng tác phẩm khá lớn, ngoài Quân trung từ mệnh tập và Bình Ngô đại cáo đã kể trên, người ta còn sưu tập được khoảng 28 tác phẩm thuộc các thể loại chiếu, biểu, ... dưới triều Lê.

- Nội dung tư tưởng chủ đạo xuyên suốt là nhân nghĩa, yêu nước và thương dân.

- Đặc sắc nghệ thuật: Kết cấu chặt chẽ, lập luận sắc bén, sử dụng các bút pháp linh hoạt tùy theo mục đích, yêu cầu, đối tượng.

* Nhà thơ trữ tình sâu sắc:

- Các tác phẩm hiện còn gồm hai tập thơ Ức Trai thi tập và Quốc âm thi tập

- Nội dung:

  • Ghi lại hình ảnh người anh hùng vĩ đại Nguyễn Trãi: Lý tưởng nhân nghĩa, yêu nước thương dân; ý chí chống ngoại xâm và cường quyền bạo lực; các phẩm chất tốt đẹp tượng trưng cho người quân tử.
  • Trong tư cách là một con người trần thế, ông hiện lên với những đặc điểm của một con người đời thường giản dị, ông đau đớn trước nghịch cảnh éo le của xã hội cũ, trước thói đời bạc bẽo, nham hiểm, ông cũng có những tình yêu sâu sắc với thiên nhiên, đất nước con người và cuộc sống, đồng thời thể hiện cả những tình nghĩa giữa cha con, vua tôi, bạn bè rất sâu nặng.

2.2. Tác phẩm Bình Ngô đại cáo:

a. Hoàn cảnh ra đời:

- Ra đời vào thời điểm cuối năm 1427, đầu năm 1428 sau khi nghĩa quân Lam Sơn tiêu diệt được 15 vạn viện binh của giặc, Vương Thông đang cố thủ trong thành Đông Quan đã phải xin giảng hòa và rút quân về nước.

- Nguyễn Trãi đã thừa lệnh Lê Lợi viết Bình Ngô đại cáo để chiếu cáo với thiên hạ rằng chúng ta đã giành lại độc lập dân tộc, tuyên ngôn độc lập, mở ra một trang mới cho lịch sử nước nhà.

b. Ý nghĩa nhan đề:

- 'Bình Ngô', tức là bình định quân Minh xâm lược, dẹp yên giặc dữ (bởi vua Minh vốn là người nước Ngô, đại diện cho một đất nước, đại diện cho cả một dân tộc. Theo một cách lý giải khác giặc Ngô còn là tên gọi chung để chỉ thứ giặc đến từ phương Bắc với các đặc điểm chung là tàn ác và vô nhân đạo).

- Hai chữ 'đại cáo' tức là bản cáo lớn, thể hiện tầm quan trọng của sự kiện cần tuyên bố, cũng như khẳng định tư tưởng lớn của dân tộc.

- Khái niệm 'cáo': (Tham khảo sách giáo khoa)

c. Bố cục:

Đoạn 1 là nêu luận đề chính nghĩa, đoạn 2 vạch rõ tội ác của kẻ thù, phần 3 kể lại diễn biến của cuộc khởi nghĩa, đoạn 4 là phần tuyên bố chiến quả khẳng định sự nghiệp chính nghĩa.

d. Nội dung:

- Đoạn 1: Nêu ra luận đề chính nghĩa với hai cơ sở lớn:

  • Tư tưởng nhân nghĩa 'Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân/Quân điếu phạt trước lo trừ bạo', lấy nhân dân làm gốc, thể hiện tấm lòng yêu nước, thương dân, một lòng vì nhân dân.
  • Khẳng định chủ quyền của dân tộc thông qua nhiều khía cạnh khác nhau bao gồm: Văn hiến, ranh giới lãnh thổ, lịch sử đấu tranh, triều đại trị vì và phong tục tập quán.

- Đoạn 2: Nêu nên tính chất phi nghĩa của quân Minh xâm lược và tội ác của chúng trên đất nước ta:

  • Lấy danh nghĩa phù Trần diệt Hồ để dẫn quân vào xâm lược nước ta.
  • Tàn sát giết hại đồng bào một cách dã man, ra sức bóc lột thuế khóa, đàn áp vắt kiệt sức lao động, đẩy nhân dân ta vào chỗ nguy hiểm, dùng mọi thủ đoạn vơ vét tài nguyên sản vật, phá hoại tài nguyên cây cỏ, phá hoại cả nền nông nghiệp của nhân dân ta.

- Đoạn 3:

+ Tái hiện lại tài năng nhân phẩm và ý chí của chủ soái Lê Lợi.

+ Kể lại cuộc khởi nghĩa Lam Sơn qua nhiều giai đoạn.

- Đoạn 4:

  • Tuyên bố thắng lợi, khẳng định độc lập chủ quyền của dân tộc, tính chất chính nghĩa của khởi nghĩa Lam Sơn, mở ra kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc, kỷ nguyên độc lập, tự do và toàn vẹn lãnh thổ.
  • Rút ra bài học lịch sử cho dân tộc dựa trên tư tưởng mệnh trời, quy luật của tạo hóa trong ngũ hành, bát quái, Kinh dịch:

e. Nghệ thuật:

- Kết hợp hài hòa giữa yếu tố chính luận và chất văn chương nghệ thuật.

- Yếu tố chính luận thể hiện ở kết cấu chặt chẽ của tác phẩm, lập luận sắc bén, lời văn đanh thép, hùng hồn.

- Chất văn chương nghệ thuật lời văn rất giàu cảm xúc, xen lẫn giữa những đoạn thuật lại một cách khách quan, là những đoạn bộc lộ cảm xúc trực tiếp của tác giả. Câu văn rất giàu hình tượng nghệ thuật sinh động tạo ra sức mạnh gợi cảm, gợi tả lớn, vận dụng cả sự hiểu biết của mình về các điển tích điển cố, lịch sử.

3. Kết bài:

Nêu cảm nhận chung.

Phân tích đoạn 1 Bình Ngô đại cáo siêu ...

II) Các bài văn mẫu viết bài văn thuyết minh về bình ngô đại cáo

Viết bài văn thuyết minh về bình ngô đại cáo (Mẫu 1)

 

Trong “Nước Đại Việt ta”(trích “Bình Ngô đại cáo”) Nguyễn Trãi có viết: “Dù khác nhau về mạnh yếu nhưng những anh hùng đều có giá trị.”

Từ xưa đến nay, nước và lửa luôn tượng trưng cho sự đối lập trong tự nhiên. Sự đấu tranh giữa họ tạo ra câu thành ngữ “khác nhau như nước với lửa”.

Dù biết rằng nước có thể dập tắt lửa, nhưng khi lửa bùng cháy mạnh mẽ, nước lại không thể kiềm chế được. Đây là những anh hùng vĩ đại đã góp phần bảo vệ Tổ quốc, là những nhà lãnh đạo tài ba trong quân sự.

“Dù khác nhau về mạnh yếu nhưng những anh hùng đều có giá trị.”

Hào kiệt là những người kiệt xuất, có tài cao chí lớn hơn người. Họ thường giỏi giang hoặc có khả năng đặc biệt trong một lĩnh vực nào đó. Khái niệm “mạnh - yếu” ở đây chỉ sự hùng mạnh, hưng thịnh của một đất nước.

Từ xưa đến nay, người Việt đã có những anh hùng hào kiệt như Bà Trưng, Bà Triệu, Ngô Quyền, Trần Quốc Tuấn, Lê Lợi, Nguyễn Trãi... họ đã góp phần bảo vệ Tổ quốc, là những nhà lãnh đạo quân sự tài ba.

Ngày nay, chúng ta có Hồ Chủ Tịch, Võ Nguyên Giáp, Tôn Thất Tùng, Trịnh Công Sơn... họ là những anh hùng hào kiệt về nhiều lĩnh vực khác nhau, góp phần làm nên vẻ đẹp của dân tộc Việt Nam.

Trong thập niên đầu của thế kỷ XXI, chúng ta tự hào về giáo sư Ngô Bảo Châu, người châu Á thứ hai được nhận giải thưởng danh giá về công trình nghiên cứu toán học.

Những người có tài cao chí lớn sẽ làm cho dân tộc vẻ vang. Như Trần Hưng Đạo đã dẫn dắt quân ta đánh bại quân Mông Nguyên, mở ra thời kỳ vinh quang cho Đại Việt. Hoặc Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo dân ta đánh bại Thực Dân Pháp, phát xít Nhật, làm rạng danh đất nước. Và giáo sư Ngô Bảo Châu, với lòng tự hào mang theo hộ chiếu Việt Nam, đã đại diện cho trí tuệ của dân tộc khi đi ra thế giới.

Tuổi trẻ muốn góp phần cho đất nước cần phải trở thành những người có tài cao chí lớn. Điều đó đòi hỏi phải học tập chăm chỉ, nắm bắt những kiến thức mới để đồng hành với thời đại. Chỉ khi đó, chúng ta mới có thể đóng góp vào sự phát triển của quê hương, đưa đất nước tiến lên vị thế quốc tế và cùng những cường quốc khác. Và những anh hùng như Hưng Đạo Vương, Lê Lợi, Nguyễn Trãi đã vẫn sáng danh trong truyền thống lịch sử, là nguồn động viên cho thế hệ sau.

Sau 600 năm từ vụ án Lệ Chi Viên, tác phẩm của Nguyễn Trãi vẫn sống mãi và đặc biệt như “Bình Ngô Đại Cáo”. Câu nói “Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau, song hào kiệt đời nào cũng có” vẫn giữ nguyên giá trị đúng đắn, khẳng định tầm quan trọng của anh hùng trong lịch sử dân tộc.

 

Viết bài văn thuyết minh về bình ngô đại cáo (Mẫu 2)

Nguyễn Trãi chính là một trong số những tác giả kiệt xuất đối với nền văn học trung đại Việt Nam, ông đã để lại cho hậu bối rất nhiều tác phẩm kinh điển được viết bằng cả chữ Nôm và chữ Hán. Đọc những tác phẩm của ông có thể dễ dàng nhận thấy được tấm lòng yêu thương con người, đất nước da diết, mãnh liệt. 'Bình ngô đại cáo' chính là tác phẩm thể hiện trọn vẹn những đức tính tốt đẹp đó của ông.

Tác phẩm được ra đời trong một hoàn cảnh vô cùng đặc biệt, sau khi đánh tan quân xâm lược, Vương Thông đã phải miễn cưỡng giảng hòa và rút quân Minh về nước, nhân dân ta giành lại được độc lập, chủ quyền. Trong hoàn cảnh lịch sử hào hùng ấy, Nguyễn Trãi đã thay mặt vua Lê Lợi để viết tác phẩm 'Bình ngô đại cáo' và chính thức công bố với toàn thể quần chúng nhân dân vào đầu năm 1428. Tác phẩm chính là bản tuyên ngôn độc lập của dân tộc ta.

Tác phẩm được Nguyễn Trãi viết bằng thể cáo - một thể loại có nguồn gốc từ Trung Hoa, thường được nhà vua hoặc thủ lĩnh sử dụng để công bố một sự kiện trọng đại của đất nước. Cũng như rất nhiều thể loại văn khác thời cổ, cáo được trình bày rất mạch lạc, rõ ràng, chặt chẽ về kết cấu, lập luận sắc bén và lý lẽ vô cùng thuyết phục. 'Bình ngô đại cáo' của Nguyễn Trãi là một tác phẩm hội tụ đầy đủ rõ nét về những đặc điểm này.

Tác phẩm được chia làm 4 phần với 4 ý nghĩa khác nhau. Đoạn mở đầu bài cáo đã nêu lên luận điểm chính nghĩa để làm cơ sở, nền tảng để triển khai nội dung bài cáo. Luận đề chính nghĩa ấy chính là sự kết hợp hài hòa giữa tư tưởng thân dân với độc lập dân tộc:

Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân

Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.

Sau khi nêu được luận điểm chính nghĩa để làm cơ sở, trong phần 2, Nguyễn Trãi đã vạch rõ những tội ác vô cùng độc ác, man rợ của kẻ thù phương Bắc. Đó là những hành động sát hại, chà đạp, vùi dập nhân dân ta một cách không thể độc ác hơn. 'Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn'. Đó là những thứ thuế vô lý, hủy hoại môi trường sống, phá hoại tài nguyên thiên nhiên và sức lao động của người dân Đại Việt. Tất cả những tội ác man rợ đó đã được Nguyễn Trãi khắc họa lên vô cùng chân thực, rõ nét bằng những lời lẽ thuyết phục, sắc bén. Ở phần hai, tác giả còn nêu lên ý chí căm thù, phẫn nộ sâu sắc của nhân dân đối với kẻ thù. Phần 3 Nguyễn Trãi đã tái hiện lại rõ nét quá trình chiến đấu, chinh phạt nhiều gian khổ, khó khăn và tất yếu thắng lợi của nhân dân ta. Ban đầu, cuộc chiến đấu của nghĩa quân Lam Sơn vấp phải vô vàn rào cản, khó khăn, thiếu thốn đủ thứ cả về nhân lực, thực phẩm. Nhưng rồi với ý chí quật cường, sự lãnh đạo tài ba của Lê Lợi, nghĩa quân và toàn thể nhân dân đã thắng lợi không thể vẻ vang hơn trước sự xâm lược của giặc ngoại xâm. Trên cơ sở nêu lên luận đề chính nghĩa, vạch rõ những âm mưu và tội ác man rợ của kẻ thù, quá trình chiến đấu quật cường của dân tộc ta, khép lại đoạn văn chính là lời tuyên bố độc lập, tất yếu thắng lợi của chính nghĩa. Đoạn cuối cùng của bài cáo chính là lời tuyên bố trịnh trọng về việc kết thúc chiến tranh, khẳng định chắc nịch về chủ quyền quốc gia, độc lập dân tộc và niềm tin vào một tương lai tươi sáng, tốt đẹp của đất nước, nhân dân.

Không chỉ dừng lại ở đó, Nguyễn Trãi còn để lại trong lòng người đọc một ấn tượng sâu sắc trong sự thể hiện thành công cả về nội dung và nghệ thuật. Trước hết, bài cáo thành công trong việc kết hợp thích hợp, hài hòa giữa yếu tố chính luận với yếu tố văn chương với nhiều hình ảnh vô cùng chân thật, độc đáo. Thêm vào đó, bài cáo còn được thay đổi giọng điệu vô cùng linh hoạt trong từng phần, phù hợp với nội dung - tự hào về truyền thống tốt đẹp lâu đời của dân tộc, phẫn nộ khi vạch rõ tội ác của kẻ thù, trịnh trọng khẳng định về sự độc lập của dân tộc.

'Bình ngô đại cáo' của Nguyễn Trãi chính là thiên hùng ca ca ngợi chiến thắng vĩ đại của toàn dân ta trong thế kỷ XV. Tác phẩm vừa có giá trị to lớn về lịch sử lẫn văn học, không chỉ lưu giữ những sự kiện lịch sử quan trọng mà còn góp phần khích lệ tinh thần chiến đấu quật cường, lòng tự hào dân tộc đến thế hệ sau. Nguyễn Trãi chính là một nhà lãnh đạo kiệt xuất, nhà thơ, nhà văn tài ba sẽ mãi mãi được khắc ghi trong tâm trí mỗi người con đất Việt.

 

Viết bài văn thuyết minh về bình ngô đại cáo (Mẫu 3)

Trong dòng văn học ca ngợi truyền thống yêu nước xuyên suốt lịch sử văn học Việt Nam, 'Bình Ngô đại cáo' của Nguyễn Trãi được đánh giá là ánh 'thiên cổ hùng văn', là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc, được các thế hệ người Việt luôn yêu thích, tự hào.

'Bình Ngô đại cáo' được Nguyễn Trãi thừa lệnh Lê Lợi viết vào khoảng đầu năm 1428, khi cuộc kháng chiến chống Minh xâm lược của nghĩa quân Lam Sơn đã thắng lợi, quân Minh buộc phải kí hòa ước, rút quân về nước, nước ta bảo toàn được nền độc lập tự chủ, hòa bình. Nguyễn Trãi -62 là một anh hùng dân tộc, là người toàn tài hiếm có trong lịch sử các triều đại phong kiến Việt Nam. Ông có công lớn trong cuộc kháng chiến chống quân Minh đồng thời cũng là nhà thơ trữ tình sâu sắc, nhà văn chính luận kiệt xuất, là cây đại thụ đầu tiên của văn học trung đại Việt Nam.

Tác phẩm 'Bình Ngô đại cáo' được Nguyễn Trãi viết theo thể cáo, một thể văn có nguồn gốc từ Trung Hoa, viết bằng chữ Hán, thuộc thể văn hùng biện chính luận, có nội dung thông báo một chính sách, một sự kiện trọng đại liên quan đến quốc gia dân tộc, công báo trước toàn dân. Nhan đề tác phẩm có ‎ Ý nghĩa là bài cáo trọng đại tuyên bố về việc dẹp yên giặc Ngô-một tên gọi hàm ý khinh bỉ căm thù giặc Minh xâm lược. Bài cáo có bố cục chặt chẽ mạch lạc, viết theo lối biền ngẫu, vận dụng thể tứ lục, sử dụng hệ thống hình tượng sinh động, gợi cảm.

Bài cáo gồm bốn đoạn. Đoạn đầu nêu cao luận đề chính nghĩa của cuộc kháng chiến, đó là tư tưởng nhân nghĩa kết hợp với độc lập dân tộc: 'Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân-Quân điếu phạt trước lo trừ bạo' và 'Như nước Đại Việt ta từ trước-Vốn xưng nền văn hiến đã lâu'.

Đoạn thứ hai của bài cáo đã vạch trần, tố cáo tội ác dã man của giặc Minh xâm lược. Đoạn văn là bản cáo trạng đanh thép, tố cáo giặc Minh ở các điểm: âm mưu cướp nước, chủ trương cai trị phản nhân đạo, hành động tàn sát tàn bạo. Đồng thời, đoạn văn cũng nêu bật nỗi thống khổ, khốn cùng của nhân dân, dân tộc ta dưới ách thống trị của kẻ thù: 'Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn-Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ'; 'Dối trời, lừa dân, đủ muôn nghìn kế-Gây binh kết oán, trải hai mươi năm'. Đoạn văn ngùn ngụt Ý chí căm thù giặc và thống thiết nỗi thương dân lầm than. Đoạn văn thứ ba là đoạn dài nhất của bài cáo, có Ý nghĩa như bản anh hùng ca về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Đoạn văn đã tổng kết lại quá trình khởi nghĩa. Ban đầu cuộc khởi nghĩa gặp nhiều khó khăn, lương thảo, quân sĩ, người tài đều thiếu, nghĩa quân ở vào thế yếu 'Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần-Khi Khôi Huyện quân không một đội', 'Tuấn kiệt như sao buổi sớm-Nhân tài như lá mùa thu', 'lấy yếu thắng mạnh, lấy ít địch nhiều'…Nhưng nghĩa quân có người lãnh tụ Lê Lợi sáng suốt, bền chí, yêu nước 'Ngẫm thù lớn há đội trời chung-Căm giặc nước thề không cùng sống', biết đoàn kết lòng dân 'Sĩ tốt một lòng phụ tử-Hòa nước sông chén rượu ngọt ngào', dùng chiến thuật phù hợp nên nghĩa quân Lam Sơn ngày một trưởng thành 'Sĩ khí đã hăng, quân thanh càng mạnh'và ngày càng chiến thắng giòn giã, vang dội 'Đánh một trận sạch không kình ngạc-Đánh hai trận tan tác chim muông', giặc Minh thì liên tiếp thất bại, thất bại sau lại càng thảm hại hơn thất bại trước, mỗi tên tướng giặc bại trận lại có vết nhục nhã riêng: kẻ treo cổ tự vẫn, kẻ quỳ gối dâng tờ tạ tội, kẻ bị bêu đầu…Đoạn văn thứ ba của bài cáo cũng ca ngợi lòng nhân đạo, chuộng hòa bình của nhân dân, dân tộc ta, tha sống cho quân giặc đã đầu hàng, lại cấp cho chúng phương tiện, lương thảo về nước. Đoạn cuối của bài cáo đã tuyên bố trịnh trọng về việc kết thúc chiến tranh, khẳng định nền độc lập, hòa bình vững bền của đất nước, thể hiện niềm tin vào tương lai tươi sáng của dân tộc.

Bài cáo có sự kết hợp hài hòa, hiệu quả giữa yếu tố chính luận sắc bén với yếu tố văn chương truyền cảm, kết hợp giữa lí luận chặt chẽ và hình tượng nghệ thuật sinh động. Cảm hứng nổi bật xuyên suốt tác phẩm là cảm hứng anh hùng ca hào hùng sôi nổi, mãnh liệt. Giọng điệu của bài cáo rất đa dạng, khi tự hào về truyền thống vănhóa, anh hùng lâu đời của dân tộc, khi thì căm phẫn sục sôi trước tội ác của kẻ thù, khi thống thiết xót thương trước nỗi đau lầm than của nhân dân, khi lo lắng trước những khó khăn của cuộc kháng chiến, khi hào hùng ngợi ca chiến thắng, khi trịnh trọng tuyên bố độc lập của dân tộc, đất nước.

'Đại cáo bình Ngô' của Nguyễn Trãi là bản anh hùng ca ca ngợi chiến thắng vĩ đại của dân tộc ta thế kỉ XV. Tác phẩm vừa có giá trị lịch sử, vừa có giá trị văn học, không chỉ lưu giữ những sự kiện lịch sử mà còn lưu truyền lòng yêu nước tự hào dân tộc đến các thế hệ người Việt Nam. Mỗi người dân Việt Nam ngày nay đều hào sảng trước những câu văn hùng hồn:

'Như nước Đại Việt ta từ trước,

Vốn xưng nền văn hiến đã lâu

Núi sông bờ cõi đã chia,

Phong tục Bắc Nam cũng khác.

Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập,

Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương.

Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,

Song hào kiệt đời nào cũng có…'

Viết bài văn thuyết minh về bình ngô đại cáo (Mẫu 4)

Xuyên suốt bề dày lịch sử văn học Việt Nam, đã có rất nhiều áng văn dẫu qua năm tháng nhưng giá trị của nó chưa từng bị lớp bụi thời gian phủ mờ, Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi cũng là một áng văn như thế. Được mệnh danh là một áng “thiên cổ hùng văn”, là bản tuyên ngôn thứ hai của dân tộc ta, Bình Ngô đại cáo đã bộc lộ hết lòng trung quân ái quốc, tấm lòng tha thiết hướng về nhân dân. Bình Ngô đại cáo chính là bản cáo trạng đặc trưng cho đặc sắc nghệ thuật cũng như tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi – Một tác giả, một nhà chính trị lớn, nhà nhân đạo của dân tộc.

Năm 1428 Lê Lợi lên ngôi hoàng đế, lập ra triều Hậu Lê, thừa lệnh Lê Lợi, Nguyễn Trãi viết Bình Ngô đại cáo để bố cáo cho toàn dân biết được chiến thắng của nhân dân ta sau 10 năm miệt mài, anh dũng chiến đấu. Nước Việt ta đã giành lại độc lập, non sông ta lại thái bình. Bài cáo được xem là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc được viết bằng thể cáo và sử dụng chữ Hán được chia thành bốn đoạn.

Mở đầu bài thơ và cũng là mạch ngầm tư tưởng chảy dọc theo tác phẩm là luận đề chính nghĩa luôn được Nguyễn Trãi nêu cao, đó cũng là mục tiêu chiến đấu cao cả, thiêng liêng của cuộc kháng chiến

“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”

Khác với tư tưởng Nho giáo cho rằng tư tưởng nhân nghĩa là mối quan hệ yêu thương, đùm bọc lẫn nhau của con người, tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi lại lấy trừ bạo và yên dân làm cốt lõi. Nguyễn Trãi đề cao luận đề chính nghĩa với tư tưởng mang lại cuộc sống bình yên, no ấm cho nhân dân. Nguyễn Trãi còn khẳng định nước ta tuy bé về dân số và quy mô nhưng lại có niềm tự hào rất lớn về độc lập, chủ quyền và nền văn hóa được thể hiện qua nhiều phương diện:

“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần; bao đời xây nền độc lập;
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có”

Nguyễn Trãi đã khẳng định một cách chắc chắn nền lãnh thổ dân tộc trên nhiều phương diện như nền văn hiến lâu đời, lãnh thổ được phân định rõ ràng, những nét riêng về phong tục, tập quán. Ngoài ra Đại Việt còn có các triều đại hào hùng sánh ngang với các triều đại phương Bắc. Chủ quyền không phụ thuộc vào thiên thư hay các yếu tố tâm linh mà được phân định hẳn hoi, khoa học. Nguyễn Trãi đã thể hiện tinh thần dân tộc sâu sắc khi đặt Đại Việt sánh ngang với các triều đại lẫy lừng phương Bắc. Tuy quá trình dựng nước, giữ nước có lúc thăng, lúc trầm “Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau” nhưng vẫn tồn tại ở đó những trang nam tử sẵn sàng chiến đấu khi đất nước lâm nguy.

“Cho nên
Lưu Cung tham công nên thất bại
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Việc xưa xem xét
Chứng cứ còn ghi”

Bình Ngô đại cáo đã khẳng định hành vi xâm phạm chủ quyền lãnh thổ, dùng sức mạnh quân sự chèn ép những dân tộc yếu thế chắc chắn phải trả giá bằng xương máu, tính mạng. Bất chấp luân lý xâm phạm Đại Việt, quân ngoại xâm phải nhận lấy những thất bại cay đắng “tiêu vong”, “bắt sống”, “giết tươi”. Những thắng lợi vang dội của nhân dân ta cũng là một sự khẳng định chắc chắn rằng nếu gắng sức xâm phạm lãnh thổ nước ta sẽ chuốc lấy thất bại, cay đắng.

“Vừa rồi:
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
...
Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ.”

Khi nước ta đang trong tình thế rối ren, triều Hồ “chính sự phiền hà”, nhân dân sống cảnh oán khổ, lầm than, mâu thuẫn nội bộ triều đình được đẩy lên đến đỉnh điểm. Lợi dụng sự không ổn định này quân Minh đã mon men đến lãnh thổ Đại Việt “ thừa cơ gây họa”. Quân xâm lược với tư tưởng phi nghĩa đã sử dụng những kế sách đê hèn, thủ đoạn hòng từng chút bóc lột dân tộc ta đến tận xương tủy. Chúng bán máu dân tộc ta trên chính mảnh đất quê hương để góp phần tô đậm sự phồn vinh, hưng thịnh cho dân tộc chúng. Không từ thủ đoạn, hành động nhẫn tâm, chúng gây nhiễu nhương khắp mọi nơi, tội ác của chúng mỗi ngày một tàn độc. Những động từ mạnh “nướng con đen” , “ vùi con đỏ” để vạch trần bản chất độc ác của quân Minh.

Ngữ Văn 10| “Bình Ngô đại cáo” - Bản ...

Viết bài văn thuyết minh về bình ngô đại cáo (Mẫu 5)

Nguyễn Trãi là một vị anh hùng lớn của dân tộc, là một nhà văn hoá lớn của thời đại. Ông sinh ra ở Hải Dương trong một gia đình nghèo. Hai bên nội,ngoại thân sinh Nguyễn Trãi đều có truyền thống yêu nước và về văn hoá, văn học.Cuộc đời ông chịu nhiều mất mát và đau thương khi sớm mồ côi mẹ từ nhỏ.

Khi đất nước lâm nguy, vâng lời cha dặn, ông tham gia khởi nghĩa Lam Sơn, góp phần rất lớn trong chiến thắng vẻ vang của dân tộc.Tham gia vào công cuộc xây dựng lại đất nước, bị án oan khiến cả dòng họ bị giết. Năm 1964, Nguyễn Trãi mới được vua Lê Thánh Tông minh oan. Dù ra đi nhưng ông đã để lại khối lượng khá lớn tác phẩm thơ văn, thành công trên nhiều thể loại văn học, tiêu biểu là các sáng tác bằng chữ Hán và bằng chữ Nôm có nhiều giá trị như: Quân Trung từ mệnh tập, Ức trai thi tập, Chí Linh sơn phú, hay Quốc âm thi tập,... Ông không chỉ là một nhà thơ trữ tình sâu sắc với tình yêu thiên nhiên, đất nước, con người và cuộc sống mà còn là một nhà văn chính luận kiệt xuất của dân tộc.

Bình Ngô đại cáo là một tác phẩm thành công, một áng văn bất hủ của dân tộc Việt Nam.Tác phẩm được viết vào năm 1928 khi cuộc khởi nghĩa Lam Sơn giành chiến thắng,Nguyễn Trãi đã thừa lệnh của vua Lê Lợi viết Đại cáo bình Ngô. Đây là tác phẩm được xem là bản tuyên ngôn độc lập của dân tộc về chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, bản án đanh thép về tội ác của quân xâm lược, là bản hùng ca chiến trận của khởi nghĩa Lam Sơn và khẳng định vẻ đẹp của sự nghiệp chính nghĩa, thành quả của dân tộc.

Bình Ngô đại cáo đã nói lên sức mạnh nhân dân, tư tưởng nhân dân và tư tưởng yêu nước. Yêu nước là có giặc ngoại xâm thì chống, khi yên bình thì lấy nhân nghĩa, an dân để 'trị' dân.

'Từng nghe:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau
Song hào kiệt thời nào cũng có'

Tội ác và âm mưu của quân giặc được vạch trần rõ ràng bằng những luận điệu sắc bén:

'Vừa rồi:
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà,
Để trong nước lòng dân oán hận.
Quân cuồng Minh thừa cơ gây hoạ,
Bọn gian tà bán nước cầu vinh.
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.
Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế,
Gây binh kết oán trải hai mươi năm.
Bại nhân nghĩa nát cả đất trời,
Nặng thuế khóa sạch không đầm núi.
Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng.
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu, nước độc.
Vét sản vật, bắt chim trả, chốn chốn lưới chăng,
Nhiễu nhân dân, bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt.
Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ,
Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng.'

Tác phẩm cho thấy tài năng của tác giả khi viết theo lối văn biền ngẫu, thể cáo với lời lẽ đanh thép, hàng loạt các chứng cứ rõ ràng,sức thuyết phục cao, lập luận, kết cấu chặt chẽ.Hình tượng nghệ thuật thơ đầy sinh động và giàu sức gợi. Nghệ thuật chính luận đầy tài tính, cảm hứng nhân đạo đầy mới mẻ và sâu sắc. Bình Ngô đại cáo trở thành một áng văn mẫu mực thể hiện sức mạnh, niềm tin của quốc gia , dân tộc.

Viết bài văn thuyết minh về bình ngô đại cáo (Mẫu 6)

Nguyễn Trãi là một nhà quân sự lỗi lạc, một nhà quân sự tài ba, không những thế ông còn là một nhà thơ, nhà văn kiệt xuất của cả dân tộc. Nguyễn Trãi đã để lại cho nền văn học nước nhà một khối lượng tác phẩm đồ sộ, trong số đó phải kể đến “Bình Ngô đại cáo”. Đây là bài cáo mà Nguyễn Trãi viết thay vua Lê Thái Tổ để tuyên cáo rộng rãi trong nhân dân về quá trình kháng chiến và thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.

Về mặt cấu trúc, tác phẩm có thể chia thành bốn phần. Phần 1 là nêu luận đề chính nghĩa (Từ đầu đến “chứng cớ còn ghi”), phần 2 là phần tố cáo tội ác, vạch trần âm mưu xâm lược Đại Việt với cớ phù Trần diệt Hồ của giặc (Tiếp theo phần 1 đến “Ai bảo thần dân chịu được”), phần 3 là quá trình kháng chiến và sự thắng lợi của khởi nghĩa Lam Sơn (Tiếp theo phần 2 đến “cũng là chưa thấy xưa nay”), phần 4 là phần nêu ra bài học lịch sử và sự khẳng định chính nghĩa sẽ thắng phi nghĩa (phần còn lại).

Ở phần mở đầu tác giả nêu lên triết lí về nhân nghĩa, một triết lí có giá trị lịch sử và tầm vóc của thời đại. Trong thơ Nguyễn Trãi, vấn đề “nhân nghĩa” không đơn giản chỉ là sự yêu thương giúp đỡ lẫn nhau mà nó đã được nâng lên và thể hiện trong hành động cụ thể:

“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”

Đối với Nguyễn Trãi, việc trước hết là “trừ bạo” để nhân dân có được một cuộc sống yên ổn, ấm no, hạnh phúc. Ông cho rằng nếu muốn trị vì thiên hạ thì việc phải nghĩ đến đầu tiên chính là “nhân nghĩa”. Những câu thơ tiếp theo tác giả muốn nói về nước Đại Việt của chúng ta:

“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu

Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có”

Trong những câu thơ trên Nguyễn Trãi cho rằng “nhân nghĩa” đã có từ lâu đời ở nước ta, đồng thời khẳng định chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của dân tộc được thể hiện ở việc núi sông bờ cõi đã được phân chia rõ ràng. Vì đã được phân chia nên việc hình thành những phong tục tập quán cũng có nhiều khác biệt tuy nhiên vẫn có điểm chung là sự tồn tại song song của các triều đại lịch sử. Lời thơ như một lần khẳng định lại nội dung của “Nam quốc sơn hà” – được coi như bản tuyên ngôn đầu tiên của dân tộc:

“Sông núi nước Nam vua Nam ở
Rành rành định phận tại sách trời
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời”

Chính vì đã có những hành động xâm chiếm nước ta nên họ phải chuốc lấy hậu quả:

“Lưu Công tham công nên thất bại
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã”

Những kết cục như thế này đều tự do chính họ chuốc lấy vì thông qua bài tuyên ngôn đầu tiên đã như một lời cảnh cáo nhưng họ vẫn cố tình thực hiện.
Ở phần thứ hai, tác giả đã nêu ra những tội ác của giặc và vạch rõ bộ mặt thật của giặc đằng sau lớp vỏ ngụy tạo “phù Trần diệt Hồ”:

Từ việc:

“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ”

Cho đến việc chúng bắt nhân dân phải xuống biển mò ngọc trai lên rừng sâu đãi cát tìm vàng, phải đối mặt với “rừng thiêng nước độc” và muôn vàn khó khăn nguy hiểm, rồi đến sưu thuế chồng chất, phu phen lao dịch nặng nề. Chúng hành hạ nhân dân ta đủ mọi đường “thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán”, sự độc ác và tàn nhẫn khiến tác giả phải thốt lên:

“Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi”

Giữa lúc ấy, nghĩa quân Lam Sơn đã dấy lên tinh thần yêu nước và tiến hành cuộc khởi nghĩa:

“Núi Lam Sơn dấy nghĩa
Chốn hoang dã nương mình
Ngẫm thù lớn há đội trời chung
Căm giặc nước thề không cùng sống”

Căm phẫn trước tội ác của giặc, bóc lột nhân dân đủ đường khiến nhân dân lầm than cực khổ khiến người lãnh đạo là Lê Lợi và nghĩa quân mất ăn, mất ngủ, quyết tâm chiến đấu với tất cả tinh thần vì độc lập nước nhà:

“Căm giặc nước thề không chung sống
Đau lòng nhức óc chốc đà mười mấy năm trời
Nếm mật nằm gai há phải một hai sớm tối
Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh”

Tinh thần và lòng quyết tâm đã dâng cao như núi nhưng chỉ còn lo một nỗi về việc tìm kiếm “nhân tài” và “hào kiệt”, đây là một việc khó vì theo tác giả:

“Hào kiệt như sao buổi sớm
Nhân tài như lá mùa thu”

Trong khi đó, nghĩa quân vừa dấy quân khởi nghĩa vẫn còn non nớt, thiếu thốn về mọi mặt như lương thực “Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần”, quân sĩ “Lúc Khôi Huyện quân không một đội”, còn quân thù thì đang rất mạnh, đây chính là khó khăn của chúng ta và cách khắc phục duy nhất chính là sự đồng lòng của toàn bộ nghĩa quân “Tướng sĩ một lòng phụ tử/ Hòa nước sông chén rượu ngọt ngào”. Dưới sự lãnh đạo tài tình của Lê Lợi “lấy yếu chống mạnh, lấy ít địch nhiều” và triết lí “Lấy đại nghĩa để thắng hung tàn/ Lấy chí nhân để thay cường bạo” cùng với sự dũng cảm, gan dạ của binh sĩ, nghĩa quân Lam Sơn ngày một trưởng thành và lớn mạnh “sĩ khí đã hăng, quân thanh càng mạnh”, kết quả là nghĩa quân giành được nhiều chiến thắng vang dội “Đánh một trận sạch không kinh ngạc/ Đánh hai trận tan tác chim muông”, còn giặc Minh thì phải chấp nhận những thất bại liên tiếp và những tên tướng đều có kết thúc thật bi thảm:

“Ngày mười tháng tám, trận Chi Lăng
Liễu Thăng thất thế
Ngày hai mươi, trận Mã Yên
Liễu Thăng cụt đầu
Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh đại bại tử vong
Ngày hăm tám, thượng thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn”

Tác giả đã ghi lại chi tiết từng mốc thời gian như những mốc son chói lọi trong lịch sử dân tộc nhưng lại là vết nhơ, nỗi nhục nhã đối với giặc Minh.

Mặc dù tội ác của giặc mãi mãi không thể rửa sạch nhưng quân ta vẫn trợ cấp cho giặc để về nước khi đã bại trận:

“Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền
Ra đến biển mà vẫn hồn bay phách lạc
Vương Thông, Mã Anh phát cho vài nghìn cỗ ngựa
Về đến nước mà vẫn tim đập chân run”.

Hành động này thể hiện truyền thống nhân nghĩa từ lâu đời của dân tộc ta, một lần nữa khẳng định lời của Nguyễn Trãi:

“Lấy đại nghĩa để thắng hung tàn
Lấy chí nhân để thay cường bạo”

Phần cuối của tác phẩm đã nêu ra bài học lịch sử quý báu về ý thức độc lập chủ quyền và vấn đề nhân nghĩa, đồng thời khẳng định sự thắng lợi của cuộc chiến tranh chính nghĩa:

“Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới

Âu cũng nhờ trời đất tổ tong
Linh thiêng đã lặng thầm phù trợ”

“Bình Ngô đại cáo” có ý nghĩa như một bản Tuyên ngôn độc lập của dân tộc, vừa tố cáo tội ác của giặc Minh vừa khẳng định được độc lập chủ quyền dân tộc, là minh chứng hùng hồn cho cuộc chiến thắng của nhân dân ta. Đã một thời gian dài trôi qua, nhưng giá trị của bài cáo vẫn tồn tại vĩnh hằng và Nguyễn Trãi – nhà quân sự tài ba, nhà chính trị lỗi thời, nhà thơ, nhà văn xuất sắc sẽ sống mãi trong lòng dân tộc Việt Nam.

Viết bài văn thuyết minh về bình ngô đại cáo (Mẫu 7)

Nằm trong số những tác phẩm văn học được viết nên để ca ngợi truyền thống yêu nước của dân tộc Việt Nam, “Đại cáo bình Ngô” của Nguyễn Trãi được xem là một tác phẩm bất hủ cùng thời gian. Tác phẩm được đánh giá là áng “thiên cổ hùng văn”, là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai có giá trị trường tồn.

Nguyễn Trãi (sinh năm 1380 – mất năm 1442) hiệu là Ức Trai, quê ông ở Chi Ngãi (Chí Linh, Hải Dương) sau dời về Nhị Khê (Thường Tín, Hà Tây). Gia đình Nguyễn Trãi là một gia đình nhà nho nghèo nhưng lại giàu truyền thống yêu nước và có sự quan tâm đặc biệt với văn hóa, văn học nước nhà. Nguyễn Trãi có cha và ông ngoại đều là những người học rộng tài cao và có nhiều đóng góp cho triều đình. Cha ông là Thái học sinh Nguyễn Phi Khanh còn ông ngoại của ông là Tư đồ Trần Nguyên Đán.

Noi gương thế hệ đi trước, Nguyễn Trãi cũng ra sức dùi mài kinh sử và năm 1400, ông cũng đỗ Thái học sinh và ra làm quan cho triều nhà Hồ. Đến năm 1407, giặc Minh sang xâm lược nước ta nhưng nhà Hồ không có đủ khả năng chống trả, thế nên đất nước rơi vào tay giặc, cha ông bị bắt sang Trung Quốc còn ông thì quyết định tham gia vào nghĩa quân Lam Sơn để cứu nước báo thù nhà.

Với sự lãnh đạo tài tình và sự giúp sức từ những người cộng sự nhiệt thành, tài năng như Nguyễn Trãi, Lê Lợi cùng với nghĩa quân Lam Sơn đã giành được thắng lợi to lớn trước quân Minh. Nguyễn Trãi nhận được sự tin tưởng rất lớn từ Lê Lợi – lúc này đã trở thành vị vua đứng đầu của Đại Việt. Tuy nhiên sau đó triều đình lại lục đục, gian thần nhiễu nhương, Nguyễn Trãi quyết định về quê lánh đục tìm trong.

Thế nhưng, mong muốn ở ẩn rời xa thế sự của Nguyễn Trãi lại không trở thành hiện thực vì ông lại bị vướng vào vụ án oan giết vua tại Lệ Chi Viên vào năm 1442, kết quả nhận án tru di tam tộc. Nỗi oan thiên cổ của ông kéo dài đến tận năm 1464 thì mới được vua Lê Thánh Tông minh oan.

Nguyễn Trãi để lại cho dân tộc một sự nghiệp sáng tác có giá trị trên nhiều lĩnh vực. Ông sáng tác cả chữ Hán và chữ Nôm, cả thể loại văn chính luận và văn trữ tình. Đa phần những tác phẩm của ông đều phục vụ đắc lực cho cuộc chiến đấu chống giặc xâm lược và góp phần thể hiện những trải nghiệm, nỗi lòng của ông về đất nước và con người.

Khi thuyết minh về Bình ngô đại cáo, ta thấy tác phẩm “Đại cáo bình Ngô” ra đời gắn với hoàn cảnh đất nước ta vừa hoàn thành cuộc chiến đấu nhiều năm gian khổ chống giặc Minh xâm lược. Sau chiến thắng đó, Nguyễn Trãi chính là người thay mặt cho Lê Lợi viết nên tác phẩm nhằm mục đích tuyên bố với nhân dân cả nước về quyền độc lập dân tộc. “Đại cáo bình Ngô” được công bố vào năm 1428, đây là một bản báo cáo đã tổng kết quá trình kháng chiến giành thắng lợi và đồng thời cũng là một bản tuyên cáo trong việc thành lập triều đại mới của đất nước – triều nhà Lê.

Tác phẩm được viết bằng một thể loại đặc biệt – thể cáo. Đây vốn là thể văn nghị luận từ thời cổ ở Trung Quốc và thường được vua chúa, những người thủ lĩnh sử dụng để trình bày một chủ trương, sự nghiệp hay tuyên ngôn những sự kiện trọng đại để mọi người cùng biết. Thể loại cáo thường được trình bày dưới hình thức của văn vần, văn xuôi nhưng phổ biến là văn biền ngẫu – thể văn lấy sự đối ý làm nguyên tắc cơ bản, tạo cho lời văn sự nhịp nhàng cân đối. Cáo sử dụng lời lẽ đanh thép, lý luận sắc bén và đặc điểm quan trọng nhất là có kết cấu chặt chẽ, mạch lạc.

Nhan đề của tác phẩm Nguyễn Trãi đã cho người đọc hình dung về giá trị của tác phẩm. Từ “đại cáo” trong nhan đề đã cho thấy đây không phải là bài cáo thông thường mà là bài cáo mang tính quốc gia trọng đại. Bên cạnh đó, dù là cuộc kháng chiến chống giặc Minh xâm lược nhưng trong nhan đề lại có sự xuất hiện của từ “Ngô”, đây cũng là điểm đáng chú ý. “Ngô” ở đây chính là cách gọi người Trung Quốc theo thói quen của người Việt ta nhưng với một thái độ khinh bỉ và căm thù sâu nặng. Từ ngàn xưa, giặc phương Bắc luôn có mưu đồ xâm chiếm đất nước ta, chúng khiến nhân dân phải chịu cơ cực, lầm than khôn xiết. Chính vì thế nhân dân ta không một phút nguôi hờn với sự bạo tàn, ngang ngược của chúng và giờ đây mọi căm phẫn, uất ức đều đổ dồn lên kẻ thù trước mắt là giặc Minh.

Để khẳng định nền độc lập, mở đầu tác phẩm, Nguyễn Trãi đã nêu lên luận đề chính nghĩa có ý nghĩa tất yếu:

“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân.
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”

Luận đề được nêu lên cho thấy mối quan hệ mật thiết giữa dân, nước và sự nhân nghĩa. Nhân nghĩa vốn là một quan niệm trong đạo Nho nói lên cách đối nhân xử thế tốt đẹp dựa trên tình thương và đạo giữa người với người trong cuộc sống. Thế nhưng trong thời buổi có giặc xâm lược, tác giả đã cụ thể hóa biểu hiện của một người biết sống nhân nghĩa là hành động “trừ bạo” để “yên dân”. Đó chính là chân lí khách quan phù hợp với tình hình thực tiễn của đất nước. Con dân đất Việt xông pha ra chiến trường diệt giặc là điều tất yếu vì nước Việt là của người Việt, có chủ quyền độc lập riêng. Điều này đã được khẳng định chắc chắn qua lịch sử, phong tục:

“Như nước Đại Việt ta từ trước.
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.
Núi sông bờ cõi đã chia.
Phong tục Bắc Nam cũng khác.”

Qua các triều đại và cả sự hiện diện của những anh hùng hào kiệt mỗi thời:

“Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập.
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương.
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau.
Song hào kiệt đời nào cũng có.”

Khi thuyết minh về Bình ngô đại cáo, ta nhận thấy bên cạnh việc khẳng định nền chủ quyền, độc lập dân tộc, “Đại cáo bình Ngô” còn là một bản cáo trạng đanh thép đối với những tội ác mà kẻ thù đã gây ra cho nhân dân ta suốt hai mươi năm dài xâm lược. Trong những ngày đầu đặt chân lên đất nước vì muốn đô hộ ta, chúng đã tỏ rõ là những kẻ xảo trá, bịp bợm:

“Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa.”

Chúng ra sức bóc lột, đẩy nhân dân ta vào chỗ hiểm nguy:

“Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập, thuồng luồng.

Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khi nỗi rừng sâu, nước độc.”

Tàn ác hơn, thâm độc hơn, chúng còn sẵn sàng hủy diệt sinh mệnh của con người bằng những cách hung bạo:

“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.”

Giặt hiện lên quá với những hình ảnh ghê rợn:

Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán”

Thật sự những tội ác chất chồng mà chúng gây ra không thể nào đếm hết:

“Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi.”

Khi nói về tội ác của giặc, tác giả đã chọn cái vô hạn, khốn cùng của “trúc Nam Sơn”, của “nước Đông Hải” cũng để nói về cái vô hạn, khôn cùng là tội ác và sự nhơ bẩn của kẻ thù. Trong bản cáo trạng ấy, ta có thể thấy tác giả gửi gắm vào đó lúc là sự sục sôi, căm phẫn, khi lại uất hận, nghẹn ngào. Tác giả đau đớn, cất tiếng kêu oán thán: “Lẽ nào trời đất dung tha” – “Ai bảo thần nhân chịu được?” và điều đó cũng chính là biểu hiện của tấm lòng luôn hướng đến quyền sống của người dân, luôn lo cùng nỗi lo và đau cùng nỗi đau với nhân dân.

Với tội ác của giặc, quân dân ta đã nhất tề đồng lòng đứng lên chống lại giặc ngoại xâm để bảo vệ nền độc lập. Những người anh hùng cứu nước, và đặc biệt là vị minh soái tài ba Lê Lợi dù có xuất thân bình thường:

“Ta đây:
Núi Lam Sơn dấy nghĩa,
Chốn hoang dã nương mình”

Khi chiến đấu với kẻ thù lại trải qua muôn vàn khó khăn:

“Tuấn kiệt như sao buổi sớm,
Nhân tài như lá mùa thu.”

Có lúc phải đối diện với rất nhiều sự thiếu thốn về lương thực và cả lực lượng:

“Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần,
Khi Khôi Huyện quân không một đội.”

Nhưng với tinh thần “Gươm mài đá, đá núi cũng mòn; voi uống nước, nước sông phải cạn”, với niềm tin “Trời thử lòng trao cho mệnh lớn”, quân ta đã đồng lòng “gắng chí khắc phục gian nan”. Cuối cùng sau nhiều năm tháng người chủ tướng phải“đau lòng nhức óc”, “quên ăn vì giận”, “trằn trọc trong cơn mộng mị”, “băn khoăn một nỗi đồ hồi”…, quân dân ta đã đánh kẻ thù đến nỗi “sạch không kình ngạc”, “tan tác chim muông”. Ta giành được độc lập, giặc thất bại ê chề là kết cục không thể khác hơn cho cuộc chiến tranh xâm lược phi nghĩa mà chúng gây ra. Tuy nhiên điều đáng nói ở đây là mặc dù giặc độc ác, tàn nhẫn như thế vậy mà sau biết bao đau đớn, căm hờn, ta vẫn lấy tấm lòng hiếu sinh để mở đường sống cho chúng. Như vậy, đến cuối cùng ta đã dùng tấm lòng nhân đạo để hóa giải hận thù. Thế mới thấy lúc này cách hành xử với tội ác của giặc đã khiến cho tinh thần nhân nghĩa của ta vươn lên một tầm cao mới.

Cuối cùng nền độc lập, tự do được xác lập lại cho đất nước sau rất nhiều đau thương chính là kết quả tốt đẹp cho một dân tộc chiến đấu anh hùng và biết sống nhân nghĩa. Thuyết minh về Bình ngô đại cáo không thể quên khi Nguyễn Trãi thay Lê Lợi bố cáo rộng rãi cho quần chúng nhân dân:

“Xã tắc từ đây vững bền,
Giang sơn từ đây đổi mới.
Kiền khôn bĩ rồi lại thái,
Nhật nguyệt hối rồi lại minh.
Muôn thuở nền thái bình vững chắc,
Ngàn thu vết nhục sạch làu.”

Lời tuyên bố cho thấy một niềm tin mãnh liệt của tác giả về nền thái bình vững chắc, lâu bền của dân tộc. Sau những ngày tháng sống cảnh áp bức, bóc lột tối tăm, mờ mịt, quân dân ta đã tìm lại được ánh sáng cho sự sống của chính đất nước mình. Hai câu kết của bài cáo vang lên cũng chính là sự khép lại của thời kì chiến đấu oanh liệt và sự mở ra của một giai đoạn tươi sáng, phát triển:

“Một cố nhung y chiến thắng, nên công oanh liệt ngàn năm;
Bốn phương biển cả thanh bình, ban chiếu duy tân khắp chốn.”

Thuyết minh về Bình ngô đại cáo sẽ thấy ngoài những phương diện về nội dung, “Đại cáo bình Ngô” còn xứng đáng là một kiệt tác bởi những đặc điểm độc đáo về nghệ thuật. Viết tác phẩm, Nguyễn Trãi đã sử dụng lối viết có sự kết hợp uyển chuyển giữa văn chương và chính luận. Ngoài ra, khi viết tác phẩm, Nguyễn Trãi còn sử dụng giọng văn có sự biến đổi linh hoạt vô cùng, hình ảnh sử dụng trong bài cáo lại sinh động và vô cùng hoành tráng.

Bên cạnh đó, Nguyễn Trãi còn sử dụng lối liệt kê hình tượng phong phú, đa dạng, thể hiện sự tương phản trong kháng chiến giữa ta và địch. Đoạn viết về cuộc khởi nghĩa của ta có thể xem là một trong những đoạn thơ đặc sắc về nghệ thuật của “Đại cáo bình Ngô”.

Nói như vậy là vì nhà thơ đã rất thành công trong việc thể hiện những phương thức nghệ thuật về liệt kê hình ảnh và thủ pháp tương phản đối lập. Ta thì “điều binh thủ hiểm”, “chặt mũi tiên phong”, “sai tướng chẹn đường”, “tuyệt nguồn lương thực”, “bốn mặt vây thành”; địch thì “động binh không ngừng”, “đem dầu chữa cháy”. Lực lượng của ta thì “sĩ tốt kén người hùng hổ, bề tôi chọn kẻ vuốt nanh” còn nhìn quân giặc thì chúng lại xuất hiện trong hình ảnh “thất thế”, “cụt đầu”, “đại bại tử vong”, “cùng kế tự vẫn”…

Có thể thấy, với những giá trị trên đây, “Đại cáo bình Ngô” xứng đáng là một tác phẩm lưu danh sử sách đến muôn đời. Bài cáo không chỉ khẳng định hùng hồn nền độc lập, chủ quyền của đất nước mà còn góp phần thể hiện cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm kiên cường, bất khuất và tấm lòng nhân đạo, tinh thần nhân nghĩa của dân tộc ta…

Viết bài văn thuyết minh về bình ngô đại cáo (Mẫu 8)

Trong dòng văn học yêu nước, chúng ta tự hào về những kiệt tác văn học đặc sắc của dân tộc. Nam Quốc sơn hà của Lí Thường Kiệt, Tụng giá hoàn kinh sư của Trần Quang Khải, Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh,... và đặc biệt, không thể không nhắc đến Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi - một tuyên ngôn độc lập vô cùng quan trọng trong lịch sử dân tộc.

Vào năm 1427, nghĩa quân Lam Sơn do Lê Lợi chỉ huy đánh bại quân Minh, đánh chúng rơi vào tình cảnh kiệt quệ. Tháng 12 năm 1427, quân giặc rút lui theo sông Nhị Hà theo hiệp ước, nhờ sự hỗ trợ của nghĩa quân Lam Sơn. Đến năm 1428, quân Minh chấm dứt ác trận, đất nước giành lại độc lập. Lúc này, Lê Lợi giao cho Nguyễn Trãi viết Bình Ngô đại cáo để thông báo chiến thắng lịch sử.

Tác phẩm viết theo thể cáo, loại văn hùng biện sử dụng ngôn từ sắc sảo, lập luận chặt chẽ. Bằng chữ Hán, tên gọi 'Bình Ngô đại cáo' thể hiện ý nghĩa tuyên bố về sự kết thúc chiến tranh và chiến thắng trước giặc Ngô.

Bình Ngô Đại cáo được chia thành 4 phần với nội dung to lớn. Phần đầu tiên từ đầu đến 'Chứng cớ còn ghi', tập trung vào tư tưởng chính nghĩa và vị thế của Đại Việt so với các triều đại phương Bắc.

Phần thứ hai từ 'Vừa rồi' đến 'Ai bảo thần dân chịu được', tác giả vạch trần tội ác giặc Minh bằng lối diễn đạt gay gắt và hùng biện, phơi bày những hành động tàn bạo và phi nhân đạo của chúng.

'Quân cuồng Minh thừa cơ gây hoạ
Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ
Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế
Gây thù kết oán trải mấy mươi năm
Bại nhân nghĩa nát cả đất trời.'

Sự tàn độc của chúng được diễn đạt qua những từ ngữ đanh thép, làm nổi bật tội ác của giặc Minh, tạo nên bức tranh đau lòng về đau khổ và khốn khó mà nhân dân Đại Việt phải chịu đựng.

'Lửa của hận bùng cháy, đốt cháy đồng bào
Hầm tai vạ đỏ máu, chôn chặt bí mật tội ác'

Vạch trần tàn ác của quân thù, tác giả thể hiện lòng thương cảm và đau đớn trước những khổ đau và nỗi thống khổ của nhân dân, tạo nên một bức tranh thơ đầy cảm xúc.

Chiếm đa số câu từ, đoạn từ 'Ta đây núi Lam Sơn dấy nghĩa' đến 'Cũng chưa thấy xưa nay', Nguyễn Trãi tập trung tổng kết cuộc chiến vẻ vang của nghĩa quân Lam Sơn, khẳng định ý chí và sức mạnh của dân tộc.

'Dùng sức yếu chiến thắng sức mạnh
Lấy ít đánh bại đông'

Với tình thần lãnh đạo sáng tạo, nghĩa quân ngày càng mạnh mẽ, chiến đấu hết mình. Thắng liên tiếp, đánh không ngừng, đem về những chiến công hùng vĩ. Quân Minh thất bại trong sự nhục nhã và thê lương, những kẻ phi nghĩa không thể tránh khỏi từ 'thất bại'.

Cuối bài cáo, Nguyễn Trãi thay mặt Lê Lợi tuyên bố hùng hồn về kết thúc chiến tranh và xác nhận nền độc lập, thái bình của dân tộc.

Bình Ngô đại cáo ghi dấu lòng người và lòng đất nước qua thời gian, không chỉ vì nội dung sâu sắc mà còn nhờ tài nghệ thuật tinh tế của Nguyễn Trãi. Bài cáo thuyết phục với ngôn từ sắc bén, lập luận chính xác và hình ảnh nghệ thuật đa dạng. Các thủ pháp so sánh, đối lập được sử dụng linh hoạt, phù hợp. Giọng điệu thay đổi, từ căm phẫn trước quân thù đến xót xa trước nỗi đau của nhân dân, từ hùng hồn trong chiến đấu đến tuyên bố hòa bình và dẹp yên giặc.

Tác phẩm Đại cáo Bình Ngô là tuyệt tác văn học, là di sản quý giá của dân tộc. Đọc bài cáo, ta nhận thức sâu sắc về nỗi đau của nhân dân, hiểu rõ hơn về lịch sử hào hùng của dân tộc. Từ đó, ta tự nhắc nhở về trách nhiệm của mình, phải yêu quê hương, xây dựng và bảo vệ đất nước, trở thành người xứng đáng với những hy sinh của tổ tiên.

Từ “Bình Ngô đại cáo” đến “Tuyên ngôn ...

Viết bài văn thuyết minh về bình ngô đại cáo (Mẫu 9)

Nguyễn Trãi chính là một thi sĩ lớn của nền văn học Việt Nam. Ông đã để lại cho đời sau biết bao nhiêu tác phẩm chứa giá trị to lớn. 'Bình ngô đại cáo' chính là một trong những tác phẩm như vậy, tổng kết quá trình xuất sắc chống giặc ngoại xâm của dân tộc, đồng thời khẳng định chắc chắn về chủ quyền quốc gia, độc lập dân tộc và tinh thần yêu nước quật cường của nhân dân. Với ngòi bút tài hoa và sự nhạy bén trong tính cách, tác phẩm do ông viết đã trở thành một áng 'thiên cổ hùng văn'.

'Bình ngô đại cáo' được Nguyễn Trãi viết bằng thể cáo - một thể thường được vua chúa, thủ lĩnh sử dụng để thông báo những sự kiện trọng đại của quốc gia, dân tộc. Tác phẩm có một giá trị vô cùng to lớn cả về phương diện lịch sử lẫn văn học. Ông đã thay mặt cho vua Lê Lợi để viết nên tác phẩm vào đầu năm 1428, sau khi nghĩa quân Lam Sơn đã thắng lợi trước sự xâm lược của giặc Minh, giặc đành phải rút về nước, nhân dân ta giành lại được độc lập, chủ quyền.

Chỉ qua nhàn đề tác giả đã cho người đọc thấy rằng đây là bài cáo quan trọng tuyên bố về việc dẹp yên giặc Ngô - một tên gọi mang ý nghĩa khinh bỉ quân Minh. Bài cáo được viết bố cục vô cùng mạch lạc, chặt chẽ, tố cáo tội ác dã man của giặc và khẳng định chắc nịch chủ quyền dân tộc. Chính vì vậy, bài cáo khơi gợi lên những cảm xúc: cảm xúc hào hùng, cảm giác căm thù giặc ngoại xâm, cảm hứng về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, tinh thần quật cường của nhân dân Đại Việt. Bài cáo được chia làm 4 phần, phần 1 nêu lên luận đề chính nghĩa, phần 2 tố cáo tội ác của giặc, vạch trần mưu đồ xâm lược Đại Việt với cớ phù Trần diệt Hồ của giặc. Phần 3 là quá trình gian lao kháng chiến và sự thắng lợi to lớn của khởi nghĩa Lam Sơn. Phần 4 chính là nêu ra bài học lịch sử và sự khẳng định tính tất yếu thắng lợi của chính nghĩa.

Mở đầu tác phẩm, Nguyễn Trãi đã nêu lên nguyên lý chính nghĩa làm nền tảng, chỗ dựa để triển khai bài cáo. Tiếp thu từ những giá trị tinh hoa của Nho giáo cùng với sự phát triển nội dung nhân nghĩa, Nguyễn Trãi đã nêu lên một luận đề đầy tính dân tộc:

Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân

Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.

Với Nguyễn Trãi, trừ bạo trước hết là để nhân dân có một cuộc sống hạnh phúc, ấm no. Ông đưa ra quan điểm rằng muốn trị vì thiên hạ thì trước hết phải nghĩ đến 'nhân nghĩa'. Dân tộc ta chiến đấu với giặc ngoại xâm chính là một dân tộc sống có nhân nghĩa. Sau đó, Nguyễn Trãi đã nêu lên chân lý khách quan tất yếu về sự độc lập của Đại Việt:

Như nước Đại Việt ta từ trước

Vốn xưng nền văn hiến đã lâu

Núi sông bờ cõi đã chia

Phong tục Bắc Nam cũng khác

Phần 2 - căm thù sự xâm lược của giặc ngoại xâm, Nguyễn Trãi đã thể hiện sự sục sôi, uất ức, viết ra một bản cáo trạng vô cùng đanh thép với một kết cấu logic: vạch trần âm mưu xâm lược, lên án chủ trương cai trị độc áo, tố cáo mạnh mẽ những tội ác. Qua việc phân tích âm mưu xảo trá của giặc, tác giả đã đi sâu những việc làm diệt chủng, phi nhân nghĩa:

Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn

Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.

Tội ác của chúng khiến cho tác giả không thể sử dụng được từ ngữ nào để đo lường:

Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội

Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa hết mùi

Phần 3 - tác giả đã khắc họa lại quá trình đất khó khăn, gian nan của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Chính những gian khổ đó đã dẫn đến một kết cục vô cùng có hậu về sau. Cảm hứng anh hùng ca bao trùm xuyên suốt đoạn trích. Những chiến công được miêu tả trong nhịp dồn dập, nhạc điệu trong câu hào hùng:

Gươm mài đá, đá núi cũng mòn

Voi uống nước, nước sông cũng phải cạn.

Đánh một trận, sạch không kình ngạc

Đánh hai trận, tan tác chim muông

Phần 4 - Nguyễn Trãi đã không thể giấu đi những cảm xúc vui sướng khi đất nước giành được độc lập, thay lời nhà vua trịnh trọng tuyên bố về sự độc lập bền vững, lâu dài:

Xã tắc từ đây vững bền

Giang sơn từ đây đổi mới

Kiền khôn bĩ rồi lại thái

Nhật nguyệt hối rồi lại minh.

Từ đó người đọc thấy được viễn cảnh vô cùng hoành tráng, huy hoàng của non sông xã tắc. Hiện thực hôm nay chính là nhờ những công sức chiến đấu, những ngày tháng vô cùng đau thương của quá khứ. 

Bài cáo được Nguyễn Trãi thể hiện thành công cả về nội dung và nghệ thuật. Bên cạnh đó, giọng điệu ở mỗi phần đều được thay đổi phù hợp, khi thì tràn đầy uất ức, căm phẫn, khi thì hừng hực dữ dội. Sự am hiểu sâu sắc của Nguyễn Trãi về lịch sử dân tộc, về điển tích, điển cố đã làm tăng tính hấp dẫn, thuyết mục cho tác phẩm.

'Bình ngô đại cáo'  chính là bản tuyên ngôn độc lập của dân tộc, vừa khẳng định chủ quyền độc lập vừa tố cáo tội ác dã man của giặc Minh. Đã trải qua bao nhiêu biến cố lịch sử nhưng 'Bình ngô đại cáo' vẫn luôn giữ được những giá trị to lớn của nó đến tận hôm nay. Nguyễn Trãi chính là một nhà quân sự tài ba, một nhà lãnh đạo kiệt xuất, nhà thơ, nhà văn tài tình và sẽ mãi mãi được lưu truyền sử sách trên mảnh đất Việt Nam.

Viết bài văn thuyết minh về bình ngô đại cáo (Mẫu 10)

Trải qua thăng trầm của lịch sử văn học Việt Nam, nhiều tác phẩm đã trở thành biểu tượng không bao giờ bị thời gian xóa mờ, và Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi cũng thuộc vào số đó. Được coi là một tác phẩm 'hùng văn thiên cổ', là bản tuyên ngôn thứ hai của dân tộc, Bình Ngô đại cáo thể hiện lòng yêu nước và sự quan tâm đặc biệt đối với nhân dân. Đây chính là bản cáo đặc biệt, làm nổi bật tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi - một nhà văn và nhà chính trị vĩ đại, một người nhân đạo dành cho dân tộc.

Năm 1428, khi Lê Lợi đăng quang lên ngôi hoàng đế và lập triều Hậu Lê, Nguyễn Trãi viết Bình Ngô đại cáo để thông báo chiến thắng của dân tộc sau 10 năm chiến đấu dũng mãnh. Đây là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc, viết bằng thể cáo và sử dụng chữ Hán, được chia thành bốn phần.

Mở đầu bài thơ và cũng là bản sắc tri thức chảy dọc theo tác phẩm là luận đề chính nghĩa luôn được Nguyễn Trãi tôn trọng, đó cũng là mục tiêu cao cả, thiêng liêng của cuộc đấu tranh

“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”

Ngược với tư tưởng Nho giáo cho rằng tư tưởng nhân nghĩa là tình yêu thương, sự chăm sóc lẫn nhau của con người, tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi lại tập trung vào loại bỏ bạo lực và bảo vệ sự yên bình cho dân chúng. Nguyễn Trãi ưa chuộng luận điểm chính nghĩa với ý nghĩa mang lại hòa bình, sự phát triển cho dân chúng. Nguyễn Trãi cũng khẳng định rằng dù dân số và quy mô của nước ta nhỏ bé, nhưng tự hào về sự độc lập, chủ quyền và văn hóa được thể hiện qua nhiều khía cạnh:

“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần; bao đời xây nền độc lập;
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có”

Nguyễn Trãi đã khẳng định mạnh mẽ về lãnh thổ dân tộc trên nhiều khía cạnh như văn hiến lâu đời, lãnh thổ được xác định rõ ràng, những đặc điểm riêng về phong tục, tập quán. Ngoài ra, Đại Việt còn có những triều đại vĩ đại không thua kém triều đại phương Bắc. Chủ quyền không phụ thuộc vào thiên thư hay các yếu tố tâm linh mà được xác định một cách hợp lý, khoa học. Nguyễn Trãi đã thể hiện tinh thần dân tộc sâu sắc khi đặt Đại Việt sánh ngang với các triều đại lừng lẫy phương Bắc. Mặc dù quá trình xây dựng và bảo vệ đất nước có thăng trầm “Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau” nhưng vẫn tồn tại những người con trai sẵn sàng chiến đấu khi đất nước gặp nguy.

“Vì vậy
Lưu Cung lỡ công nên gặp thất bại
Triệu Tiết đồ sư lớn phải hi sinh
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết chết Ô Mã
Công việc xưa còn được xem xét
Chứng cứ vẫn còn ghi chép”

Bình Ngô đại cáo đã tuyên bố rõ ràng hành vi xâm phạm chủ quyền lãnh thổ, sử dụng sức mạnh quân sự để ép những dân tộc yếu thế phải trả giá bằng máu, xương. Không minding luân lý xâm phạm Đại Việt, quân ngoại xâm đã phải hứng chịu những thất bại đắng cay “hi sinh”, “bắt giữ”, “hành quyết”. Các chiến thắng vang dội của dân ta cũng là một khẳng định mạnh mẽ rằng nếu dám xâm phạm lãnh thổ nước ta sẽ đón nhận thất bại, đắng cay.

“Gần đây:
Nhà Hồ gây ra những phiền muộn không lớn
...
Tàn phá cả dòng giống côn trùng và thảm họa cây cỏ”

Trong thời kỳ rối ren này của đất nước, triều đình Hồ “gây ra những phiền toái không lớn”, dân chúng sống trong hoàn cảnh khốn khó, oan trái, xung đột nội bộ được đẩy lên đến đỉnh điểm. Tận dụng tình hình không ổn định này, quân Minh đã cơ hội để xâm lược lãnh thổ Đại Việt “lợi dụng để gây rối”. Quân xâm lược với tư duy không chính nghĩa đã áp dụng những kế sách tinh quái, thủ đoạn nhằm bóc lột dân tộc ta đến tận cùng. Chúng buôn bán máu của dân tộc ta trên chính lãnh thổ quê hương để giúp đỡ sự phồn thịnh, thịnh vượng cho dân tộc chúng. Không ngần ngại thủ đoạn, hành động tàn nhẫn, chúng gây ra sự loạn nhường khắp nơi, tội ác của chúng ngày càng trở nên tàn bạo. Những từ ngữ quyết liệt “nướng con đen”, “vùi con đỏ” để tiết lộ bản chất tàn ác của quân Minh.

Viết bài văn thuyết minh về bình ngô đại cáo (Mẫu 11)

Nguyễn Trãi là một anh hùng vĩ đại của dân tộc, cũng là một nhà văn vĩ đại của thời đại. Ông sinh ra tại Hải Dương trong một gia đình nghèo. Cả hai bên nội và ngoại của Nguyễn Trãi đều có truyền thống yêu nước và văn hoá, văn học. Cuộc đời ông đã phải trải qua nhiều mất mát và đau khổ khi mất mẹ từ khi còn nhỏ.

Khi đất nước gặp nguy, Nguyễn Trãi, tuân thủ lời dặn của cha, đã tham gia vào cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, đóng góp một phần lớn trong chiến thắng lẫy lừng của dân tộc. Dù gặp phải bất công, ông và gia đình bị hại, nhưng vào năm 1964, vua Lê Thánh Tông đã minh oan cho Nguyễn Trãi. Mặc dù ra đi, ông để lại một lượng lớn các tác phẩm văn chương, thành công trên nhiều thể loại, tiêu biểu là các tác phẩm bằng chữ Hán và chữ Nôm có giá trị như: Quân Trung từ mệnh tập, Ức trai thi tập, Chí Linh sơn phú, hay Quốc âm thi tập,... Ông không chỉ là một nhà thơ sâu sắc với tình yêu thiên nhiên, đất nước, con người và cuộc sống, mà còn là một nhà văn chính trị kiệt xuất của dân tộc.

Bình Ngô đại cáo là một tác phẩm thành công, một di sản vô giá của dân tộc Việt Nam. Tác phẩm được viết vào năm 1928 sau chiến thắng của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, Nguyễn Trãi được vua Lê Lợi giao việc viết Bình Ngô đại cáo. Đây được xem là tuyên ngôn độc lập của dân tộc về chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, là một bản án đanh thép về tội ác của quân xâm lược, là một bản ca chiến thắng của khởi nghĩa Lam Sơn và là sự khẳng định vẻ đẹp của sự nghiệp chính nghĩa và thành quả của dân tộc.

Bình Ngô đại cáo đã thể hiện sức mạnh của nhân dân, tư tưởng nhân dân và tư tưởng yêu nước. Yêu nước không chỉ là chống lại kẻ thù ngoại xâm, mà còn là lấy nhân nghĩa, bảo vệ dân làm trọng tâm khi yên bình.

'Nghe nói:
Tư tưởng nhân nghĩa chính là ở việc bảo vệ dân lành
Quân đội trừng trị trước để ngăn chặn sự tàn bạo
Như quốc gia Đại Việt từ lâu
Là nền văn hiến được truyền dài
Núi sông và biển đảo đã chia cắt
Phong tục ở Bắc và Nam có sự khác biệt
Từ triều đại Triệu, Đinh, Lý, Trần đã xây dựng nền độc lập
Với triều đại Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên đều có những anh hùng và danh tiếng riêng
Mặc dù có những thời kỳ mạnh mẽ và yếu đuối khác nhau
Nhưng luôn tồn tại những anh hùng lớn mạnh'

Tội ác và mưu đồ của quân giặc được phơi bày rõ ràng qua các lập luận sắc bén:

'Gần đây:
Gia tộc Hồ gây ra nhiều phiền toái,
Để lòng dân nước chúng ta căm phẫn.
Quân Minh hung ác lợi dụng cơ hội tạo ra thảm họa,
Bọn tà ác bán nước tìm kiếm vinh quang.
Đốt người dân chết trên đống lửa hung dữ,
Chôn người chết dưới lòng đất chứa đầy cái tai họa.
Lừa dối dân chúng bằng muôn vàn kế sách,
Châm ngòi chiến tranh kích động lòng oán hận suốt hai mươi năm.
Nhân nghĩa tan vỡ khắp nơi,
Thuế nặng chật kín không chịu nổi.
Người bị ép xuống biển nước lưng mò ngọc, ghét cá mập ầm ĩ.
Người bị dẫn vào rừng đốt cát tìm vàng, chịu khổ trong rừng sâu, nước nguy hiểm.
Đốn sản vật, bắt chim cút, bẫy ở mọi nơi,
Quấy rối dân, bẫy hươu đen, đặt cạm bẫy ở mọi nơi.
Tàn phá cả loài côn trùng và cây cỏ,
Nghèo đói thay cho người mất trí lúc tột cùng.'

Tác phẩm thể hiện tài năng của tác giả khi sử dụng lối văn sắc bén, thể hiện bằng lời lẽ mạnh mẽ, các bằng chứng rõ ràng, lập luận sắc nét, cấu trúc logic chặt chẽ. Hình ảnh nghệ thuật sống động và giàu cảm xúc. Nghệ thuật lập luận sâu sắc, nhân đạo và mới mẻ. Bình Ngô đại cáo trở thành một tác phẩm mẫu mực thể hiện sức mạnh và niềm tin của quốc gia và dân tộc.

Viết bài văn thuyết minh về bình ngô đại cáo (Mẫu 12)

Bình Ngô đại cáo là áng “thiên cổ hùng văn” thể hiện thiên tài của Nguyễn Trãi, đỉnh cao về tư tưởng, và nghệ thuật của nền văn hiến Đại Việt trong thế kỉ XV. Cùng với Lam Sơn thực lục, Quân trung từ mệnh tập, Ức Trai thi tập, Quốc âm thi tập... Bình Ngô đại cáo đã làm cho ngôi sao Khuê trở nên chói sáng và lấp lánh ngàn thu.

Mùa xuân năm 1428, cuộc kháng chiến 10 năm chống quân Minh xâm lược hoàn toàn thắng lợi. Nguyễn Trãi đã thay lời Lê Lợi viết Bình Ngô đại cáo tổng kết cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc “nên công oanh liệt ngàn năm”, tuyên bố nước Đại Việt bước vào một kỉ nguyên mới độc lập bền vững, “muôn thuở nền thái bình vững chắc'.

Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.

Dấy quân khởi nghĩa vì thương dân, trừng phạt kẻ có tội (điếu phạt), tiêu diệt bọn giặc tàn bạo, đem lại cuộc sống yên vui cho nhân dân (yên dân), đó là việc nhân nghĩa. Nhân nghĩa vẫn là học thuyết của Nho giáo đề cao đạo đức, tình nhân ái giữa con người với nhau. Nguyễn Trãi đã tiếp thu tư tưởng nhân nghĩa của Nho giáo theo hướng lấy lợi ích của nhân dân và của dân tộc làm gốc. Với Nguyễn Trãi, nhân nghĩa là yêu nước, thương dân, phải đánh giặc để cứu nước, cứu dân; “triết lí nhân nghĩa của Nguyễn Trãi chẳng qua là lòng yêu nước thương dân: Cái nhân nghĩa lớn nhất là phấn đấu đến cùng, chống ngoại xâm, diệt tàn bạo, vì độc lập của đất nước, hạnh phúc của nhân dân” (Phạm Văn Đồng). Trong nhiều bức thư gửi tướng tá giặc Minh, Nguyễn Trãi đã đứng trên lập trường nhân dân và dân tộc, nêu cao nhân nghĩa, vạch trần tội ác và bộ mặt giả nhân giả nghĩa của bè lũ chúng: “Nước mắt nhân dịp họ Hồ lỗi đạo, mượn tiếng là “điếu dân phạt tội’’, kỳ thực làm việc bạo tàn, ăn cướp nước ta, bóc lột nhân dân tư, thuế nặng hình phiền, vơ vét của quý, dân mọn các làng không được sống yên. Nhân nghĩa mù lại thế ư?” (Lại thư trả lời Phương Chính).

Trên lập trường nhân nghĩa, Nguyễn Trãi đã khẳng định nền văn hoá Việt Nam, nền văn hiến Đại Việt và con người Việt Nam, một dân tộc văn minh, anh hùng. Lần đầu tiên trong lịch sử tư tưởng, Nguyễn Trãi đại diện cho đất nước chiến thắng đã nêu cao giá trị lớn lao của truyền thống dựng nước và giữ nước của dân tộc ta:

Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,
Núi sông bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần, bao đời gây nền độc lập,
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên,
Mỗi bên xưng để một phương.
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau

Song hào kiệt đời nào cũng có Nền văn hiến Đại Việt, nền “văn hoá Thăng Long” được hình thành, xây dựng và phát triển qua một quá trình lịch sử “đã lâu”, đã có “từ trước” đằng đẵng mấy nghìn năm. Đại Việt không chỉ có lãnh thổ chủ quyền “núi sông bờ cõi”, mà còn thuần phong mỹ tục mang bản sắc riêng, có lịch sử riêng, chế độ riêng “bao giờ gây nền độc lập”, đã từng “xưng đế một phương”, có nhiều nhân tài, hào kiệt. Phải có mấy trăm năm độc lập dưới các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần..., phải có những trang sử vàng chói lọi (Lưu Cung thất bại, Triệu Tiết tiêu vong, Toa Đỏ, Ô Mã Nhi bị giết tươi, bị bắt sống...) phải có những con người “trí mưu tài thức” đã làm nên “thi thư” của Đại Việt, của nền văn minh sông Hồng, thì Nguyễn Trãi mới có thể viết nên những lời tuyên ngôn đĩnh đạc hào hùng như vậy. Nếu như bốn trăm năm về trước, trong Nam quốc sơn hà, Lý Thường Kiệt chí mới xác định được hai nhân tố về lãnh thổ và chủ quyền trên ý thức quốc gia và lập trường dân tộc, thì trong Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi đã bổ sung thêm bốn nhân tố nữa, đó là: văn hiến, phong tục, lịch sử và nhân tài. Điều đó cho thấy ý thức dân tộc của nhân dân ta đã phát triển trên một tầm cao mới trong thế kỉ XV, và đó cũng là tinh anh, tinh hoa của tư tưởng Nguyễn Trãi.

Năm 1407, nhà Minh sai Trương Phụ, Mộc Thạnh mang mấy chục vạn quân kéo sang xâm lược nước ta. Lúc đầu thì lấy cớ “phù Trần diệt Hồ”, nhưng sau đó, chúng đã chia đất nước ta thành quận huyện, thi hành một chính sách cai trị vô cùng độc ác:

Quân cuồng Minh đã thừa cơ gây hoạ,

Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh. Nguyễn Trãi đã căm giận lên án tội ác vô cùng dã man của “quân cuồng Minh”. Chúng đã tàn sát nhân dân ta một cách man rợ:

Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,

Vùi con đỏ dưới hầm tai vạ. Sử sách còn ghi lại bao tội ác chồng chất của giặc Minh trong suốt một thời gian dài hơn hai mươi năm “dối trời lừa dân, đủ muôn nghìn kế”: rán mỡ người lấy dầu, rút ruột người treo lên cây, thui người trên giàn lửa, phanh thây đàn bà có thai... Chúng bắt nhân dân ta phải xuống biển mò ngọc trai, lên rừng sâu đãi cát, tìm vàng, cống nạp ngà voi, hươu đen, trả biếc,... Sưu thuê chồng chất, phu phen lao dịch nặng nề. Chúng đã tàn phá môi sinh, môi trường, dồn nhân dân ta vào bước đường cùng, vào hố diệt vong:

Bại nhân nghĩa nát cả đất trời,
Nặng thuế khoá sạch không đầm núi
(...) Vét sản vật, bắt dò chim trá, chốn chốn lưới chăng,
Nhiễu nhân dân, bắt bầy hươu đen, nơi nơi cạm đặt
Tổn hại cả giống côn trùng cây cỏ,

Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng... Đằng sau những hành động dã man, mưu mô xảo quyệt, là bộ mặt ghê tởm lũ ác ôn, bầy quỷ sứ phương Bắc đang hoành hành trên xương máu, nước mắt, trên tính mạng và tài sản nhân dân ta: “Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán Tội ác của giặc Minh đối với nhân dân ta, không thể ghi hết tội, không thể rửa hết mùi dơ bẩn, trời đất không thể dung tha, người người đều căm giận”.Câu văn cảm thán của Nguyễn Trãi cất lên như một lời nguyền, chất chứa căm hờn, oán giận, xúc động lay tỉnh hồn người:

Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,

Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa hết mùi! Lấy trúc Nam Sơn, nước Đông Hải, cái vô hạn để nói về tội ác và sự nhơ bẩn của quân “cuồng Minh”, cái cùng cực, cái vô cùng, Nguyễn Trãi đã ghi sâu vào lòng người, vào bia miệng đến nghìn năm vẫn chưa phai. Nguyễn Trãi đã từng “tiễn cha lên ải Bắc...”, từng nếm mật nằm gai, là chứng nhân của lịch sử gọi vua nhà Minh hiếu chiến là “giảo đồng” (trẻ ranh, nhãi ranh), lũ tướng tá giặc Minh là đồ “nhút nhát”. Đó cũng là tiếng nói căm thù, khinh bỉ, là ý chí sắt đá chống quân xâm lược, chống lũ bành trướng phương Bắc tham tàn, hiếu chiến:

Thằng nhãi ranh Tuyên Đức động binh không ngừng,
Đồ nhút nhát Thạnh, Thăng đem dầu chữa cháy!

Lãnh tụ cuộc khởi nghĩa Lam Sơn là Lê Lợi. Trong bia Vĩnh Lăng, các bài thơ Hạ tiệp, Đề kiếm... đều có nói đến Lê Lợi, nhưng chỉ trong Bình Ngô đại cáo, Lê Lợi mới được thể hiện một cách tuyệt đẹp, tiêu biểu cho tinh hoa và khí phách của Đại Việt. Là một anh hùng của nhân dân giàu lòng yêu nước, nuôi chí lớn phục thù, phục quốc, đã từng nhiều năm mai danh ẩn tích đón đợi thời cơ:

Ta đây
Núi Lam Sơn dấy nghĩa.

Chốn hoang dã nương mình. Con người ấy đã gắn bó với nhân dân, đã đau trong nỗi đau lầm than của dân tộc, đã “nếm mật nằm gai”, đã “đau lòng nhức óc suốt mấy chục năm trời”, quyết không đội trời chung với giặc:

Ngẫm thù lớn há đội trời chung,

Căm giặc nước thề không cùng sống. Con người ấy tiêu biểu cho trí tuệ Việt Nam, có một nhãn quan lịch sử nhìn suốt thời gian và nắm chắc vận mệnh dân tộc:

Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh,
Ngẫm trước đến nay: lẽ hưng phế đắn do càng kỹ.
Những trằn trọc trong cơn mộng mị,

Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi. Ngày đầu khởi nghĩa, quân không quá 2.000 người, có lúc “cơm ăn thì sớm tối không được hai bữa, áo mặc thì đông hè chỉ có một manh... khí giới thì thật tay không” (Quân trung từ mệnh tập). Thế và lực, giữa ta và giặc vô cùng chênh lệch: “Vừa lúc cờ khởi nghĩa dấy lên - Chính lúc quân thù đang mạnh”. Khó khăn, thử thách chồng chất nặng nề. Ngặt nghèo nhất là thiếu nhân tài hào kiệt:

Tuấn kiệt như sao buổi sớm,
Nhân tài như lá mùa thu.
Việc bôn tẩu thiếu kẻ đỡ đần,

Nơi duy ác thiếu người bàn bạc. Người anh hùng áo vải Lam Sơn, một mặt “Cỗ xe cầu hiển, thường chăm chắm còn dành phía tả”, mặt khác nêu cao quyết tâm “gắng chí phục thù gian nan”, đồng cam cộng khổ với tướng sĩ, đoàn kết toàn dân để đánh giặc:

Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới,

Tướng sĩ một lòng phụ tử, hoà nước sông chén rượu ngọt ngào. Sức mạnh của nghĩa quân bắt nguồn từ sức mạnh vô tận của nhân dân, của lực lượng đông đảo “manh lệ chi đồ tứ tập”, của đoàn nghĩa sĩ “phụ tử chi binh nhất tâm”. Điều đó cho thấy cuộc khởi nghĩa Lam Sơn là một cuộc chiến tranh nhân dân do người anh hùng áo vải lãnh đạo. Sức mạnh của nhân dân, tài năng xuất chúng của lãnh tụ là nguồn gốc của chiến thắng. Người anh hùng ấy là một thiên tài quân sự “sách lược thao suy xét đã tinh... lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ”. Người anh hùng ấy đã phát huy tinh hoa nền quân sự Việt Nam, để chỉ đạo chiến tranh, phát huy mọi tiềm năng của dân tộc, của tướng sĩ để chiến đấu và chiến thắng:

Thế trận xuất kỳ, lấy yếu chống mạnh,

Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều. Có thể nói, cảm xúc trữ tình trong Bình Ngô đại cáo được thể hiện qua hình ảnh Lê Lợi, người anh hùng nghĩa quân Lam Sơn. Lê Lợi vừa bình dị, vừa vĩ đại, vị cứu tinh của đất nước xuất hiện và nếm trải bao cay đắng lầm than cùng nhân dân, từ máu đổ xương tan mà “nên công oanh liệt ngàn năm”. Nguyễn Trãi đã có sự nhập thân, hóa thân kì diệu khi thể hiện tài trí, khí phách và tầm vóc vĩ đại của Lê lợi, một mặt nêu cao lòng tự hào dân tộc, tự hào về nền văn hiến Việt Nam, mặt khác cũng thể hiện nhân cách, chí hướng, tài trí và tâm huyết của mình. Với cảm hứng anh hùng và cảm xúc trữ tình, Nguyễn Trãi đã dành những câu văn, đoạn văn đẹp nhất khi khắc họa hình ảnh vị lãnh tụ nghĩa quân Lam Sơn.

Nguyễn Trãi đã dành phần lớn bài đại cáo nói về diễn biến cuộc đấu tranh vũ trang và quá trình phản công của nghĩa quân Lam Sơn. Phần thứ tư này như những trang ký sự chiến trường mang giọng điệu hào hùng, mạnh mẽ. Sức mạnh nhân nghĩa, ấy là đại nghĩa, là chí nhân đã đè bẹp và nghiền nát giặc Minh hung tàn, cường bạo. Lời văn sang sảng cất lên:

Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,

Lấy chí nhân để thay cường bạo. Có vượt qua những thử thách nặng nề “Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần - Khi Khôi Huyện quân không một đội”, nghĩa quân mới trưởng thành trong máu lửa. Quân ta càng đánh càng mạnh, càng đánh càng thắng lớn. Chiến công nối tiếp chiến công, thế đánh như “trúc chẻ cho bay”, như “sấm vang chớp giật” giáng xuống đầu quân xâm lược. Cảnh tượng chiến trường vô cùng rùng rợn, máu giặc chảy thành sông, xác giặc chất cao như núi:

Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh trôi vạn dặm,

Tụy Đông thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm. Trên đà chiến thắng “Sĩ khí đã hăng - Quân thanh càng mạnh’’, nghĩa quân tiến công trên quy mô rộng lớn, giải phóng những vùng chiến lược quan trọng: “Tây Kinh quân ta chiếm lại... Đông Đô đất cũ thu về”. Giặc đã thảm bại “trí cùng lực kiệt”, lũ tướng Thiên triều, đứa thì “nghe hơi mà mất vía”, thằng thì “nín thở cầu thoát thân”, Trần Hiệp “phải bêu đầu”, Lý Lượng “đành bỏ mạng”.

Chiến cục Chi Lăng - Xương Giang - Bình Than vào mùa thu năm 1427 diễn ra vô cùng ác liệt. Quân ta làm chủ chiến trường đã “điều binh thủ hiểm, chặt mũi tiên phong”, đã “sai tướng chen đường, tuyệt nguồn lương thực”, đã dồn 15 vạn viện binh giặc vào tử địa. Liễu Thăng cụt đầu, Lương Minh đại bại tử vong, thượng thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn. Hành chục vạn giặc bị tiêu diệt hoặc bị bắt sống:

Lạng Giang, Lạng Sơn thây chất đầy đường,

Xương Giang, Bình Than, máu trôi đỏ nước. Đạo quân Vân Nam bị quân ta chặn đánh ở Lê Hoa “nghi ngờ khiếp vía mà vỡ mật”, quân Mộc Thạnh đại bại ở Cần Trạm “xéo lên nhau chạy để thoát thân”. Sông suối bao la một vùng biên giới tây bắc ngập đầy máu giặc:

Suối Lãnh Cáu, máu chảy trôi chày, nước sông nghẹn ngào tiếng khóc

Thành Đan Xá, thây chất thành núi, cỏ nội đầm đìa máu đen. Đây là tướng sĩ của nghĩa quân Lam Sơn: “Sĩ tốt kén tay tì hổ - Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh.“ Và đây là hình ảnh bọn tướng tá Thiên triều trong tình hình “quân cô, lực kiệt, viện tuyệt, thế cùng”:

Đô đốc Thôi Tụ lê gối dâng tờ tạ tội,

Thượng thư Hoàng Phúc trói tay để tự xin hàng. Bình Ngô đại cáo là một bản tổng kết chiến tranh 10 năm. Tác giả đã tái hiện lại toàn bộ diễn biến cuộc khởi nghĩa Lam Sơn từ những ngày đầu cờ nghĩa mới phất lên, trải qua những chặng đường máu lửa, trưởng thành trong thử thách hy sinh, giành thế chủ động chiến lược, tiến lên đánh bại hoàn toàn quân xâm lược. Nghệ thuật miêu tả các trận đánh dùng lối đặc tả, rất biến hoá, lúc ghi lại hình ảnh thảm bại, thảm hoạ của lũ tướng tá Thiên triều, lúc thì miêu tả cảnh chiến trường rùng rợn. Kết cấu tương phản đối lập được tác giả vận dụng sáng tạo để làm nổi bật giữa ta và địch, chính nghĩa và phi nghĩa, đại thắng và đại bại... Cách dùng từ, sáng tạo hình ảnh, các biện pháp đối xứng và thậm xưng cho thấy một bút pháp nghệ thuật kỳ tài, tạo nên âm điệu anh hùng ca. Bình ngô đại cáo là khúc ca thắng trận vô cùng oanh liệt, cho ta bao xúc động tự hào:

Gươm mài đá, đá núi cũng mòn,
Voi uống nước, nước sông phải cạn.
Đánh một trận, sạch không kinh ngạc,

Đánh hai trận, tan tác chim muông... Qua Bình Ngô đại cáo, ta thấy Lê Lợi là một nhà chiến lược vĩ đại đã biết phát động chiến tranh khi thời cơ đã chín mùi, khi mà tội ác quân cuồng Minh “Lẽ nào trời đất dung tha - Ai bảo thần dân chịu được? Trải qua bao năm tháng! Lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ”, “Sách lược thao suy xét đã tinh”, Lê Lợi mới phất cờ khởi nghĩa. Lãnh tụ nghĩa quân Lam Sơn đã có tài chỉ đạo chiến tranh đánh cho lũ giặc Minh đại bại:

Cứu binh hai đạo tan tành, quay gót chẳng kịp,

Quân giặc các thành khốn đốn, cởi giáp ra hàng. Chính trong điều kiện chiến trường đó, Lê Lợi đã kết thúc chiến tranh, đã “mở đường hiếu sinh” trao trả cho nhà Minh hàng chục vạn tù binh:

Họ đã tham sống sợ chết mà hoà hiếu thực lòng

Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức. Khởi nghĩa để “trừ bạo” và “yên dân”, kết thúc chiến tranh để chấm dứt đổ máu, để bảo vệ “toàn quân”, “để nhân dân nghỉ sức”. Nguyễn Trãi với niềm tự hào chiến thắng đã ca ngợi “đại nghĩa” và “chí nhân” của dân tộc ta. Đại Việt là một nước văn hiến lâu đời, rất nhân đạo và yêu chuộng hoà bình.

Kết thúc bài đại cáo là một khúc ca khải hoàn vang lên hướng về ngày mai tươi sáng của Đại Việt - một nước văn hiến:

Xã tắc từ đây vững bền,
Giang sơn từ đây đổi mới
Càn khôn bĩ mà lại thái
Nhật nguyệt hối mà lại minh

Muôn thuở nền thái bình vững chắc. Như một quy luật tất yếu: “bí mà lại thái”, “hối mà lại minh”, đất nước ta sau 20 năm trời bị quân cuồng Minh “dối trời, lừa dân..., gây binh kết oán” nay đã sạch bóng quân xâm lược, “ngàn năm vết nhục nhã sạch làu”. Tổ quốc Đại Việt bước vào một kỉ nguyên mới độc lập, hoà bình, thịnh vượng trong “vững bền”, hướng về “đổi mới”, và “vững chắc” đến muôn đời. Giọng văn đĩnh đạc hào hùng, đầy tự hào tin tưởng, thể hiện khát vọng hòa bình, độc lập và hạnh phúc của nhân dân ta. Sự nghiệp ‘‘Bình Ngô” mà đại thắng là nhờ sức mạnh chính nghĩa, nhân nghĩa và truyền thống yêu nước, anh hùng của dân tộc ta. Đó là nguồn gốc, là nguyên nhân sâu xa làm nên chiến thắng. Sự nghiệp “bình Ngô“là trang sử vàng chói lọi, là “Một cỗ nhung y chiến thắng, nên công oanh liệt ngàn năm...”

Trong chiến tranh, Nguyễn Trãi là một mưu sĩ “tâm công” cánh tay phải đắc lực của Lê Lợi, là người “viết thư thảo hịch tài giỏi hơn hết một thời” (Lê Quý Đôn). Thư từ gửi tướng tá giặc Minh của ông “có sức mạnh như mười vạn quân” (Phan Huy Chú). Nguyễn Trãi đã cùng Lê Lợi làm nên sự nghiệp “bình Ngô” là người đã thảo ra Bình Ngô đại cáo, bản tuyên ngôn độc lập, hòa bình của Đại Việt trong thế kỉ XV.

Bình Ngô đại cáo cho ta thấy một bút lực và tài học vô song của ức Trai. Cáo là một thể văn cổ điển rất trang nghiêm, để thông báo cho toàn dân một sự kiện quan trọng. Sự nghiệp “bình Ngô” kéo dài trong 10 năm trời. Quân và dân ta trải qua muôn vàn gian lao thử thách, lập bao chiến công lẫy lừng... từ những tháng năm lầm than đến ngày toàn thắng “bốn phương biển cả thanh bình”, thế mà Nguyễn Trãi đã viết một cách hàm súc: bài đại cáo chí dài 1343 chữ. Cảm hứng nhân nghĩa, cảm hứng anh hùng và khát vọng độc lập, hoà bình đã tạo nên tầm vóc văn chương, màu sắc sử thi của bài đại cáo bình Ngô, bản anh hùng ca Đại Việt. Ngòi bút nghệ thuật của Nguyễn Trãi rất biến hóa trong miêu tả và tự sự, trong trữ tình và bình luận, vừa sắc sảo và thấm thía, vừa đa thanh; lúc thì đĩnh đạc, hào hùng, trang nghiêm, lúc thì thắm thiết căm giận, lúc thì mạnh mẽ, hùng tráng... Đất nước và con người Đại Việt được nói đến trong bài đại cáo là một đất nước, một nhân dân văn hiến, anh hùng.

Bình Ngô đại cáo - Lecttr

Viết bài văn thuyết minh về bình ngô đại cáo (Mẫu 13)

Nằm trong số những tác phẩm văn học được sáng tác để tôn vinh truyền thống yêu nước của dân tộc Việt Nam, “Đại cáo Bình Ngô” của Nguyễn Trãi được xem là một tác phẩm vĩ đại vượt thời gian. Tác phẩm được coi là một tuyên ngôn độc lập quý báu, là một trong những di sản trường tồn.

Nguyễn Trãi (sinh năm 1380 – mất năm 1442), tự Ức Trai, xuất thân từ Chi Ngãi (Chí Linh, Hải Dương) trước khi chuyển đến Nhị Khê (Thường Tín, Hà Tây). Gia đình ông, mặc dù nghèo nhưng đã truyền lại truyền thống yêu nước và quan tâm sâu sắc đến văn hóa, văn học dân tộc. Cha ông, Thái học sinh Nguyễn Phi Khanh và ông ngoại, Tư đồ Trần Nguyên Đán, đều là những người có kiến thức rộng lớn và đã có nhiều đóng góp cho triều đình.

Hướng theo tấm gương của những thế hệ tiền bối, Nguyễn Trãi đã chăm chỉ nghiên cứu lịch sử và năm 1400, ông đã đỗ cử nhân và bắt đầu sự nghiệp làm quan trong triều đình nhà Hồ. Khi quân Minh xâm lược vào năm 1407, dù nhà Hồ không đủ sức chống lại, Nguyễn Trãi quyết định tham gia nghĩa quân Lam Sơn để giải phóng đất nước và trả thù giặc.

Với sự lãnh đạo thông minh và sự hỗ trợ từ những người cộng sự nhiệt thành như Nguyễn Trãi, Lê Lợi và nghĩa quân Lam Sơn đã đánh bại quân Minh một cách to lớn. Nguyễn Trãi được Lê Lợi tin tưởng và sau đó trở thành vị vua của Đại Việt. Tuy nhiên, sau này, triều đình lại trở nên rối ren, bất ổn và Nguyễn Trãi quyết định rút lui về quê nhà.

Tuy nhiên, mong muốn sống êm đềm, ẩn dật của Nguyễn Trãi không thành hiện thực khi ông bị vướng vào vụ án oan làm cho vua bị sát hại tại Lệ Chi Viên vào năm 1442 và bị kết án tru di tam tộc. Nỗi oan trách của ông kéo dài cho đến năm 1464, khi vua Lê Thánh Tông minh oan cho ông.

Nguyễn Trãi để lại cho dân tộc một di sản văn học có giá trị trên nhiều lĩnh vực. Ông sáng tác cả bằng chữ Hán và chữ Nôm, trải qua nhiều thể loại văn chính luận và văn trữ tình. Hầu hết các tác phẩm của ông đều hỗ trợ mạnh mẽ cho cuộc chiến chống quân xâm lược và thể hiện những trải nghiệm, tâm trạng của ông về đất nước và con người.

Trong việc giải thích về Đại cáo Bình Ngô, chúng ta nhận thấy rằng tác phẩm này ra đời liên quan chặt chẽ đến tình hình của quốc gia sau khi hoàn thành cuộc chiến đấu đánh đổi với sự cay đắng chống lại quân Minh xâm lược. Nguyễn Trãi, sau chiến thắng đó, đại diện cho Lê Lợi viết tác phẩm với mục đích tuyên bố cho toàn dân về quyền tự do của dân tộc. Đại cáo Bình Ngô được công bố vào năm 1428, là bản báo cáo tổng kết quá trình chiến đấu đạt được chiến thắng và đồng thời là một tuyên ngôn về việc thành lập triều đại mới của quốc gia – triều nhà Lê.

Tác phẩm được viết dưới dạng thể loại đặc biệt – thể loại cáo. Đây là loại văn nghị luận đã tồn tại từ thời cổ ở Trung Quốc và thường được các vị vua, lãnh đạo sử dụng để trình bày một quan điểm, một sự nghiệp hoặc tuyên bố những sự kiện quan trọng để mọi người biết. Thể loại cáo thường được biểu diễn dưới hình thức văn vần, văn xuôi nhưng phổ biến nhất là văn biền ngẫu – loại văn sử dụng sự đối chiếu làm nguyên tắc cơ bản, tạo ra sự cân đối nhịp nhàng cho văn từ. Cáo sử dụng ngôn từ sắc bén, lý luận sâu sắc và đặc biệt là có cấu trúc chặt chẽ, mạch lạc.

Tiêu đề của tác phẩm đã giúp người đọc hình dung về giá trị của nó. Từ “đại cáo” trong tiêu đề đã thể hiện rằng đây không chỉ là một bản cáo thông thường mà còn là một bản cáo mang tính quốc gia quan trọng. Ngoài ra, mặc dù là cuộc chiến chống lại quân Minh xâm lược nhưng từ “Ngô” trong tiêu đề cũng đáng chú ý. “Ngô” ở đây là cách gọi người Trung Quốc theo quan điểm của người Việt với một tinh thần khinh bỉ và căm hận sâu sắc. Kể từ thời xa xưa, kẻ thù từ phương Bắc luôn âm mưu xâm chiếm đất nước chúng ta, khiến cho nhân dân phải chịu khổ cực, than vãn không ngớt. Vì thế, dân tộc ta không ngừng oán trách sự tàn bạo, ngạo mạn của chúng và hiện nay, mọi căm phẫn, bất mãn đều đổ dồn lên kẻ thù hiện tại là quân Minh.

Để làm rõ về nguyên tắc chính nghĩa, Nguyễn Trãi đã khẳng định ở đầu tác phẩm:

“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân.
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.”

Luận đề về mối quan hệ giữa dân, nước và nhân nghĩa đã được đặt ra, nhấn mạnh vào ý nghĩa của việc đối xử nhân từ và tôn trọng giữa con người trong xã hội. Trái với tinh thần của đạo Nho, nhân nghĩa không chỉ đơn thuần là một khái niệm mà còn là hành động thực tế, như việc 'trừ bạo' để bảo vệ sự yên bình cho dân cư trong thời kỳ chiến tranh.

“Dòng chảy văn minh của Đại Việt đã từng bước phát triển.
Văn hoá lâu đời đã tạo nên danh tiếng cho chúng ta.
Phong tục và tập quán địa phương khẳng định vị thế đặc biệt của vùng đất này.”

Qua các thời kỳ lịch sử và sự hiện diện của các anh hùng dân tộc, chúng ta thấy rằng:

Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần đã cống hiến cho sự độc lập của dân tộc.
Với các thế lực lớn như Hán, Đường, Tống, Nguyên, mỗi phương hướng đều tự xưng là hoàng đế.
Dù sức mạnh không đồng đều qua từng giai đoạn lịch sử.
Nhưng mỗi thời đại đều có những anh hùng của riêng mình.”

Khi nói về tuyên ngôn Bình Ngô đại cáo, chúng ta thấy rằng bên cạnh việc xác nhận quyền tự chủ, độc lập của dân tộc, 'Đại cáo Bình Ngô' còn là lời tuyên bố mạnh mẽ đối với những tội ác mà kẻ thù đã gây ra cho nhân dân suốt hai thập kỷ chiến tranh. Khi đặt chân đến đất nước, chúng đã bày tỏ mình là kẻ xâm lược, kẻ hung ác:

“Dòng họ Hồ đối mặt với những gánh nặng
Thời cơ của Minh đang được bọn họ lợi dụng tạo ra rắc rối.”

Chúng không ngừng cố gắng cướp bóc, đẩy dân ta vào hoàn cảnh nguy hiểm:

“Người bị đẩy xuống biển tìm kiếm ngọc bích, phải đối mặt với cá mập hung dữ, với sóng lớn dữ dội.

Kẻ bị ép vào rừng tìm kiếm vàng, phải chịu đựng nỗi đau từ cát nóng, nước độc.

Tàn ác và độc ác hơn, chúng sẵn sàng diệt trừ sự sống của con người bằng những cách tàn bạo:

“Ngọn lửa tàn bạo thiêu đốt những người vô tội,
Đưa những đứa trẻ vào cảnh đau khổ tột cùng.”

Hiện ra những cảnh kinh hoàng không thể chối cãi:

Miệng kêu cứu, răng cắn, máu chảy đầm đìa nhưng chúng không thể được thoả mãn”

Sự tội ác của chúng đang tích tụ lên nhau, không thể nào kể hết:

“Độc ác tràn lan, sông Nam Sơn không thể đánh dấu hết những tội ác,
Bẩn thỉu lan tràn, biển Đông Hải không thể rửa sạch đi hết mùi hôi tanh.”

Khi đề cập đến tội ác của kẻ thù, tác giả đã lựa chọn những điển hình tàn bạo như “sông Nam Sơn”, “biển Đông Hải” để nói về sự tàn ác và bẩn thỉu của chúng. Trong bản tuyên ngôn đó, chúng ta cảm nhận được sự bức xúc, tức giận và lòng căm phẫn của tác giả. Tâm trạng đau đớn, sự than van: “Có ai hay trời đất thấu hiểu” – “Ai có thể chịu đựng nổi?” là biểu hiện của lòng nhân ái, luôn chia sẻ khổ đau và lo âu cùng nhân dân.

Với tội ác của kẻ thù, dân quân ta đã đoàn kết, đứng vững chống lại sự xâm lược để bảo vệ sự độc lập quốc gia. Các anh hùng cứu nước, đặc biệt là vị tài phú Lê Lợi dù bắt nguồn từ tầng lớp nhân dân thấp hèn:

“Chúng tôi ở đây:
Núi Lam Sơn reo gọi khát vọng cách mạng,
Chỗ hoang dã trở thành nơi chôn vấn đề quốc gia.”

Khi chiến đấu với kẻ thù, chúng ta trải qua muôn vàn khó khăn:

“Anh hùng tỏa sáng như ngôi sao lúc bình minh,
Tài năng hiện diện như lá mùa thu rơi.”

Đôi khi phải đối mặt với nhiều thiếu thốn về lương thực và quân số:

“Khi lương thực trên Linh Sơn đã cạn kiệt trong mấy tuần,
Khi quân lính ở Khôi Huyện không còn một đội sống sót.”

Nhưng với tinh thần “Gươm mài đá, đá núi cũng mòn; voi uống nước, nước sông phải cạn”, và niềm tin “Trời thử lòng trao cho mệnh lớn”, quân ta đã cùng nhau “nỗ lực vượt qua khó khăn”. Cuối cùng, sau nhiều năm ngày chinh chiến, người lãnh đạo phải “đau lòng nhức óc”, “quên ăn vì giận”, “trải qua cơn mộng mị”, “phải suy nghĩ một nỗi không biết ngợi ca”…, quân dân ta đã đánh bại kẻ thù đến mức “giải phóng hoàn toàn”, “làm cho chim muông bay tan tác”. Chúng ta giành lại độc lập, và thất bại của kẻ thù là kết quả không thể tránh khỏi cho cuộc chiến tranh xâm lược phi nghĩa. Mặc dù giặc tàn bạo, nhưng sau bao nỗi đau đớn, sự căm hận, chúng ta vẫn sử dụng lòng nhân từ để mở cánh cửa cho chúng sống. Điều này cho thấy cách chúng ta đối xử với tội ác của kẻ thù đã nâng cao tinh thần nhân nghĩa của chúng ta lên một tầm cao mới.

Cuối cùng, việc thiết lập lại độc lập và tự do cho đất nước sau bao nhiêu đau khổ là kết quả tuyệt vời cho một dân tộc anh dũng, biết sống nhân nghĩa. Thuyết minh về Bình Ngô đại cáo là một phần không thể thiếu khi Nguyễn Trãi thay mặt Lê Lợi tuyên bố rộng rãi trước quần chúng:

“Từ đây, xã tắc sẽ vững bền,
Đất nước từ đây sẽ thay đổi mạnh mẽ.
Thời kỳ kiến khôn sẽ trở thành thời kỳ thái bình,
Thời kỳ áp bức sẽ trở thành thời kỳ minh bạch.
Nền thái bình vững chắc sẽ kéo dài muôn thuở,
Vết nhục của hàng nghìn thập kỷ sẽ được xóa sạch.”

Tuyên bố này thể hiện niềm tin mạnh mẽ của tác giả vào một tương lai bình yên, bền vững cho dân tộc. Sau những ngày sống trong bóng tối của áp bức và bóc lột, quân dân ta đã tìm thấy ánh sáng cho cuộc sống của họ. Hai câu cuối của bản tuyên bố cũng là sự kết thúc cho thời kỳ chiến tranh và sự mở đầu cho một giai đoạn mới của sự phát triển:

“Với ý chí chiến thắng vững vàng, chúng ta đã đạt được công lớn kéo dài hàng nghìn năm;
Biển cả bốn phương đều thanh bình, ánh sáng chân trời chiếu sáng khắp mọi nơi.”

Thuyết minh về Bình Ngô đại cáo không chỉ nổi bật về nội dung mà còn là một tác phẩm nghệ thuật xuất sắc. Trong việc viết, Nguyễn Trãi đã kết hợp một cách linh hoạt giữa văn chương và luận lý. Đồng thời, ông cũng sử dụng ngôn từ phong phú và hình ảnh sống động, hoành tráng.

Ngoài ra, Nguyễn Trãi còn sử dụng sự đa dạng và phong phú trong việc mô tả, thể hiện sự tương phản giữa cuộc chiến đấu của chúng ta và kẻ thù. Phần mô tả về cuộc khởi nghĩa của chúng ta có thể được coi là một trong những phần đặc biệt về mặt nghệ thuật trong “Bình Ngô đại cáo”.

Nhà thơ đã thành công trong việc sử dụng phương pháp liệt kê hình ảnh và tạo ra sự tương phản rõ ràng. Chúng ta thể hiện “sự thông minh trong tình huống khó khăn”, “sự can đảm của những người lãnh đạo”, trong khi đó, kẻ thù lại xuất hiện trong hình ảnh của “sự thất bại”, “sự tuyệt vọng”.

Có thể thấy, với những giá trị trên, 'Đại cáo bình Ngô' xứng đáng là một tác phẩm lưu danh sử sách đến muôn đời. Bài cáo không chỉ khẳng định hùng hồn nền độc lập, chủ quyền của đất nước mà còn góp phần thể hiện cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm kiên cường, bất khuất và tấm lòng nhân đạo, tinh thần nhân nghĩa của dân tộc ta…

Viết bài văn thuyết minh về bình ngô đại cáo (Mẫu 14)

Bình ngô đại cáo được Nguyễn Trãi sáng tác năm 1428, khi quân ta giành thắng lợi trước quân Minh, dưới ngọn cờ lãnh đạo của nghĩa quân Lam Sơn và chủ tướng Lê Lợi. Sau thắng lợi, Lê Lợi đã lên ngôi hoàng đế và bắt tay vào xây dựng vương triều của mình. Việc đầu tiên sau khi lên ngôi, đó là truyền lệnh cho Nguyễn Trãi soạn thảo văn bản “Bình ngô đại cáo” để tuyên bố với toàn dân rằng cuộc khởi nghĩa gian nan cuối cùng cũng kết thúc thắng lợi, kể từ đây nhân dân sẽ bước vào một cuộc sống mới, tự do, độc lập. Bình ngô đại cáo là một áng văn chính luận xuất sắc, là một áng “thiên cổ hùng văn” của nền văn học dân tộc.

Trong “Bình ngô đại cáo” Nguyễn Trãi rất đề cao tư tưởng thân dân, theo ông, một quốc gia muốn trường tồn, thịnh vượng, thì yếu tố căn cốt nằm ở người dân. Người dân có thể đẩy thuyền nhưng cũng có thể lật thuyền. Vì vậy, ngay câu thơ đầu, Nguyễn Trãi đã đề cập đến tư tưởng thân dân vừa như khẳng định vai trò của dân, vừa như lời nhắc nhở tế nhị đến bậc quân vương, việc nhân nghĩa luôn luôn được dân chúng nhắc đến, và những người đứng đầu đất nước luôn luôn phải có trách nhiệm với dân với chúng, trước hết phải biết lo cho dân cho chúng, lo trừ đi bạo ngược để giữ cho đất nước ngày càng phát triển mạnh mẽ và có giá trị to lớn hơn, những người luôn luôn biết lo cho dân yêu dân như con, điều đó để lại cho dân tộc những điều có ý nghĩa mạnh mẽ nhất, khi mỗi chúng ta đều hưởng được một nền thái bình thịnh trị:

“Từng nghe
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”

Quốc gia muốn trường cửu thì phải “yên dân”, tức là phải chăm lo đến cuộc sống của người dân. Trách nhiệm của triều đình, của “quân điếu phạt” là phải “lo trừ bạo”, diệt trừ mọi mối đe dọa đến cuộc sống của người dân. Nền văn hiến của dân tộc Việt Nam luôn luôn được cải thiện và giữ gìn mỗi ngày. Trong các tác phẩm thơ ca, nó cũng nhấn mạnh điều đó, dân quốc đã có từ xưa đến nay, nền văn hiến cũng luôn luôn được giữ gìn và nâng cao trên nền mỗi ngày. Giá trị của nó để lại cho dân tộc ta cũng vô cùng có giá trị. Nền văn hiến của dân tộc đã khẳng định từ trước tới nay, nó luôn mang những giá trị vẻ vang cho dân tộc của mình, mỗi khi các giá trị đó được cải tạo là làm cho văn học nước nhà được củng cố và nâng cao lên mỗi ngày, những định giới của Việt Nam luôn luôn được cải thiện và nâng cao mỗi ngày, nó luôn trở thành một giá trị vô giá và để lại cho dân tộc Việt Nam những điều có ý nghĩa to lớn, khi những giới hạn biên giới đó đã được khẳng định từ trước tới nay, phong tục của hai miền cũng luôn luôn được phân định rõ ràng:

“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác

Đến những câu thơ tiếp theo, Nguyễn Trãi đã khẳng định ranh giới lãnh thổ bờ cõi, cùng với đó là sự tự hào về truyền thống văn hiến lâu đời của dân tộc “Đã xưng nền văn hiến đã lâu”. “Văn hiến”, “phong tục” là những dẫn chứng nhà thơ đưa ra để tăng thêm tính thuyết phục của lời khẳng định. Đại Việt là một quốc gia độc lập, có ranh giới, lãnh thổ riêng. Trên mảnh đất ấy, con người Đại Việt đã sinh sống, hình thành nên những phong tục, những nền văn hiến mang bản sắc của dân tộc mình. Các đời vua từ xưa đến nay, luôn luôn xưng nền độc lập, không có thể bỏ qua những quân thù mà phải sánh vai với cường quốc năm châu, cần phải tạo nên những giá trị có ý nghĩa và có tầm quan trọng đặc biệt cho đất nước của mình, dù có chênh lệch lực lượng đi chăng nữa thì chúng ta cần phải dốc hết lòng để bảo vệ cho đất nước của mình. Thời nào cũng luôn thấy xuất hiện những vị anh hùng của dân tộc điều đó tạo nên những giá trị có ý nghĩa và vẻ vang nhất, song mỗi người luôn luôn biết quyết tâm để bảo vệ đất nước và dân tộc của mình:

“Từ Triệu, Đinh, Lí,Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có”

Nếu câu thơ trên nhà thơ khẳng định một cách rõ ràng về chủ quyền lãnh thổ cùng với niềm tự hào về văn hiến lâu đời thì trong những câu thơ này, nhà văn thể hiện niềm tự hào về truyền thống đấu tranh, truyền thống anh hùng của dân tộc. Nhà văn khẳng định Việt Nam có nền độc lập riêng, nền độc lập ấy được xây dựng bởi bao đời vua từ Triệu, Đinh, Lí, Trần. Vì vậy cùng với Trung Quốc,Việt Nam hoàn toàn bình đẳng, vì vậy kẻ thù không có quyền xâm phạm. Nguyễn Trãi thể hiện tinh thần dân tộc, lòng tự hào sâu sắc khi đặt Đại Việt sánh ngang với các triều đại Trung Quốc: “Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương”. Trong quá trình dựng nước và giữ nước, tuy có những thăng trầm “mạnh yếu từng lúc khác nhau”,nhưng nhà thơ cũng khẳng định “hào kiệt đời nào cũng có”. Đó là những trang nam tử, những người anh hùng, khi mà đất nước lâm nguy, họ sẵn sàng đứng lên, dốc sức bảo vệ tổ quốc.

“Cho nên
Lưu Cung tham công nên thất bại
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Việc xưa xem xét
Chứng cớ còn ghi”

Vì cố tình xâm phạm vào quốc gia có chủ quyền, có nền độc lập nên những kẻ xâm lược đã phải gánh chịu hậu quả vô cùng thê thảm. Lưu Cung, Triệu Tiết, Ô Mã, Toa Đô đều là những danh từ chỉ người, họ là những tên tướng cầm đầu đội quân xâm lược, vì bất chấp luân lí xâm phạm Đại Việt mà chúng đã nhận lấy những thất bại cay đắng. Nguyễn Trãi cũng sử dụng hệ thống các động từ để diễn tả sự thất bại ê chề này: “thất bại”, “tiêu vong”, “bắt sống”, “giết”. Bên cạnh việc chỉ ra những thất bại của quân giặc, Nguyễn Trãi cũng nêu lên những thắng lợi vang dội của quân dân Đại Việt như trận ở Hàm Tử, chiến thắng trên sông Bạch Đằng. Những dẫn chứng mà nhà thơ nêu đều căn cứ vào sự thực lịch sử “chứng cớ còn ghi”, vì vậy mà không thể chối cãi.

“Vừa rồi
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận
Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa
Bọn gian tà bán nước cầu vinh
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ dưới hầm tai vạ”

Nguyễn Trãi đã kể lại sự rối ren trong nước, khi họ Hồ 'chính sự phiền hà', nhân dân lầm than, đau khổ rồi mang lòng oán hận với triều đại “lòng dân oán hận”. Nhân sự mâu thuẫn nội bộ của Đại Việt, quân Minh đã mưu kế xấu xa, muốn nhân cơ hội này để thực hiện những hành động phi nghĩa “Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa”. Một triều đại lớn mạnh như nhà Minh mà cũng “thừa cơ”, cách dùng từ của Nguyễn Trãi làm bật lên cái phi nghĩa của quân đội nhà Minh, đồng thời cũng thể hiện được cái tiểu nhân đê hèn trong hành động xâm lược ấy. Không chỉ lên án quân Minh mà nhà thơ còn vạch tội của những kẻ “bán nước cầu vinh”. Vì hành động bắt tay xâm lược của chúng đã đẩy nhân dân ta vào biết bao nhiêu tai họa. Nhà thơ đã sử dụng những động từ mạnh “nướng dân đen”, “vùi con đỏ” để vạch trần bản chất tàn nhẫn, độc ác của chúng.

“Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế
Gây binh kết oán trải hai mươi năm
Bại nhân nghĩa nát cả đất trời
Nặng thuế khóa sạch không đầm núi

Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng

Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng khốn rừng sâu nước độc

Vét sản vật, bắt chim trả, chốn chốn lưới chăng
Nhiễu nhân dân, bẫy hưu đen, nơi nơi cạm đặt
Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ”

Để mang lại lợi ích cho mình, quân giặc không từ một thủ đoạn, một hành động nhẫn tâm, tàn ác nào. Chúng không chỉ bắt dân ta nộp nhiều loại tô thuế mà còn bắt những người dân vô tội lên rừng xuống biển tìm cho chúng những món đồ quý giá. Cuộc sống của người dân vô cùng đau khổ, bi thương. Nhưng tiếng khóc của người dân chúng đâu thấy được, không chỉ người dân mà ngay cả những loài thú quý, hay những loài côn trùng, cây cỏ chúng cũng không buông tha.

“Bình ngô đại cáo” là một áng văn chính luận xuất sắc của dân tộc ta. Bài cáo vừa khẳng định hùng hồn, mạnh mẽ chủ quyền của dân tộc vừa thể hiện niềm tự hào với truyền thống văn hóa cũng như truyền thông đấu tranh của dân tộc. Là lời cảnh cáo đanh thép với lũ quân xâm lược, với bọn bán nước. Như vậy, “Bình ngô đại cáo” xứng đáng là một áng “thiên cổ hùng văn”.

Viết bài văn thuyết minh về bình ngô đại cáo (Mẫu 15)

Trong dòng văn học yêu nước của dân tộc, có biết bao kiệt tác văn học đáng ngưỡng mộ và tự hào. Chúng ta càng tự hào về truyền thống yêu nước, tinh thần đoàn kết qua những trang sử vẻ vang viết về cuộc đấu tranh anh dũng của dân tộc. Đó là Nam Quốc sơn hà của Lí Thường Kiệt, là Tụng giá hoàn kinh sư của Trần Quang Khải, Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh,...Đặc biệt, một trong số đó phải kể đến Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi, một tác phẩm bất hủ được xem là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc.

Vào năm 1427, quân Minh do Mộc Thạnh và Liễu Thăng cầm đầu bị nghĩa quân Lam Sơn đánh bại và thu phục. Tháng 12 năm 1427, Vương Thông đêm quân theo sông Nhị Hà về nước theo lời ước giao hoà, được nghĩa quân Lam Sơn cấp lương thực và vật dụng để trở về. Đến năm 1428, quân giặc dẹp yên, đất nước không còn bóng quân Mình, Lê Lợi đã giao cho Nguyễn Trãi làm bài cáo để tổng kết cuộc đấu tranh, tuyên bố thắng lợi trong cuộc chiến đấu chống quân Minh.

Tác phẩm được Nguyễn Trãi viết theo thể cáo. Khác với các thể loại khác, thể cáo thường được sử dụng nhiều trong các sự kiện trọng đại để thông báo cho quốc gia, dân tộc những nội dung quan trọng. Đây là loại văn hùng biện, chính luận nên ngôn từ thường sâu sắc, lý lẽ sắc bén và lập luận logic, chắc chắn. Tác phẩm được viết bằng chữ Hán và lấy nhan đề là 'Bình Ngô đại cáo' với ý nghĩa tuyên bố đến toàn dân về việc giặc Ngô đã được dẹp yên, đồng thời cũng thể hiện thái độ khinh bỉ trước tội ác quân giặc, những kẻ nhởn nhơ làm điều phi nghĩa cuối cùng cũng bị đánh bại.

Bình Ngô Đại cáo được phân thành 4 phần với các nội dung lớn. Phần đầu tiên từ đầu đến 'Chứng cớ còn ghi', trong phần này, tác giả đã đề cập đến luận điểm chính nghĩa, trọng tâm của cuộc chiến là vì nhân dân, tư tưởng nhân dân chính là 'việc nhân nghĩa' khi tham gia vào cuộc chiến. Điều này là phù hợp để khởi đầu cho tác phẩm, vì một cuộc chiến bắt nguồn từ lợi ích của nhân dân, vì nhân dân và dân tộc thì luôn là cuộc chiến chính nghĩa, trong đó 'trừ bạo', tiêu diệt giặc là công việc hàng đầu lúc ấy. Hơn nữa, cũng trong đoạn này, Nguyễn Trãi so sánh đất nước ta với các triều đại phương Bắc để khẳng định nền độc lập, sự bình đẳng của Đại Việt so với các triều đại phương Bắc. Chứng minh và khẳng định lòng yêu nước và hùng hồn của Đại Việt bằng lịch sử lâu dài, lãnh thổ riêng, phong tục tập quán riêng, cùng với những nhân tài, anh hùng bất tử.

Đoạn thứ hai từ 'Vừa rồi' đến 'Ai bảo thần dân chịu được'. Sau khi đề cập đến luận điểm chính nghĩa, Nguyễn Trãi mạch lạc phơi bày hành vi 'phi nghĩa' của bè lũ giặc Minh cướp nước. Bằng cách sử dụng ngôn từ mạnh mẽ, lời nói đanh thép, tội ác của giặc Minh được tiết lộ như một vụ án tàn bạo dành cho chúng:

'Quân cuồng Minh thừa cơ gây hoạ
Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ
Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế
Gây thù kết oán trải mấy mươi năm
Bại nhân nghĩa nát cả đất trời.'

Sự tàn bạo của chúng đạt đến đỉnh điểm khi âm mưu giả dối, hành động phi nhân, không có đạo đức. Chúng giết người tàn bạo, không khoan nhượng với người nghèo khốn khó, chúng thực hiện những chính sách tàn ác, dã man, khiến nhân dân phải chịu nỗi đau tinh thần và thể xác:

'Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.'

Càng phơi bày sự tàn ác của kẻ thù, tác giả càng thể hiện sự đau đớn, xót xa đối với những nỗi khổ cực, gian truân mà nhân dân phải chịu đựng. Tiếng thơ vừa đầy căm phẫn, vừa đầy xót xa.

Đoạn thứ ba chiếm đa số câu từ, từ 'Ta đây núi Lam Sơn dậy nghĩa' đến 'Cũng chưa từng thấy' Nguyễn Trãi dùng trang dài nhất để tổng kết cuộc chiến vĩ đại của nghĩa quân Lam Sơn vừa qua. Một lần nữa khẳng định sức mạnh dân tộc, ý chí chiến đấu kiên cường của dân tộc và kết quả xứng đáng mà Đại Việt đạt được. Mọi cuộc chiến đều gặp khó khăn khi bắt đầu, nghĩa quân Lam Sơn cũng vậy. Ban đầu, chúng ta phải đối mặt với vấn đề lương thực, thiếu vũ khí, đội quân ít người, thiếu nhân tài, anh kiệt. Nhưng 'khó ló cái khôn', khó khăn không làm nghĩa quân chùn bước mà ngược lại họ sử dụng trí tuệ để tìm ra chiến thuật hay trong chiến đấu.

'Lợi nhỏ thắng kẻ mạnh
Người ít hạ kẻ đông'

Cùng với lãnh đạo anh minh, sáng suốt, nghĩa quân ngày càng mạnh mẽ, quyết tâm chiến đấu. Thắng lợi liên tục, càng chiến đấu càng kiên cường, thu về nhiều chiến công. Quân Minh thất bại trong sự nhục nhã, khốn khổ, và kẻ phi nghĩa không thể tránh khỏi hai từ 'thất bại'.

Cuối bài cáo, Nguyễn Trãi đại diện cho Lê Lợi tuyên bố hùng biện về việc kết thúc chiến tranh và khẳng định sự độc lập vững chắc, thái bình của dân tộc.

Bình Ngô đại cáo thu hút lòng yêu thương của dân chúng và độc giả qua các thế hệ không chỉ vì nội dung sâu sắc mà còn nhờ vào tài nghệ thuật tài tình của Nguyễn Trãi. Bài cáo ấn tượng với ngôn từ sắc bén, lập luận chính xác, và các hình ảnh nghệ thuật sâu sắc, gợi cảm xúc. Các thủ pháp so sánh, liệt kê, đối lập được sử dụng một cách linh hoạt, phù hợp. Giọng điệu của thơ thay đổi linh hoạt, từ căm phẫn trước sự tàn ác của quân thù, đồng cảm với nỗi đau của nhân dân, đến sự mãnh liệt và hùng biện trong tái hiện cuộc chiến đấu, và cuối cùng là sự trang trọng, hòa bình trước bóng tối của quân thù.

Tác phẩm Đại cáo Bình Ngô là một tác phẩm văn học có giá trị và chứa đựng lòng yêu nước sâu sắc của văn học Việt Nam. Đọc bài cáo, tôi hiểu thêm về những nỗi đau của nhân dân, hiểu thêm về lịch sử huy hoàng của dân tộc. Và qua đó, tôi nhận thức rõ hơn về trách nhiệm của bản thân mình trong thời đại hiện nay, phải biết yêu quê hương, quê đất, phải sống hết mình để xây dựng và phát triển quê hương, xứng đáng với những hy sinh của các bậc tiền bối.

Viết bài văn thuyết minh về bình ngô đại cáo (Mẫu 16)

Nguyễn Trãi là một trong số những tác gia lớn, tiêu biểu của nền văn học Việt Nam với nhiều tác phẩm đặc sắc được viết bằng cả chữ Nôm và chữ Hán. Đọc những tác phẩm của Nguyễn Trãi, người đọc sẽ dễ dàng nhận ra tấm lòng thương dân ái quốc, tình yêu thiên nhiên tha thiết và đặc biệt là tư tưởng thân dân. Và có thể nói “Bình Ngô đại cáo” là tác phẩm thể hiện một cách sâu sắc và trọn vẹn tư tưởng ấy của Nguyễn Trãi.

Tác phẩm “Bình Ngô đại cáo’’ ra đời trong một hoàn cảnh rất đặc biệt. Sau khi đánh tan giặc Minh xâm lược, Vương Thông phải chấp nhận giảng hòa và buộc quân Minh phải rút quân về nước, đất nước ta độc lập, sạch bóng quân thù. Trong hoàn cảnh lịch sử ấy, Nguyễn Trãi đã thừa lệnh Lê Lợi viết tác phẩm “Bình Ngô đại cáo” hay còn gọi là “Đại cáo Bình Ngô” và chính thức công bố trước toàn thể nhân dân vào tháng Chạp, năm Đinh Mùi, tức là vào đầu năm 1428. Tác phẩm ra đời như một bản tuyên ngôn độc lập của dân tộc ta.

“Bình Ngô đại cáo” được tác giả Nguyễn Trãi viết bằng thể cáo – một thể loại văn học lớn có nguồn gốc từ Trung Hoa. Đi sâu tìm hiểu, khám phá về thể loại văn học này, chúng ta có thể dễ dàng thấy rằng cáo là thể văn được viết bằng chữ Hán, có thể được viết bằng văn xuôi hoặc văn vần nhưng có lẽ phổ biến hơn cả là văn biền ngẫu. Cáo là thể văn thường được vua, chúa hoặc thủ lĩnh dùng để thông báo rộng rãi tới toàn thể mọi người một sự việc hay một vấn đề trọng đại nào đó. Cũng như nhiều thể loại văn học thời cổ khác, cáo cũng đòi hỏi kết cấu chặt chẽ, mạch lạc, lập luận sắc bén và lí lẽ thuyết phục. Và có thể nói, với những đặc điểm của thể cáo nếu trên thì “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi là tác phẩm hội tụ khá đầy đủ và rõ nét những đặc điểm của thể loại văn học này.

Thêm vào đó, bài cáo được chia làm bốn phần, với bố cục mạch lạc, rõ ràng. Đoạn mở đầu của bài cáo đã nêu lên luận đề chính nghĩa để làm cơ sở, nền tảng vững chắc cho bài cáo. Luận đề chính nghĩa ấy chính là sự kết hợp giữa tư tưởng thân dân với độc lập dân tộc:

Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.

Sau khi nêu lên luận đề chính nghĩa làm cơ sở, trong đoạn hai của bài cáo, tác giả Nguyễn Trãi đã vạch rõ những tội ác man rợ, dã man của kẻ thù. Đó là những hành động sát hại, giết những người dân một cách tàn nhẫn và độc ác “Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn/ Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ”. Đó còn là những chính sách thuế khóa vô lý, phá hoại môi trường, sự sống, bóc lột tài nguyên thiên nhiên và sức lao động của những người dân vô tội. Tất cả, tất cả những tội ác man rợ ấy của bọn giặc đã được tác giả tái hiện lại một cách chân thực, rõ nét bằng hàng loạt các dẫn chứng sắc sảo, lí lẽ thuyết phục. Đồng thời, trong đoạn thứ hai, tác giả còn làm bật nổi ý chí và lòng căm thù giặc sâu sắc của nhân dân ta. Tiếp đó, trong đoạn thứ ba của tác phẩm, tác giả đã tái hiện lại một cách chân thực, sâu sắc và rõ nét quá trình chiến đấu, chinh phạt với thật nhiều những khó khăn, vất vả và sự tất thắng của quân và dân ta. Ban đầu, cuộc chiến đấu của nghĩa quân Lam Sơn gặp phải thật nhiều những khó khăn, thiếu thốn trăm bề – thiếu lương thực, thực phẩm, thiếu nhân lực và có những nghĩa quân của ta ở vào thế yếu “Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần-Khi Khôi Huyện quân không một đội”, “Tuấn kiệt như sao buổi sớm-Nhân tài như lá mùa thu”, “lấy yếu thắng mạnh, lấy ít địch nhiều”… Nhưng rồi, với sự lãnh đạo tài tình của vị lãnh tụ Lê Lợi và ý chí quyết tâm, sự cố gắng của mình, nghĩa quân và toàn thể nhân dân đã chiến đấu hết sức mình và giành được thắng lợi vẻ vang “Đánh một trận sạch không kình ngạc-Đánh hai trận tan tác chim muông” và buộc quân Minh từng bước, từng bước một đầu hàng, chấp nhận thua cuộc và rút quân về nước. Trên cơ sở nêu lên luận đề chính nghĩa, vạch rõ tội ác của kẻ thù cũng quá trình chiến đấu của quân và dân ta, đoạn văn khép lại bài cáo chính là lời tuyên bố độc lập, khẳng định sự nghiệp chính nghĩa. Có thể nói, đoạn cuối cùng của bài cáo đã cất lên lời tuyên bố trịnh trọng về việc kết thúc chiến tranh, khẳng định hòa bình của dân tộc và niềm tin vào tương lai tươi sáng, tốt đẹp cho nhân dân, cho đất nước.

Không dừng lại ở đó, bài cáo còn để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc, người nghe bởi những thành công, hấp dẫn về nghệ thuật. Trước hết, thành công của bài cáo chính là ở việc kết hợp nhuần nhuyễn, hài hòa và hợp lý giữa yếu tố chính luận với yếu tố văn chương với nhiều hình ảnh độc đáo, hấp dẫn, chính điều đó đã làm cho bài cáo để lại nhiều ấn tượng hơn với người nghe. Thêm vào đó, bài cáo còn có giọng điệu hết sức linh hoạt, đa dạng, phù hợp với từng nội dung mà báo cáo thể hiện – tự hào về truyền thống văn hóa, lịch sử ngàn đời của dân tộc, căm phẫn khi vạch rõ tội ác của kẻ thù, trịnh trọng, nghiêm trang khi tuyên bố độc lập.

Tóm lại, “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi là một trong số những tác phẩm xuất sắc của nền văn học Việt Nam. Tác phẩm xứng đáng là áng “thiên cổ hùng văn”, là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc Việt Nam anh hùng, bất khuất.

Soạn Bình Ngô Đại Cáo Phần 2 Dễ Hiểu Nhất

Viết bài văn thuyết minh về bình ngô đại cáo (Mẫu 17)

Là một tác giả vĩ đại trong văn học trung đại Việt Nam, Nguyễn Trãi để lại cho thế hệ sau một khối lượng tác phẩm đồ sộ, ấn tượng. Văn chương của ông gắn liền với số phận của con người. Trong số đó, áng văn học hùng biện “Bình Ngô đại cáo” nổi bật.

Là một tác phẩm văn học lưu danh, Bình Ngô đại cáo tổng kết lại cuộc kháng chiến chống quân Minh kéo dài mười năm của nghĩa quân Lam Sơn. Bài cáo cũng thể hiện tinh thần yêu nước sâu sắc của quân và dân, truyền thống bảo vệ độc lập dân tộc và tinh thần nhân nghĩa, vì nhân dân, vì con người xuyên suốt. Với bút pháp chính luận kết hợp với trữ tình qua giọng văn truyền cảm, mạnh mẽ, Bình Ngô đại cáo xứng đáng là một kiệt tác văn học, được đọc giả ca tụng muôn đời.

Bài cáo được viết bằng lối văn thông dụng, dùng để tuyên bố về một sự kiện trọng đại của quốc gia, của dân tộc. Bài cáo giữ một vai trò quan trọng trong phương diện lịch sử trong thời hiện đại khi thể loại cáo dần thất truyền sau chế độ phong kiến tan rã. Nguyễn Trãi viết Bình Ngô đại cáo vào đầu năm 1428 để tuyên cáo chiến thắng của nghĩa quân Lam Sơn, khẳng định nền độc lập, hòa bình của dân tộc, buộc quân Minh ký kết hòa ước, rút quân về nước, kết thúc một thời kỳ đen tối của nước nhà và mở ra một thời đại thịnh vượng, phồn vinh cho đất nước.

Bài cáo có bố cục chặt chẽ, mạnh mẽ thông qua việc chia thành bốn đoạn. Đoạn đầu tư tưởng nhân nghĩa trong việc lập căn cứ chính thống của nghĩa quân Lam Sơn. Đoạn hai vạch trần tội ác, sự tàn bạo của quân Minh. Đoạn ba về quá trình kháng chiến gian khổ và chiến thắng vẻ vang của nghĩa quân Lam Sơn. Và đoạn cuối cùng là về tuyên cáo nền độc lập, hòa bình của dân tộc, mở ra một thời kỳ yên bình cho đất nước.

Xuyên suốt trong cả bốn đoạn, bài cáo xoay quanh bốn cảm hứng nhân văn như trong bất kỳ cuộc kháng chiến nào: tư tưởng nhân nghĩa, ý chí, căm thù giặc sâu sắc, tinh thần quyết chiến, giành lại nền độc lập, hòa bình của nghĩa quân và cảm hứng độc lập, niềm tin vào tương lai tươi sáng của đất nước. Bài cáo kết lại trong viễn cảnh huy hoàng, trong sự tươi sáng của non sông gấm vóc.

Bài cáo không chỉ thành công về mặt thể loại mà còn thành công trong nội dung, nghệ thuật, giọng điệu linh hoạt và ý chí sục sôi, căm thù giặc. Nguyễn Trãi đã viết nên một tác phẩm để đời, thổn thức trái tim người đọc, vượt thời đại. Bình Ngô đại cáo xứng đáng là trụ cột của văn học trung đại Việt Nam, tự hào của dân tộc.

Viết bài văn thuyết minh về bình ngô đại cáo (Mẫu 18)

Trong dòng văn học ca ngợi truyền thống yêu nước suốt lịch sử văn học Việt Nam, 'Bình Ngô đại cáo' của Nguyễn Trãi được đánh giá là áng 'thiên cổ hùng văn', là tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc, được các thế hệ người Việt luôn yêu thích, tự hào.

'Bình Ngô đại cáo' được Nguyễn Trãi thừa lệnh Lê Lợi viết vào khoảng đầu năm 1428, khi cuộc kháng chiến chống Minh của nghĩa quân Lam Sơn đã thắng lợi, quân Minh buộc phải ký hòa ước, rút quân về nước, nước ta bảo toàn được nền độc lập tự chủ, hòa bình. Nguyễn Trãi -62 là anh hùng dân tộc, là người tài hiếm có trong lịch sử các triều đại phong kiến Việt Nam. Ông có công lớn trong cuộc kháng chiến chống quân Minh và là nhà văn chính luận kiệt xuất, cây đại thụ đầu tiên của văn học trung đại Việt Nam.

Tác phẩm 'Bình Ngô đại cáo' được Nguyễn Trãi viết theo thể cáo, một thể văn có nguồn gốc từ Trung Hoa, viết bằng chữ Hán, thuộc thể văn hùng biện chính luận, có nội dung thông báo một chính sách, sự kiện trọng đại liên quan đến quốc gia dân tộc. Bài cáo có bố cục chặt chẽ mạch lạc, viết theo lối biền ngẫu, vận dụng thể tứ lục, sử dụng hệ thống hình tượng sinh động, gợi cảm.

Bài cáo gồm bốn đoạn. Đoạn đầu tư tưởng nhân nghĩa và độc lập dân tộc: 'Việc nhân nghĩa yên dân-Quân đảm trước lo trừ bạo' và 'Như nước Đại Việt từ lâu-Vốn xưng nền văn hiến'.

Đoạn thứ hai vạch trần tội ác của giặc Minh, tố cáo giặc ở các điểm: âm mưu cướp nước, chủ trương cai trị phản nhân đạo, hành động tàn sát tàn bạo. Đồng thời, nêu bật nỗi thống khổ, khốn cùng của nhân dân, dân tộc ta dưới ách thống trị của kẻ thù. Đoạn văn thứ ba là anh hùng ca về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Đoạn cuối tuyên bố kết thúc chiến tranh, khẳng định nền độc lập, hòa bình vững bền của đất nước.

Bài cáo kết hợp hài hòa, hiệu quả giữa chính luận sắc bén và văn chương truyền cảm, kết hợp lí luận chặt chẽ và hình tượng nghệ thuật sinh động. Cảm hứng anh hùng sôi nổi, mãnh liệt nổi bật xuyên suốt tác phẩm. Giọng điệu rất đa dạng, từ tự hào về truyền thống văn hóa, anh hùng lâu đời của dân tộc đến căm phẫn trước tội ác của kẻ thù, thống thiết xót thương trước nỗi đau lầm than của nhân dân, lo lắng trước những khó khăn của cuộc kháng chiến, hào hùng ngợi ca chiến thắng, trịnh trọng tuyên bố độc lập của dân tộc, đất nước.

'Đại cáo bình Ngô' của Nguyễn Trãi là bản anh hùng ca ca ngợi chiến thắng vĩ đại của dân tộc ta thế kỉ XV. Tác phẩm vừa có giá trị lịch sử, vừa có giá trị văn học, không chỉ lưu giữ những sự kiện lịch sử mà còn truyền tải lòng yêu nước tự hào dân tộc đến các thế hệ người Việt Nam. Mỗi người dân Việt Nam ngày nay đều hào sảng trước những câu văn hùng hồn:

'Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác.
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập,
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương.
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào cũng có…'

Viết bài văn thuyết minh về bình ngô đại cáo (Mẫu 19)

Trong dòng văn học yêu nước của dân tộc, có biết bao kiệt tác văn học đáng ngưỡng mộ và tự hào. Ta thêm tự hào về truyền thống yêu nước, tinh thần đoàn kết qua những trang sử vẻ vang viết về cuộc đấu tranh anh dũng của dân tộc. Đó là Nam Quốc sơn hà của Lí Thường Kiệt, là Tụng giá hoàn kinh sư của Trần Quang Khải, Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh,...Đặc biệt, một trong số đó phải kể đến Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi, một tác phẩm bất hủ được xem là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc.

Vào năm 1427, quân Minh do Mộc Thạnh và Liễu Thăng cầm đầu bị nghĩa quân Lam Sơn đánh bại và thu phục. Tháng 12 năm 1427, Vương Thông đêm quân theo sông Nhị Hà về nước theo lời ước giao hoà, được nghĩa quân Lam Sơn cấp lương thực và vật dụng để trở về. Đến năm 1428, quân giặc dẹp yên, đất nước không còn bóng quân Mình, Lê Lợi đã giao cho Nguyễn Trãi làm bài cáo để tổng kết cuộc đấu tranh, tuyên bố thắng lợi trong cuộc chiến đấu chống quân Minh.

Tác phẩm được Nguyễn Trãi viết theo thể cáo. Khác với các thể loại khác, thể cáo thường được sử dụng nhiều trong các sự kiện trọng đại để thông báo cho quốc gia, dân tộc những nội dung quan trọng. Đây là loại văn hùng biện, chính luận nên ngôn từ thường sâu sắc, lý lẽ sắc bén và lập luận logic, chắc chắn. Tác phẩm được viết bằng chữ Hán và lấy nhan đề là 'Bình Ngô đại cáo' với ý nghĩa tuyên bố đến toàn dân về việc giặc Ngô đã được dẹp yên, đồng thời cũng thể hiện thái độ khinh bỉ trước tội ác quân giặc, những kẻ nhởn nhơ làm điều phi nghĩa cuối cùng cũng bị đánh bại.

Bình Ngô Đại cáo được phân làm 4 phần với những nội dung lớn. Phần thứ nhất từ đầu đến 'Chứng cớ còn ghi', trong phần này, tác giả đã nêu lên luận đề chính nghĩa, cốt lõi của cuộc chiến đấu là vì nhân dân, tư tưởng nhân dân chính là 'việc nhân nghĩa' khi bước vào cuộc chiến. Đây là một luận đề phù hợp để mở đầu cho tác phẩm, bởi một cuộc chiến xuất phát từ lợi ích của nhân dân, vì nhân dân và dân tộc thì luôn luôn là cuộc chiến chính nghĩa, trong đó 'trừ bạo', diệt giặc là công việc tiên quyết hàng đầu lúc bấy giờ. Mặt khác, cũng trong đoạn này Nguyễn Trãi đặt đất nước ta sánh ngang với các triều đại phương Bắc để khẳng định nền độc lập, sự bình đẳng của Đại Việt với các triều đại phương Bắc. Chứng minh và khẳng định hùng hồn Đại Việt gắn với nền văn hiến lâu đời, có lãnh thổ riêng, phong tục tập quán riêng, có lịch sử vẻ vang, hào hùng và những nhân tài, anh kiệt ngàn đời. Các yếu tố ấy là làm nên một Đại Việt vẻ vang, độc lập và hiên ngang trước thế giới, trước các triều đại phương Bắc.

Đoạn thứ hai từ 'Vừa rồi' đến 'Ai bảo thần dân chịu được' Sau khi nêu luận đề chính nghĩa, Nguyễn Trãi khéo léo vạch trần việc làm 'phi nghĩa' của bè lũ giặc Minh cướp nước. Bằng giọng điệu gay gắt, ngôn ngữ đanh thép, tội ác giặc Minh được phơi bày như một bản kết tội sự tàn nhẫn dành cho chúng:

'Quân cuồng Minh thừa cơ gây hoạ
Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ
Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế
Gây thù kết oán trải mấy mươi năm
Bại nhân nghĩa nát cả đất trời.'

Sự tàn độc của chúng đạt đến tột đỉnh khi âm mưu giả dối, hành động phi nhân, vô đạo đức. Chúng giết người tàn bạo, không nương tay cho kẻ nghèo hèn, khốn khó, chúng thi hành bao chính sách tàn ác, dã man, khiến nhân dân phải chịu nỗi đau tinh thần lần nỗi đau thể xác:

'Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ'

Càng vạch trần sự bạo tàn của quân thù, tác giả càng bày tỏ xót xa, đau đớn đến nghẹn ngào trước những nỗi khổ đau, nhọc nhằn mà nhân dân phải chịu đựng. Tiếng thơ vừa căm phẫn, vừa xót xa.

Đoạn thứ ba chiếm số lượng câu từ lớn nhất, từ 'Ta đây núi Lam Sơn dấy nghĩa' đến 'Cũng chưa thấy xưa nay' Nguyễn Trãi đã dùng trang dài nhất để tổng kết lại cuộc chiến đấu vẻ vang của nghĩa quân Lam Sơn vừa qua. Một lần nữa khẳng định sức mạnh dân tộc, ý chí chiến đấu mãnh liệt của dân tộc và kết quả tất yếu mà Đại Việt xứng đáng nhận được. Cuộc chiến đấu nào lúc bắt đầu cũng gặp nhiều khó khăn, nghĩa quân Lam Sơn cũng không nằm ngoài việc ấy. Ban đầu, quân ta phải đối mặt với vấn đề lương thực, vũ khí thiếu thốn, đội quân còn ít ỏi, thưa thớt, người tài, tuấn kiệt thì hiếm hoi. Nhưng 'trong cái khó ló cái khôn', khó khăn ấy không làm nghĩa quân nhụt chí mà trái lại họ dùng trí tuệ để tìm ra những chiến thuật hay trong đánh trận.

'Lấy yếu thắng mạnh
Lấy ít địch nhiều'

Cùng với người lãnh đạo anh minh, sáng suốt, nghĩa quân ngày một lớn mạnh, sức chiến đấu hăng say. Thắng lợi liên tiếp, càng đánh càng hăng, thu về bao chiến công giòn giã. Quân Minh thất bại trong nhục nhã ê chề, kẻ phi nghĩa làm sao có thể tránh khỏi hai từ 'thất bại'.

Đoạn cuối bài cáo, Nguyễn Trãi thay mặt Lê Lợi tuyên bố hùng hồn về việc kết thúc chiến tranh và khẳng định nền độc lập, thái bình vững bền của dân tộc.

Bình Ngô đại cáo chiếm trọn tình cảm của nhân dân và của người đọc qua bao thế hệ không chỉ bởi nội dung sâu sắc mà còn tài năng nghệ thuật tài tình của tác giả Nguyễn Trãi. Bài cáo giàu sức thuyết phục bởi ngôn từ sắc bén, lí lẽ chính xác, lập luận đúng đắn. Các hình ảnh, hình tượng nghệ thuật giàu sức gợi, lối viết giàu cảm xúc. Các thủ pháp liệt kê, so sánh, đối lập,....được vận dụng linh hoạt, phù hợp. Giọng điệu thơ thay đổi linh hoạt, khi căm phẫn trước sự man rợ quân thù, khi xót xa, đồng cảm trước khổ đau nhân dân, khi mãnh liệt sục sôi trong tái hiện cuộc chiến đấu, khi lại hùng hồn, trình trọng để tuyên bố hòa bình, dẹp yên bóng giặc.

Tác phẩm Đại cáo bình Ngô là áng văn giàu giá trị và chứa chan lòng yêu nước của nền văn học Việt Nam. Đọc bài cáo, em hiểu thêm về những nỗi đau của nhân dân, hiểu thêm về lịch sử huy hoàng của dân tộc. Và qua đó, em ý thức hơn về trách nhiệm của bản thân mình khi sống trong thời đại hôm nay, phải biết yêu quê hương đất nước, biết sống hết mình để dựng xây và phát triển quê hương, xứng đáng với bao hy sinh của cha anh đi trước.

Viết bài văn thuyết minh về bình ngô đại cáo (Mẫu 20)

Nguyễn Trãi là một tác gia lớn của văn học trung đại Việt Nam. Ông để lại một khối lượng tác phẩm khá đồ sộ cho hậu thế. 'Bình Ngô đại cáo' - viết sau đại thắng năm 1427, là bản tổng kết xuất sắc quá trình kháng chiến mười năm, không chỉ thể hiện tinh thần yêu nước bảo vệ độc lập, truyền thống bất khuất chống ngoại xâm, mà còn nêu cao “chí nhân, đại nghĩa” như một giá trị văn hóa ngời sáng của dân tộc Đại Việt. Với bút lực hào hùng và lời văn truyền cảm mạnh mẽ, tác phẩm đã trở thành một áng “thiên cổ hùng văn”.

Bình Ngô đại cáo là một tuyên bố quan trọng được viết bằng văn văn ngắn gọn, thường được sử dụng để thông báo những sự kiện quan trọng của dân tộc. Ban đầu được viết bằng chữ Hán, sau được dịch ra tiếng Việt. Tác phẩm mang giá trị lịch sử và văn học lớn, kể lại cuộc kháng chiến thành công của Lam Sơn trước quân Minh, bảo vệ độc lập và hòa bình cho đất nước.

Bình Ngô đại cáo là một bản tuyên bố quan trọng về việc đánh bại quân Ngô, một biểu hiện của sự khinh bỉ và căm ghét quân Minh xâm lược. Bài viết được tổ chức rõ ràng và mạch lạc, chỉ trích và lên án tội ác của quân địch, khẳng định chủ quyền của dân tộc. Tác phẩm tập trung vào năm cảm xúc chính: chính nghĩa, căm hận quân xâm lược, tinh thần của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, lòng tự do và tương lai của dân tộc. Bốn cảm xúc này được phân chia thành bốn phần tương ứng.

Bình Ngô đại cáo bắt đầu bằng việc nêu nguyên tắc của chính nghĩa, là cơ sở để phát triển nội dung của tuyên bố. Nguyên tác này phản ánh tinh thần Nho giáo và nhân nghĩa, tạo nên một lập luận dân tộc:

“Chỉ cần nhân nghĩa tồn tại, quân địch sẽ không dám xâm lược”

Theo Nguyễn Trãi, việc quan trọng nhất là bảo vệ dân lành khỏi bạo lực, để họ có cuộc sống an yên và hạnh phúc. Ông nhấn mạnh rằng việc đầu tiên để thống trị là bảo vệ nhân dân. Cuộc chiến chống lại xâm lược là một hành động nhân nghĩa, phù hợp với nguyên tắc chính nghĩa. Sau đó, tác giả phản ánh về sự tồn tại độc lập của nước Đại Việt, một sự thật đã được củng cố qua lịch sử:

“Như nước Đại Việt ta từ xưa
Luôn tự hào về văn hiến lâu đời
Núi sông bờ cõi chia cách
Phong tục Bắc Nam khác biệt”

Ở phần 2 – cảm hứng căm thù kẻ thù xâm lược, Nguyễn Trãi thể hiện lòng căm phẫn sục sôi, viết nên một bản tuyên ngôn đanh thép với một trình tự tư duy logic: vạch trần âm mưu xâm lược, lên án chủ trương cai trị tàn ác, tố cáo mạnh mẽ những hành động tàn bạo. Qua việc phân tích sự cay đắng của việc “phù Trần diệt Hồ”, tác giả khám phá những tội ác phi nhân, diệt chủng:

“Nướng dân nghèo trên ngọn lửa hung dữ
Vùi con người vào dưới cơn ác tai họa”

Tội ác của chúng được ghi chép bằng vô số, không giới hạn:

“Độc ác tràn lan, trúc Nam Sơn không đủ chứa hết tội lỗi
Bẩn thỉu tràn ngập, nước Đông Hải không thể loại trừ hết mùi tanh”

Ở phần 3, với nguồn cảm hứng phong phú, Nguyễn Trãi đã mô tả lại quá trình gian khổ, vất vả của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Chính những gian nan ban đầu đã dẫn đến chiến thắng vĩ đại sau này. Cảm hứng anh hùng lan tỏa khắp nơi. Những chiến công hào hùng được diễn tả sâu sắc. Nhạc điệu trong văn vẻ phấn khích, hùng tráng như sóng biển:

“Gươm mài đá, đá núi cũng phải mòn
Voi uống nước, nước sông cũng phải cạn.
Đánh một trận, sạch không nguy cơ
Đánh hai trận, chim muông tan tác”

Và ở phần 4 – phần kết thúc, Nguyễn Trãi không giấu được niềm vui chung của dân tộc, truyền đạt lời tuyên bố trọng đại của Lê Lợi về độc lập lâu dài:

“Từ đây, xã tắc vững bền
Giang sơn từ đây thay đổi
Chí khôn bĩ rồi lại thăng
Mặt trời mọc rồi lại sáng”

Từ đó, chúng ta thấy được tương lai huy hoàng, rạng rỡ của đất nước. Hiện thực hiện nay là kết quả của những nỗ lực đau thương trong quá khứ “Muôn thuở thái bình vững vàng”. Lời kết thúc “Xa gần bá đạo/ Ai ai cũng hiểu” đã chia sẻ niềm vui, niềm tự hào và hy vọng vào ngày mai, vào tương lai của tổ quốc.

Bài cáo đã thành công thể hiện những đặc điểm độc đáo của thể loại. Ngoài ra, sự thay đổi linh hoạt trong cách diễn đạt ở mỗi phần, từ sự cao trào của lòng căm hận, đến sự hào hùng mãnh liệt, và sự mãnh liệt như sóng triều dâng lên trên chủ đề lịch sử - văn học, đã để lại ấn tượng sâu sắc cho người đọc. Hiểu biết sâu sắc hơn của Nguyễn Trãi về lịch sử, về truyền thống và văn hóa đã tạo ra tính thuyết phục và sức hút lớn hơn cho tác phẩm.

“Bình Ngô đại cáo” từ khi xuất hiện đã được coi là một tuyên bố độc lập của dân tộc, không chỉ lên án tội ác của quân Minh mà còn khẳng định sự độc lập chủ quyền của dân tộc. Qua nhiều biến cố, giá trị của “Bình Ngô đại cáo” vẫn còn nguyên vẹn đến ngày nay và Nguyễn Trãi – một nhà quân sự, nhà chính trị tài năng, nhà thơ, nhà văn xuất sắc sẽ mãi được ghi nhớ trong lòng mỗi người con của dân tộc.

Bài Viết Phân Tích “Bình Ngô Đại Cáo ...

Viết bài văn thuyết minh về bình ngô đại cáo (Mẫu 21)

Trong “Nước Đại Việt ta”(trích “Bình Ngô đại cáo”) Nguyễn Trãi có viết: “Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau Song hào kiệt đời nào cũng có”.

Từ buổi sơ khai cho đến tận bây giờ có hai thứ thuộc trong ngũ hành luôn là khắc tinh của nhau, đó chính là nước và lửa. Nước tuôn trào mãnh liệt, lửa bùng cháy dữ dội, giữa chúng luôn có sự đối lập gay gắt nên mới có thành ngữ “khác nhau như nước với lửa”.

Dẫu biết rằng nước có thể dập lửa, nhưng khi lửa mạnh cháy lớn, nước lại có hạn thì biết cái nào át cái nào? Tất cả họ là những anh hùng hào kiệt về chiến đấu bảo vệ Tổ Quốc, là những nhà lãnh đạo những nhà quân sự tài ba. Xét về giáo dục, lịch sử VN ta phải ghi nhận sự vượt trội về trí tuệ của thầy giáo Chu văn An. Về y học phải nhắc đến Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác hay danh y Tuệ Tĩnh đời Trần. Hào kiệt là những người kiệt xuất, có tài cao chí lớn hơn người. Họ thường giỏi giang hoặc có khả năng đặc biệt trong một lĩnh vực nào đó. Còn khái niệm “mạnh - yếu” ở đây chỉ sự hùng mạnh, hưng thịnh của một đất nước. Chẳng hạn, dưới triều đại nhà Lý nước ta là một cường quốc cỡ Đông Nam á, được các lân bang nể trọng. Hay dưới thời nhà Trần đất nước ta cũng được xem là nước mạnh vì đã ba lần đánh bại được quân Mông Nguyên nổi tiếng lớn mạnh và tàn bạo. Khoa học có nhà toán học Lương Thế Vinh với “Đại Thành Toán Pháp” hay Lê Quý Đôn, nhà bác học trẻ tuổi. còn về mặt khoa cử, văn hóa có Nguyễn Hiền là người đỗ trạng nguyên nhỏ tuổi nhất Việt Nam. Thế mới biết mạnh yếu là vô chừng, mạnh yếu còn phụ thuộc vào hoàn cảnh phụ thuộc vào thời gian. Đất nước ta cũng vậy, có lúc mạnh nhưng cũng có lúc yếu. Nhưng dù mạnh hay yếu, thời nào dân tộc ta cũng không thiếu những anh hùng hào kiệt. Và anh hùng hào kiệt chính là những người đã làm nên đất nước. Với quan niệm nhân văn đúng đắn và tiến bộ ấy, trong “Nước Đại Việt ta”(trích “Bình Ngô đại cáo”), Nguyễn Trãi đã khẳng định đất nước ta:

“Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có”

Vậy “hào kiệt” là gì? Hào kiệt là những người kiệt xuất, có tài cao chí lớn hơn người. Họ thường giỏi giang hoặc có khả năng đặc biệt trong một lĩnh vực nào đó. Còn khái niệm “mạnh - yếu” ở đây chỉ sự hùng mạnh, hưng thịnh của một đất nước. Chẳng hạn, dưới triều đại nhà Lý nước ta là một cường quốc cỡ Đông Nam á, được các lân bang nể trọng. Hay dưới thời nhà Trần đất nước ta cũng được xem là nước mạnh vì đã ba lần đánh bại được quân Mông Nguyên nổi tiếng lớn mạnh và tàn bạo. Nhưng cũng không ít khi do vua quan hưởng lạc nên nước ta suy yếu để kẻ thù phương Bắc lăm le dòm ngó. Song đúng như Nguyễn Trãi đã viết trong áng hùng văn của mình là nước ta không đời nào không có anh những anh hùng hào kiệt. Ta có thể nhận thấy điều đó qua thực tế dựng nước giữ nước bốn ngàn năm của dân tộc.

Từ buổi sơ khai lịch sử trước công nguyên, chúng ta đã được nghe nhắc đến những vị nữ nhi nhưng không phế “thường tình”chút nào đó là Bà Trưng, Bà Triệu – những vị anh hùng đã có công đánh đuổi quân thù giành lại độc lập cho đất nước. Hay Ngô Quyền trí dũng song toàn đã từng đại phá quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng lịch sử vào năm 938. Rồi những Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, những Lê Lợi, Nguyễn Trãi mãi mãi được nhắc tên với công lao đánh đuổi quân thù bảo vệ độc lập tự do cho non sông đất nước, tô đậm những nét son hồng trong trang sử vàng của dân tộc. Tất cả họ là những anh hùng hào kiệt về chiến đấu bảo vệ Tổ Quốc, là những nhà lãnh đạo những nhà quân sự tài ba. Xét về giáo dục, lịch sử VN ta phải ghi nhận sự vượt trội về trí tuệ của thầy giáo Chu văn An. Về y học phải nhắc đến Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác hay danh y Tuệ Tĩnh đời Trần. Khoa học có nhà toán học Lương Thế Vinh với “Đại Thành Toán Pháp” hay Lê Quý Đôn, nhà bác học trẻ tuổi. còn về mặt khoa cử, văn hóa có Nguyễn Hiền là người đỗ trạng nguyên nhỏ tuổi nhất Việt Nam....

Đó là chuyện xưa, còn ngày nay thì sao? Người xứng đáng để dân tộc ta ngưỡng mộ đầu tiên phải kể đến Hồ Chủ Tịch vĩ đại, người đã chèo lái con thuyền Việt Nam cập bến vinh quang. Không chỉ giỏi về quân sự, Người còn là nhà ngoại giao, nhà báo, nhà văn, nhà thơ được nhiều người nể phục. Trợ thủ đắc lực bên cạnh Bác phải kể đến đại tướng Võ Nguyên Giáp, nhà quân sự đại tài đã chỉ huy thành công hai cuộc kháng chiến chống Pháp chống Mỹ khiến nhân nhân dân thế giới phải khâm phục nể vì. Trong lĩnh vực y học ta không thể không nhắc tới bác sĩ Tôn Thất Tùng đã thành công trong cấy ghép gan khô và trở thành bác sĩ mổ gan giỏi nhất thế giới. Về lĩnh vực âm nhạc, gần đây ta có nhạc sĩ Trịnh Công Sơn với hơn 600 ca khúc các loại, được mệnh danh là Mô-da của Việt Nam. Rồi những Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, những Lê Lợi, Nguyễn Trãi mãi mãi được nhắc tên với công lao đánh đuổi quân thù bảo vệ độc lập tự do cho non sông đất nước, tô đậm những nét son hồng trong trang sử vàng của dân tộc. Tất cả họ là những anh hùng hào kiệt về chiến đấu bảo vệ Tổ Quốc, là những nhà lãnh đạo những nhà quân sự tài ba. Xét về giáo dục, lịch sử VN ta phải ghi nhận sự vượt trội về trí tuệ của thầy giáo Chu văn An. Về y học phải nhắc đến Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác hay danh y Tuệ Tĩnh đời Trần.

Thế còn trong thập niên đầu của thế kỷ XXI này thì sao? Chúng ta có quyền tự hào về giáo sư Ngô Bảo Châu, người châu Á thứ hai được nhận giải thưởng danh giá về công trình nghiên cứu toán học.

Những con người có tài cao chí lớn sẽ góp phần làm vẻ vang dân tộc vẻ vang cho đất nước. Điển hình như Trần Hưng Đạo lãnh đạo quân ta đánh bại quân Mông Nguyên lúc bấy giờ đã chiếm gần hết châu Á và đang bành trướng đến Châu Âu, khắp nơi đều in dấu chân của chúng. Nhờ sự kiện đó mà Đại Việt ta được biết đến một cách vẻ vang. Hoặc như Chủ Tịch HCM đã lãnh đạo dân ta đánh bại Thực Dân Pháp, phát xít Nhật, làm rạng danh đất nước. Nhờ công lao thành quả họ đạt được mà hôm nay chúng ta có quyền tự hào. Giáo sư Ngô Bảo Châu trong một lần phát biểu trên truyền hình, ông đã nói rằng ông đi nước ngoài rất nhiều và ông cảm thấy hãnh diện khi cầm trên tay tấm hộ chiếu Việt Nam.

Tuổi trẻ chúng ta muốn giúp ích cho nước nhà thì phải trở thành những con người tài cao chí lớn. Muốn vậy thì ngay từ bây giờ phải ra sức học tập, tìm hiểu những cái mới cho kịp với thời đại. Có như vậy sau này chúng ta mới có thể đóng góp công sức để phát triển nước nhà đưa nước nhà tiến lên “đài vinh quang” sánh vai cùng các cường quốc. Rồi những Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, những Lê Lợi, Nguyễn Trãi mãi mãi được nhắc tên với công lao đánh đuổi quân thù bảo vệ độc lập tự do cho non sông đất nước, tô đậm những nét son hồng trong trang sử vàng của dân tộc. Tất cả họ là những anh hùng hào kiệt về chiến đấu bảo vệ Tổ Quốc, là những nhà lãnh đạo những nhà quân sự tài ba. Xét về giáo dục, lịch sử Việt Nam ta phải ghi nhận sự vượt trội về trí tuệ của thầy giáo Chu văn An. Về y học phải nhắc đến Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác hay danh y Tuệ Tĩnh đời Trần.

Cũng đã 600 năm từ ngày vụ án Lệ Chi Viên diễn ra, Nguyễn Trãi đã ra đi trong án oan giết vua, song các tác phẩm của ông sẽ còn sống mãi và điển hình như “Bình Ngô Đại Cáo”. Câu nói “Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau, song hào kiệt đời nào cũng có” là hoàn toàn đúng đắn, và cho đến tận ngày nay câu nói đó vẫn giữ nguyên giá trị đúng đắn ban đầu.

Viết bài văn thuyết minh về bình ngô đại cáo (Mẫu 22)

Để lại cho đời một kho tàng văn học Việt Nam, những tác phẩm quý giá, đặc sắc cho nghệ thuật văn chương, khi nhắc đến Đại Cáo Bình Ngô, người đời lại nhớ đến văn hào–bậc đại anh hùng dân tộc đó là nhà thơ lớn Nguyễn Trãi.

Ông sinh năm 1380 mất năm 1442, hiệu là Ức Trai, quê gốc ở làng Chi Ngại sau dời về Nhị Khê. Thân sinh là Nguyễn Ứng Long- một nho sinh nghèo, học giỏi, đỗ Tiến sĩ. Mẹ là Trần Thị Thái – Con quan tư đồ. Tuổi thơ của Nguyễn Trãi có rất nhiều tai ương và cực khổ song ông vẫn một lòng tận trung vì tổ quốc, điều đó đã trở thành truyền thống của gia đình ông: yêu nước, văn hóa và văn học, Và cũng vì lòng yêu nước ấy, khi khởi nghĩa Lam Sơn toàn thắng, ông thừa lệnh Lê Lợi viết Đại Cáo Bình Ngô, từ đó ông đã gửi 1 phần lời bình của bản thân về tác phẩm ấy.

Cuối năm 1427 Nguyễn Trãi viết bài Cáo và đọc vào đầu 1428 trước toàn dân để báo với mọi người biết về sự việc chống Minh. Điều đó chứng tỏ chiến tranh đã kết thúc 20 năm đô hộ của giặc minh và kết thúc 10 năm diệt thù của quân dân ta mà Nguyễn Trãi đã đề cập đến. Hơn thế nữa, sự việc ấy đã mở ra một kỉ nguyên mới, bắt đầu một cuộc sống độc lập hòa bình của dân tộc và đất nước Đại Việt.

Khi nói đến Cáo, Cáo là một thể văn nghị luận có từ thời cổ Trung Quốc, thường được vua chúa hoặc thủ lĩnh dùng để trình bày một chủ trương, một sự nghiệp, tuyên ngôn cho mọi người cùng biết, mang ý nghĩa như một sự kiện trọng đãi, có tính chất quốc gia. Chính thế, tác phẩm Đại Cáo Bình Ngô của Nguyễn Trãi có ý nghĩa như một bản tuyên ngôn độc lập.

Đại Cáo Bình Ngô mang ý nghĩa như một bản tuyên ngôn độc lập, thể hiện được luận đề của chính nghĩa là ở đây: tư tưởng nhân nghĩa theo quan niệm nho giáo, nó là mối quan hệ tốt đẹp giữa con người với con người dựa trên cơ sở tình thương và đạo lí mà “cốt ở yên dân’’ trong câu:

'Từng nghe,
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo’’

Từ đó, ta hiểu được Nguyễn Trãi đã khẳng định rằng: “lấy dân làm gốc, làm cho dân được sống yên lành hạnh phúc”. Nghệ thuật của ông đưa ra đó là biện pháp so sánh, câu văn biền ngẫu song đôi mang cốt cách của nhà chính trị tài ba.

Bài Cáo của Nguyễn Trãi đã vạch trần được tội ác của kẻ thù:

'Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ
Dối trời lừa dân đủ muôn nghìn kế
Nặng thuế khóa…
Vét sản vật, bắt chim trả…’’

Chỉ một vài tội ác như thế cũng đủ lên án bọn giặc Minh. Ý ở đây, Nguyễn Trãi đã sử dụng biện pháp nói lên tội ác tày trời của giặc Minh: Nghệ thuật phóng đãi, lấy cái vô hạn vô cùng của tự nhiên để nhấn mạnh cái vô hạn vô cùng của tội ác, hủy hoại cuộc sống của con người bằng cách diệt chủng.

Nếu như nói tội ác của giặc Minh là vô hạn thì nước Đại Việt ta nổi dậy có cuộc khởi nghĩa Lam Sơn để chống lại quân thù. Hình ảnh Lê Lợi là một co người tuy bình thường nhưng có ý tưởng hoài bão lớn lao cùng với sự đoàn kết một lòng của nhân dân ta đã làm nên sự tất thắng. Qua đó, ta thấy được hình tượng ngôn từ thật màu sắc, có âm thanh, nhịp điệu mang đặc điểm của bút pháp anh hùng ca, hình tượng phong phú đa dạng, đo bằng sự kì vĩ lớn rộng của thiên nhiên cùng với động từ mạnh, chuyển dồn dập, dữ dội động từ và tính từ chỉ mức độ, khi thế chiến thắng của ta, sự thất bại của địch, câu văn dài ngắn biến hóa linh hoạt.

Kết thúc chiến tranh, mở ra một kỉ nguyên hòa bình: giọng văn thư thái, nhẹ nhàng, hả hê và sự tuyên bố nền độc lập dân tộc được thống nhất, rút ra bài học kinh nghiệm cho dân ta và bài học “dạy bảo” cho địch, sự kết hợp tinh tế giữa sức mạnh truyền thống và sức mạnh thời đại “trên dưới một lòng”, quyết tâm của nhân dân xây dựng nền thái bình vững chắc.

Tóm lại. Đại Cáo Bình Ngô mạng nội dung trong quan niệm nho gia hầu như không có, đây là tư tưởng tiến bộ của chân lí khách quan về sự tồn tại độc lập có chủ quyền của nước Đại Việt, ranh giới, địa phận – lãnh thổ, phong tục tập quán, có lịch sử riêng, chế độ riêng với nhân tài phong kiến, những thực tế khách quan mà Nguyễn Trãi đưa ra là chân lí không thể phủ nhận, lột tả tính chất tự nhiên, lâu đời của nước Đại Việt.

Trải qua bao cuộc đấu tranh cũng như những trang lịch sử được vạch ra, ý nghĩa nhất là cuộc khởi nghĩa Lam sơn chứng minh được sử tài ba của LÊ Lợi và văn hào Nguyễn Trãi. Ông là người có nỗi oan thảm khốc nhất trong lịch sử dân tộc, là một nhân vật lịch sử vĩ đại tiêu biểu trong quá khứ - một bậc đại anh hùng dân tộc – nhân vật toàn tài hiếm có. Từ Đại Cáo Bình Ngô, Nguyễn Trãi gợi tả bút pháp đặc sắc làm cho tôi cảm thấy tự hào, học hỏi được bởi lòng yêu nước, lòng đoàn kết của dân tộc ta qua bao nhiêu năm tháng kháng chiến giành độc lập. Nếu là người Việt Nam thì thật tiếc cho những ai đầu đội trời Việt Nam, chân đạp đất Việt Nam mà không biết đến nhà chính trị tài ba Nguyễn Trãi.

Viết bài văn thuyết minh về bình ngô đại cáo (Mẫu 23)

Nguyễn Trãi là một tác gia lớn của nền văn học trung đại Việt Nam. Ông đã để lại cho hậu thế một khối lượng tác phẩm khá đồ sộ. Nhưng dường văn chương của ông dường như cũng chịu chung số phận như con người – phải trải qua bao phen thăng trầm chìm nổi. Trong đó, “Bình Ngô đại cáo” - viết sau đại thắng năm 1427, là bản tổng kết xuất sắc quá trình kháng chiến mười năm, không chỉ thể hiện tinh thần yêu nước bảo vệ độc lập, truyền thống bất khuất chống ngoại xâm, còn đặc biệt nêu cao “chí nhân, đại nghĩa” như một giá trị văn hóa ngời sáng của dân tộc Đại Việt. Với bút lực hào hùng và lời văn truyền cảm mạnh mẽ, tác phẩm đã trở thành một áng “thiên cổ hùng văn”.

Bình Ngô đại cáo là thông báo bằng văn bản và được viết theo bằng văn biền ngẫu, theo thể cáo – thường dùng để thông báo sự kiện quan trọng của quốc gia, dân tộc. Nguyên tác được viết bằng chữ Hán, và được các học giả như Ngô Tất Tố, Bùi Kỷ, Trần Trọng Kim dịch sang tiếng Việt ngày nay. Tác phẩm có giữ một vị trí quan trọng về phương diện lịch sử lẫn phương diện văn học. Ức Trai đã thừa lệnh Lê Lợi viết tác phẩm vào khoảng đầu năm 1428, khi cuộc kháng chiến chống Minh xâm lược của nghĩa quân Lam Sơn đã thắng lợi, quân Minh buộc phải ký hòa ước, rút quân về nước, nước ta bảo toàn được nền độc lập, hòa bình.

Nhan đề cho thấy đây là bài cáo trọng đại tuyên bố về việc dẹp yên giặc Ngô -một tên gọi hàm ý khinh bỉ căm thù giặc Minh xâm lược. Bài cáo có bố cục chặt chẽ mạch lạc, khắc họa, lên án, tố cáo tội ác của giặc và khẳng định chủ quyền dân tộc. Chính vì vậy, bài cáo xoay quanh các cảm hứng chính sau đây: cảm hứng về chính nghĩa (nhận thức sâu sắc về nguyên lí chính nghĩa và thái độ khẳng định sức mạnh của nguyên lý đó); cảm hứng căm thù giặc xâm lược; cảm hứng về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, về tinh thần quyết chiến quyết thắng của nhân dân Đại Việt; cảm hứng độc lập dân tộc và tương lai đất nước. Với bốn cảm hứng đó, bài cáo thường được chia thành bốn phần tương đương. Phần 1 là nêu luận đề chính nghĩa (Từ đầu đến “chứng cớ còn ghi”). Phần 2 là lên tiếng tố cáo tội ác, vạch trần âm mưu xâm lược Đại Việt với cớ phù Trần diệt Hồ của giặc (tiếp theo phần 1 cho đến “Ai bảo thần dân chịu được”). Phần 3 là quá trình kháng chiến và sự thắng lợi của khởi nghĩa Lam Sơn (tiếp theo phần 2 đến “cũng là chưa thấy xưa nay”). Phần còn lại - phần 4 là phần nêu ra bài học lịch sử và sự khẳng định chính nghĩa sẽ thắng thế lực phi nghĩa, bất nhân.

Mở đầu Bình Ngô đại cáo, tác giả Nguyễn Trãi đã nêu nguyên lí chính nghĩa làm chỗ dựa, làm nền tảng xác đáng để triển khai toàn bộ nội dung bài cáo. Tiếp thu từ tinh thần Nho giáo cùng với sự phát triển nội dung nhân nghĩa, Nguyễn Trãi đã nêu ra một luận đề có tính dân tộc:

“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”

Với Nguyễn Trãi, việc trước hết là “trừ bạo” để nhân dân có được một cuộc sống yên ổn, ấm no, hạnh phúc. Ông cho rằng nếu muốn trị vì thiên hạ thì việc phải nghĩ đến đầu tiên chính là “nhân nghĩa”. Dân tộc ta chiến đấu chống xâm lược là nhân nghĩa, là phù hợp với nguyên lí chính nghĩa. Sau đó, tác giả nêu lên chân lý khách quan về sự tồn tại độc lập của nước Đại Việt, sự tồn tại đó như có cơ sở chắc chắn từ tháng ngày lịch sử:

“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác”

Ở phần 2 – cảm hứng căm thù giặc xâm lược, Nguyễn Trãi đã thể hiện lòng uất hận sục sôi, viết nên một bản cáo trạng đanh thép với một trình tự tư duy logic: vạch trần âm mưu xâm lược, lên án chủ trương cai trị thâm độc, tố cáo mạnh mẽ những hành động tội ác. Qua việc phân tích luận điệu bịp bợm “phù Trần diệt Hồ”, tác giả đi sâu những việc làm phi nhân, diệt chủng:

“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ”

Tội ác của chúng được ghi lại bằng cái vô cùng, vô hạn:

“Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa hết mùi”

Ở phần 3, với nguồn cảm hứng dồi dào, phong phú, Nguyễn Trãi đã khắc họa lại quá trình gian nan, vất vả của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Chính những gian khổ ngày đầu đã dẫn đến thắng lợi vẻ vang về sau. Cảm hứng anh hùng ca bao trùm toàn bộ đoạn trích. Những chiến công thần tích được miêu tả một cách dồn dập. Nhạc điệu trong câu sảng khoái, hào hùng như sóng triều dâng:

“Gươm mài đá, đá núi cũng mòn
Voi uống nước, nước sông cũng phải cạn.
Đánh một trận, sạch không kình ngạc
Đánh hai trận, tan tác chim muông”

Và ở phần 4 – phần kết thúc, Nguyễn Trãi đã không giấu được niềm vui chung của dân tộc, thay lời Lê Lợi trịnh trọng tuyên bố nền độc lập lâu dài:

“Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới
Kiền khôn bĩ rồi lại thái
Nhật nguyệt hối rồi lại minh”

Từ đó, ta thấy được viễn cảnh huy hoàng, tươi sáng của non sông xã tắc. Hiện thực hôm nay chính là nhờ những ngày tháng đau thương của quá khứ “Muôn thuở thái bình vững chắc”. Lời kết thúc “Xa gần bá cáo/ Ai nấy đều hay” đã sẻ chia sự vui mừng, niềm tự hào và niềm tin về ngày mai, về tương lai đất nước.

Bài cáo đã thể hiện thành công những đặc sắc về thể loại. Bên cạnh đó, giọng điệu thay đổi linh hoạt trong mỗi phần, khi cao tràn uất hận, khi hào hùng dữ dội, khi cuồn cuộn như sóng triều dâng trên đề tài lịch sử - văn học đã để lại những ấn tượng sâu sắc cho người đọc. Sự am hiểu hơn người của Nguyễn Trãi về lịch sử, về điển cố, điển tích đã mang lại tính thuyết phục, hấp dẫn hơn cho tác phẩm.

“Bình Ngô đại cáo” từ khi ra đời đã được xem làm một bản tuyên ngôn độc lập của dân tộc, vừa tố cáo tội ác của giặc Minh vừa khẳng định được độc lập chủ quyền dân tộc. Đã qua bao thăng trầm biến đổi nhưng giá trị của “Bình Ngô đại cáo” vẫn tồn tại cho đến ngày hôm nay và Nguyễn Trãi – nhà quân sự tài ba, nhà chính trị lỗi thời, nhà thơ, nhà văn xuất sắc sẽ mãi mãi được khắc ghi trong lòng mỗi người con nước Việt.

Viết bài văn thuyết minh về bình ngô đại cáo (Mẫu 24)

Là một tác gia lớn trong nền văn học trung đại Việt Nam, Nguyễn Trãi đã để lại cho thế hệ mai sau, cho nền văn học nước nhà một khối lượng tác phẩm đồ sộ, ấn tượng. Văn chương của ông gắn liền với số phận con người. Nổi bật trong số đó chính là áng thiên cổ hùng văn “Bình Ngô đại cáo”.

Là một áng văn lưu danh thiên cổ khi nó tổng kết lại quá trình kháng chiến chống quân Minh xâm lược trong mười năm của nghĩa quân lam Sơn. Đồng thời, bài cáo còn thể hiện tinh thần yêu nước nồng nàn của quân và dân, truyền thống bảo vệ nền độc lập dân tộc bất khuất và tinh thần nhân nghĩa, vì nhân dân, vì con người xuyên suốt cả tác phẩm. Với bút pháp chính luận kết hợp với trữ tình qua giọng văn truyền cảm, mạnh mẽ, Bình Ngô đại cáo xứng đáng là áng “thiên cổ hùng văn”, được người đọc ca tụng muôn đời.

Bài cáo được viết bằng lối văn biền ngẫu thông dụng, dùng để thông báo, tuyên bố về một sự kiện trọng đại của quốc gia, của dân tộc. Đồng thời, bài cáo giữ một vai trò quan trọng trong phương diện lịch sử trong thời hiện đại khi thể loại cáo gần như đã dần thất truyền sau chế độ phong kiến tan rã. Thừa lệnh lãnh tụ Lê Lợi, Nguyễn Trãi viết Bình Ngô đại cáo vào đầu năm 1428 nhằm tuyên cáo nhân dân về chiến thắng vẻ vang của nghĩa quân Lam Sơn, khẳng định nền độc lập, hòa bình của dân tộc, buộc quân Minh ký kết hòa ước, rút quân về nước, kết thúc một thời kỳ đen tối của nước nhà và mở ra một thời đại thịnh vượng, phồn vinh cho đất nước ta.

Bài cáo có bố cục chặt chẽ, mạnh lạc thông qua việc chia tách thành bốn đoạn. Đoạn đầu phát xuất từ căn nguyên của cuộc khởi nghĩa, là tư tưởng nhân nghĩa trong việc thành lập căn cứ chính thống của nghĩa quân Lam Sơn. Đoạn hai là vạch trần tội ác, sự tàn bạo, điên cuồng trong việc coi rẻ mạng sống con người cùng âm mưu xâm lược trơ trẽn của quân Minh. Đoạn thứ ba là về quá trình kháng chiến gian khổ và chiến thắng vẻ vang của nghĩa quân Lam Sơn. Và đoạn cuối cùng là về việc tuyên cáo nền độc lập dân tộc, về việc khẳng định nền hòa bình dân tộc, mở ra một thời kỳ yên bình, không còn bóng dáng quân xâm lược trên đất nước ta.

Xuyên suốt trong cả bốn đoạn, bài cáo xoay quanh bốn cảm hứng nhân văn như trong bất kỳ cuộc kháng chiến, chống quân xâm lược nào. Chúng bao gồm tư tưởng nhân nghĩa, ý chí, lòng căm thù giặc sâu sắc, tinh thần quyết chiến, quyết thắng, giành lại nền độc lập, hòa bình của nghĩa quân và cảm hứng độc lập cùng niềm tin vững chắc vào tương lai tươi sáng của đất nước phía trước. Bài cáo kết lại trong viễn cảnh huy hoàng, trong sự tươi sáng của non sông gấm vóc.

Bài cáo không chỉ thành công về mặt thể loại mà còn thành công trong nội dung, trong nghệ thuật, trong giọng điệu linh hoạt cũng như ý chí sục sôi, căm thù giặc như bao tác phẩm lịch sử viết về chiến tranh khác. Thấu hiểu về lịch sử, thấu hiểu về nhân tâm, bằng tài trí của mình, Nguyễn Trãi đã thành công viết nên tác phẩm để đời, một tác phẩm làm thổn thức trái tim người đọc qua, một tác phẩm vượt thời đại. Ông cùng với tác phẩm Bình Ngô đại cáo xứng đáng là trụ cột của văn học trung đại Việt Nam, là niềm tự hào, kiêu hãnh của con dân đất Việt.

Viết bài văn thuyết minh về bình ngô đại cáo (Mẫu 25)

'Bình ngô đại cáo' của Nguyễn Trãi được xem là một trong những tác phẩm kinh điển trong nền văn học Việt, là một trong số rất nhiều tác phẩm được viết nên để ca ngợi truyền thống yêu nước từ ngàn đời của dân tộc ta. Tác phẩm chính là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai, được đánh giá là áng 'thiên cổ hùng văn'.

Nguyễn Trãi quê ở Chi Ngãi (Chí Linh, Hải Dương), hiệu là Ức Trai. Nguyễn Trãi sinh ra trong một gia đình nhà nho nghèo nhưng rất giàu truyền thống yêu nước và có một mối quan tâm đặc biệt đến văn học, văn hóa nước nhà. Cha và ông ngoại của Nguyễn Trãi đều là những người học rộng tài cao và có rất nhiều đóng góp quan trọng cho triều đình. Ông ngoại ông là Tư đồ Trần Nguyên Đán còn cha của ông là Nguyễn Phi Khanh.

Cũng rất như nhiều tấm gương sáng thế hệ trước, Nguyễn Trãi rất miệt mài kinh sử, vào năm 1400 ông đỗ Thái học sinh và được làm quan phục vụ triều đình nhà Hồ. Đến năm 1407, do nhà Hồ không đủ sức để chống trả trước sự xâm lược của giặc Minh, cha ông bị bắt sang Trung Quốc còn ông thì đã có một quyết định là tham gia vào nghĩa quân Lam Sơn chiến đấu và bảo vệ tổ quốc.

Với khả năng lãnh đạo tài ba và sự giúp sức của những người cộng sự vô cùng nhiệt tình, Nguyễn Trãi, Lê Lợi cùng nghĩa quân Lam Sơn đã giành được rất nhiều thắng lợi to lớn trước giặc Minh. Lê Lợi có một niềm tin vững chắc vào Nguyễn Trãi - lúc này ông đã là vị vua của nước Đại Việt. Tuy nhiên sau đó triều đình lại xảy ra rất nhiều chuyện nội bộ, gian thần nhiễu nhương, Nguyễn Trãi quyết định về quê để tìm cuộc sống mới, lánh đục tìm trong.

Thế nhưng mong muốn của ông đã không được toàn vẹn khi ông lại bị vướng vào vụ án oan giết vua tại Lệ Chi Viên năm 1442, ông và cả gia đình đã nhận một bản án khủng khiếp, tru di tam tộc. Nỗi oan của ông phải đến tận năm 1464 mới được vua Lê Thánh Tông làm rõ.

Nguyễn Trãi đã để lại cho nước nhà rất nhiều tác phẩm vô cùng giá trị trên nhiều lĩnh vực. Những sáng tác của ông được viết bằng cả chữ Nôm và chữ Hán. Phần lớn những tác phẩm của ông đều phục vụ đắc lực cho tinh thần chiến đấu của đội quân nhà trước giặc ngoại xâm, thể hiện những nỗi lo của ông về nước nhà và con người.

Sự ra đời của tác phẩm gắn liền với hoàn cảnh đất nước ta vừa trải qua rất nhiều cuộc chiến đấu và nhiều năm khổ cực chống sự xâm lược của giặc Minh. Sau chiến thắng dữ dội đó, Nguyễn Trãi đã thay mặt cho vua Lê Lợi viết ra tác phẩm nhằm khẳng định sự độc lập của đất nước. 'Bình ngô đại cáo' được công bố năm 1428, đây chính là một lời buộc tội đanh thép đến giặc ngoại xâm đồng thời chính là một bản tuyên ngôn thành lập một triều đại mới của đất nước.

'Bình ngô đại cáo' được tác giả viết bằng thể loại rất đặc biệt - thể cáo. Đây chính là thể văn có nguồn gốc từ Trung Quốc và thường được vua chúa, những người đứng đầu sử dụng để đưa ra một chủ trương, chính sách, quyết định hoặc để tuyên bố những sự kiện trọng đại để mọi người cùng biết. Cáo sử dụng những lời lẽ vô cùng đanh thép, sắc bén và đặc biệt là có kết cấu vô cùng mạch lạc, chặt chẽ.

Chỉ qua nhan đề của tác phẩm Nguyễn Trãi đã giúp người đọc hình dung được giá trị của nó. Từ 'đại cáo' trong nhan đề để cho người đọc thấy được rằng đây không đơn thuần chỉ là một bài cáo mà là bài cáo mang tính trọng đại của quốc gia. Bên cạnh đó, dù cuộc chiến của dân tộc ta trước giặc Minh nhưng trong nhan đề lại xuất hiện từ 'Ngô', đó chính là cách gọi của người Trung Quốc theo thói quen của dân tộc ta nhưng bằng thái độ vô cùng căm thù, khinh bỉ. Từ ngàn đời nay, phương Bắc luôn có mưu đồ xâm chiếm nước ta, chúng đã khiến nhân dân ta phải trải qua biết bao nhiêu là khổ cực, vất vả. Chính vì thế mà chưa một giây phút nào dân ta nguôi ngoai trước sự độc ác, tàn bạo của chúng và giờ đây mọi phẫn nộ, uất ức đó đều đổ dồn lên giặc Minh.

Để khẳng định chắc chắn về chủ quyền quốc gia, nền độc lập của Đại Việt, Nguyễn Trãi đã nêu nên luận đề chính nghĩa có ý nghĩa tất yếu:

Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân.

Quân điếu phạt trước lo trừ bạo

Luận đề trên khẳng định mối quan hệ chặt chẽ giữa dân, nước và sự nhân nghĩa. Nhân nghĩa là một khái niệm vô cùng quan trọng trong đạo Nho, nói về cách ứng xử giữa người với người dựa trên sự tốt đẹp, đạo đức. Thế nhưng trong thời buổi giặc xâm lược, tác giả đã cụ thể hóa biểu hiện của một con người sống nhân nghĩa chính là biết trừ bạo. Đó chính là một chân lý vô cùng thiết thực, phù hợp với tình hình xã hội nước ta lúc bấy giờ. Con người đất Việt dù già trẻ, gái trai, bất kể ai cũng phải chiến đấu cho sự độc lập của dân tộc. Điều này là một quan niệm đã được khẳng định vô cùng chắc chắn:

Như nước Đại Việt ta từ trước

Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.

Núi sông bờ cõi đã chia

Phong tục Bắc Nam cũng khác.

Qua các triều đại và sự xuất hiện của nhiều anh hùng hào kiệt từng thời:

Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập.

Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương.

Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau.

Song hào kiệt đời nào cũng có.

Khi thuyết minh về 'Bình ngô đại cáo' bên cạnh việc tác phẩm làm nổi bật nên nền độc lập, chủ quyền dân tộc, tác phẩm còn là bản cáo trạng đanh thép đối với những tội ác mà kẻ thù đã gây ra cho dân tộc ta suốt 20 năm xâm lược. Từ những ngày đầu khi đặt chân đến nước ta, chúng đã tỏ rõ là một kẻ bịp bợm, độc ác.

Nhân họ Hồ chính sự phiền hà

Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa.

Chúng ra sức chà đạp, vùi dập nhân dân ta. Độc ác, tàn nhẫn hơn nữa là chúng còn sẵn sàng cướp đi tính mạng của con người bằng những phương thức dã man:

Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn

Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.

Thật sự những tội ác mà chúng gây nên không thể nào đếm được:

Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,

Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi.

Khi nói về tội ác của giặc, tác giả đã phải bất lực về từ ngữ để miêu tả điều đó. Trong bản cáo trạng ấy, ta có thể thấy cảm giác vô cùng sôi sục, phẫn nộ, uất hận của tác giả gửi gắm vào đó. Tác giả luôn hướng đến một cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho người dân cũng những đau thương, xót xa trước sự hy sinh của nhân dân.

Với tội ác dã man của giặc, quân dân ta đã đồng lòng đứng lên để đánh trả, giành lại chủ quyền đất nước. Những anh hùng hào kiệt, đặc biệt là vị tướng tài ba Lê Lợi đều có xuất thân bình thường.

Ta đây:

Núi Lam Sơn dấy nghĩa,

Chốn hoang dã nương mình.

Khi chiến đấu với kẻ thù đã gặp biết bao gian khổ, khó khăn:

Tuấn kiệt như sao buổi sớm,

Nhân tài như lá mùa thu.

Có lúc phải đối diện với cái chết khi thiếu thốn lương thực:

Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần

Khi Khôi Huyện quân không một đội.

Nhưng với tinh thần quật cường, ý chí sắt đá, quân và dân ta đã đồng lòng chiến đấu và thắng lợi trước giặc ngoại xâm. Ta chiến thắng giành được độc lập, giặc thất bại nhục nhã chính là cái kết tất nhiên cho những gì mà chúng đã gây ra. Tuy nhiên điều đặc biệt ở đây là dù chúng có độc ác, tàn nhẫn, dân ta có bị chà đạp, vùi dập đến đâu thì vẫn lấy tấm lòng hiếu sinh để mở đường sống cho chúng. Như vậy đến cuối cùng ta vẫn dùng sự nhân đạo để đối xử với kẻ thù. Thế mới thấy rằng cách hành xử của ta với tội ác của giặc khiến cho tinh thần nhân nghĩa của ta vô cùng cao thượng, lên một tầm cao mới.

Cuối cùng, nền độc lập dân tộc, giành lại được chủ quyền đất nước sau rất nhiều mất mát, đau thương chính là kết quả tốt đẹp cho một dân tộc chiến đấu anh hùng, sống nhân nghĩa. Thuyết minh về tác phẩm không thể quên rằng Nguyễn Trãi đã thay mặt cho nhà vua để công bố đến đông đảo quần chúng nhân dân:

Xã tắc từ đây vững bền,

Giang sơn từ đây đổi mới.

Càn khôn bĩ rồi lại thái,

Nhật nguyệt hối rồi lại minh.

Muôn thuở nền thái bình vững chắc,

Ngàn thu vết nhục sạch làu.

Lời tuyên bố của tác giả cho thấy một niềm tin mãnh liệt về một nền thái bình, lâu dài của nhân dân ta. Sau những tháng ngày phải chịu cảnh chà đạp, áp bức, bóc lột thì giờ đây dân tộc ta đã tự giải cứu được mình, tìm thấy được sự sống cho đất nước. Hai câu kết của bài cáo cũng chính là sự khép lại cho thời kỳ gian khổ đấu tranh và cánh cửa mở ra một thời đại phát triển, tươi sáng:

Một cố nhung y chiến thắng, nên công oanh liệt ngàn năm;

Bốn phương biển cả thanh bình, ban chiếu duy tân khắp chốn.

Tác phẩm 'Bình ngô đại cáo' đúng là kiệt tác cả về nội dung và nghệ thuật. Tác giả đã sử dụng lối viết có kết hợp khéo léo giữa chính luận và văn chương. Khi viết tác phẩm, tác giả còn biến đổi vô cùng linh hoạt giọng văn, hình ảnh được sử dụng trong bài cáo vô cùng sinh động và hoành tráng.

Nguyễn Trãi còn sử dụng thành công cách liệt kê hình tượng đa dạng, phong phú, thể hiện sự đối lập giữa ta và địch trong kháng chiến. Đoạn viết về khởi nghĩa chính là một trong những đoạn thơ vô cùng đặc sắc về nghệ thuật.

Có thể thấy rằng, với những giá trị to lớn của tác phẩm, 'Bình ngô đại cáo' xứng đáng là tác phẩm kinh điển của nền văn học Việt. Bài cáo không chỉ khẳng định chắc chắn về chủ quyền quốc gia, độc lập dân tộc mà còn góp phần to lớn tác động đến ý chí của nhân dân trong sự chiến đấu quật cường, bất khuất trước giặc ngoại xâm và tấm lòng nhân đạo, tinh thần nhân nghĩa của nhân dân ta.

Viết bài văn thuyết minh về bình ngô đại cáo (Mẫu 26)

Bình ngô đại cáo được Nguyễn Trãi sáng tác năm 1428, khi quân ta giành thắng lợi trước quân Minh, dưới ngọn cờ lãnh đạo của nghĩa quân Lam Sơn và chủ tướng Lê Lợi. Sau thắng lợi, Lê Lợi đã lên ngôi hoàng đế và bắt tay vào xây dựng vương triều của mình. Việc đầu tiên sau khi lên ngôi, đó là truyền lệnh cho Nguyễn Trãi soạn thảo văn bản “ Bình ngô đại cáo” để tuyên bố với toàn dân rằng cuộc khởi nghĩa gian nan cuối cùng cũng kết thúc thắng lợi, kể từ đây nhân dân sẽ bước vào một cuộc sống mới, tự do, độc lập. Bình ngô đại cáo là một áng văn chính luận xuất sắc, là một áng “thiên cổ hùng văn” của nền văn học dân tộc.

Trong “Bình ngô đại cáo” Nguyễn Trãi rất đề cao tư tưởng thân dân, theo ông, một quốc gia muốn trường tồn, thịnh vượng, thì yếu tố căn cốt nằm ở người dân. Người dân có thể đẩy thuyền nhưng cũng có thể lật thuyền. Vì vậy, ngay câu thơ đầu, Nguyễn Trãi đã đề cập đến tư tưởng thân dân vừa như khẳng định vai trò của dân, vừa như lời nhắc nhở tế nhị đến bậc quân vương, việc nhân nghĩa luôn luôn được dân chúng nhắc đến, và những người đứng đầu đất nước luôn luôn phải có trách nhiệm với dân với chúng, trước hết phải biết lo cho dân cho chúng, lo trừ đi bạo ngược để giữ cho đất nước ngày càng phát triển mạnh mẽ và có giá trị to lớn hơn, những người luôn luôn biết lo cho dân yêu dân như con, điều đó để lại cho dân tộc những điều có ý nghĩa mạnh mẽ nhất, khi mỗi chúng ta đều hưởng được một nền thái bình thịnh trị:

“Từng nghe

Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân

Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”

Quốc gia muốn trường cửu thì phải “yên dân”, tức là phải chăm lo đến cuộc sống của người dân. Trách nhiệm của triều đình, của “quân điếu phạt” là phải “lo trừ bạo”, diệt trừ mọi mối đe dọa đến cuộc sống của người dân.  Nền văn hiến của dân tộc Việt Nam luôn luôn được cải thiện và giữ gìn mỗi ngày. Trong các tác phẩm thơ ca, nó cũng nhấn mạnh điều đó, dân quốc đã có từ xưa đến nay, nền văn hiến cũng luôn luôn được giữ gìn và nâng cao trên nền mỗi ngày. Giá trị của nó để lại cho dân tộc ta cũng vô cùng có giá trị. Nền văn hiến của dân tộc đã khẳng định từ trước tới nay, nó luôn mang những giá trị vẻ vang cho dân tộc của mình, mỗi khi các giá trị đó được cải tạo là làm cho văn học nước nhà được củng cố và nâng cao lên mỗi ngày, những định giới của Việt Nam luôn luôn được cải thiện và nâng cao mỗi ngày, nó luôn trở thành một giá trị vô giá và để lại cho dân tộc Việt Nam những điều có ý nghĩa to lớn, khi những giới hạn biên giới đó đã được khẳng định từ trước tới nay, phong tục của hai miền cũng luôn luôn được phân định rõ ràng:

“Như nước Đại Việt ta từ trước

Vốn xưng nền văn hiến đã lâu

Núi sông bờ cõi đã chia

Phong tục Bắc Nam cũng khác

Đến những câu thơ tiếp theo, Nguyễn Trãi đã khẳng định ranh giới lãnh thổ bờ cõi, cùng với đó là sự tự hào về truyền thống văn hiến lâu đời của dân tộc “Đã xưng nền văn hiến đã lâu”. “Văn hiến”, “phong tục” là những dẫn chứng nhà thơ đưa ra để tăng thêm tính thuyết phục của lời khẳng định. Đại Việt là một quốc gia độc lập, có ranh giới, lãnh thổ riêng. Trên mảnh đất ấy, con người Đại Việt đã sinh sống, hình thành nên những phong tục, những nền văn hiến mang bản sắc của dân tộc mình. Các đời vua từ xưa đến nay, luôn luôn xưng nền độc lập, không có thể bỏ qua những quân thù mà phải sánh vai với cường quốc năm châu, cần phải tạo nên những giá trị có ý nghĩa và có tầm quan trọng đặc biệt cho đất nước của mình, dù có chênh lệch lực lượng đi chăng nữa thì chúng ta cần phải dốc hết lòng để bảo vệ cho đất nước của mình. Thời nào cũng luôn thấy xuất hiện những vị anh hùng của dân tộc điều đó tạo nên những giá trị có ý nghĩa và vẻ vang nhất, song mỗi người luôn luôn biết quyết tâm để bảo vệ đất nước và dân tộc của mình:

“Từ Triệu, Đinh, Lí,Trần bao đời xây nền độc lập

Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương

Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau

Song hào kiệt đời nào cũng có”

Nếu câu thơ trên nhà thơ khẳng định một cách rõ ràng về chủ quyền lãnh thổ cùng với niềm tự hào về văn hiến lâu đời thì trong những câu thơ này, nhà văn thể hiện niềm tự hào về truyền thống đấu tranh, truyền thống anh hùng của dân tộc. Nhà văn khẳng định Việt Nam có nền độc lập riêng, nền độc lập ấy được xây dựng bởi bao đời vua từ Triệu, Đinh, Lí, Trần. Vì vậy cùng với Trung Quốc,Việt Nam hoàn toàn bình đẳng, vì vậy kẻ thù không có quyền xâm phạm. Nguyễn Trãi thể hiện tinh thần dân tộc, lòng tự  hào sâu sắc khi đặt Đại Việt sánh ngang với các triều đại Trung Quốc: “Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương”. Trong quá trình dựng nước và giữ nước, tuy có những thăng trầm “mạnh yếu từng lúc khác nhau”,nhưng nhà thơ cũng khẳng định “hào kiệt đời nào cũng có”. Đó là những trang nam tử, những người anh hùng, khi mà đất nước lâm nguy, họ sẵn sàng đứng lên, dốc sức bảo vệ tổ quốc.

“Cho nên

Lưu Cung tham công nên thất bại

Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong

Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô

Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã

Việc xưa xem xét

Chứng cớ còn ghi”

Vì cố tình xâm phạm vào quốc gia có chủ quyền, có nền độc lập nên những kẻ xâm lược đã phải gánh chịu hậu quả vô cùng thê thảm. Lưu Cung, Triệu Tiết, Ô Mã, Toa Đô đều là những danh từ chỉ người, họ là những tên tướng cầm đầu đội quân xâm lược, vì bất chấp luân lí xâm phạm Đại Việt mà chúng đã nhận lấy những thất bại cay đắng. Nguyễn Trãi cũng sử dụng hệ thống các động từ để diễn tả sự thất bại ê chề này: “thất bại”, “tiêu vong”, “bắt sống”, “giết”.  Bên cạnh việc chỉ ra những thất bại của quân giặc, Nguyễn Trãi cũng nêu lên những thắng lợi vang dội của quân dân Đại Việt như trận ở Hàm Tử, chiến thắng trên sông Bạch Đằng. Những dẫn chứng mà nhà thơ nêu đều căn cứ vào sự thực lịch sử “chứng cớ còn ghi”, vì vậy mà không thể chối cãi.

“Vừa rồi

Nhân họ Hồ chính sự phiền hà

Để trong nước lòng dân oán hận

Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa

Bọn gian tà bán nước cầu vinh

Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn

Vùi con đỏ dưới hầm tai vạ”

Nguyễn Trãi đã kể lại sự rối ren trong nước, khi họ Hồ “chính sự phiền hà’, nhân dân lầm than, đau khổ rồi mang lòng oán hận với triều đại “lòng dân oán hận”. Nhân sự mâu thuẫn nội bộ của Đại Việt, quân Minh đã mưu kế xấu xa, muốn nhân cơ hội này để thực hiện những hành động phi nghĩa “Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa”. Một triều đại lớn mạnh như nhà Minh mà cũng “thừa cơ”, cách dùng từ của Nguyễn Trãi làm bật lên cái phi nghĩa của quân đội nhà Minh, đồng thời cũng thể hiện được cái tiểu nhân đê hèn trong hành động xâm lược ấy. Không chỉ lên án quân Minh mà nhà thơ còn vạch tội của những kẻ “bán nước cầu vinh”. Vì hành động bắt tay xâm lược của chúng đã đẩy nhân dân ta vào biết bao nhiêu tai họa. Nhà thơ đã sử dụng những động từ mạnh “nướng dân đen”, “vùi con đỏ” để vạch trần bản chất tàn nhẫn, độc ác của chúng.

“Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế

Gây binh kết oán trải hai mươi năm

Bại nhân nghĩa nát cả đất trời

Nặng thuế khóa sạch không đầm núi

Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng

Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng khốn rừng sâu nước độc

Vét sản vật, bắt chim trả, chốn chốn lưới chăng

Nhiễu nhân dân, bẫy hưu đen, nơi nơi cạm đặt

Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ”

Để mang lại lợi ích cho mình, quân giặc không từ một thủ đoạn, một hành động nhẫn tâm, tàn ác nào. Chúng không chỉ bắt dân ta nộp nhiều loại tô thuế mà còn bắt những người dân vô tội lên rừng xuống biển tìm cho chúng những món đồ quý giá. Cuộc sống của người dân vô cùng đau khổ, bi thương. Nhưng tiếng khóc của người dân chúng đâu thấy được, không chỉ người dân mà ngay cả những loài thú quý, hay những loài côn trùng, cây cỏ chúng cũng không buông tha.

“Bình ngô đại cáo”là một áng văn chính luận xuất sắc của dân tộc ta. Bài cáo vừa khẳng định hùng hồn, mạnh mẽ chủ quyền của dân tộc vừa thể hiện niềm tự hào với truyền thống văn hóa cũng như truyền thông đấu tranh của dân tộc. Là lời cảnh cáo đanh thép với lũ quân xâm lược, với bọn bán nước. Như vậy, “Bình ngô đại cáo”xứng đáng là một áng “thiên cổ hùng văn”.

Viết bài văn thuyết minh về bình ngô đại cáo (Mẫu 27)

Nguyễn Trãi là một trong những tác giả vĩ đại, tiêu biểu của văn học Việt Nam với nhiều tác phẩm xuất sắc viết bằng cả chữ Nôm và chữ Hán. Đọc tác phẩm của Nguyễn Trãi, độc giả sẽ dễ dàng nhận thấy tấm lòng yêu nước, tình yêu thiên nhiên sâu sắc và đặc biệt là tư tưởng thân dân. Có thể nói “Bình Ngô đại cáo” là tác phẩm thể hiện một cách sâu sắc và đầy đủ tư tưởng đó của Nguyễn Trãi.

Tác phẩm “Bình Ngô đại cáo” ra đời trong một bối cảnh lịch sử đặc biệt. Sau khi đánh bại quân Minh xâm lược, Vương Thông phải chấp nhận thỏa hiệp và buộc quân Minh phải rút quân về nước, đất nước ta độc lập, không còn bó shadow của quân thù. Trong tình hình lịch sử đó, Nguyễn Trãi được Lê Lợi phái viết tác phẩm “Bình Ngô đại cáo” hay còn gọi là “Đại cáo Bình Ngô” và công bố trước toàn dân vào tháng Chạp, năm Đinh Mùi, tức là vào đầu năm 1428. Tác phẩm được coi là một tuyên bố độc lập của dân tộc ta.

“Bình Ngô đại cáo” được Nguyễn Trãi sáng tác bằng thể loại cáo – một loại văn học lớn có nguồn gốc từ Trung Hoa. Tìm hiểu sâu sắc về thể loại văn học này, ta thấy rằng cáo là thể văn viết bằng chữ Hán, có thể là văn xuôi hoặc văn vần, nhưng phổ biến nhất là văn biền ngẫu. Cáo thường được vua, chúa hoặc lãnh tụ dùng để thông báo rộng rãi một sự kiện hay một vấn đề trọng đại nào đó. “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi là tác phẩm hội tụ khá đầy đủ và rõ nét những đặc điểm của thể loại văn học này.

Bài cáo được chia thành bốn phần, có cấu trúc mạch lạc, rõ ràng. Phần mở đầu của bài cáo đã nêu lên luận đề chính nghĩa làm cơ sở vững chắc cho bài cáo. Luận đề chính nghĩa đó kết hợp tư tưởng thân dân với độc lập dân tộc:

Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.

Trong phần hai, Nguyễn Trãi đã nêu rõ những tội ác man rợ, dã man của kẻ thù. Đồng thời, ông cũng tái hiện chiến đấu của quân và dân ta một cách chân thực, sâu sắc và rõ ràng. Phần cuối cùng của bài cáo là lời tuyên bố độc lập, khẳng định sự nghiệp chính nghĩa.

Bài cáo để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc, người nghe bởi những thành công, hấp dẫn về nghệ thuật. Thành công của bài cáo chính là ở việc kết hợp nhuần nhuyễn, hài hòa và hợp lý giữa yếu tố chính luận với yếu tố văn chương, cùng với giọng điệu linh hoạt, đa dạng.

Tóm lại, “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi là một trong những kiệt tác của văn học Việt Nam. Đây là tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc anh hùng, bất khuất.

1 60 lượt xem